MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng biểu Trang
Mở đầu 1
Chương 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO KINH DOANH VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
1.1 Tổng quan về ngân hàng thương mại 3
1.1.1 Khái niệm 3
1.1.2 Chức năng của ngân hàng thương mại 4
1.2 Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng 4
1.2.1 Khái niệm về rủi ro 4
1.2.2 Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng 5
1.2.3 Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng 6
1.2.4 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong kinh doanh ngân hàng 7
1.2.5 Ảnh hưởng của rủi ro đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng và nền kinh tế -xã hội 8
1.3 Quản trị rủi ro thanh khoản 9
1.3.1 Khái niệm về thanh khoản và rủi ro thanh khoản 9
1.3.2 Nội dung quản trị rủi ro thanh khoản . 13
1.3.3 Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản 10
1.3.4 Cung và cầu về thanh khoản . 11
1.3.5 Đánh giá trạng thái thanh khoản . 12
1.3.6 Chiến lược quản trị thanh khoản 12
1.3.6.1 Đường lối chung về quản trị thanh khoản 12
1.3.6.2 Các chiến lược quản trị thanh khoản 13
1.3.7 Các phương pháp quản lý rủi ro thanh khoản 17
1.3.7.1 Duy trì một tỷ lệ hợp lý giữa vốn dùng cho dự trữ và vốn dùng cho kinh doanh 17
1.3.7.2 Đảm bảo về tỷ lệ khả năng chi trả 17
1.3.7.3 Sử dụng các phương pháp dự báo thanh khoản 17
1.3.8 Các tiêu chuẩn cuối cùng cho việc đánh giá quản trị thanh khoản 21
1.4 Kiểm định các giả thiết về khả năng thanh khoản22
1.4.1 Kiểm định về chỉ số trạng thái tiền mặt H3 23
1.4.2 Kiểm định về chỉ số năng lực cho vay H4 24
1.4.3 Kiểm định về chỉ số dư nợ/tiền gửi khách hàng H5 24
1.4.4 Kiểm định về chỉ số chứng khoán thanh khoản H6 25
Kết luận Chương 1 26
Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 27
2.1 Tổng quan về hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam 27
2.1.1 Bức tranh tổng quan về hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam 27
2.1.2 Tác động của điều kiện kinh tế vĩ mô đến hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam 31
2.2 Thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản trong các ngân hàng thương mại Việt Nam 33
2.2.1 Vốn điều lệ và hệ số CAR 35
2.2.2 Hệ số H1 và H2 38
2.2.3 Chỉ số trạng thái tiền mặt H3 40
2.2.4 Chỉ số năng lực cho vay H4 42
2.2.5 Chỉ số dư nợ/tiền gửi khách hàng H5 43
2.2.6 Chỉ số chứng khoán thanh khoản H6 45
2.2.7 Chỉ số trạng thái ròng đối với các TCTD H7 46
2.2.8 Chỉ số (tiền mặt+tiền gửi tại các TCTD)/tiền gửi khách hàng H8 47
2.3 Trường hợp Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)49
2.3.1 Quy định về hoạt động quản trị thanh khoản .49
2.3.2 Thanh khoản và quản trị thanh khoản tại BIDV 52
Đánh giá chung về thanh khoản và quản trị thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam 53
Kết luận Chương 2 5
Chương 3 MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TRONG CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 56
3.1 Định hướng phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng chiến lược đến
năm 2020 56
3.1.1 Định hướng phát triển Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đến năm 2010 và định hướng chiến lược đến
năm 2020 56
3.1.2 Định hướng phát triển các tổ chức tín dụng đến năm 2010 và định hướng chiến lược đến năm 2020 57
3.2 Biện pháp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro thanh khoản trong các ngân hàng thương mại Việt Nam 58
3.2.1 Về phía Chính phủ 58
3.2.1.1 Một ngân hàng trung ương độc lập và đủ mạnh 58
3.2.1.2 Hoàn thiện hệ thống luật pháp đáp ứng yêu cầu hội nhập 59
3.2.1.3 Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước 60
3.2.2 Về phía Ngân hàng Nhà nước 60
3.2.2.1 Thực thi chính sách tiền tệ linh hoạt và vừa đủ 60
3.2.2.2 Kiểm soát việc thành lập ngân hàng thương mại 61
3.2.2.3 Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác giám sát từ xa hoạt động của các ngân hàng thương mại 62
3.2.3 Về phía các ngân hàng thương mại 63
3.2.3.1 Đảm bảo vốn tự có ở mức cần thiết 63
3.2.3.2 Tăng cường công tác dự báo các điều kiện kinh tế vĩ mô 64
3.2.3.3 Xây dựng cơ chế chuyển vốn nội bộ phù hợp 64
3.2.3.4 Đảm bảo tỷ lệ cân đối giữa tài sản “Có” - tài sản “Nợ” 65
3.2.3.5 Gắn rủi ro thanh khoản với rủi ro thị trường trong quản trị 66
3.2.3.6 Xây dựng và hoàn thiện hệ thống đánh giá nội bộ .67
3.2.3.7 Thiết lập mô hình tổ chức phù hợp 68
3.2.3.8 Xây dựng đội ngũ nhân viên có trình độ, năng lực và đạo đức nghề nghiệp 69
Kết luận . 70
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
82 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2082 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro thanh khoản trong các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uồn: Báo cáo thường niên, Báo cáo tài chính hàng năm của các ngân hàng và kết quả
tính toán của học viên. (*) chỉ số *H8.
Một số ngân hàng có chỉ số H8 cao như: Đông Nam Á, Gia Định, HDbank,
Kiên Long, Nam Á, OCB, PAC, PG, Việt Á. Tuy nhiên, khi xét chúng kết hợp với
chỉ số H5 và H7 cho thấy tỷ lệ dư nợ/tiền gửi khách hàng (H5) của hầu hết các ngân
hàng này khá cao, từ 96% trở lên; có trường hợp trên 250%: Gia Định, HDbank,
PAC, do vậy việc duy trì một tỷ lệ cao của chỉ số H8 chủ yếu là tiền vay từ TCTD
khác và duy trì số vốn vay này ở tài khoản tiền mặt, hoặc tiền gửi tại các TCTD.
Chỉ số H7 của hầu hết các ngân hàng này đều nhỏ hơn 1, cá biệt có ngân hàng đạt
- 49 -
rất thấp như: HDbank (0,21), PAC (0,43), PG(0,39) đã củng cố thêm cho nhận định
trên. Sang năm 2008, trước yêu cầu phải đảm bảo mức vốn điều lệ trên 1.000 tỷ
VND, các ngân hàng đã sử dụng nhiều phương thức tăng vốn điều lệ. Nhưng số vốn
này tạm thời chưa được sử dụng nên được gửi ở các TCTD hoặc dưới dạng tiền
mặt, làm cho chỉ số H8 tăng cao đột biến như: PG, Western.
2.3 Trường hợp Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV):
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là một trong những ngân hàng
thương mại nhà nước. Đến cuối năm 2008, số vốn điều lệ của BIDV hơn 8 ngàn tỷ
VND. Với bề dày phát triển 52 năm, BIDV có mạng lưới rộng khắp cả nước, chỉ
xếp sau Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về số điểm giao dịch.
Trong năm 2007, 2008, không nằm ngoài xu hướng chung của hệ thống ngân hàng
Việt Nam, tính thanh khoản tại BIDV cũng có những khó khăn nhất định.
2.3.1 Quy định về hoạt động quản trị thanh khoản:
BIDV đã ban hành quy định về quản lý thanh khoản vào tháng 3 năm 2007.
Mục đích của quy định này nhằm: đáp ứng kịp thời các nghĩa vụ thanh toán đến hạn
của toàn hệ thống với chi phí hợp lý, đảm bảo an toàn trong hoạt động; giảm thiểu
rủi ro thanh khoản thông qua quá trình nhận biết, ước tính, theo dõi, kiểm soát rủi ro
theo chuẩn mực quốc tế; nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong hoạt động kinh doanh
ngân hàng.
