Luận văn Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Việt Nam là quốc gia có điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ngành công nghiệp đóng tàu. Trong thời gian vừa qua, ngành đã có những sự phát triển vượt bậc, những con tàu có trọng tải lớn đã ra đời, góp phần khẳng định thương hiệu tàu Việt Nam trên thị trường thế giới. Mặc dù đã có nhiều thắng lợi, nhưng ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Do đó, ngành phải tìm ra những hạn chế đó để tìm cách khắc phục, nâng hiệu quả hoạt động của ngành.

doc106 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1654 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vậy, đầu tư cho ngành công nghiệp phụ trợ là điều quan trọng cho sự phát triển của ngành. Ở nhiều nước có ngành công nghiệp đóng tàu phát triển trên thế giới như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Anh... đều có ngành công nghiệp phụ trợ phát triển, các nhà máy chế tạo các sản phẩm lắp ráp được xây dựng để phục vụ cho sự phát triển của ngành như Trung Quốc có 72 cơ sở sản xuất thiết bị đóng tàu, các tấm thép phục vụ cho đóng tàu đều được sản xuất tại Trung Quốc, điều này sẽ làm giảm giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh về giá cả. Nguồn: www.moi.gov.vn 2.3 Nguyên nhân thành công và những hạn chế trong cạnh tranh của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam Trải qua quá trình hình thành và phát triển, ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam đã có những bước phát triển cao. Trong quá trình hình thành và phát triển ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam đã có nhiều thuận lợi song cũng gặp phải không ít khó khăn. 2.3.1 Nguyên nhân của sự thành công trong cạnh tranh của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam Về điều kiện tự nhiên: Nước ta là một nước có khoảng 3.200 km bờ biển thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở hệ thống hạ tầng cho các hoạt động đóng mới và sửa chữa của ngành. Chúng ta có một mạng lưới các nhà máy, xí nghiệp trải dọc bờ biển Việt Nam và ở hầu hết các tỉnh có lợi thế về đường thuỷ, điều này giúp dễ dàng có thể điều phối được sản xuất, xâm nhập thị trường, đáp ứng các nhu cầu về tàu thuỷ trong nước, ngoài ra còn tận dụng lợi thế của minh đóng mới các loại tàu dễ dàng hơn và giá thành hạ hơn. Với bờ biển dài, hoạt động giao thông đường thuỷ Việt Nam sẽ ngày càng phát triển do đó nhu cầu về phương tiện đường thuỷ ngày càng gia tăng tạo động lực thúc đẩy ngành phát triển. Nước ta có lịch sử đóng tàu từ lâu đời, những kinh nghiệm dân gian kết hợp với khoa học tiên tiến sẽ cho ngành một hiệu quả cao. Các tổ chức đóng tàu trong ngành là những tổ chức có kinh nghiệm lâu năm, tất cả đều nhằm mục đích chung xây dựng ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam thành một ngành công nghiệp chủ đạo của nền kinh tế nước nhà. Hiện nay, ngành đã có một hệ thống doanh nghiệp, nhà máy đảm phần được các việc liên quan đến đóng mới con tàu, từ thiết kế đến thi công đảm bảo cho ngành hoạt động có hiệu quả. Một trong những lợi thế quan trọng nhất của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam là sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Chính phủ luôn quan tâm theo dõi từng bước đi của ngành thể hiện ở các chính sách ưu đãi đối với các dự án của ngành, cho phép Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam