Một thực tế hiện nay không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà còn ở các nước khác trên thế giới là các DNNVV thường xuyên gặp khó khăn trong việc huy động vốn, nhu cầu vốn cho kinh doanh rất lớn.
Trong các hoạt động của một ngân hàng thương mại thì hoạt động cho vay chiếm vai trò chủ đạo, mang lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng nhưng lại chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Chính vì vậy, đối với ngân hàng, việc nâng cao hiệu quả cho vay là việc làm sống còn, ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn tại và phát triển của ngân hàng
Hoạt động cho vay đối với các DNNVV hiện nay tại NHCT Hoàn Kiếm đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, chưa xứng với tiềm năng của các doanh nghiệp cũng như chưa thực sự đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Do đó trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, trong luận văn tốt nghiệp này, em đã hệ thống hoá những lý luận cơ bản về cho vay, hiệu quả hoạt động cho vay, các chỉ tiêu đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay. Luận văn cũng đã phân tích, đánh giá tình hình cho vay và hiệu quả hoạt động cho vay tại CN NHCT Hoàn Kiếm trong thời gian vừa qua. Đồng thời, trên cơ sở thực trạng, những hạn chế còn tồn tại, luận văn đã đề cập tới một số giải pháp và kiến nghị tới các cơ quan chức năng có liên quan, tới NHCT Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng cho vay tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm. Cũng từ lý luận và thực tiễn nghiên cứu, luận văn cũng đã nêu lên được một số kiến nghị với cơ quan hữu quan, với cơ quan chủ quản và Nhà nước trong việc thúc đẩy sự phát triển của các DNNVV.
76 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3715 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm – Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh để có thể dễ dàng hội nhập với nền kinh tế thế giới đang phát triểm không ngừng.
Còn phân theo ngành sản xuất kinh doanh thì, dư nợ cho vay tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp và thương nghiệp, Đây là lĩnh vực mà đại đa số các DNNVV hình thành và phát triển và tài trợ cho các doanh nghiệp hoạt động ở lĩnh vực này cũng là lợi thế mạnh của NHCT. Tuy vậy, khi xét về cơ cấu nợ, thì các doanh nghiệp được ngân hàng cho vay lại chủ yếu lại là DNNN, do yếu tố cạnh tranh không lớn nên với việc kinh doanh không đạt hiệu quả cao như là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, điều đó phần nào ảnh hưởng tới chất lượng của khoản vay do yếu tố rủi ro lớn.
2.3.3. Nợ quá hạn, nợ xấu.
*) Tình hình gia hạn nợ.
BIỂU 6: NỢ GIA HẠN TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI DNNVV.
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
Cho vay nền kinh tế
Cho vay DNVVN
Nợ gia hạn
DNVVN/ Tổng nợ gia hạn
Tổng dư nợ
Nợ gia hạn
Tỷ lệ NGH
Tổng dư nợ
Nợ gia hạn
Tỷ lệ NGH
2005
1100
17.8
1.62%
100
5.13
5.13%
28.8%
2006
1070
15
1.4%
95
6.2
6.53%
41.3%
2007
1100
18
1.64%
110
7
6.36%
38.9%
Nguồn: Báo cáo nợ gia hạn, nợ quá hạn của NHCT Hoàn Kiếm năm 2005-2007
( Số liệu tính đến ngày 31/12/2007)
Nợ gia hạn của chi nhánh chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng dư nợ. Tỷ lệ này cao nhất trong năm 2007, mới chỉ là 1.64%. Trong khi đó, tỷ lệ nợ gia hạn trong cho vay DNNVV lại khá cao và đang có xu hướng tăng lên. Năm 2005, nợ gia hạn là 5.13 tỷ đồng, chiếm 5.13% trong tổng dư nợ. Đến năm 2007, tăng thêm 1.07 tỷ đồng, nợ gia hạn chiếm 6.53% tổng dư nợ, và năm 2007 tỷ lệ này tuy có giảm nhưng vẫn cao hơn so với năm 2005 là 6.36%, tương ứng với 7 tỷ đồng.
Điều này cho thấy, các khoản nợ chưa được trả nợ đúng hạn như trong cam kết, được khách hàng làm đơn xin điều chỉnh lại kỳ hạn trả nơ đang tăng. Tuy đây không phải là các khoản nợ quá hạn nhưng các khoản này tiềm ẩn nhiều nguy cơ chuyển sang các khoản nợ quá hạn trong tương lai, làm ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ của ngân hàng, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
*) Tình hình nợ quá hạn.
Chỉ tiêu này phản ánh trực tiếp đến chất lượng tín dụng, tỷ lệ này cao hay thấp noi nên hiệu quả cho vay của chi nhánh, có thể nói tỷ lệ nợ quá hạn này là những con số biết nói, phản ánh một cách toàn diện nhất tình hình nợ quá hạn của một ngân hàng. Tại NHCT Hoàn Kiếm, tình hình nợ quá hạn được cho trong bảng dưới đây.
BIỂU 7: NỢ QUÁ HẠN TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI DNNVV
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Cho vay nền kinh tế
Cho vay DNVVN
Nợ quá hạn
DNVVN/ Tổng NQH
Tổng dư nợ
Nợ quá hạn
Tỷ lệ NQH
Tổng dư nợ
Nợ quá hạn
Tỷ lệ NQH
2005
1100
17.16
1.56%
100
1.65
1.65%
9.62%
2006
1070
12
1.12%
95
1.45
1.53%
12.08%
2007
1100
10
0.91%
110
1.57
1.43%
15.7%
Nguồn: Báo cáo nợ gia hạn, nợ quá hạn của NHCT Hoàn Kiếm năm 2005-2007
( Số liệu tính đến ngày 31/12/2007)
Qua bảng số liệu trên cho thấy: Tình hình nợ quá hạn trong cho vay DNNVV tại chi nhánh đang có chiều hướng tốt lên. Tỷ lệ NQH cho vay DNNVV của chi nhánh trong 3 năm trở lại đây nhìn chung là giảm. Năm 2005 nợ quá hạn của khách hàng DNNVV là 1.65 tỷ đồng, chiếm 1.65% tổng dư nợ. Năm 2006, nợ quá hạn giả m xuống chỉ là 1.45 tỷ đồng , tương ứng với tỷ lệ 1.53%. Đến năm 2007 tỷ lệ này chỉ còn có 1.43% ,NQH tương ứng là 1.57 tỷ đồng.
Mặc dù vậy nhưng nếu xét hoạt động cho vay DNNVV trong cho vay toàn nền kinh tế thì chất lượng nợ của DNNVV lại thấp hơn chất lượng nợ nói chung của NHCT HK. Trong 3 năm 2005-2007, tỷ lệ NQH của DNNVV luôn cao hơn tỷ lệ NQH chung của toàn chi nhánh. Chênh lệch này ngày càng lớn. Năm 2007 chênh lệch là lớn nhất 0.52%( 0.91%- 1.43%). Ngoài ra, trong khi dư nợ cho vay DNNVV chỉ chiếm khoảng 10%( 2007) tổng dư nợ, thì NQH DNNVV đã chiếm tới tận 15%.
Tỷ trọng nợ quá hạn tập trung ở khu vực kinh tế nhà nước là lớn nhất, chiếm tới 65% trong tổng nợ quá hạn. Nguyên nhân có thể do việc quản lý nợ đối với các DNNN còn lỏng lẻo, chưa thật gắt gao do tâm lý, DNNN mà làm ăn thua lỗ thì có nhà nước đứng ra bảo lãnh, bù đắp chi phí, hoặc cũng có thể do nguyên nhân từ phía khách hàng vay. DNNN có thể làm ăn không hiêu quả, tình hình kinh doanh thua lỗ nên không chả được nợ cho ngân hàng, hoặc là những doanh nghiệp này ỳ ra cố tình không trả nợ.
*) Tình hình nợ xấu.