Quản lý thanh khoản theo quy định của BIDV dựa trên sự kết hợp 2 phương
pháp: phân tích thanh khoản tĩnh và phân tích thanh khoản động. Phương pháp phân
tích thanh khoản tĩnh là phương pháp quản lý thanh khoản bằng cách phân tích các
chỉ số rút ra từ bảng tổng kết tài sản và cơ sở dữ liệu hiện tại, từ đó đưa ra giới hạn
cho các chỉ số đảm bảo thanh khoản. Phương pháp phân tích thanh khoản động là
phương pháp quản lý thanh khoản bằng cách dự đoán cung, cầu thanh khoản, dự
đoán chênh lệch cung cầu (khe hở) thanh khoản, từ đó đưa ra chính sách quản lý
thanh khoản. Hội đồng quản lý tài sản nợ có (ALCO) chịu trách nhiệm đảm bảo khả
năng thanh khoản của toàn hệ thống.
- 50 -
Phương pháp phân tích thanh khoản tĩnh: các chỉ số thanh khoản sau đây
được sử dụng:
Chỉ số dự trữ sơ cấp:
ALCO quyết định chỉ số dự trữ sơ cấp của toàn hệ thống và của từng chi
nhánh trong cuộc họp định kỳ.
Dự trữ sơ cấp
Chỉ số dự trữ sơ cấp = x 100%
Nguồn vốn huy động
Dự trữ sơ cấp gồm: số dư tiền mặt tại quỹ, vàng, tiền gửi tại NHNN, tiền gửi
thanh toán tại các TCTD khác.
Nguồn vốn huy động bằng tổng tài sản nợ trừ vốn chủ sở hữu.
Chỉ số dự trữ thanh toán:
ALCO quyết định chỉ số dự trữ thanh toán và các cấu phần dự trữ thanh toán
của toàn hệ thống trong cuộc họp định kỳ.
Dự trữ thanh toán
Chỉ số dự trữ thanh toán = x 100%
Nguồn vốn huy động
Dự trữ thanh toán = Dự trữ sơ cấp + Giấy tờ có giá có tính thanh khoản cao x
tỷ lệ điều chỉnh + Tiền gửi liên ngân hàng đến hạn trong 1 tháng tới.
Giấy tờ có giá có tính thanh khoản cao gồm tín phiếu, trái phiếu chính phủ,
công trái giáo dục, trái phiếu đô thị. Tỷ lệ điều chỉnh theo quy định của ALCO
nhưng tối đa bằng mức quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Chỉ số cho vay/tiền gửi:
ALCO quyết định chỉ số dư nợ cho vay /tiền gửi trong các cuộc họp định kỳ.
Cho vay
Chỉ số cho vay/tiền gửi = x 100%
Tiền gửi
Cho vay: dư nợ cho vay tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính và cá nhân trước
dự phòng rủi ro, cho vay các TCTD khác, đầu tư tiền gửi liên ngân hàng.
- 51 -
Tiền gửi: Tiền gửi của tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính và cá nhân (không
bao gồm tiền gửi và vay của các TCTD khác).
Chỉ số khả năng thanh toán:
ALCO quyết định giới hạn chỉ số thanh toán 7 ngày và giới hạn chỉ số thanh
toán 1 tháng nhưng không thấp hơn giới hạn theo quy định hiện hành của Ngân
hàng Nhà nước.
Chỉ số khả năng thanh toán 7 ngày:
Tổng tài sản “Có” có thể thanh toán ngay trong 7 ngày làm việc tiếp theo
=
Tổng tài sản “Nợ” phải thanh toán ngay trong 7 ngày làm việc tiếp theo
Chỉ số khả năng thanh toán 1 tháng:
Tổng tài sản “Có” có thể thanh toán ngay trong 1 tháng tiếp theo
=
Tổng tài sản “Nợ” phải thanh toán ngay trong 1 tháng tiếp theo
Tổng tài sản “Có” có thể thanh toán ngay và tổng tài sản “Nợ” có thể thanh
toán ngay theo Quyết định số 457/2005/QĐ- NHNN ngày 19/04/2005 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành “Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn
trong hoạt động của TCTD”.
Phương pháp phân tích thanh khoản động: gồm các bước sau:
Lập báo cáo cung cầu thanh khoản: Bộ phận hỗ trợ ALCO (phòng Cân
đối tổng hợp) xây dựng báo cáo cung cầu thanh khoản bằng cách phân bổ dữ liệu
gốc luồng tiền vào, luồng tiền ra đến hạn vào các dải kỳ hạn: 1 ngày, 2 7 ngày, 8
ngày 1 tháng, 1 3 tháng, 3 6 tháng.
Phân tích mô phỏng thanh khoản: Hàng tuần, bộ phận hỗ trợ ALCO
(phòng Cân đối tổng hợp) thiết lập các kịch bản trong tương lai dựa trên các giả
định với xác suất xãy ra tối thiểu 5%. Các giả định nêu trong kịch bản bao gồm:
- Giả định thay đổi lãi suất.
- Giả định thay đổi môi trường kinh tế vĩ mô (lạm phát, tăng trưởng, chu kỳ
kinh tế…) và môi trường vi mô (cạnh tranh của các tổ chức tín dung khác, uy tín
BIDV…).
- 52 -
Với mỗi kịch bản, cần dự báo các yếu tố sau:
+ Kế hoạch cho vay mới.
+ Khả năng huy động tiền gửi mới từ các tổ chức, cá nhân.
+ Khả năng huy động vốn mới từ phát hành giấy tờ có giá.
+ Khả năng vay cầm cố, chiết khấu của Ngân hàng nhà nước.
+ Khả năng huy động thêm tiền gửi, vay các Tổ chức tín dụng khác.
+ Khả năng thực hiện hợp đồng repo (bán chứng khoán có cam kết mua lại).
+ Khả năng chuyển các tài sản khác (tài sản cố định, vốn liên doanh, cổ
phần…) thành tiền mặt.
Phân tích khả năng thanh khoản: theo từng kịch bản, bộ phận hỗ trợ
ALCO (phòng Cân đối tổng hợp) xây dựng lại báo cáo luồng tiền vào, luồng tiền ra;
xác định trạng thái thanh khoản để dự đoán thanh khoản trong thời gian tới dư thừa
hay thiếu hụt.
Trên cơ sở kết quả của 2 phương pháp nêu trên, ALCO sẽ quyết định các
biện pháp xử lý thích ứng.
2.3.2 Thanh khoản và quản trị thanh khoản tại BIDV:
Không nằm ngoài xu hướng chung của cả hệ thống ngân hàng Việt Nam, khi
Ngân hàng Nhà nước thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiểm soát lạm phát,
BIDV trong vài thời điểm đã gặp khó khăn nhất định về thanh khoản. Chỉ số H3 của
BIDV trong 2 năm 2006, 2007 là: 4,17%; 1,94%. Lượng tiền gửi thanh toán tại các
tổ chức tín dụng khác năm 2007 giảm đáng kể so với năm 2006; từ mức trên 5 ngàn
tỷ VND xuống còn 2 ngàn tỷ VND, giảm hơn 3 ngàn tỷ VND. Trong khi đó, lượng
tiền gửi có kỳ hạn tại các tổ chức tín dụng khác tăng ròng trên 6 ngàn tỷ VND. Dư
nợ cho vay năm 2007 tăng hơn 33 ngàn tỷ VND so với năm 2006; tỷ lệ tăng trưởng
là 33,8%. Tỷ lệ dư nợ/tiền gửi ở mức cao trên 90%; cụ thể là 92,62% (2006),
97,52%(2007). Như vậy, với việc đẩy mạnh cho vay và tăng lượng tiền gửi có kỳ
hạn trong năm 2007, sang đầu năm 2008 khi chính sách tiền thắt chặt được thực thi
quyết liệt, BIDV đã gặp vấn đề về thanh khoản. Để giải quyết vấn đề này, BIDV đã
tăng cường tiếp cận các tập đoàn, tổng công ty nhằm thu hút những nguồn vốn lớn;
- 53 -
tích cực tham gia các phiên đấu giá hỗ trợ thanh khoản của Ngân hàng Nhà nước ...
và quy định hệ số K (tỷ số giữa dư nợ/tiền gửi) đối với các chi nhánh. Với hệ số K
được giao, chi nhánh nào có hệ số cao hơn phải giảm xuống bằng cách hoặc đẩy
mạnh huy động vốn; hoặc giảm dư nợ tương ứng. Có thể với những biện pháp đồng
bộ như vậy, khả năng thanh khoản của BIDV được đảm bảo; tuy nhiên các chỉ số
thanh khoản năm 2008 chưa được cải thiện nhiều: H3-2,31%; H5-98,52%.