thành lập Tập đoàn kinh tế công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam tạo điều kiện cho ngành có thể phát huy hết khả năng của mình. Bên cạnh đó ngành còn được sự quan tâm của các Bộ, các ngành có liên quan đặc biệt là sự quan tâm của Chính quyền địa phương nới có nhà máy đóng và sửa chữa tàu của ngành. Trong thời gian vừa qua, các ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ cho ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam ngày càng được chú trọng phát triển, Chính phủ đã có những chính sách ưu đãi đối với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh này. Nhận ra nhu cầu của ngành nên nhiều doanh nghiệp cũng đã bước đầu đầu tư xây dựng các ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ cho ngành ngày càng phát triển hiệu quả hơn. Và trong tương lai ngành công nghiệp phụ trợ sẽ được quan tâm nhiều hơn, hoạt động có hiệu quả hơn là động lực quan trọng cho sự phát triển hiệu quả của ngành công nghịêp đóng tàu Việt Nam. Về nguồn nhân lực, Việt Nam có dân số đông là nguồn nhân lực dồi dào cho sự phát triển của ngành. Lao động của Việt Nam ngày càng được nâng cao về trình độ và kinh nghiệm, các lớp đào tạo lao động cho ngành ngày càng được mở rộng và đạt hiệu quả cao hơn. Đặc biệt ở những địa phương có nhà máy đóng và sửa chữa tàu được chú trọng đào tạo để trở thành những công nhân giỏi phục vụ cho nhu cầu về lao động có tay nghề của ngành. Về khoa học công nghệ đóng tàu của các nhà máy thuộc tàu đã tăng lên rất nhiều, các máy móc thiết bị hiện đại chưa từng có trước đây đã tăng thêm năng lực cho toàn ngành như máy hàn tự động, bán tự động, máy cắt CNC...Bên cạnh đó, cở sở hạ tầng ngày càng được nâng cao đảm bảo điều kiện làm việc tốt cho các nhà máy của ngành. Và trong tương lai khoa học công nghệ và cơ sở hạ tầng sẽ được ngành quan tâm hơn nữa. Ngoài ra, trong thời gian vừa qua thương hiệu của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam đã được nhiều bạn bè quốc tế biết đến đó là thương hiệu VINASHIN của Tập đoàn kinh tế công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam, các doanh nghiệp ở các nước có ngành công nghiệp đóng tàu phát triển trên thế giới như Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc... đã có những liên doanh, những hợp đồng thuê đóng tàu tại Việt Nam với những giá trị rất lớn do Tập đoàn kinh tế Vinashin thực hiện. Đây sẽ là cơ hội lớn cho ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam phát triển trong tương lai. Hiện nay, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO, chúng ta sẽ có cơ hội giao lưu với thế giới nhiều hơn, học hỏi những kinh nghiệm từ những nước có ngành đóng tàu phát triển, được sử dụng những sản phẩm phục vụ cho sản xuất của ngành với giá rẻ hơn làm giá thành sản phẩm giảm sẽ tạo điều kiện cho việc tiêu thụ các sản phẩm của ngành. Tuy nhiên trong bước đầu hội nhập, bên cạnh những thành công thì ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam gặp không ít khó khăn. 2.3.2 Những hạn chế trong cạnh tranh của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam Khó khăn lớn nhất của ngành là khó khăn về vốn. Ngành công nghiệp đóng tàu là một ngành đòi hỏi nhu cầu về vốn và công nghệ rất cao, với nhu cầu vốn hàng trăm nghìn tỷ đồng để đầu tư vào các cơ sở đóng tàu, các cơ sở công nghiệp phụ trợ... đang là một thách thức