Theo quyết định 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng thì việc phân loại nợ được chia thành 5 nhóm:
- Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn
- Nhóm 2: Nợ cần chú ý
- Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn
- Nhóm 4: Nợ nghi ngờ
- Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn
Trong đó, nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, nhóm 4 và nhóm 5, những khoản nợ quá hạn từ 90 ngày trở lên, bên cạnh đó là những khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.Kểt quả phân loại dư nợ trong năm 2007 theo 5 nhóm nợ được thể hiện qua bảng sau:
BIỂU 8: NỢ XẤU TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI DNNVV NĂM 2007
Đơn vị: Tỷ đồng.
Chỉ tiêu
Nợ nhóm 3
Nợ nhóm 4
Nợ nhóm 5
Tổng nợ xấu
Dư nợ
Nợ xấu/Dư nợ(%)
Cho vay nền kinh tế
16.92
11.16
7.92
36
1100
3.27%
Cho vay DNNVV
1.116
0.766
0.3065
2.189
110
1.99%
Nguồn: Báo cáo nợ gia hạn, nợ quá hạn của NHCT Hoàn Kiếm năm 2005-2007
( Số liệu tính đến ngày 31/12/2007)
Theo dõi biểu trên, có thể thấy nợ xấu đối với cho vay DNNVV chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng dư nợ. Trong năm 2007, chi nhánh chỉ có 2.189 tỷ đồng chiếm 1.99% trong tổng dư nợ cho vay DNNVV và chiếm 6,08% tổng nợ xấu. Trong đó, nợ xấu nhóm 3 chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng dư nợ xấu, là 51%,trong khi đó, nợ xấu nhóm 5 chiếm tỷ trọng ít nhất là 14% cho thấy khả năng không thu được nợ khách hàng tại chi nhánh không quá nghiêm trọng. Việc phân loại nợ như vậy giúp cho ngân hàng có thể trích lập quỹ dự phòng và xử lý rủi ro hiệu quả nhất.
2.4.Đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng đỗi với dnnvv tại cn nhct hoàn kiếm.
“ Tăng trưởng tín dụng đồng thời với nâng cao chất lượng cho vay” là điều mà bất cứ một ngân hàng nào cũng mong muốn đạt được. Trong thời gian vừa qua, Chi nhánh do phải đối mặt với những khó khăn thách thức, tuy không có sự mở rộng về quy mô cho vay DNNVV nhưng chất lượng các khoản tín dụng này ngày càng được nâng cao. Điều đó cho thấy sự nỗ lực cố gắng nỗ lực của tập thê các cán bộ của phòng khách hàng 2, sự quan tâm chỉ đạo xát xao của lãnh đạo Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm, cũng như sự ủng hộ của các cơ quan ban ngành trên địa bàn và sự tin tưởng hợp tác của khách hàng. Có thể đánh giá cụ thể hiệu quả hoạt động cho vay DNNVV của chi nhánh trên những kết quả đạt được hay những hạn chế cần khắc phục:
2.4.1. Những kết quả đạt được.
Một là: Chất lượng tín dụng của chi nhánh ngày càng được nâng cao. Các tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu giảm qua các năm. Tuy trong những năm qua quy mô của cho vay DNNVV của chi nhánh không được mở rộng nhưng cũng có thể đánh giá đây là thành tựu của chi nhánh trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay. Với việc áp dụng chính sách hạn chế tín dụng, chi nhánh đã sàng lọc được những khách hàng xấu, thiết lập quan hệ với các khách hàng tốt.
Hai là: Cơ cấu dư nợ có sự chuyển biến theo hướng hợp lý hơn. Dư nợ cho vay DNNVV tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp và thương nghiệp, đây lại là hai ngành đang phát triển ở nước ta hiện nay nên khả năng trả nợ đúng hạn của khách hàng vay tiền là rất lớn, chất lượng cho vay của ngân hàng được đảm bảo.
Ba là : Công tác thẩm định cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ phần nào được nâng cao. Việc thẩm định từ chỗ chủ yếu là sao chép số liệu của khách hàng, dần dần áp dụng nhiều phương pháp mang tính khoa học, nhìn nhận vấn đề rộng hơn, kỹ thuật thẩm định hoàn chỉnh hơn. Hệ thống chấm điểm tín dụng, và xếp hạng khách hàng vay vốn ngày càng được chính xác và xát với thực tế hơn. Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện vốn vay cũng được thực hiện chặt chẽ hơn, góp phần hạn chế các khoản nợ có vấn đề.
Bốn là : Theo chỉ đạo của NHCT, chi nhánh đã thành lập ban xử lý nợ tồn đọng và tích cực đôn đốc trả nợ cũng như áp dụng các biện pháp xử lý tài sản thế chấp. Với các khoản nợ nhóm 5, chi nhánh luôn tích cực gửi công văn đến phòng thi hành án để thu hồi nợ. Do vậy các khoản nợ quá hạn, nợ xấu ngày càng giảm., góp phần hạn chế tổn thất, lành mạnh hóa tài chính, tăng cường hoạt động kinh doanh của Chi nhánh.
Năm là : Trong quá trình cho vay các cán bộ tín dụng của ngân hàng luôn thực hiện nghiêm túc các văn bản pháp quy như : luật ngân hàng và luật các tôt chức tín dụng, các quy chế, các quy trình nghiệp vụ, chế độ thể lệ tín dụng và các văn bản chỉ đạo của Ngân hàng cũng như cảu Chính phủ trong quá trinh thực hiện quy trình cho vay, qua đó đã góp phần đảm bảo chất lượng hoạt động cho vay
Sáu là : Ngân hàng rất nỗ lực tìm kiếm, khai thác các nguồn vốn quốc tế với nhiều ưu đãi, thời hạn cho vay dài để tài trợ cho các DNNVV, góp phần đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng đối với DNNVV. Đây là các chương trình tín dụng mang lại sư khác biệt trong quan hệ tín dụng đối với DNNVV của NHCT với các NHTM khác. Các chương trình này đều có hiệu quả cao, mang lại lợi ích thiết thực cho cả NHCT Hoàn Kiếm và DNNVV là các đối tượng vay vốn.
Bảy là : ngân hàng luôn chủ động trong việc tăng cường nhiều kênh tiếp cận với DNNVV. Thông qua các diễn đàn, báo chí, đài phát thanh, hội thảo, hội nghị… ngân hàng có cơ hội tìm hiểu nhu cầu của doanh nghiệp, từ có chính sách thu hút thêm nhiều khách hàng mới cũng như có cơ hội tiếp thị các sản phẩm, dịch vụ mới.
2.4.2 Hạn chế và nguyên nhân.
2.4.2.1 Hạn chế.
Mặc dù trong những năm qua đã đạt được những thành tích nhất định nhưng hoạt động cho vay của chi nhánh cũng còn một số những hạn chế cần khắc phục :
Một là : Hiệu quả hoạt động cho vay còn hạn chế cả về số lượng khách hàng và dư nợ cho vay. Cho vay DNNVV chưa thực sự được chi nhánh quan tâm đúng với vai trò là bộ phận khách hàng quan trọng của NHCT, dư nợ cho vay hiện chỉ chiếm khoảng 18% tổng dư nợ, số lượng khách hàng là DNNVV chiếm 56% tổng khách hàng, con số này còn khiêm tốn với mục tiêu đến năm 2010, khách hàng DNNVV của NHCT chiếm 70% tổng khách hàng vay vốn.
Hai là : Cơ cấu dư nợ DNNVV phân theo thành phần kinh tế đã có sự chuyển biến, song chưa tích cực. Cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ cho vay các DNNVV. Chi nhánh trong thời gian tới phải xem xét vấn đề này một cách thật sự nghiêm túc, Bởi trong xu thế hiện nay, Nhà nước đã và đang khuyến khích các doanh nghiệp cổ phần hóa, hơn nữa các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang trở nên ngày càng lớn mạnh và đóng góp một phần quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Ba là : Chất lượng nợ của DNVVN tuy đã có những cải thiện đáng kể nhưng vẫn thấp hơn mặt bằng cho vay chung của chi nhánh. Nợ quá hạn lại đang tập trung ở các khoản cho vay DNNN. Trong thời gian vừa qua , bộ phận kinh tế này đã tỏ ra hoạt động kém hiệu quả, nhiều công ty làm ăn thua lỗ, gây mất vốn của Nhà nước. Điều đáng nói là hầu hết các DNNN có nợ quá hạn đều không có hoặc tỷ lệ nợ có tài sản bảo đảm rất thấp nên khả năng thu hồi nợ là khó khăn.