Ngoài lý do ảnh hưởng khách quan từ các chính sách và điều kiện kinh tế vĩ
mô, những hạn chế về thanh khoản của BIDV có thể xuất phát từ các nguyên nhân
chủ quan như sau:
- Mặc dù quy định về quản lý thanh khoản đã được ban hành, nhưng việc
triển khai áp dụng nhất là tại các chi nhánh chưa được quan tâm đúng mức từ cấp
lãnh đạo đến nhân viên.
- Hội sở chính chưa có quy định cụ thể về các tỷ lệ an toàn trong hoạt động
cần đảm bảo đối với các chi nhánh. Các giới hạn đặt ra cho các chỉ số cho toàn hệ
thống phải chăng chưa phù hợp, như tỷ lệ dự trữ tối thiểu chỉ là 8%.
- Bộ phận hỗ trợ ALCO khi lập báo cáo cung cầu thanh khoản, xây dựng các
kịch bản phải chăng đã kỳ vọng nhiều vào thị trường nên có những đánh giá khả
quan; từ đó đẩy mạnh cho vay, giảm dự trữ. Ngay cả khi vấn đề khó khăn về thanh
khoản qua chưa lâu, nhưng dư nợ của BIDV tăng mạnh vào các tháng cuối năm
2008 - thời điểm Ngân hàng Nhà nước giảm lãi suất cơ bản nhằm chống suy giảm
kinh tế, kích cầu đầu tư, tiêu dùng. Hiện tại, cũng như các ngân hàng thương mại
khác, BIDV đang tìm kiếm nhiều giải pháp tăng trưởng nguồn vốn đáp ứng nhu cầu
vốn cho hai gói kích cầu của Chính phủ theo quyết định 131/QĐ-TTg ngày
23/01/2009 và 443/QĐ-TTg ngày 04/04/2009.
Đánh giá chung về thanh khoản và quản trị thanh khoản của các ngân
hàng thương mại Việt Nam:
Với cách tiếp cận qua các tiêu chí và chỉ số thanh khoản nêu trên, Luận văn
đã phân tích, đánh giá, so sánh các tiêu chí, chỉ số này với các quy định của Chính
phủ, Ngân hàng Nhà nước và tiêu chí, chỉ số tương đương của các ngân hàng trên
- 54 -
thế giới. Qua đó, phản ánh dưới góc độ nhất định về tính thanh khoản và quản trị
thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Những phân tích, đánh giá
trên đây cho thấy sự yếu kém trong hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản ở các
ngân hàng thương mại Việt Nam xuất phát từ các nguyên nhân chủ yếu như sau:
- Đặc trưng của nền kinh tế chuyển đổi: Có thể nói những điểm yếu trong
khả năng thanh khoản nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung của nhóm ngân
hàng được khảo sát thể hiện các đặc trưng của hệ thống ngân hàng thương mại ở các
nền kinh tế chuyển đổi. Sự chi phối của sở hữu nhà nước, năng lực quản lý và mức
độ tác động của các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước còn yếu,
chưa đồng bộ, quy mô các ngân hàng thương mại nhỏ, kỹ năng quản trị thấp, nền
tảng công nghệ chưa hiện đại, ... là những đặc trưng dễ thấy. Trong điều kiện đó,
không thể mong có được một hệ thống ngân hàng thương mại mạnh như các quốc
gia phát triển khác.
- Chính sách tiền tệ thiếu nhất quán và có quá nhiều mục tiêu đã làm cho
Ngân hàng Nhà nước trong một số tình huống trở nên khó khăn hơn khi lựa chọn
công cụ tác động, nhất là trong điều kiện Việt Nam, các công cụ điều tiết vĩ mô
trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ chưa nhiều, chưa hoàn thiện. Kết quả là, thị trường
tiền tệ và các thị trường liên quan: chứng khoán, bất động sản chịu ảnh hưởng
không đáng có từ chính sách tiền tệ “đầy tham vọng” đó.
- Năng lực nội tại yếu kém của các ngân hàng thương mại: Những yếu
kém trong quản trị thanh khoản của các ngân hàng thương mại không chỉ bắt nguồn
từ những hạn chế của điều tiết vĩ mô, mà còn do các nguyên nhân nội tại của chính
các ngân hàng này. Một sự chủ quan, một kế hoạch tăng trưởng tín dụng, mở rộng
mạng lưới quá nhanh so với nội lực của ngân hàng, khả năng quản lý chưa theo kịp
với biến động nhanh chóng của thị trường, kể cả biến động do chính sách, ... đều là
nguyên nhân dẫn đến căng thẳng thanh khoản trong một số ngân hàng thương mại
thời gian qua. Một vấn đề khác cần xem xét, đó là liệu có phải công tác dự báo
những thay đổi của môi trường kinh doanh ở các ngân hàng chưa được quan tâm
đúng mức. Nếu phân tích kỹ hơn, tín hiệu về việc thực thi chính sách tiền tệ thắt
- 55 -
chặt được Ngân hàng Nhà nước phát đi khá sớm với động thái tăng tỷ lệ DTBB lên
gấp đôi bằng Quyết định số 1141/QĐ-NHNN ngày 28/05/2007 về việc điều chỉnh tỷ
lệ dự trữ bắt buộc đối với TCTD. Thế nhưng, các ngân hàng thương mại dường như
không quan tâm, vẫn tiếp tục tăng trưởng tín dụng mà không có những biện pháp
phòng ngừa thích ứng. Việc tăng trưởng tín dụng quá mức năm 2007 - được xem là
một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát - một mặt thể hiện sự chủ quan nhất
định trong quản trị, điều hành của các ngân hàng; mặt khác, cho thấy, hoạt động của
các ngân hàng thương mại Việt Nam chưa theo kịp xu hướng của ngân hàng hiện
đại, trong đó dịch vụ là kênh mang lại thu nhập chính cho ngân hàng chứ không
phải là kênh tín dụng. Như vậy, cho dù có nhiều nhân tố bên ngoài tác động đến khả
năng thanh khoản nhưng các nguyên nhân nội tại từ chính các ngân hàng thương
mại Việt Nam đã gây ra tình trạng căng thẳng thanh khoản trong thời gian qua là
không thể phủ nhận.
Kết luận Chương 2: Phân tích thực tế tính thanh khoản và quản trị thanh
khoản của các ngân hàng được khảo sát cho thấy: Khi lãi suất trên thị trường liên
ngân hàng còn thấp, các ngân hàng đã vay qua đêm để đảm bảo DTBB và khả năng
thanh toán; còn nguồn vốn huy động được đem cho vay, mà lại cho vay đầu tư vào
chứng khoán, bất động sản - những lĩnh vực có độ rủi ro cao. Khi lượng cung tiền bị
siết chặt cũng là lúc lãi suất tăng cao, trong khi các khoản cho vay chưa thể thu hồi
(hay khó thu hồi), khả năng thanh khoản sụt giảm là điều tất yếu. Thêm vào đó, các
tài sản khác như chứng khoán có thể dễ dàng chuyển đổi sang tiền mặt lại được dự
trữ với tỷ lệ khá thấp, cũng làm cho tình trạng căng thẳng thanh khoản trầm trọng
thêm. Rõ ràng khi Ngân hàng Nhà nước thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ, khả
năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại đã gặp khó khăn nhất định. Dĩ
nhiên, đó là thách thức nhưng cũng là cơ hội để các ngân hàng nhìn lại mình và có
các giải pháp hợp lý nhằm đạt đến sự tăng trưởng bền vững trong tương lai trước
khi quá muộn. Xét ở một khía cạnh nào đó, phải chăng đó là “giá trị” của lạm phát.
- 56 -
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ RỦI RO
THANH KHOẢN TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
3.1 Định hướng phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam đến năm
2010 và định hướng chiến lược đến năm 2020:
Đề án phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng
chiến lược đến năm 2020 đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt bằng Quyết định
số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/05/2006; trong đó đặt ra:
3.1.1 Định hướng phát triển Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đến năm
2010 và định hướng chiến lược đến năm 2020:
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước để hình thành bộ máy
tổ chức tinh gọn, chuyên nghiệp, có đủ nguồn lực, năng lực xây dựng và thực thi
chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường dựa trên cơ sở công nghệ tiên tiến, thực
hiện các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng trung ương, hội nhập
với cộng đồng tài chính quốc tế, thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý nhà nước
trên lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo nền tảng đến sau năm
2010 phát triển Ngân hàng Nhà nước trở thành ngân hàng trung ương hiện đại, đạt
trình độ tiên tiến của các ngân hàng trung ương trong khu vực Châu Á.