cho ngành. Trong chiến lược phát triển đến năm 2020, ngành đóng tàu Việt Nam cần ít nhất 1,5 tỷ USD để hiện đại hoá hoạt động và nhập khẩu công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên khâu huy động vốn cho ngành đóng tàu hiện rất khó khăn, phần lớn phải tìm nguồn vay từ nước ngoài nhưng cũng không dễ dàng. Vốn thiếu sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động sản xuất của ngành và sẽ kìm hãm sự phát triển của ngành. Sự phát triển của ngành chưa đồng bộ, một số khâu như khâu tư vấn thiết kế, nghiên cứu ứng mới vẫn chưa phát huy hiệu quả do năng lực của cán bộ ở bộ phận này không đủ khả năng để thực hiện, các hoạt động đòi hỏi trình độ chuyên môn cao thì ngành chưa có khả năng đáp ứng một cách có hiệu quả, điều này đã kìm hãm quá trình sản xuất của ngành. Nguồn nhân lực của ngành chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của ngành. Đây là một ngành đòi hỏi trình độ cao, tuy nhiên chúng ta lại chưa có được đội ngũ chuyên gia trình độ cao để đáp ứng những yêu cầu của ngành, do đó chất lượng của dự án chưa đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó, do nhu cầu phát triển của ngành ngày càng tăng nên dẫn đến sự thiếu hụt các cán bộ, công nhân viên đúng chuyên ngành gây mất cân bằng cho sự phát triển. Đội ngũ cán bộ công nhân viên đặc biệt là cán bộ kỹ thuật, công nhân kỹ thuật của ngành chưa đủ đáp ứng khối lượng công việc, không theo kịp sự phát triển của ngành công nghiệp tàu thuỷ hiện nay. Công tác tìm kiếm và mở rộng thị trường chưa đạt hiệu quả cao. Hiện nay chúng ta vẫn làm công tác tiếp thị một cách thụ động, chưa chủ động trong tiếp thị quảng bá sản phẩm do đó khả năng thâm nhập ra thị trường thế giới của sản phẩm công nghiệp đóng tàu Việt Nam còn hạn chế, nó góp phần hạn chế sự phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam Từ những thành công mà ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam mang lại đã chứng tỏ năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đóng tàu nước đã được nâng cao hơn so với trước, và đã trở thành một nước có ngành công nghiệp đóng tàu được nhiều bạn bè quốc tế biết đến, thể hiện: Về sản phẩm: Trong thời gian đầu của quá trình xây dựng và phát triển, các sản phẩm chủ yếu của ngành là những tàu có trọng tải nhỏ như 5000 DWT, 11.500 DWT rồi dần tiến tới các tàu có trọng tải vừa như tàu 20.000 DW và hiện nay ngành đóng tàu Việt Nam đã đóng được những tàu có trọng tải lớn đạt tiêu chuẩn quốc tế: tàu 53.000 DWT. Trong tương lai không xa sẽ những con tàu có trọng tải lớn 100.000 DWT. Mặc dù, ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam đã có những bước tiến lớn trong công tác nâng cao việc đóng các tàu có trọng tải lớn. Tuy nhiên, so với những nước có ngành công nghiệp đóng tàu phát triển thì trọng tải tàu Việt Nam đóng vẫn còn ở mức thấp mới chỉ đạt mức 53.000 DWT trong khi đó ở Nhật Bản, Hàn Quốc đã đóng tàu trọng tải 100.000 DWT. Điều này chứng tỏ Việt Nam chưa có khả năng cạnh tranh được với các nước về việc đóng các tàu có trọng tải lớn mà chúng ta chỉ có khả năng cạnh tranh dựa trên những sản phẩm vừa và nhỏ. Nguồn: Tạp chí Hàng hải Việt Nam - Tin từ www. G oogle.com.vn Đối với Khoa học và công nghệ: Những đầu tư mạnh mẽ cho phát triển của ngành, đặc biệt là KH&CN, cùng với một loạt đầu tư đổi mới công nghệ trong nghiên cứu (xây dựng và hoàn thiện Bể thử