Nợ gia hạn mặc dù chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng dư nợ nhưng lại có xu hướng tăng qua các năm, tiềm ẩn nhiều nguy cơ phát sinh nợ quá hạn và khả năng khó thu hồi nợ, mô hình chung ảnh hưởng tới chất lượng nợ của tín dụng DNNVV.
Bốn là : Hiệu quả sử dụng đồng vốn huy động được là không cao. Chi nhánh mới chỉ cho vay được khoảng 47% tổng nguồn vốn huy động được. Trong đó tỷ lệ cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ chiếm khoảng 18%, trong khi phần lớn các DNNVV lại không thể tiếp cận được với vốn của ngân hàng, gây lãng phí nguồn vốn huy động. chi phí huy động vốn cao, ngân hàng không thể đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận.
Năm là : Định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng Công Thương chưa thống nhất và phù hợp giữa các nghị định công văn trong hệ thống ngân hàng. Điều này gây bất tiện lớn cho chi nhánh khi quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các dự án của các tổ chức quốc tế, các cơ quan Nhà nước, cũng như quá trình theo dõi thống kê…. của ngân hàng
2.4.2.2. Nguyên nhân.
2.4.2.2.1. Nguyên nhân khách quan.
*) Từ phía khách hàng.
- Kỹ năng lập dự án, thuyết minh phương án kinh doanh chưa cao, rất ít các doanh nghiệp xây dựng được phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, lại không thành thạo trong việc sử dụng các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh đang có trên thị trường như nguồn thông tin cần khai thác,dịch vụ tư vấn…..Điều này đã gây rất nhiều trở ngại cho doanh nghiệp vừa và nhỏ khi đến vay vốn tại ngân hàng.
- Do nước ta mới chuyển từ nên kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nên kinh tế thị trường có sự chỉ đạo của nhà nước theo con đường xã hội chủ nghĩa được một thời gian nên những hạn chế của cơ chế cũ vẫn còn ảnh hưởng ít nhiều tới cách thức hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là những DNNN.
- Do vẫn chưa từ bỏ hết được những thói quen kinh doanh mới nên khả năng thích ứng những thay đổi của thị trường của các doanh nghiệp này bị hạn chế, dẫn tới hiệu quả kinh doanh không như mong muốn.
- Trình độ quản lý của doanh nghiệp cũng là một nguyên nhân. Do nước ta trong thời buổi hội nhập kinh tế thế giới đã mọc lên rất nhiều công ty mới theo trào lưu nhưng hiểu biết về việc kinh doanh, kiến thức về thị trường, cũng như khả năng quản lý của những người lãnh đạo công ty còn hạn hẹp, sự năng động, tính linh hoạt trong điều hành còn không cao, chính vì thế nhiều doanh nghiệp khó có thể đứng vững trên thị trường trong một thời gian dài.
- Ngoài ra sự thiếu trung thực trong việc cung cấp thông tin của khách hàng cũng ảnh hưởng tới chất lượng khoản vay. Nhiều doanh nghiệp để có thể vay được vốn của ngân hàng đã cung cấp những thông tin thiếu trung thực như chỉnh sửa các báo cáo tài chính trước khi đưa cho cán bộ ngân hàng thẩm định, cung cấp thông tin giả về tình hình vay nợ trước đây..., khiến cho cán bộ ngân hàng có những đánh giá sai lệch về khách hàng dẫn tới cho vay không đúng chỗ. Nhiều doanh nghiệp khi nhận được vốn vay rồi lại không sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận, hay gây khó dễ cho ngân hàng khi không chịu tra nợ vay đúng hạn đã quy định. Cũng có những khách hàng vay, khi yêu cầu phải có tài sản thế chấp đã cố tình đưa giấy chứng nhận giả về quyền sở hữu tài sản, khiến ngân hàng không thể tiến hành thanh lý tài sản thế chấp.
*) Nguyên nhân khác.
Nước ta tuy được đánh giá là một nước có nền kinh tế, chính trị ổn định, điều này tạo thuận lợi cho các tổ chức kinh tế hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên, do mới gia nhập vào nền kinh tế thị trường chưa lâu nên môi trường pháp lý còn yếu kém, chưa thể là chỗ dựa vững chắc cho các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác hoạt động, trong đó có hệ thống ngân hàng. Hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, chưa thật chặt chẽ, khiến nhiều doanh nghiệp vẫn tìm cách lách luật được, điều đó ảnh hưởng tới sự lành mạnh trong kinh doanh.
Bên cạnh đó, hệ thống các chính sách, quy định, nghị định tuy đã được ban hành với nhiều hoàn thiện và sửa đổi để thích ứng với sự thay đổi nhanh và mạnh mẽ của nền kinh tế, nhưng vẫn chưa đồng bộ.
Ngoài ra một số các thủ tục hành chính trong các lĩnh vực cụ thể như : cấp đăng kí kinh doanh, cấp các loại giấy phép, kê khai thuế.. còn nhiều phức tạp rườm rà. Hiện tượng các loại giấy phép ‘con’ còn phổ biến. Trách nhiệm của cơ quan công chứng, cơ quan kiểm toán chưa rõ ràng, đày đủ. Hệ thống giấy tờ về quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất và bất động sản trên đất còn phức tạp, thiếu hoặc không đồng nhất.
Những biến động bất thường khác cũng gây ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động cho vay. Trong những năm gần đây, giá cả một số mặt hàng thiết yếu của cuộc sống liên tục tăng như giá xăng dầu, giá điện, nước, giá một số mặt hàng thực phẩm cũng tăng mạnh khiến cho việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị ảnh hưởng, hiệu quả kinh doanh giảm sút, nhất là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp nặng, nhu cầu xăng, dầu, điện, nước là rất lớn để có thể duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh. Do chi phí tăng, dẫn tới lợi nhuận giảm sút và từ đó, ảnh hưởng tới khả năng trả nợ cho ngân hàng. Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm lại cho vay chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp nên cũng bị ảnh hưởng nhiều.
Biến động lớn trên thị trưòng tiền tệ, những thay đổi thất thường của lãi suất, lạm phát liên tục tăng trong những năm qua cũng khiến cho hoạt động cho vay không được như kế hoạch đã đề ra, chất lượng cho vay bị giảm sút.
2.4.2.2.2. Nguyên nhân chủ quan.
Tuy cơ chế cho vay mới đã bước đầu mang lại những kết quả khả quan, nhưng là quy định chung áp dụng cho mọi loại hình doanh nghiệp. Hiện tại ngân hàng chưa có một cơ chế chính sách tín dụng nào quy định cho loại hình doanh nghiệp này. Việc xét duyệt cho vay giống như đối với các doanh nghiệp lớn, quy trình thủ tuc áp dụng cho những khoản cho vay quy mô lớn, không thật sự phù hợp với đối tượng khách hàng có quy mô nhỏ này.
Thông tin tín dụng cũng là một nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng của ngân hàng. Hiện tại việc thu thập thông tin khách hàng để phục vụ công tác cho vay của NHCT cơ bản được lấy từ nguồn hệ thống thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước (CIC), từ Trung tâm thông tin tín dụng của NHCTVN (TRR). Các nguồn thông tin này chưa thường xuyên được cập nhật, độ tin cậy thấp. Ngay cả nguồn thông tin về hoạt sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chủ yếu được thu thập qua báo cáo tài chính của doanh nghiệp cũng bị các doanh nghiệp chỉnh sửa, bóp méo để đáp ứng yêu cầu vay vốn của NH. Mà thông tin về doanh nghiệp là cơ sở để đưa ra các quyết định của cán bộ ngân hàng từ khâu thẩm định khách hàng vay vốn, thẩm định rủi ro tín dụng đến việc ra quyết định tín dụng, và cũng là yếu tố quan trọng giúp các nhà quản lý tín dụng đưa ra quyết định đúng đắn, kịp thời. Do đó thông tin không chính xác, kịp thời sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng các khoản vay.