Xây dựng và thực thi có hiệu quả chính sách tiền tệ nhằm ổn định giá trị đồng
tiền, kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế và thực
hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều hành tiền tệ, lãi
suất và tỷ giá hối đoái theo cơ chế thị trường thông qua sử dụng linh hoạt, có hiệu quả
các công cụ chính sách tiền tệ gián tiếp. Ứng dụng công nghệ thông tin, mở rộng nhanh
các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán qua ngân hàng. Nâng dần
và tiến tới thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam. Chính sách tiền tệ
tạo điều kiện huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực tài chính. Kết hợp chặt
chẽ chính sách tiền tệ với chính sách tài khoá để định hướng và khuyến khích công
chúng tiết kiệm, đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh.
- 57 -
3.1.2. Định hướng phát triển các tổ chức tín dụng đến năm 2010 và định
hướng chiến lược đến năm 2020:
Cải cách căn bản, triệt để và phát triển toàn diện hệ thống các TCTD theo
hướng hiện đại, hoạt động đa năng để đạt trình độ phát triển trung bình tiên tiến trong
khu vực ASEAN với cấu trúc đa dạng về sở hữu, về loại hình TCTD, có quy mô hoạt
động lớn hơn, tài chính lành mạnh, đồng thời tạo nền tảng đến sau năm 2010 xây dựng
được hệ thống các TCTD hiện đại, đạt trình độ tiên tiến trong khu vực Châu Á, đáp
ứng đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng, có khả năng cạnh tranh với
các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Bảo đảm các TCTD, kể cả các TCTD
nhà nước hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc thị trường và vì mục tiêu chủ yếu là lợi
nhuận. Phát triển hệ thống TCTD hoạt động an toàn và hiệu quả vững chắc dựa trên cơ
sở công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến, áp dụng thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt
động ngân hàng thương mại. Phát triển các TCTD phi ngân hàng để góp phần phát
triển hệ thống tài chính đa dạng và cân bằng hơn. Phát triển và đa dạng hóa các sản
phẩm, dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là huy động vốn, cấp tín dụng, thanh toán với chất
lượng cao và mạng lưới phân phối phát triển hợp lý nhằm cung ứng đầy đủ, kịp thời,
thuận tiện các dịch vụ, tiện ích ngân hàng cho nền kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hình thành thị trường dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là thị
trường tín dụng cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các loại hình TCTD, tạo cơ hội
cho mọi tổ chức, cá nhân có nhu cầu hợp pháp, đủ khả năng và điều kiện được tiếp cận
một cách thuận lợi các dịch vụ ngân hàng. Ngăn chặn và hạn chế mọi tiêu cực trong
hoạt động tín dụng.
Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. Tách bạch tín dụng chính
sách và tín dụng thương mại trên cơ sở phân biệt chức năng cho vay của ngân hàng
chính sách với chức năng kinh doanh tiền tệ của ngân hàng thương mại. Bảo đảm
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của TCTD trong kinh doanh. Tạo điều kiện cho các
TCTD trong nước nâng cao năng lực quản lý, trình độ nghiệp vụ và khả năng cạnh
tranh. Bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng và các tổ chức tài chính nước
ngoài theo các cam kết của Việt Nam với quốc tế. Gắn cải cách ngân hàng với cải
- 58 -
cách doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước. Tiếp tục củng cố, lành mạnh
hoá và phát triển các ngân hàng cổ phần; ngăn ngừa và xử lý kịp thời, không để xảy
ra đổ vỡ ngân hàng ngoài sự kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước đối với các TCTD
yếu kém. Đưa hoạt động của quỹ tín dụng nhân dân đi đúng hướng và phát triển vững
chắc, an toàn, hiệu quả.
Phương châm hành động của các TCTD là “An toàn - Hiệu quả - Phát triển
bền vững - Hội nhập quốc tế”.
Một số chỉ tiêu tiền tệ và hoạt động ngân hàng giai đoạn 2006 - 2010
1. Lạm phát (%/năm) Thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế
2. Tăng trưởng bình quân tổng phương tiện thanh toán
(M2) (%/năm) 18 - 20
3. Tỷ lệ M2/GDP đến cuối năm 2010 (%) 100 - 115
4. Tỷ trọng tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân
hàng/M2 đến năm 2010 (%) Không quá 18
5. Tăng trưởng bình quân tín dụng (%/năm) 18 - 20
6. Tỷ lệ an toàn vốn đến năm 2010 (%) Không dưới 8
7. Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ đến năm 2010 (%) Dưới 5
8. Chuẩn mực giám sát ngân hàng đến năm 2010 Chuẩn mực quốc tế (Basel I)
9. Dự trữ quốc tế tối thiểu đến năm 2010 12 tuần nhập khẩu
Ghi chú: Nợ xấu được xác định theo tiêu chuẩn phân loại nợ của Việt Nam, phù
hợp với thông lệ quốc tế.
Một số ngân hàng thương mại đạt mức vốn tự có tương đương 800 - 1.000 triệu
USD đến năm 2010, có thương hiệu mạnh và khả năng cạnh tranh quốc tế. Phấn đấu
hình thành được ít nhất một tập đoàn tài chính hoạt động đa năng trên thị trường tài chính
trong và ngoài nước.
3.2 Biện pháp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro thanh khoản trong các ngân
hàng thương mại Việt Nam:
3.2.1 Về phía Chính phủ:
3.2.1.1 Một ngân hàng trung ương độc lập và đủ mạnh:
Trong đề án phát triển Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ chưa nêu rõ mô hình
Ngân hàng Nhà nước sẽ theo mô hình nào: trực thuộc Chính phủ hay độc lập với
- 59 -
Chính phủ. Tuy nhiên, cho dù áp dụng mô hình nào đi nữa, vấn đề then chốt là phải
nâng cao vị thế và tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước với Chính phủ. Có như
vậy Ngân hàng Nhà nước mới có thể đưa ra các quyết định điều hành chính sách
tiền tệ một cách nhanh chóng, nhằm tác động đến nền kinh tế một cách kịp thời và
mang lại hiệu quả cao.
3.2.1.2 Hoàn thiện hệ thống luật pháp đáp ứng yêu cầu hội nhập:
Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 xãy ra bắt đầu ở Thái Lan;
sau đó nhanh chóng lan sang một loạt các nước trong khu vực và tác động tới toàn
thế giới. Trong số những nước đã tự do hóa thị trường vốn và nằm trong vòng xoáy
cuộc khủng hoảng đó, không phải ngẫu nhiên mà nước khống chế tốt nhất những
tác động của cuộc khủng hoảng, Singapore, chính là nước có hệ thống luật pháp tốt
nhất. Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và
thế giới. Cho nên, việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống hành lang pháp lý nói chung và
hệ thống hành lang pháp lý về hoạt động ngân hàng nói riêng là cần thiết và cấp
bách. Trong thời gian tới, cần tập trung triển khai xây dựng Luật Ngân hàng Nhà
nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật giám sát hoạt động ngân hàng và Luật bảo
hiểm tiền gửi; rà soát, sửa đổi hệ thống văn bản pháp quy trong lĩnh vực ngân hàng
đảm bảo phù hợp với các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO.
Việc hoàn thiện hệ thống luật pháp nhằm xây dựng hệ thống ngân hàng
thương mại lành mạnh, minh bạch, vận hành theo cơ chế thị trường có sự kiểm soát
hợp lý của Chính phủ. Muốn vậy, cần quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng
loại hình ngân hàng: thương mại, đầu tư, chính sách, phát triển để tránh những đặc
điểm riêng có của loại hình ngân hàng này trở thành lợi thế cạnh tranh không công
bằng với loại hình ngân hàng khác. Trong dự thảo Luật bảo hiểm tiền gửi, cần
nghiên cứu nâng mức bảo hiểm tiền gửi của khách hàng tại các ngân hàng. Bởi lẽ,
việc nâng mức tiền gửi được bảo hiểm làm cho người gửi tiền yên tâm hơn, tránh
tình trạng rút tiền hàng loạt. Điều này sẽ giúp các ngân hàng thương mại ổn định
được nguồn tiền gửi, nhất là khi xảy ra tình trạng căng thẳng thanh khoản như
những tháng đầu năm 2008.