mô hình hiện đại, đầu tư máy móc, thiết bị nghiên cứu), thiết kế (đầu tư các phần mềm thiết kế, tính toán thích hợp), gia công, chế tạo (đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại), nội địa hoá (sản xuất thép tấm, chế tạo, lắp ráp động cơ diesel dùng cho tàu thủy, sản xuất container, sản xuất cáp điện, chế tạo các trang thiết bị trên boong, thiết bị điện, cơ khí, thủy lực, chế tạo cần cẩu sức nâng lớn,...), đào tạo, hợp tác quốc tế... đã tạo ra bước phát triển nhanh chóng, giúp ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam đạt được những kết quả rất đáng khích lệ. Ngành đã chế tạo thành công một loạt sản phẩm chủ lực được đánh giá cao trên trường quốc tế như: Series tàu hàng 6.500 DWT, tàu hàng 12.500 DWT, tàu dầu 13.500 DWT, tàu hút xén thổi 1.500 m3/h, ụ nổi 8.500 T, tàu container 1.016 TEU, tàu chở khách cao tốc, tàu tìm kiếm, cứu nạn, tàu nghiên cứu biển,... Hiện nay, ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam đang tiến hành đóng mới tàu LASH 20.000 DWT, tàu chở hàng rời 53.000 DWT, tàu chở dầu thô 100.000 DWT và sẽ đóng nhiều tàu có trọng tải lớn hơn, tính năng phức tạp hơn. Điều này khẳng định năng lực đóng tàu của Việt Nam ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, hiện nay KH & CN ngành đóng tàu Vịêt Nam vẫn chưa bắt kịp các nước tiên tiến trên thế giới, các công nghệ nguồn tập trung ở các nước có ngành công nghiệp đóng tàu phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc...Phần lớn các công nghệ của chúng ta là do liên doanh, hợp tác và chuyển giao công nghệ từ nước ngoài. Do đó, năng lực cạnh tranh về khoa học công nghệ của Vịêt Nam kém hơn các nước phát triển trên thế giới. Điều này làm hạn chế khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam trên thị trường quốc tế. Khẳng định thương hiệu tàu Việt Nam trên thị trường thế giới:. Hiện nay chúng ta đã có đơn hàng đóng hàng trăm tàu cho nước ngoài (series 22 tàu chở hàng rời 53.000 DWT và 9 tàu 34.000 DWT cho Vương quốc Anh, 5 tàu 56.200 DWT cho Nhật Bản,...), với tổng giá trị hàng tỷ USD. Điều này có thể khẳng định uy tín tàu Việt Nam trên thị trường thế giới đã được nâng cao; bên cạnh đó là hàng loạt tàu phục vụ nhu cầu nội địa, trong đó điển hình là các series tàu hàng 22.000 DWT, tàu chở dầu thô 100.000 DWT, 150.000 DWT, tàu chở khách cao tốc trên biển... Vinashin đang phấn đấu từ năm 2010 mỗi năm xuất khẩu tàu đóng mới đạt giá trị 1 tỷ USD, với tỷ lệ nội địa hoá 60%. Với sự hỗ trợ của KH&CN, điều đó là hoàn toàn khả thi và ngành CNĐT Việt Nam chắc chắn sẽ trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà. Nguồn: www.toquoc.gov.vn Quan hệ hợp tác quốc tế hợp tác quốc tế: VN đang cố gắng để gia nhập nhóm các nước đóng tàu hàng đầu thế giới và đã ký các thoả thuận với các công ty nước ngoài để phát triển và hỗ trợ sản xuất động cơ thủy lực Man B&W và sản xuất động cơ diezen công suất lớn. Việt Nam cũng đã liên doanh với Hàn Quốc xây dựng xưởng sửa chữa tàu lớn nhất Đông Nam Á hiện nay, có thể sửa chữa tàu 100 nghìn DWT. Xưởng sửa chữa tàu lớn nhất Đông Nam Á hiện nay là Hyundai-Vinashin, liên doanh đóng tàu Việt Nam -Hàn Quốc, có thể sửa chữa tàu có sức chở 100.000 DWT. Các công ty đóng tàu của Việt Nam cũng đã thành công trong việc cạnh tranh giành các hợp đồng đóng tàu của các nước châu Á, như Nhật Bản. Các công ty đóng tàu của Việt Nam đã thâm nhập vào thị trường châu Âu với các đơn đặt hàng từ Anh, Đức. Tuy năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam đã được nâng cao so với trước đây, song so với nhiều nước trên thế giới ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam vẫn còn nhỏ bé, thị phần đóng tàu trên thế giới tập trung chủ yếu ở các nước như: Nhật Bản 40% - 43%, Hàn Quốc 27% - 28%....