Chất lượng công tác thẩm định của ngân hàng còn chưa cao. Do thói quen khi khách hàng đã có TSĐB cho khoản vay thì khả năng thu hồi vốn vay là lớn, điều này khiến cho việc thẩm định các dự án, phương án vay không được chú trọng, ngân hàng chưa thực sự phản ánh được liệu một dự án kinh doanh có khả thi hay không.
Bên cạnh đó, ngân hàng cũng chưa chú trọng nhiều tới việc đầu tư vốn mở rộng cơ sở hạ tầng, đổi mới trang thiết bị, đặc biệt là đổi mới công nghệ ngân hàng, đây là yếu tố vô cùng quan trọng. Công nghệ cao có thể giúp việc thẩm định một dự án, phương án kinh doanh được nhanh hơn, chuẩn xác hơn, qua đó chất lượng cho vay được nâng cao.
Trình độ năng lực cán bộ tín dụng của ngân hàng cũng là một nguyên nhân : Tuy cán bộ tín dụng có những trình độ chuyên môn nhất định nhưng kiến thức tổng hợp về các ngành NH còn chưa cao. Mà với xu thế hiện nay, yêu cầu ngoài việc nắm những hiểu biết chuyên môn của ngành ngân hàng, còn cần phải có những hiểu biết nhất định về những ngành nghề khác cũng như phải am hiểu về luật pháp, nắm vững những quyết định, nghị định do nhà nước ban hành, cũng như là luật pháp quốc tế, có như vậy mới có thể đưa ra những quyết định chính xác và nhạy bén với diễn biến thị trường.
Có thể nói trong thời gian vừa qua do phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức và những biến động lớn trên thị trường tiền tệ nên không tránh khỏi những mặt hạn chế trong kinh doanh. Quy mô cho vay DNNVV có năm còn bị giảm sút, chất lượng tín dụng của chi nhánh tuy ngày càng được cải thiện nhưng nhìn chung vẫn còn thấp hơn chất lượng tín dụng chung của toàn chi nhánh. Để tạo điều kiện mở rộng quan hệ tín dụng, hỗ trợ các doanh nghiệp trong thời gian tới, đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiêp vừa và nhỏ cần phải có những giải pháp đồng bộ và hoàn chỉnh.
CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHO VAY DNNVV TẠI CHI NHÁNH NHCT HOÀN KIẾM
3.1. Định hướng phát triển hoạt động cho vay dnnvv của chi nhánh nhct hoàn kiếm.
3.1.1. Định hướng chung về hoạt động của chi nhánh trong thời gian tới.
Hoà cùng sự phát triển chung của nền kinh tế trong giai đoạn hội nhập, ngành Ngân hàng sẽ có rất nhiều những khó khăn thách thức, đó là cạnh tranh giữa các tổ chức Tài chính- Ngân hàng trong nước và quốc tế ngày càng trở nên gay gắt và sâu rộng hơn…. Quán triệt chỉ đạo cảu Ban lãnh đạo NHCT Việt Nam tại hội nghị triển khai nhiệm vụ kinh doanh năm 2008, chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm có đề ra các mục tiêu thực hiện kế hoạch kinh doanh cụ thể như sau :
- Nguồn vốn huy động : 5.500 tỷ đồng ( tăng 10%)
- Dư nợ cho vay : 1.400 tỷ đồng( tăng 25%)
- Tỷ lệ nợ xấu( nhóm 3.4.5) : 0%
- Cho vay DNNN tối đa : 65%(dư nợ cho vay)
- Cho vay trung dài hạn tối đa : 40%
- Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản tối đs : 70%
- Chỉ tiêu thu hồi nợ đã xử lý rủi ro : 500 triệu đồng
- Thu dịch vụ đạt : 4.5 tỷ
- Lợi nhuận sau khi trích dự phòng rủi ro : 75 tỷ đồng
3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động cho vay đỗi với DNNVV.
Thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Đảng và Nhà nước ta luôn khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng. Số lượng các doanh nghiệp mới hình thành ngày càng nhiều, đặc biệt là các DNNVV chiếm một tỷ trọng đông đảo và đóng góp một phần quan trọng vào tốc độ phát triển của nền kinh tế, thu hút được nhiều lao động. Nhưng khả năng cạnh tranh của các DNNVV còn hạn chế, các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc sản xuất tiêu thụ hàng hóa sản phẩm. Theo kết quả khảo sát điều tra hơn 63 ngàn Doanh nghiệp tại 30 tỉnh thành phía Bắc cho thấy số vốn của các DNNVV còn rất thấp: khoảng 50% DN có vốn dưới 1 tỷ đồng, gần 75% DN có số vốn dưới 2 tỷ đồng và có tới 90% DN có vốn dưới 5 tỷ đồng( nguồn: Cục phát triển đầu tư doanh nghiệp nhỏ và vừa _ Bộ kế hoạch và đầu tư). Chính vì vậy nhu cầu vốn cho mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, đổi mới, mở rộng, nâng cấp trang thiết bị, công nghệ để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường của các DNNVV là rất lớn.
Tuy nhiên, các DNNVV lại không dễ dàng huy động được vốn trên thị trường, do vốn ưu đãi phát triển DNNVV từ các nguồn tài trợ của nước ngoài còn hạn chế, năng lực của DNNVV chưa đáp ứng các điều kiện để có thể huy động từ thị trường chứng khoán. Chính vì vậy, để mở rộng sản xuất và phát triển hoạt động kinh doanh, DNNVV chủ yếu tiếp cận nguồn vốn tín dụng Ngân hàng. Nhưng việc tiếp cận với nguồn vốn này đối với các DNNVV cũng gặp rất nhiều khó khăn.
Từ năm 2000, NHCT Việt Nam đã đánh giá các DNNVV là đối tượng khách hàng quan trọng, là thị trường tiềm năng mà NHCT Việt Nam cần hướng tới. Điều đó đã được cụ thể hoá bằng các chương trình hành động trong kế hoạch phát triển hàng năm, kế hoạch phát triển 5 năm, 10 năm về tài trợ cho DNNVV. Mục tiêu đến năm 2010 là "NHCT Việt Nam trở thành NHTM dẫn đầu Việt Nam về tài trợ DNNVV".
Trên cơ sở các quan điểm, chủ trương phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Đảng và Nhà nước và trên cơ sở nhận biết được vai trò quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong sự nghiệp phát triển kinh tế nói chung và sự phát triển của tín dụng nói riêng, cũng như theo định hướng ‘dẫn đầu về cho vay DNNVV’ của NHCT Việt Nam, chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm cũng đưa ra một số chủ trương định hướng cho hoạt động cho vay loại hình doanh nghiệp này trong thời gian tới :
- Ngân hàng xác định các DNNVV là các khách hàng tiềm năng với quy mô to lớn trong giai đoạn tới.
- Tăng cường cán bộ tín dụng cả về số lượng và chất lượng. Ngân hàng cần lựa chọn các cán bộ tín dụng có trình độ và đạo đức nghề nghiệp làm công tác tín dụng, đồng thời tổ chức các lớp tập huấn phổ biến các kiến thức mới, nhất là các lớp bồi dưỡng về quản lý tài chính doanh ngiệp.
- Thành lập tổ thẩm định dự án có tính chuyên nghiệp cao. Cần nâng cao chất lượng trong thẩm định, nhất là thẩm định tài chính của doanh nghiệp vì hiện tại khâu này còn được thực hiện khá sơ sài, nhiều khi mang tính hình thức.