- 60 -
3.2.1.3 Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà
nước:
Báo cáo nghiên cứu “Hội nhập quốc tế trong hệ thống ngân hàng” tháng 5
năm 2005, được soạn thảo bởi Trung tâm kinh tế (Center for International
Economics, TS. Jenny Gordon, Ông Bob Warrner), Công ty TNHH tư vấn
Erskinomics (Erskinomics Consulting Pty Limited, Alex Erskine, Chuyên gia tư
vấn trưởng quốc tế), Vietbid (Nguyễn Thanh Hà, Phạm Quang Thành, Nguyễn Vân
Anh) cho rằng, sự chi phối của sở hữu nhà nước trong các ngân hàng là không
tương thích với một hệ thống ngân hàng có sự cạnh tranh cao. Một hệ thống ngân
hàng hiệu quả cần có mức độ cạnh tranh cao; do vậy, nếu có sở hữu nhà nước thì
ngân hàng này phải có khả năng hoạt động như một pháp nhân độc lập.
Thực tế ở Việt Nam cho thấy, sự chi phối của các ngân hàng thương mại nhà
nước trong hệ thống ngân hàng là khá lớn. Điều này được xem là một điểm yếu của
hệ thống ngân hàng Việt Nam. Không còn sự lựa chọn nào khác là phải tiến hành cổ
phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước để tăng năng lực cạnh tranh và hiệu
quả hoạt động của các ngân hàng này. Một điểm cần lưu ý ở đây là, việc cổ phần
hoá các ngân hàng thương mại nhà nước phải thay đổi được cách thức quản trị ngân
hàng, tránh tình trạng “bình mới rượu cũ”. Cùng với tiến trình hội nhập và các cam
kết quốc tế, có thể giảm dần tỷ lệ nắm giữ vốn cổ phần của nhà nước trong các ngân
hàng này sau khi cổ phần hoá.
3.2.2 Về phía Ngân hàng Nhà nước:
3.2.2.1 Thực thi chính sách tiền tệ linh hoạt và vừa đủ:
Nhìn chung, trong thời gian qua, chính sách tiền tệ được thực thi bởi Ngân
hàng Nhà nước đã góp phần vào thành tích tăng trưởng kinh tế cho Việt Nam, ổn
định tỷ giá có lợi cho xuất khẩu, tăng cường dự trữ ngoại hối cho đất nước, giữ mức
lạm phát trong vòng kiểm soát theo hướng thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Tuy
nhiên, việc kết hợp các công cụ trong chính sách tiền tệ; giữa chính sách tiền tệ
thuộc điều tiết của Ngân hàng Nhà nước và chính sách tài khoá trong vòng kiểm
soát của Bộ tài chính đôi lúc còn trái chiều, chưa đồng bộ. Chính sách tiền tệ của
- 61 -
Ngân hàng Nhà nước đôi khi còn quá tham vọng, theo đuổi nhiều mục tiêu, làm
giảm hiệu quả tác động của chính sách này đối với nền kinh tế; tạo ra sự mâu thuẫn
không đáng có trong việc phát đi tín hiệu cho thị trường. Rõ ràng với xu thế hội
nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, việc hoàn thiện các
công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của
chính sách này, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng cao và bền vững là yêu cầu cấp bách
hiện nay.
Chúng ta có thể thấy rất rõ ở thời điểm cuối năm 2007 và đầu năm 2008, các
biện pháp kiềm chế lạm phát của chính phủ chỉ tập trung vào lĩnh vực tiền tệ. Và
dường như để thể hiện quyết tâm chống lạm phát đến cùng của mình, Ngân hàng
Nhà nước đã thực hiện hàng loạt giải pháp mạnh, trong đó việc phát hành tín phiếu
bắt buộc với tổng giá trị 20.300 tỷ đồng được xem là một biện pháp hành chính khá
mạnh. Kết quả, thị trường tiền tệ bị xáo trộn, các ngân hàng chạy đua lãi suất nhằm
thu hút tiền gửi đáp ứng nhu cầu thanh khoản, thị trường chứng khoán, bất động sản
sụt giảm,... Trong tình huống kiềm chế lạm phát, việc thực thi chính sách tiền tệ thắt
chặt là cần thiết, nhưng việc sử dụng liên tiếp nhiều biện pháp mạnh như thế trong
một khoảng thời gian chưa đủ để thị trường thích ứng, nên được xem xét cẩn trọng
hơn. Hơn nữa, lạm phát không chỉ do nguyên nhân từ tiền tệ, cho nên, muốn kiềm
chế thành công cơn tăng giá phải thực hiện nhiều gói giải pháp đồng bộ từ các lĩnh
vực khác ngoài lĩnh vực tiền tệ, tín dụng.
3.2.2.2 Kiểm soát việc thành lập ngân hàng thương mại:
Có ý kiến cho rằng, hiện nay có quá nhiều ngân hàng thương mại hơn mức
cần thiết tại Việt Nam [4]; do đó, để có được một hệ thống ngân hàng mạnh, nên
sáp nhập các ngân hàng nhỏ và có thể sáp nhập ba ngân hàng thương mại lớn: Ngân
hàng Ngoại thương, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thành
một ngân hàng tầm cỡ trong khu vực. Quan điểm của học viên, có nhiều hay không
nhiều số lượng ngân hàng thương mại không phải là yếu tố quyết định năng lực
cạnh tranh của các ngân hàng, mà vấn đề là cần kiểm soát chặt chẽ hơn và nâng dần
các tiêu chuẩn khi thành lập các ngân hàng mới. Làm sao cho các quy định, tiêu
- 62 -
chuẩn này là thử thách đầu tiên và là thước đo tương đối chính xác về năng lực của
các sáng lập viên của một ngân hàng thương mại mới. Việc quy định mức vốn pháp
định 1.000 tỷ đồng khi thành lập ngân hàng thương mại là phù hợp; tuy nhiên, trong
thời gian tới nên xem xét nâng dần mức vốn này, đồng thời, có thể ban hành các
quy định chặt chẽ hơn, chẳng hạn quy định về việc góp vốn thành lập ngân hàng của
các tập đoàn kinh tế lớn. Đây là sự việc mà báo chí trong nước thời gian qua đề cập
khá nhiều và được coi là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát và làm giảm
sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và của chính ngân hàng được thành lập.
Trong tiến trình xây dựng hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam thực sự
vững mạnh, cần đề ra quy chế, quy định đối với các ngân hàng không đáp được các
tiêu chuẩn chung; có thể tính đến việc sáp nhập, mua lại những ngân hàng này.
3.2.2.3 Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác giám sát từ xa hoạt
động của các ngân hàng thương mại:
Công tác giám sát từ xa hiện nay vẫn được chi nhánh Ngân hàng Nhà nước
tại các tỉnh, thành phố thực hiện. Nhưng tính xác thực của các báo cáo giám sát này
để phục vụ cho công tác quản lý vĩ mô chưa cao, chưa phản ánh trung thực tình
trạng hoạt động nói chung và tình trạng thanh khoản nói riêng của các ngân hàng.
Báo cáo của Ngân hàng phát triển Châu Á “Strengthening the banking supervision
and liquidity risk management system of the people’s bank of China” có đưa ra một
số gợi ý nhằm tăng cường hoạt động giám sát của ngân hàng trung ương như: phát
triển hệ thống cảnh báo sớm (early warning system), sử dụng dữ liệu hệ thống thanh
toán để phân tích thanh khoản, xây dựng hệ thống chỉ số thanh khoản,... Ngân hàng
Nhà nước có thể tham khảo khi dự thảo Luật giám sát hoạt động ngân hàng. Trước
mắt, cần rà soát Quyết định 477/2004/QĐ-NHNN ngày 28 tháng 4 năm 2004 của
Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành chế độ báo cáo thống kê áp dụng đối với các
đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước và các TCTD, sửa đổi những biểu mẫu chưa phù
hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các báo cáo này trong việc thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng và chức năng ngân hàng
trung ương của Ngân hàng Nhà nước.