( Nguồn: Tạp chí Hàng hải Việt Nam - Tin từ www. G oogle.com.vn ) Nhìn chung, trong một thời gian dài, ngành công nghiệp đóng tàu của các nước được các Chính phủ coi là ngành mũi nhọn mang tính chiến lược, nhạy cảm nên bị đóng cửa đối với bên nước ngoài. Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa đã thay đổi ngành này và ngày càng xuất hiện nhiều các tập đoàn xuyên quốc gia, không loại trừ cả các hợp đồng hợp tác kỹ thuật, công nghệ giữa các nhà sản xuất. Các hợp tác này bao gồm đủ các lĩnh vực: từ công nghệ vỏ, động cơ, phương tiện liên lạc đến việc trang bị sinh hoạt thiết yếu cho thủy thủ đoàn. Cao hơn nữa là mua bán giấy phép sản xuất, chuyển giao công nghệ đóng tàu hoàn chỉnh. Đây là xu thế tất yếu để giảm chi phí đóng tàu, tăng lợi nhuận tối đa. Tuy nhiên, công nghệ động cơ và các nghi khí hàng hải tinh xảo, độ ồn và tiêu phí năng lượng thấp, đặc biệt để dùng cho tàu chuyên dụng vẫn mãi là độc quyền của các nhà sản xuất, các cường quốc sản xuất tàu thủy trước đây. Do đó, để trở thành một cường quốc đóng tàu trên thế giới chúng ta nên chủ động hơn trong công tác đóng mới và sửa chữa tàu. Chương 3 Định hướng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam trong thời gian tới 3.1 Định hướng và mục tiêu phát triển ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam 3.1.1 Định hướng phát triển ngành Công nghiếp đóng tàu của Chính Phủ Với điều kiện tự nhiên, vai trò và khả năng phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam, Chính phủ đã đưa ra các định hướng phát triển nhằm khẳng định vị trí của ngành trong nền kinh tế quốc gia cũng như đối với thế giới. Thứ nhất, Xây dựng và phát triển ngành công nghiệp đóng tàu thành một ngành mũi nhọn, góp phần thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thứ hai, Phát triển sản xuất của ngành đi đôi với việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, các cán bộ chuyên môn phục vụ ngành. Thứ ba, Để phát huy tối đa các lợi thế của ngành, đưa ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam vào thị trường thế giới phải định hướng và chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho công nghiệp đóng tàu. Thứ tư, về sản xuất cần chú ý tới các vấn đề sau: Trong khâu đóng mới không đặt trọng tâm vào các tàu cỡ lớn vì để thực hiện điều này phải tốn nhiều kinh phí đầu tư nên để các nhà liên doanh với nước ngoài đảm nhận. Ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam nên chú trọng tới các tàu cỡ vừa và nhỏ để có thể tận dụng hiệu quả cơ sở vật chất hiện có kết hợp với đầu tư công nghệ chiều sâu, hoàn thiện chất lượng công nghệ. Hết sức coi trọng việc sửa chữa các loại tàu thuyền, mở rộng việc sửa chữa tàu cho nước ngoài. Để làm tốt việc này ngành phải tăng cường đầu tư cơ sở sản xuất, mở rộng quy mô, nâng cao trình độ công nghệ phục vụ cho công tác sửa chữa. Thứ năm, định hướng sắp xếp lại tổ chức trên quy mô toàn quốc: Tiếp tục tổ chức sắp xếp, củng cố, kiện toàn đổi mới phương thức quản lý hoạt động để phát triển ngành, nhằm tạo nên ngành kinh tế mũi nhọn, có cơ hội tích tụ và tập trung các nguồn lực như con người, vốn, công nghệ...với mục tiêu sản xuất, kinh doanh hiệu quả, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới, nâng cao vị thế của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. 