- Tiếp tục hoàn thiện đề án xếp hạng tín dụng, phân loại khách hàng. Đây sẽ là một quá trình vừa khoa học, vừa làm nhằm tạo cơ sở quản lý rủi ro thống nhất đối với từng khách hàng.
- Tiếp tục chú trọng và đẩy mạnh công tác quản lý rủi ro tín dụng. Hoạt động này thể hiện ở 3 nội dung cơ bản sau :
+ Tuân thủ nghiêm túc các quy chế, quy trình tín dụng.
+ Tăng cường hiệu quả hoạt động của các phòng ban nhằm kiểm soát tốt rủi ro.
+ Tiếp tục hoàn thiện chương trình quy chế hoá, quy trình hoá các hoạt động tín dụng.
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng dnnvv tại cn nhct hoàn kiếm.
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ tạo ra cơ hội mà còn tạo ra các thách thức cho các nền kinh tế, cho các ngân hàng và doanh nghiệp. Để hạn chế những tác động tiêu cực, tận dụng được những cơ hội tạo ra trong quá trình hội nhập, cả chi nhánh lẫn các DNNVV đều cần phải có những thay đổi sao cho phù hợp với thời cuộc
Các DNNVV ở nước ta đang ngày càng gia tăng cả về số lượng lẫn chất lượng. Trên cơ sở phân tích về vai trò, vị trí và sự cần thiết khách quan của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế, có thể nói đây là thị trường khai thác tiềm năng của chi nhánh. Nâng cao hiệu quả cho vay đối với hoạt động cho vay doanh nghiệp này có ý nghĩa to lớn tới sự phát triển của ngân hàng Công Thương chi nhánh Hoàn Kiếm nói riêng mà còn có ý nghĩa ổn định phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung. Để làm được điều này, Chi nhánh cần thực hiện các biện pháp sau :
3.2.1. Xây dựng một quy trình cho vay riêng đối với DNNVV.
Một trong những nguyên nhân khiến cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó tiếp cận với nguồn vốn vay ngân hàng là do những rắc rối rườm rà, phức tạp của quy trình cho vay chung áp dụng cho cả các doanh nghiệp lớn. Do vậy quy trình cho vay hiện nay không phù hợp với điều kiện cũng như nhu cầu vay vốn của bộ phận doanh nghiệp này làm cho tỷ trọng dư nợ cho vay tại Chi nhánh còn thấp. Bởi vậy, Chi nhánh cần xây dựng một quy trình và thủ tục cho vay riêng đơn giản, linh hoạt phù hợp với đặc thù của các DNNVV.
+ Thực hiện chính sách lãi xuất linh hoạt, hợp lý : Một lãi suất cho vay hợp lý là lãi xuất phải thấp hơn tỷ xuất lợi nhuận thu được của doanh nghiệp vay vốn, đồng thời phải cao hơn chi phí hoạt động huy động vốn của ngân hàng và một số chi phí hoạt động khác. Cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường có rủi ro lớn hơn, chi phí cho thẩm định cũng lớn hơn do đó lãi suất cho vay các doanh nghiệp này cũng lớn hơn các doanh nghiệp lớn. Vì vậy để mở rộng tín dụng đối với DNNVV thì ngân hàng nên áp dụng mức lãi xuất đa dạng, linh hoạt cho từng loại khách hàng.
+ Nới lỏng hình thức cho vay có bảo đảm : Thực tế, đa số các ngân hàng ở nước ta trong đó có ngân hàng Công thương coi tài sản bảo đảm là điều kiện kiên quyết để quyết định cho vay. Tuy cho vay DNNVV tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn cho vay doanh nghiệp lớn nhưng cũng không nên quá tuyệt đối hoá vai trò của tài sản báo đảm như hiện nay. Bởi trong điều kiện của nước ta hiên naythì chưa thể được coi là một đảm bảo chắc chắn cho doanh nghiệp bởi vấn đề xử lý tài sản thế chấp còn gặp nhiều khúc mắc, ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong việc thu hồi vốn khi doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả. Trong khi đó, các DNNVV thường phải thế chấp tài sản có giá trị lớn hơn nhiều giá trị khoản vay để đảm bảo trách nhiệm trả nợ cho ngân hàng. Điều này mô hình chung đã gây khó khăn cho doanh nghiệp khi đến vay vốn. Ngân hàng có thể giải quyết cho vay căn cứ vào tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh và khả nảng cạnh tranh của sản phẩm đó trên thị trường. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần mạnh dạn áp dụng hinh thức cho vay đảm bảo bằng hàng hoá dịch vụ. Tài sản đảm bảo tiền vay chỉ là phương tiện cuối cùng, là nguồn trả nợ khi rủi ro xảy ra, do vậy ngân hàng cần linh hoạt áp dụng hình thức thế chấp, tín chấp bảo lãnh… sao cho phù hợp.
+ Kỳ hạn cho vay : Thời hạn cho vay phải đảm bảo không chỉ căn cứ vào mục đích vay mà còn căn cứ vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn vay của Ngân hàng, tránh tình trạng doanh nghiệp thiếu vốn, Ngân hàng thừa vốn trong khi ngân hàng có thể cho vay được.
3.2.2 Đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ cung cấp cho DNNVV.
Đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng là điều kiện vô cùng quan trọng giúp ngân hàng ngày càng thu hút được nhiều khách hàng đến quan hệ tín dụng với mình.Bên cạnh các hình thức cung cấp tín dụng hiện có tại ngân hàng, chi nhánh cần thiết phải tìm kiếm các loại hình thức tín dụng mới để áp dụng thuận tiện đối với đặc điểm của từng loại hình doanh nghiệp
Ngoài các hình thức cung cấp tín dụng chủ yếu mà các NHTM đang thực hiện, cần thiểt phải xem xét bổ sung hình thức tín dụng sau:
- Chiết khấu: Việc mua bán chịu và sử dụng vốn lẫn nhau giữa các DNNVV là phổ biến. Việc sử dụng hình thức tín dụng chiết khấu thương phiếu có ưu điểm nổi bật như: khả năng xảy ra rủi ro đối với hình thức tín dụng này là nhỏ nhất so với các loại tín dụng khác, khi cần vốn các NH có thể xin tái chiết khấu các thương phiếu, chứng từ có giá tại NHNN để bổ sung nguồn vốn thanh toán, nguồn vốn kinh doanh….
Trong thời gian tới NH cần nhanh chóng nghiên cứu xây dựng quy trình cho vay chiết khấu thương phiéu, hối phiếu hoặc các chứng từ có giá khác
- Cho thuê tài chính: là hình thức tín dụng trung dài hạn thông qua việc cho thuê tài sản. Đối với DNNVV, đây là hình thức cấp vốn tín dụng rất phù hợp với điều kiện tài chính của doanh nghiệp, tạo điều kiện để doanh nghiệp đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ tiên tiến. Đây là hình thức tín dụng được NHCT chú trọng phát triển. Hiện mới chỉ có hình thức Công ty thuê mua, trong thời gian tới ngân hàng nên phát triển các hình thức cho thuê tài chính khác như: thuê mua bất động sản, tín dụng thuê mua bán và tái thuê mua…
- NH cũng nên triển khai thực hiện các dịch vụ mới phù hợp với đối tượng khách hàng DNNVV như: bao thanh toán, tư vấn( tư vấn vốn, tư vấn tham giai chứng khoán,…..)
3.2.3 Tăng cường công tác Marketting, kênh tiếp cận với DNNVV.
“Marketing ngân hàng là hệ thống tổ chức quản lý của một ngân hàng để đạt được mục tiêu đặt ra của ngân hàng là thoả mãn tốt nhất nhu cầu về vốn, cũng như các dịch vụ khác của ngân hàng đối với nhóm khách hàng lựa chọn bằng các chính sách, các biện pháp hướng tới mục tiêu cuối cùng là tối đa hóa lợi nhuận.”