- 63 -
3.2.3 Về phía các ngân hàng thương mại:
Qua phân tích ở Chương 2, dường như các ngân hàng thương mại Việt Nam
không chú trọng đến tính thanh khoản và quản trị thanh khoản. Điều này có nhiều
nguyên nhân, nhưng có lẽ việc theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Chính
phủ đã tạo ra những điều kiện và môi trường kinh doanh khá thuận lợi cho việc gia
tăng nhanh chóng các khoản tín dụng; ví dụ, chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế cho phép một mức cung tiền khá dồi dào. Trong bối cảnh
như vậy, các ngân hàng thương mại đã xao lãng hoạt động then chốt, quyết định đến
sự an toàn trong hoạt động ngân hàng: đó là quản trị thanh khoản. Một số gợi ý sau
có thể mang lại hiệu quả trong hoạt động quản trị thanh khoản của các ngân hàng
thương mại ở mức độ nào đó.
3.2.3.1 Đảm bảo vốn tự có ở mức cần thiết:
Rõ ràng khi thành lập, ngân hàng phải đảm bảo mức vốn điều lệ cao hơn
mức vốn pháp định. Ở đây, muốn đề cập đến vấn đề, ngân hàng nên duy trì mức
vốn tự có một cách hợp lý, cân đối so với quy mô và phạm vi hoạt động của ngân
hàng mình. Một chỉ số H1, H2 quá cao hay quá thấp đều không hiệu quả và an toàn
đối với ngân hàng. Tại thời điểm số liệu thu thập được, còn 3 ngân hàng chưa đảm
bảo mức vốn điều lệ lớn hơn mức vốn pháp định. Các ngân hàng này cần xây dựng
phương án tăng vốn để đạt được mức vốn cần thiết theo quy định. Tuy nhiên, không
phải tăng vốn bằng mọi giá. Các ngân hàng cũng nên nghĩ tới phương án sáp nhập
với nhau khi phương án tăng vốn là bất khả thi hoặc tốn nhiều chi phí.
Trong chỉ tiêu tiền tệ và hoạt động ngân hàng giai đoạn 2006 - 2010, Ngân
hàng Nhà nước có đặt ra chỉ tiêu về hệ số CAR không thấp hơn 8%. Tuy nhiên, theo
“Financial Management and Analysis of Projects” của ADB năm 2005, có kiến nghị
rằng: hệ số CAR ở mức 8% áp dụng với các nước OECD, còn đối với các nền kinh
tế mới nổi hệ số này nên là 12%. Do vậy, mặc dù Ngân hàng Nhà nước không yêu
cầu, nhưng các ngân hàng thương mại nên đặt ra mục tiêu hệ số CAR 12% để phấn
đấu. Điều đó theo ý kiến học viên là cần thiết trong điều kiện quy mô và tiềm lực tài
chính của các ngân hàng trong nước còn hạn chế. Tương tự hệ số H1, H2, hệ số CAR
- 64 -
cao quá hoặc thấp quá cần được phân tích, đánh giá đầy đủ nhằm đảm bảo một hệ
số CAR phù hợp với quy mô, đặc điểm và phạm vi hoạt động của từng ngân hàng.
3.2.3.2 Tăng cường công tác dự báo các điều kiện kinh tế vĩ mô:
Điều kiện kinh tế vĩ mô thay đổi sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng.
Khi Ngân hàng Nhà nước thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt bằng cách ban hành
liên tiếp hàng loạt các giải pháp mạnh, khả năng thanh khoản của các ngân hàng
thương mại Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn. Bởi trước đó, có thời điểm tình trạng
dư thừa vốn khả dụng đã xãy ra ở một số ngân hàng. Các ngân hàng này đã giảm lãi
suất huy động tiền gửi. Nhưng khi, điều kiện kinh tế vĩ mô thay đổi, các ngân hàng
trở nên lúng túng. Điều này chứng tỏ, việc tăng cường và nâng cao hiệu quả của
công tác dự báo kinh tế ở các ngân hàng là cần thiết. Nghiên cứu “Liquidity,
banking regulation and the macroeconomy” của Oriol Aspachs, Erlend Nier, Muriel
Tiesset về 57 ngân hàng nội địa Anh Quốc, giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2003,
cho thấy có sự tác động qua lại giữa các điều kiện kinh tế vĩ mô và khả năng thanh
khoản của ngân hàng. Khi nền kinh tế ở thời kỳ suy giảm, các ngân hàng có xu
hướng dự trữ nhiều tài sản thanh khoản; ngược lại, khi nền kinh tế tăng trưởng
mạnh, các tài sản dự trữ thanh khoản được giảm bớt đi.
3.2.3.3 Xây dựng cơ chế chuyển vốn nội bộ phù hợp:
Các ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian qua không ngừng mở
rộng mạng lưới hoạt động. Đây là một lợi thế rất đáng kể so với các ngân hàng nước
ngoài khi mở chi nhánh tại Việt Nam. Tuy nhiên, ngoài việc tính bài toán chi phí -
lợi nhuận mang lại khi mở các chi nhánh, phòng giao dịch, các ngân hàng phải tính
đến việc luân chuyển các dòng vốn giữa chi nhánh, phòng giao dịch với hội sở
chính như thế nào để đảm bảo tính thanh khoản của cả hệ thống với chi phí thấp
nhất. Muốn làm được điều này, cần có một nền tảng công nghệ (hệ thống ngân hàng
cốt lõi - core banking) hiện đại. Do vậy, không còn cách nào khác, các ngân hàng
cần phải đầu tư nhiều hơn vào công nghệ thông tin; tất nhiên, không dễ dàng gì để
thực hiện được trong khi quy mô vốn tự có của các ngân hàng thương mại còn nhỏ
như hiện nay. Tuy nhiên, trong mọi tình huống, việc luân chuyển vốn nội bộ phải
- 65 -
gắn với hiệu quả kinh doanh của từng chi nhánh, phòng giao dịch và vốn được tập
trung về hội sở chính; có như vậy mới dự báo, đo lường được nhu cầu thanh khoản
một cách chính xác và từ đó có chiến lược quản trị thanh khoản phù hợp. Trường
hợp BIDV, do hội sở chính không quy định cụ thể các giới hạn an toàn trong hoạt
động đối với các chi nhánh, nên có nhiều thời điểm lượng vốn trên tài khoản tiền
gửi của một số chi nhánh tại Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố ở mức
quá cao; trong khi nếu lượng vốn này được điều chuyển kịp thời về hội sở chính thì
khả năng thanh khoản của toàn hệ thống được tăng cường đáng kể.
Cơ chế chuyển vốn nội bộ còn phải tính đến sự khác biệt về điều kiện kinh tế
- xã hội ở địa bàn mà chi nhánh, phòng giao dịch hoạt động. Một chính sách giống
nhau đối với mọi điểm giao dịch có thể dẫn đến việc mất thị phần không đáng có;
chẳng hạn, lãi suất huy động tiền gửi ở các địa bàn đều giống nhau có thể làm giảm
lượng tiền gửi ở một số địa bàn có mức độ cạnh tranh cao hoặc có điều kiện kinh tế
- xã hội khó khăn. Một chính sách phân biệt hoá phù hợp sẽ góp phần nâng cao hiệu
quả kinh tế nhờ lợi thế quy mô.
3.2.3.4 Đảm bảo tỷ lệ cân đối giữa tài sản “Có” - tài sản “Nợ”:
Thực chất đây là việc áp dụng chiến lược cân đối giữa tài sản “Có” và tài sản
“Nợ” hay quản trị thanh khoản cân bằng. Bất kỳ một sự mất cân đối nào giữa nguồn
vốn huy động và sử dụng vốn đều có thể dẫn đến những rủi ro về thanh khoản.
Thực tế, các ngân hàng thương mại Việt Nam dường như dựa nhiều vào việc vay
mượn để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Trong thời gian qua, một số ngân hàng
thương mại cổ phần có tỷ lệ đi vay trên thị trường liên ngân hàng rất lớn, chiếm tới
50% hoặc cao hơn so với dư nợ cho vay. Do thị trường tiền tệ biến động phức tạp
bởi chịu ảnh hưởng của chính sách tiền tệ thắt chặt, nên các ngân hàng này có nhiều
thời điểm phải đi vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất trên 20%/năm, thậm
chí tới 30%/năm và cá biệt tới 40%/năm, nhưng lãi suất cho vay chỉ có tối đa là
21%/năm. Do vậy không những khả năng thanh khoản bị đe doạ mà còn ảnh hưởng
đến kết quả lợi nhuận. Ở thái cực khác, một số ngân hàng có nguồn vốn khả dụng
tương đối, nhất là các ngân hàng mới thành lập, số vốn góp của các cổ đông tạm
- 66 -
thời chưa sử dụng cho mục đích khác, thay vì cho khách hàng thông thường vay, đã
cho vay trên thị trường liên ngân hàng nhằm tìm kiếm chêch lệch lãi suất cao hơn.