3.1.2 Dự báo nhu cầu thị trường của ngành Công nghiệp đóng tàu Trong xu thế phát triển hiện nay, giao thông đường thuỷ ngày càng phát triển, chính vì vậy nhu cầu các phương tiện phục vụ cho sự phát triển của ngành càng cao. Để đáp ứng tốt nhu cầu đó ngành công nghiệp đóng tàu cần phân tích để dự báo nhu cầu đối các sản phẩm của ngành để có chiến lược phát triển phù hợp nhất. Nhu cầu thị trường trong nước Việt Nam có điều kiện tự nhiên (về biển) khá thuận lợi cho việc phát triển công nghiệp đóng và sửa chữa tầu. Đồng thời, Việt Nam sẽ có nhu cầu đóng mới và sửa chữa tầu hàng năm khá lớn với tốc độ gia tăng tỷ lệ với nhu cầu vận chuyển hàng hoá, hành khách, thi công công trình biển, phục vụ khai thác dầu khí, du lịch, tuần tra, ... Theo dự báo, đến năm 2010, nhu cầu vận chuyển đường biển và đường sông là 240 triệu tấn hàng, 210 triệu hành khách; nhu cầu nạo vét, hút bùn, thi công công trình biển là 60 triệu m3; phục vụ khai thác dầu khí trên 40 triệu tấn; đánh bắt thuỷ hải sản 1,2-1,3 triệu tấn; vận chuyển khách du lịch bằng đường thuỷ với tổng tải trọng 60.000 tấn; nhu cầu sửa chữa tầu là 3,5 tỷ USD... Nguồn: Vụ Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Để đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành vận tải này ngành công nghiệp đóng tàu đã dự đoán nhu cầu thị trường trong nước của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. Bảng 3.1: Dự báo nhu cầu vận chuyển năm 2010 Đơn vị tính: 1.000 T Chỉ tiêu Dự báo nhu cầu - Ngành dầu khí - Ngành than Việt Nam - Ngành xi măng Việt Nam - Ngành xăng dầu - Ngành lương thực - Ngành hàng hải - Ngành vận tải đưòng sông: Khối lượng vận chuyển hàng hoá ( triệu tấn) Khối lượng vận chuyển hành khách (triệu hành khách) 30.000 21.000 15.000 18.000 37.000 23.350 62- 80 280 Nguồn: Quy hoạch phát triển GTVT đến năm 2020 Để khẳng định vai trò quan trọng trong sự phát triển của ngành giao thông đường thuỷ, ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam cần chú trọng tới sự phát triển của ngành để cung cấp đội tàu có chất lượng phục vụ cho sự phát triển của ngành giao thông và đây cũng là cơ hội lớn để ngành công nghiệp đóng tàu khẳng định năng lực của mình trong nền kinh tế Việt Nam. Với nhu cầu vận chuyển trên, ngành công nghiệp đóng tàu dự đoán nhu cầu các phương tiện vận chuyển đường thuỷ như sau: Bảng 3.2: Nhu cầu trọng tải các loại tàu vận tải biển năm 2010 Đơn vị tính: 1.000T STT Loại tàu Năm 2010 1 Tàu dầu 624 2 Tàu container 1.150 3 Tàu hàng rời 1.200 4 Tàu hàng bao 576 5 Tàu ven biển, pha sông biển 847 Nguồn: Vinashin Cùng với sự phát triển giao thông đường biển, giao thông đường sông đã có từ rất sớm để phục vụ cho cuộc sống của những dân cư vùng sông nước. Ngày nay, giao thông đường sông vẫn trong xu hướng phát triển chung của giao thông đường thuỷ Việt Nam với nhu cầu ngày càng gia tăng. Do đó, nhu cầu các phương tiện vận tải đường sông nước trong tương lai là rất lớn. Bảng 3.3: Nhu cầu phương tiện vận tải đường sông đến năm 2010 STT Loại tàu Đơn vị Dự báo 1 Tàu kéo đẩy CV 181.520 2 Sà lan Tấn 726.087 