Marketing ngân hàng là một yếu tố giúp nâng cao chất lượng cho vay. Để đẩy mạnh công tác Marketing ngân hàng thì NHCT Hoàn Kiếm cần phải thực hiện các nhiêm vụ:
- Cần phải nắm bắt kịp thời sự thay đổi của thị trường, và nhu cầu của khách hàng đối với các sản phẩm, dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.
- Có những chính sách và giải pháp thích hợp để thắng các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, như tăng cường điều tra thị trường, tiếp xúc với khách hàng xem khách hàng cần gì, nhu cầu là bao nhiêu, quan sát xem đối thủ cạnh tranh đang tiến hành kế hoạch gì để có hành động ứng phó, tăng cường tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, có những chính sách ưu đãi hợp lý, tổ chức các hội nghị, hội thảo để thu hút khách hàng...
- Marketing phải là cầu nối giữa ngân hàng và khách hàng. Thông qua các chiến lược Marketing, khách hàng sẽ biết đến và hiểu về ngân hàng nhiều hơn, giúp ngân hàng trở thành một địa điểm tin cậy cho các DNNVV
3.2.4 Biện pháp xử lý nợ xấu, nợ quá hạn, phòng ngừa và hạn chế rủi ro.
Ngân hàng nào cũng mong muốn không có nợ quá hạn hay nợ xấu. Tuy nhiên trong thực tế, việc tồn tại nợ quá hạn và nợ xấu là không thể tránh khỏi với mỗi một ngân hàng, ngân hàng chỉ có thể tìm cách hạn chế nợ quá hạn và nợ xấu ở mức thấp nhất có thể để đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Một số biện pháp mà NHCT Hoàn Kiếm cần thực hiện:
* Nâng cao chất lượng thông tin: Chất lượng thông tin ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động cho vay của ngân hàng từ khâu thẩm định tín dụng, thẩm định rủi ro tín dụng, đến việc ra quyết định tín dụng. Hiện nay các nguồn thông tin của ngân hàng về khách hàng vay vốn còn thiếu thốn, thậm chí còn sai rất nhiều so với thực tế.Chính vì vậy một yêu cầu cấp thiết đặt ra là ngân hàng cần thành lập một bộ phận chuyên thu thập và xử lý dữ liệu thông tin, bộ phận này sẽ phối hợp với tất cả các bộ phận nghiệp vụ có liên quan trong ngân hàng để thu thập thông tin về khách hàng ngay từ bên trong Ngân hàng.Ngoài ra còn thu thập thông tin ở các nguồn khác như: thông tin từ cuộc hội thảo, thông tin của các ngân hàng thương mại, của Ngân hàng Nhà Nước, của các Bộ, Nghành có liên quan và của Chính phủ…..
* Thực hiện nghiêm chỉnh quy trình tín dụng, nghiệp vụ cho vay mà các văn bản của Chính phủ, của NHNN, NHCT Việt Nam đã ban hành từ khâu tiếp cận khách hàng đến khâu thẩm định, phê duyệt cho vay, quản lý đôn đốc và xử lý nợ. Việc thực hiện tốt công tác này có một ý nghĩa quan trọng trong việc hạn chế sai sót, hạn chế rủi ro cho ngân hàng và nâng cao chất lượng từng khoản vay.
* Thẩm định phương án, dự án vay vốn theo những chuẩn mực đã đề ra để xem liệu dự án đó có đạt chất lượng để cho vay hay không
* Thực hiện tốt biện pháp bảo đảm tiền vay: Đây là biện pháp nhằm hạn chế thấp nhất rủi ro có thể xảy ra cho ngân hàng, đồng thời thông qua biện pháp này ngân hàng cũng gắn trách nhiệm của khách hàng đối với việc trả nợ đủ và đúng hạn cho khoản vay. Thực hiện tốt quy định này cần quan tâm các vấn đề: Tài sản của khách hàng khi mang thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh cảu người thứ 3 về tính hợp pháp, hợp lệ không nằm trong khu qui hoạch giải toả và có vị trí thuận lợi, dễ bán trên thị trường; việc định giá tài sản phải tuân theo khung giá của Nhà nước có tham khảo giá thị trường, song có tính đến yếu tố tăng giảm của thị trường trong tương lai; việc lựa chọn tài sản bảo đảm phải phù hợp với tính chất từng khoản vay.
* Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tín dụng : Sau khi đã cho khách hàng vay, phải liên tục giám sát khách hàng trong suốt quá trình vay vốn để đảm bảo khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích, tránh những rủi ro bất ngờ có thể xảy ra. Khi thấy có những dấu hiệu bất thường từ phía khách hàng thì phải tìm hiểu kỹ nguyên nhân, ngừng cung cấp thêm khi cần thiết, hoặc có thể gia hạn thêm nợ.
* Thường xuyên phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro để có thể hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất. Ngày càng hoàn thiện hệ thống thông tin, xếp hạng và chấm điểm tín dụng. Ngân hàng cần xúc tiến làm việc với các ngân hàng nước ngoài có kinh nghiệm trong hoạt động cho vay DNNVV, có hệ thống chấm điểm khách hàng đã hoàn thiện nhằm học tập kinh nghiệm trong việc xây dựng một hệ thống chấm điểm khách hàng tiên tiến.
* Với những khoản nợ quá hạn, nợ xấu phát sinh thì ngân hàng cần có biện pháp thích hợp trong từng trường hợp cụ thể để có thể thu hồi được nợ.
3.2.5 Nâng cao chất lượng cán bộ.
Yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng nhất, quyết định chất lượng của hoạt động cho vay. Bởi vì, việc hoàn thiên chính sách tín dụng, chính sách quản lý rủi ro, việc đẩy mạnh hoạt động Marketing ngân hàng hay việc tìm ra những biện pháp hữu hiệu để xử lý nợ quá han, nợ xấu đều do con người thực hiện. Chính vì vậy, muốn nâng cao chất lượng của hoạt động cho vay thì NHCT Hoàn Kiếm cần phải có một đội ngũ cán bộ công nhân viên có chuyên môn cao, am hiểu sâu rộng về nhiều lĩnh vực, có hiểu biết phong phú và tình hình thị trường, nắm vững những văn bản luật, những quyết định, nghị định của nhà nước, những quy định chung do NHCT ban hành. Để có được đội ngũ cán bộ như vậy chi nhánh cần phải quan tâm đến việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ bởi vì, tuy những cán bộ làm việc trong ngân hàng đều có trình độ đại học và sau đại học nhưng do nhu cầu của thị trường, đòi hỏi của nền kinh tế ngày càng cao nên việc trau dồi thêm kiến thức thường xuyên để có thể ứng dụng và vận hành những thay đổi mau lệ của nền kinh tế thị trường. Một số biện pháp NHCT Hoàn Kiếm có thể tiến hành:
Thực hiện đào tạo và đào tạo lại những cán bộ công nhân viên chức hiện đang công tác trong chi nhánh, từ đó giúp cho các cán bộ có đủ khả năng và trình độ để đảm nhiệm vai trò nhiệm vụ của mình trong ngân hàng, ưu tiên đào tạo cán bộ các phòng tín dụng, kế toán. Ngân hàng có thể thực hiện đào tạo tập trung, hoặc đào tạo từng phòng ban. Triển khai phổ cập tin học, đào tạo hoặc tuyển dụng chuyên gia tin học có khả năng xây dựng và lập trình các nghiệp vụ phát sinh của NH.
Hàng năm, mở các khoá thi tuyển các cán bộ ngân hàng mới với chất lượng thi tuyển cao, công bằng để có được lớp cán bộ trẻ, năng động, có những hiểu biết cập nhật về ngành ngân hàng. Sau khi đã được tuyển chọn từ kỳ thi, ngân hàng nên mở một khoá huấn luyện cho lớp cán bộ trẻ này để họ có những kinh nghiệm nghề nghiệp ban đầu. Bên cạnh đó, có thể tuyển chọn cán bộ qua các hình thức tài trợ cho các trường đại học, viện nghiên cứu, trung tâm đào tạo... để tìm kiếm những sinh viên tài năng ngay từ khi còn ngồi trên giảng đường đại học, đào tạo cho họ để họ trở thành một cán bộ giỏi của ngân hàng trong tương lai. Làm tốt công tác tuyển chọn cán bộ, các NHTMQD sẽ dần khắc phục được tình trạng vừa thừa vừa thiếu như hiện nay.