Như vậy, việc vay mượn vốn lẫn nhau giữa các ngân hàng thời gian qua với tỷ lệ và
mức lãi suất cao như thế là không có lợi, gây mất an toàn cho cả hệ thống và chính
bản thân các ngân hàng. Với phân tích, đánh giá, so sánh nêu trên, một tỷ lệ dưới
50% tài sản “Có” sinh lời là các khoản tín dụng có lẽ hợp lý cho các ngân hàng
thương mại Việt Nam. Một vấn đề khác, các ngân hàng thương mại cũng cần quan
tâm đó là duy trì tỷ lệ sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn ở một
mức hợp lý.
3.2.3.5 Gắn rủi ro thanh khoản với rủi ro thị trường trong quản trị:
Trong hoạch định chiến lược cũng như quản trị, điều hành thanh khoản hàng
ngày cần gắn liền phân tích, đánh giá rủi ro thanh khoản với rủi ro thị trường. Có
như vậy, chiến lược quản trị đề ra mới có tính khả thi và hiệu quả cao.
Rủi ro thị trường là những thay đổi về giá trị thị trường của tài sản và các
khoản nợ, ảnh hưởng đến thu nhập và vốn của ngân hàng. Trên thực tế, dạng rủi ro
thị trường điển hình nhất đối với nhiều ngân hàng là rủi ro lãi suất. Một thay đổi đột
ngột về lãi suất có thể tác động đến hoạt động kinh doanh ngân hàng dưới nhiều
cách thức khác nhau:
Thứ nhất, tăng lãi suất đồng nghĩa với việc ngân hàng sẽ có phần thu
nhập tăng thêm từ tài sản “Có” sinh lời và phải trả thêm một phần chi phí
cho các khoản nợ. Tuy nhiên, chi phí cho các khoản nợ thường có xu
hướng tăng nhanh hơn phần thu nhập có được từ tài sản trong ngắn hạn;
do đó lợi nhuận có thể bị giảm.
Thứ hai, lãi suất thay đổi sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị thị trường của
tài sản và các khoản nợ nhạy cảm với lãi suất. Chẳng hạn, khi lãi suất
tăng, giá trị của cả tài sản và nợ đều giảm; nhưng thông thường, tác động
đến tài sản lớn hơn đối với nợ, dẫn đến sự giảm sút về giá trị ròng. Mặc
dù, những thay đổi này không tác động đến lợi nhuận, nhưng làm thay
đổi trạng thái vốn của ngân hàng.
- 67 -
Thứ ba, một loại rủi ro được xem là rủi ro cơ bản, đó là các mức lãi suất
không thay đổi như nhau. Tác động của thay đổi lãi suất đến vốn và thu
nhập của ngân hàng phụ thuộc vào loại tài sản và khoản nợ mà ngân hàng
nắm giữ và sự thay đổi lãi suất của loại tài sản và nợ này liên quan đến
loại tài sản và nợ khác ra sao.
Đánh giá và quản lý rủi ro thị trường là một công việc khó khăn, phức tạp.
Nhìn chung, cấu trúc lại bảng cân đối tài sản, sử dụng các công cụ phái sinh về lãi
suất là các ý tưởng nên được xem xét, để làm dịu bớt tác động của thay đổi lãi suất
không mong đợi theo cách chi phí và thu nhập phát sinh do thay đổi lãi suất sẽ cân
bằng với nhau và ảnh hưởng thấp nhất đến trạng thái vốn của ngân hàng.
Thanh khoản và rủi ro thị trường là hai khái niệm tách biệt nhau; nhưng
chúng có sự đan xen với nhau theo nhiều cách khác nhau. Thường thì, nỗ lực quản
lý rủi ro loại này sẽ giúp giảm nhẹ tổn thất do rủi ro loại kia gây ra; tất nhiên, đôi
khi các hoạt động quản lý này có mâu thuẫn với nhau. Hội đồng quản lý tài sản
“Nợ” - tài sản “Có” (ALCO) của ngân hàng có trách nhiệm giám sát đồng thời hai
loại rủi ro này. Quá trình giám sát nên là chuỗi ra các quyết định kịp thời, chính xác
làm cân bằng giữa nguồn vốn có thể khai thác tài trợ với nhu cầu thanh khoản; tài
sản nhạy cảm lãi suất với khoản nợ nhạy cảm lãi suất; và hai loại tài sản, nợ nêu
trên với mục tiêu lợi nhuận của ngân hàng.
3.2.3.6 Xây dựng và hoàn thiện hệ thống đánh giá nội bộ:
Hiện nay, phần lớn các ngân hàng thương mại thực hiện phân loại nợ, trích
dự phòng rủi ro theo Điều 6 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4
năm 2005 của Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và
sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức
tín dụng. Các nội dung của Quyết định trên nhìn chung đã tiếp cận được với cách
phân loại nợ và trích lập dự phòng của các ngân hàng trên thế giới. Việc thực hiện
Quyết định này đã giúp các ngân hàng thương mại đánh giá đúng, trung thực hơn
chất lượng các khoản tín dụng; từ đó, trích lập dự phòng hạn chế thấp nhất rủi ro có
thể xãy ra. Tuy nhiên, các quy định tại Điều 6 Quyết định nêu trên mang tính định
- 68 -
lượng, do vậy cũng có khiếm khuyết nhất định. Ví dụ, có những khoản nợ chưa phải
nợ quá hạn, nếu theo Điều 6 là nợ nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn); nhưng có nhiều
thông tin không tốt về doanh nghiệp mà ngân hàng thu thập được, trong trường hợp
này ngân hàng có thể chuyển khoản nợ trên sang nhóm nợ có mức độ rủi ro cao
hơn. Như vậy, các ngân hàng Việt Nam nên tự xây dựng cho ngân hàng mình hệ
thống đánh giá nội bộ riêng theo Điều 7 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, trong đó
có các chỉ tiêu định tính, nhằm phòng ngừa, hạn chế tốt nhất rủi ro có thể xãy ra đối
với các khoản cho vay. Kết quả của việc này là, ngân hàng có quỹ dự trữ cần thiết,
tương ứng với mức độ rủi ro của từng khoản cho vay; đây cũng là nguồn tài trợ cho
thanh khoản khi khoản vay gặp rủi ro.
3.2.3.7 Thiết lập mô hình tổ chức phù hợp:
Nhìn chung, các ngân hàng thương mại hiện nay đều có mô hình bộ máy tổ
chức tương tự nhau: Hội sở chính và các chi nhánh ở tỉnh, thành phố. Lợi thế dễ
thấy nhất của một mạng lưới rộng khắp như Agribank, là thuận lợi trong thu hút tiền
gửi và tăng trưởng tín dụng cùng dịch vụ. Tuy nhiên, các chi nhánh thực sự là
những ngân hàng nhỏ trong ngân hàng, cũng có chức năng của một ngân hàng
thương mại độc lập: cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn, đảm bảo khả năng thanh
toán, quản lý rủi ro,... Với mô hình đó, khi có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi, chi
nhánh gửi hội sở chính; ngược lại, khi có thiếu hụt, chi nhánh vay hội sở chính.
Thực tế, chức năng này thường giao cho phòng kế hoạch thực hiện; cho nên, có lúc
việc tính toán chưa kịp thời, chính xác gây ra tình trạng dư thừa hoặc thiếu hụt
nguồn vốn không đáng có. Bên cạnh đó, qua khảo sát chi nhánh của các ngân hàng,
chức năng quản lý rủi ro bị phân tán: mỗi phòng thực hiện quản lý rủi ro thuộc
nghiệp vụ của phòng mình, ví dụ phòng dịch vụ khách hàng quản lý các loại rủi ro
thanh toán, phòng tín dụng quản lý rủi ro từ phía khách hàng không trả được nợ,
phòng kế hoạch nguồn vốn quản lý rủi ro thanh khoản, rủi ro kỳ hạn, rủi ro lãi
suất,… Do vậy, cần tập trung chức năng quản lý rủi ro về hội sở chính; các chi
nhánh chỉ nên thực hiện hai chức năng cơ bản là marketing và tác nghiệp. Muốn
- 69 -
thực hiện điều này, đòi hỏi các ngân hàng thiết lập được mô hình tổ chức phù hợp
với đặc điểm, phạm vi, quy mô hoạt động của ngân hàng mình.