3 Tàu khách Ghế 320.000 4 Tàu thuyền nhỏ Tấn 538.000 5 Tàu chở dầu Tấn 15.000 Nguồn: Quy hoạch phát triển đường sông Bộ GTVT Bên cạnh các loại tàu trên ngành đóng tàu còn dự kiến nhu cầu sửa chữa các loại tàu đánh bắt thuỷ sản xa bờ, đội tàu du lịch ven biển, sông, hồ để phục vụ cho sự phát triển của nhu cầu thị trường. Như vậy, đến năm 2010, thị trường trong nước cho ngành đóng và sửa chữa tàu rất lớn, đủ để phát triển ngành với quy mô lớn và có thể tính tới việc xuất khẩu tầu đóng mới và xuất khâủ dịch vụ sửa chữa tầu. Vấn đề đối với ngành công nghiệp đóng và sữa chữa tầu là năng lực cơ khí (đóng mới và sửa chữa) có thể đáp ứng được đến đâu, điều này phụ thuộc vào quy mô đầu tư, quyết tâm của Chính phủ và các cơ chế chính sách hỗ trợ đồng bộ đi kèm. 3.1.2.2 Dự báo nhu cầu quốc tế Theo số liệu thống kê, hàng năm thế giới cần đóng mới khoảng 20 triệu tấn đăng ký tầu, trung bình tăng 4-5% trọng tải đội tàu toàn thế giới (www.google.com.vn). Trong những năm gần đây, thị trường quốc tế ngành công nghiệp đóng tàu có sự biến đổi và cạnh tranh mạnh. Hai nước có ngành công nghiệp đóng tàu hàng đầu thế giới là Nhật Bản và Hàn Quốc đang bị cạnh tranh bởi các nước Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan..do giá nhân công ở hai nước này quá cao. Để đứng vững trên thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc và nhiều nước Châu Âu có ngành công nghiệp đóng tàu phát triển đều có xu hướng đầu tư sang các nước có giá nhân công thấp, Việt Nam là một trong những nước được quan tâm. Hơn nữa, Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, trình độ khá so với khu vực. Do đó, nếu biết tổ chức, sắp xếp chúng ta có thể nắm bắt cơ hội này để tăng tiền vốn đầu tư, liên doanh liên kết để học hỏi kinh nghiệm và có thể tiếp xúc với những công nghệ tiên tiến để đưa công nghiệp đóng tàu Việt Nam phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 3.1.3 Một số chỉ tiêu phát triển của ngành Hiện nay, Việt Nam đang đứng thứ 11 về đóng tàu và chúng ta đang phấn đấu trở thành quốc gia đóng tàu thứ 4 trên thế giới vào năm 2015. Để đạt được mục tiêu to lớn đó,ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam đã xác định các hướng ưu tiên phát triển trong thời gian tới là: - Đẩy mạnh các hoạt động KH&CN, coi KH&CN là yếu tố then chốt trong sự phát triển. - Chú trọng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chuyên ngành, coi đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là vấn đề trọng tâm trong phát triển. - Tăng cường hợp tác quốc tế để đẩy nhanh việc chuyển giao, ứng dụng các công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh, nhằm thực hiện chiến lược đi tắt, đón đầu. Bằng một loạt sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm trọng điểm đang và sẽ được thực hiện, mục tiêu phấn đấu của ngành là trở thành quốc gia đứng thứ 4 trên thế giới về công nghệ đóng tàu. 3.1.3.1 Về sản lượng Dựa trên cơ sở đánh giá nhu cầu về các phương tiện vận tải biển trong tương lai ngành đã đưa ra một số chỉ tiêu phát triển: Giá trị tổng sản lượng bình quân mỗi năm đạt 20 tỷ đến 23 tỷ đồng với tốc độ tăng bình quân mỗi năm 30% đến 35%. Về sản phẩm chủ yếu Theo định hướng đã được Chính phủ phê duyệt, trong 5 năm tới, ngành công nghiệp tàu thuỷ nước ta sẽ phải đóng được các loại tàu từ 150.000 tấn đến trên 200.000 tấn và sửa chữa được các tàu có trọng tải