Phân công lao động vào các phòng ban một cách hợp lý, tạo sự chuyên môn hoá cao trong công việc, tức là mỗi người có một nhiệm vụ riêng, phát huy được năng lực và sở trường của mình, tránh sự trùng lặp, tạo nên hiệu quả cao trong công việc. Tuy nhiên không phải vì vậy mà không có sự liên kết công việc giữa các cán bộ với nhau, trái lại họ có mối liên kết chặt chẽ với nhau, công việc của người này có hiêu quả thì công việc của người kia mới được thực hiện.
NH nên có những biện pháp khen thưởng và kỷ luật để khuyến khích những đóng góp tích cực và kỷ luật những cán bộ không thực hiện công việc nghiêm túc. Qua đó, đẩy mạnh tính tự giác, trung thực và nâng cao thái độ và hiệu quả làm việc của các cán bộ trong ngân hàng cũng như nâng cao tính cạnh tranh công bằng
Tổ chức đánh giá, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ phù hợp với trình độ của từng người, giúp phát huy được năng lực sở trường của họ. Tránh tình trạng cán bộ được đào tạo hoặc có kinh nghiệm trong chuyên ngành này thì bố trí làm việc ở chuyên ngành khác, kể cả việc bổ nhiệm cán bộ chủ chốt. Chức vụ phải tương xứng với khả năng, kiên quyết điều chuyển các cán bộ không có khả năng.
Đặc biệt đối với các dự án lớn phức tạp, các khách hàng hoạt động đa dạng thì việc ngân hàng thuê các chuyên gia kể cả các chuyên gia nước ngoài là rất cần thiết. Bởi một cán bộ dù giỏi đến đâu cũng khó có thể thẩm định được đầy đủ, chính xác, nhất là thẩm định về mặt kỹ thuật, tính đồng bộ của thiết bị, công nghệ, giá của thiết bị, thị trường tiêu thụ sản phẩm, các chi phí liên quan… của dự án, phương án vay vốn của khách hàng.
Mô hình tổ chức hoạt động của ngân hàng nên cải tiến theo tiêu thức” hướng vào khách hàng” tức là khách hàng được hướng dẫn một cách cụ thể, tỷ mỷ các dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp thông qua một đầu mối duy nhất. Theo mô hình này, phòng khách hàng nên có bộ phận chuyên tiếp nhận những yêu cầ của khách hàng, hướng dẫn khách hàng làm những thủ tục cần thiết theo quy định của Ngân hàng, thực hiện việc kiểm tra xử lý các thông tin mà khách hàng cung cấp. Sau đó bộ phận hoặc phòng này sẽ tự chuyển các hồ sơ chứng từ có liên quan đến bộ phận xử lý nghiệp vụ để giải quyết. Như vậy khách hàng khi đến giao dịch với Ngân hàng chỉ phải giao dịch qua “một cửa”, hơn nữa chính bộ phận này lại nắm được thông tin về khách hàng một cách tổng hợp, đầy đủ cả về năng lực và uy tín của khách hàng. Từ đó có những quyết định đúng đắn, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
3.2.6 Tăng cường đổi mới trang thiết bị hiện đại cho ngân hàng.
Trong nền kinh tế theo xu thế hội nhập quốc tế như hiện nay, ngân hàng chỉ có thể hoạt động có hiệu quả khi công nghệ của ngân hàng đáp ứng được công nghệ hiện đại tiên tiến mang tầm thế giới. Ngân hàng luôn phải cạnh tranh gay gắt với các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác để có thể tồn tại và phát triển. Chính vì vậy, luôn luôn đổi mới công nghệ ngân hàng là một yêu cầu cấp bách mà bất cứ ngân hàng nào cũng phải chú trọng thực hiện.
Hiện nay, mỗi ngân hàng đều chọn cho mình một phần mền quản lý riêng, phù hợp vói mô hình hoạt động kinh doanh của mình.Ví dụ như ngân hàng phát triển nhà HDBank và ngân hàng quốc tế VIB Bank triển khai hệ thống ngân hàng đa năng Symbols do hãng System Access (Singapore) cung cấp, ngân hàng ngoài quốc doanh VPBank và 4 ngân hàng TMCP là Techcombank, Sacombank, MB (ngân hàng quân đội) và SeaBank đã mua phần mềm Hệ thống ngân hàng lõi T24 (T24 Corebanking) để phát triển các sản phẩm, dịch vụ có hàm lượng công nghệ cao, ngân hàng ngoại thương Vietcombank đã lựa chọn sử dụng Corebanking (Corebanking được hiểu là một công nghệ ngân hàng mới, hỗ trợ cho việc triển khai các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại; đồng thời giúp nắm bắt được những thông tin về khách hàng một cách nhanh chóng, chính xác để từ đó dự đoán được những nhu cầu của các khách hàng trong tương lai).
Ngân hàng cũng cần phải nhanh chóng triển khai hệ thống phần mềm lõi cho ngân hàng (Corebanking), song song với nó là xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng truyền thông dựa trên kiến trúc mạng hướng dịch vụ SONA để có thể tăng tính cạnh tranh với các ngân hàng khác.
3.2.7 Nâng cao hiệu quả của bộ máy kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
Để nâng cao chất lượng kiểm soát nội bộ cần phải thực hiện các nguyên tắc sau:
Một là: Tạo môi trường kiểm soát tốt, nghĩa là xây dựng quy chế, quy trình nghiệp vụ và hướng dẫn thực hiện các quy định trong hoạt động kinh doanh kịp thời, đồng bộ và có hiệu lực thi hành nghiêm túc, chấn chỉnh ý thức chấp hàng của cán bộ, nhân viên ngân hàng.
Hai là: cần tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ tốt, phân công trách nhiệm rõ ràng. Thường xuyên thực hiện kiểm tra chéo giữa các cán bộ tín dụng, giữa các phòng tín dụng, phát hiện các sai sót để chỉnh sửa kịp thời. Bộ phận kiểm tra tại ngân hàng pahỉ làm tốt nhiệm vụ phát hiện và ngăn ngừa những hành vi vi phạm cơ chế quy trình tín dụng, hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra.
Ba là: đề cao tính độc lập của tổ chức và hoạt động của kiểm soát nội bộ. Phải tôn trọng nguyên tắc này thì mới phát huy được hiệu lực, hiệu quả của kiểm soát nội bộ.
3.2.8 Hoàn thiện hệ thống hạch toán thống kê, thống nhất định nghĩa về DNNVV.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay DNNVV thì việc xác định rõ thực trạng hoạt động này có ý nghĩa quan trọng. Tuy thực tế cho thấy, đây là vấn đề mà tại NHCT Hoàn Kiếm còn nhiều bất cập:
- NHCT HK cần thống nhất lại định nghĩa về DNNVV. Định nghĩa được lựa chọn phải đáp ứng tối đa các mục tiêu NHCT BĐ là thuân lợi cho quá trình áp dụng, phản ánh đúng thực tế các DNNVV đang là khách hàng của NHCT HK. Trong các định nghĩa hiện đang tồn tại, có lẽ định nghĩa theo quy định của sổ tay tín dụng là phù hợp nhất do xem xét khách hàng trên nhiều góc độ như lĩnh vực hoạt động, doanh thu, lao động….
- Hệ thống báo cáo của NHCT HK chưa đáp ứng được nhu cầu của công tác điều hành. Vì vậy, cần tiến hành hiện đại hóa hệ thống này theo hướng tập trung về Trụ sở chính, chi tiết đến từng nhóm khách hàng, sản phẩm. Mặc dù chương trình hiện đại hóa ngân hàng đã sắp kết thúc nhưng do trình độ cán bộ thấp nên chất lượng nguồn số liệu đầu vào còn hạn chế dẫn đến hệ thống chưa phát huy hiệu quả.