3.2.3.8 Xây dựng đội ngũ nhân viên có trình độ, năng lực và đạo đức
nghề nghiệp:
Phát triển nguồn nhân lực bao giờ cũng là mục tiêu hàng đầu của mọi tổ
chức, doanh nghiệp. Việc phát triển đội ngũ nhân viên quản lý nói chung và quản lý
thanh khoản nói riêng là cần thiết đối với bất kỳ ngân hàng thương mại nào. Chính
bộ phận này sẽ tham mưu đắc lực cho cấp lãnh đạo ngân hàng trong việc đưa ra các
quyết định đúng đắn, kịp thời nhằm ngăn chặn, khắc phục những rủi ro phát sinh và
hướng hoạt động kinh doanh đến những thành công mới. Do vậy, ngân hàng cần có
kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, sử dụng nhân viên một cách khoa học, minh bạch và
bình đẳng. Đặt nhân viên vào những vị trí thích hợp với khả năng của họ là một
khâu quan trọng trong công tác cán bộ, nhằm đảm bảo rằng chính đội ngũ nhân viên
này sẽ là những người góp phần vào thành công chung của ngân hàng. Một nhà lãnh
đạo có kinh nghiệm luôn hiểu rằng, biết rõ về sự phù hợp của mỗi cá nhân cho từng
vị trí công tác là cơ sở của tất cả những nỗ lực trong hiện tại và tương lai. Sự thiếu
quan tâm hay thiếu hiểu biết về việc này có thể khiến ngân hàng tốn kém cả về thời
gian và tiền bạc trong suốt quá trình hoạt động.
Các ngân hàng cũng nên xây dựng văn hoá doanh nghiệp cho ngân hàng
mình. Một môi trường làm việc cởi mở, thân thiện và có bản sắc văn hoá riêng của
ngân hàng sẽ là động lực thúc đẩy đội ngũ nhân viên nhiệt tình cống hiến, sáng tạo
và luôn trung thành với ngôi nhà thứ hai của mình.
- 70 -
KẾT LUẬN
Trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, những lý thuyết
được học trong chương trình đào tạo bậc cao học - Trường đại học Kinh tế Thành
phố Hồ Chí Minh vào điều kiện thực tế ở Việt Nam, Luận văn đã thực hiện được
các nội dung sau đây:
Thứ nhất, phân tích nội dung cơ bản về quản trị rủi ro trong kinh doanh
ngân hàng và quản trị rủi ro thanh khoản.
Thứ hai, đánh giá tính thanh khoản và quản trị thanh khoản, tìm ra những
hạn chế, tồn tại và một số gợi ý nhằm hoàn thiện hoạt động này trong thời gian đến
ở các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Lịch sử ngành ngân hàng trên thế giới đã trải qua hàng mấy trăm năm. Trong
quãng thời gian ấy, loài người đã chứng kiến sự phát triển nhanh chóng của ngành
ngân hàng nhưng cũng không ít những lần thất bại. Ngân hàng thương mại là một
định chế tài chính trung gian, luôn kinh doanh bằng tiền của người khác: vay của
công chúng, các TCTD, ngân hàng trung ương trong và ngoài nước. Do vậy, sự sụp
đổ của bất kỳ ngân hàng nào, nếu không được xử lý thông minh và khéo léo đều có
thể lan nhanh và kéo theo sự sụp đổ của hàng loạt các ngân hàng thương mại khác.
Cùng với bước thăng trầm trong hệ thống ngân hàng, lý thuyết về quản trị thanh
khoản đã phát triển không ngừng và bổ sung cho phù hợp với thực tiễn biến động.
Vấn đề ở chỗ không phải sự thành công được mang lại từ việc thực thi chiến lược
quản trị thanh khoản này ở một ngân hàng này cũng đem lại sự thành công tương tự
cho một ngân hàng khác. Đó là điều mà những nhà hoạch định chiến lược quản trị
nói chung và quản trị thanh khoản nói riêng của các ngân hàng cần phải quan tâm.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”. Để phát triển hiệu quả nền kinh tế, phải phát triển vững chắc thị trường
tài chính ngân hàng đáp ứng đủ vốn cho yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Trong thời gian qua, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã
góp phần không nhỏ vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, để phát
- 71 -
triển bền vững và tiếp tục cung ứng vốn đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế trong
bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới, vấn
đề thanh khoản và quản trị thanh khoản của các ngân hàng cần được coi trọng hơn.
Luận văn chỉ mong góp phần nhỏ bé vào vấn đề cấp bách nêu trên. Luận văn
này được hoàn thành với sự giảng dạy tận tình của tập thể giảng viên Trường Đại
học Kinh tế TP Hồ Chí Minh, sự hướng dẫn đầy tâm huyết của PGS.TS. Nguyễn
Đăng Dờn. Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu tài liệu và vận dụng lý thuyết vào tình
huống cụ thể, nhưng do trình độ và thời gian có hạn nên không tránh khỏi những sai
sót. Rất mong các quý thầy cô trong Hội đồng và PGS.TS Nguyễn Đăng Dờn cảm
thông và cho ý kiến để bản thân nâng cao được kỹ năng nghiên cứu trong thời gian
đến. Xin chân thành cám ơn!
*******
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tiếng Việt
1. Nguyễn Hải Bình (2008), “Niêm yết trên thị trường quốc tế - Cơ hội và
thách thức đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí ngân
hàng (13), tr 28-33.
2. Hồ Diệu (2002), Quản trị ngân hàng, Nxb thống kê, TP Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Đăng Dờn (2005), Tiền tệ ngân hàng, Nxb thống kê, TP Hồ Chí
Minh.
4. Huỳnh Thế Du (2008), “Cơ cấu lại các ngân hàng thương mại: Việc cần
làm ngay”, Tạp chí công nghệ ngân hàng (27), tr 10-14.
5. Frederic S.Mishkin (1995), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Nxb
khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
6. Nguyễn Thị Mùi (2008), Quản trị ngân hàng thương mại, Nxb tài chính,
Hà Nội.
7. Trần Huy Hoàng (2007), Quản trị ngân hàng thương mại, Nxb lao động xã
hội, Hà Nội.
8. Ngân hàng Nhà nước (2005, 2006, 2007), Báo cáo thường niên.
9. Ngân hàng thương mại (2006, 2007, 2008), Báo cáo thường niên.
10. Nguyễn Văn Tiến (2005), Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng,
Nxb thống kê, Hà Nội.
11. Nguyễn Thị Ngọc Trang (2007), Quản trị rủi ro tài chính, Nxb thống kê,
TP Hồ Chí Minh.
12. Peter S.Rose (2001), Quản trị ngân hàng hàng thương mại, Nxb tài chính,
Hà Nội.
II. Tiếng Anh
13. ADB (2005), Financial Management and Analysis of Projects, Manila,
Philippines.
14. Oriol Aspachs, Erlend Nier, Muriel Tiesset, Liquidity, banking regulation
and the macroeconomy, Bis.
15. Eddie Cade (1999), Banking risk - Reducing uncertainty to improve bank
performance, Glenlake publishing company ltd.
16. Evan Gatev, Til Schuermann, Philip E. Strahan (2006), Managing bank
liquidity risk: How deposit-loan synergies vary with market conditions,
Financial institutions center.
17. Benton E. Gup, James W. Kolari (2005), Commercial banking - The
management of risk, John Wiley & Son, Inc.
18. Joseph F. Sinkey (1998), Commercial bank financial managemnet, Prentice
Hall.
19. Denis G. Uyemura, Donald R. Van Deventer (1993), Financial risk
management in banking, A bank line publication.
III Website
20.
21.
22.
23.
24.
25. Website các ngân hàng thương mại Việt Nam.
DANH MỤC PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bảng tính Hệ số H1 và H2
Phụ lục 2: Bảng tính chỉ số H3
Phụ lục 3: Bảng tính chỉ số H4
Phụ lục 4: Bảng tính chỉ số H5
Phụ lục 5: Bảng tính chỉ số H6
Phụ lục 6: Bảng tính chỉ số H7
Phụ lục 7: Bảng tính chỉ số H8
Phụ lục 8: Bảng tính hệ số, chỉ số thanh khoản trung bình 3 năm (2006-2008)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quan tri rui ro thanh khoan NHTM.pdf