3.3 một số kiến nghị.
3.3.1 Đối với NHCT VN.
NHCT Hoàn Kiếm là một chi nhánh thuộc NHCT Việt Nam, chịu sự chỉ đạo, điều hành trực tiếp từ Hội đồng quản trị và Ban giám đốc NHCT về mọi mặt hoạt động. Chính vì vậy, để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay tại chi nhánh, không thể thiếu được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của NHCT Việt Nam.
Trên cơ sở quy chế nghiệp vụ ban hành của NHNN Việt Nam, ngân hàng thiết kế một chính sách tín dụng riêng biệt đối với đối tượng khách hàng DNNVV với các điều kiện cho vay, quy trình xét duyệt phù hợp hơn với quy mô nhỏ và vừa của loại hinh doanh nghiệp này, tạo điều kiện để doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng hơn, từ đó góp phần mở rộng quy mô cho vay. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng có chính sách hỗ trợ về tài chính cho những khoản nợ quá hạn, nợ xấu tại chi nhánh, hỗ trợ việc xử lý các khoản nợ để giúp lành mạnh hoá hoạt động cho vay.
Thường xuyên mở các lớp đào tạo ngắn và dài hạn cho cán bộ các chi nhánh, để giúp nâng cao trình độ chuyên môn cũng như các trình độ cần thiết khác cho cán bộ các chi nhánh. Thường xuyên tuyển dụng và đào tạo các cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực cho hoạt động, nâng cao năng suất lao động trong toàn hệ thống.
Tổ chức thường xuyên việc tổng kết rút kinh nghiệm và tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát và thông tin kinh tế trong toàn hệ thống để thực hiện tốt chiến lược phát triển toàn hệ thống
3.3.2 Đối với Nhà nước.
* Trước hết, nhà nước cần tiếp tục củng cố và sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật dành cho lĩnh vực ngân hàng, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Bên cạnh đó cũng cần có những ưu tiên cho hệ thống ngân hàng trong nước, giúp cho các ngân hàng có thể cạnh tranh đuợc với các ngân hàng nước ngoài trong thời buổi nền kinh tế hội nhập như hiện nay, tránh cho ngân hàng trong nước bị thao túng bởi nước ngoài.
* Ban hành các văn bản dưới luật, các văn bản hướng dẫn việc thực thi luật để các ngân hàng có thể dựa vào đó làm chuẩn thực hiện các hoạt động cho vay có hiệu quả hơn.
* Cần đưa ra một quy trình riêng biệt trong việc xử lý các TSĐB khi khách hàng không trả được nợ để tránh trường hợp nhiều khi ngân hàng lúng túng không biết xử lý như thế nào.
* Cần có những chính sách mới thông thoáng hơn để giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mức vốn ít có thể vay được ngân hàng, cũng như giúp cho các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng được dễ dàng, không có nhiều thủ tục rườm rà, phức tạp.
Hệ thống pháp luật về hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng cũng cần phải được củng cố lại để tránh hiện tượng lách luật gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng của khoản vay. Tuy nhiên, việc điều chỉnh và sủa đỏi hệ thống pháp luật phải thật logic và hợp lý, tránh tình trang trồng chéo về nội dung và quy định giữa các văn băn luật khác nhau.
* Thực hiện đào tạo, nâng cao trình độ của các cán bộ làm trong bộ máy nhà nước, bởi những cán bộ này là người trực tiếp thảo ra các văn bản pháp luật.
* Tăng cường mở rộng các kênh thông tin để khách hàng có thể tìm hiêu về ngân hàng và ngân hàng có thể dễ dàng tìm hiểu về khách hàng từ đó đưa ra quyết định cho vay vốn. Cách thức này giúp nâng cao chất lượng hoạt động cho vay.
* Cung cấp các thông tin về thị trường nước ngoài, đẩy mạnh giới thiệu các ngân hàng trong nước cho bạn bè quốc tế để thúc đẩy hoạt động ngân hàng trên thị trường quốc tế, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu ngoại tệ, vay vốn giữa ngân hàng trong nước với các doanh nghiệp ở nước ngoài, gia tăng giao dịch các đồng ngoại tệ.
* Nhà nước cũng cần quy định rõ trách nhiệm, và nhiệm vụ của UBND các cấp, các bộ ngành liên quan tới hoạt động ngân hàng để khi tham gia phê duyệt, thẩm định một dự án, phương án kinh doanh tránh tình trạng không phân biệt được trách nhiệm nào thuộc về ngân hàng, trách nhiệm nào thuộc về các cấp chính quyền địa phương.
3.3.2 Đối với các cơ quan ban ngành có liên quan
- Đối với cơ quan công chứng: công tác công chứng nhà nước cần được phải đơn giản hoá: các giấy chứng nhận sử dụng tài sản. quyền sử dụng đất khi đã đủ các điều kiện pháp lý cần được công chứng trong thời gian ngắn nhất, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhanh chóng hoàn thành thủ tục vay vốn
- Đối với cơ quan quản lý nhà đất: cần tạo điều kiện có những chính sách thông thoáng hơn trong việc cấp đất hoặc cho thuê đất đỗi với các DNNVV để giúp các doanh nghiệp này có điều kiện triển khai mở rộng sản xuất. Ngoài ra, cơ quan cũng cần ban hành một hệ thống các văn bản đồng nhất quy định rõ về quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất và bất động sản trên đất
KẾT LUẬN
Một thực tế hiện nay không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà còn ở các nước khác trên thế giới là các DNNVV thường xuyên gặp khó khăn trong việc huy động vốn, nhu cầu vốn cho kinh doanh rất lớn.
Trong các hoạt động của một ngân hàng thương mại thì hoạt động cho vay chiếm vai trò chủ đạo, mang lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng nhưng lại chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Chính vì vậy, đối với ngân hàng, việc nâng cao hiệu quả cho vay là việc làm sống còn, ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn tại và phát triển của ngân hàng
Hoạt động cho vay đối với các DNNVV hiện nay tại NHCT Hoàn Kiếm đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, chưa xứng với tiềm năng của các doanh nghiệp cũng như chưa thực sự đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Do đó trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, trong luận văn tốt nghiệp này, em đã hệ thống hoá những lý luận cơ bản về cho vay, hiệu quả hoạt động cho vay, các chỉ tiêu đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay. Luận văn cũng đã phân tích, đánh giá tình hình cho vay và hiệu quả hoạt động cho vay tại CN NHCT Hoàn Kiếm trong thời gian vừa qua. Đồng thời, trên cơ sở thực trạng, những hạn chế còn tồn tại, luận văn đã đề cập tới một số giải pháp và kiến nghị tới các cơ quan chức năng có liên quan, tới NHCT Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng cho vay tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm. Cũng từ lý luận và thực tiễn nghiên cứu, luận văn cũng đã nêu lên được một số kiến nghị với cơ quan hữu quan, với cơ quan chủ quản và Nhà nước trong việc thúc đẩy sự phát triển của các DNNVV.
Do còn nhiều hạn chế về mặt kiến thức lý luân cũng như thực tiễn, đồng thời do hạn chế về tài liệu và thời gian nghiên cứu, nhiều vấn đề cần phân tích sâu hơn nhưng chưa được thực hiện trong luận văn này. Em rất mong được sự góp ý của các thầy cô, các cán bộ nhân viên ngân hàng về vấn đề này.
Em xin trân thành cảm ơn thầy cô giáo khoa Ngân hàng- Bảo hiểm Học Viện tài Chính và thầy giáo hướng dẫn PGS .TS Đinh Xuân Hạng và các cô chú trong Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. Đồng thời em xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo và các cán bộ NHCT Hoàn Kiếm, phòng khách hàng Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tạo điều kiện để em hoàn thành luận văn: “ Nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm – Thực trạng và giải pháp”.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11103.doc