lớn hơn. Ngoài ra, có thể đóng được các loại tàu từ tàu dầu sản phẩm đến tàu dầu thô cũng như các tàu container, các tàu khách ven biển và các loại tàu hàng khác. Một mục tiêu nữa là chúng tôi phải nội địa hoá trên 60% ngành đóng tàu. Hiện, Vinashin đã ký được các thoả thuận hợp tác về chuyển giao công nghệ cho mục tiêu nội địa hoá của ngành. Trong thời gian tới, công tác đóng mới tàu thuỷ khẩn trương thi công các sản phẩm trọng điểm sau: Nhà máy đóng tàu Hạ Long: hoàn thiện và bàn giao tàu 53.000 DWT số 1, số 2, số3, số 4,thi công chiếc số 5, số 6, số 7. Hoàn thiện và bàn giao tàu 12.500 DWT. Thi công đóng mới các tàu: Tàu hàng 54.000DWT, tàu container 1700 TEU, tàu 8.700 DWT số 1, số 2, số 3 và tàu chở ô tô 4900 xe. Công ty công nghiệp tàu thuỷ Nam Triệu: hoàn thiện và bàn giao tàu 53.000 DWT số 1, số 2, số3, số 4,thi công chiếc số 5, số 6, số 7. Hoàn thiện và bàn giao tàu Lash 1090 DWT; thi công và bàn giao tàu Lash 090 DWT; Thi công và và bàn giao tàu container 700 TEU số 1, số 2. Công ty đóng tàu Bạch Đằng: hoàn thiện và bàn giao tàu: Tàu 22.500 DWT số 1, số 2, số 3. Thi công và đóng mới các tàu: Tàu container 1700 TEU số 1, tàu 6500 DWT. Ngoài ra còn các đơn vị trong Tập đoàn Vinashin: Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Dung Quất, Công ty đóng tàu Phà Rừng, Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Bến kiền... đã và đang tiến hành đóng mới hàng loạt các loại tàu nhỏ, vừa và lớn, tàu kéo, tàu đẩy... Trong đó tập trung vào đẩy mạnh tiến độ thi công vào các công trình đẩy mạnh sản xuất như: Ụ khô 250.000 DWT phục vụ đóng tàu chở dầu thô 100.000 DWT tại Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Dung Quất, công trình đà tàu 50.000 DWT số 2 tại Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Nam Triệu.... và hàng loạt các công trình xây dựng khác tại các đơn vị trong Tập đoàn từ Bắc vào Nam. Nguồn: Tập đoàn kinh tế Vinashin - Báo cáo tài chính năm 2006 và kế hoạch năm 2007 Chiến lược đầu tư phát triển của ngành Như đã phân tích ở trên, với nhu cầu trong nước và khả năng xuất khẩu như trên, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng mục tiêu đến năm 2010, Việt Nam trở thành một trong các quốc gia đóng tầu. Vì vậy, trong giai đoạn 2010 có thể chọn công nghiệp đóng và sửa chữa tầu như là một ngành công nghiệp mũi nhọn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để làm được điều đó, cần xây dựng cụ thể từng bước đi để tạo dựng năng lực mới cho ngành. Trong giai đoạn 2001-2005, phấn đấu đóng được tầu 11.500 tấn vào 2001 và tầu 80.000 tấn vào 2005; sửa chữa đến tàu 400.000 tấn; chế tạo được thép đóng tầu, động cơ tàu biển, các loại thiết bị, phụ kiện tàu thuỷ dùng chung; phấn đấu đạt tỷ lệ nội địa hoá lên 40-45% giá trị sản xuất. Ngành công nghiệp đóng tầu sẽ đáp ứng được khoảng 45-50% nhu cầu trong nước trong giai đoạn 2001-2005. Trong giai đoạn 2006-2010, tiếp tục triển khai các dự án trên, tăng cường khai thác có hiệu quả các dự án đã được đầu tư, đồng thời tập trung làm chủ công nghệ thiết kế, công nghệ chế tác để có thể đảm bảo được phần lớn nhu cầu trong nước, hướng tới xuất khẩu. Trong giai đoạn này sẽ chú trọng tới các dự án đầu tư cho sản xuất thiết bị, phụ kiện, thép đóng tầu, động cơ nhằm tăng tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm. Hoàn thành việc xây dựng các nhà máy mới, hiện đại hoá và hội nhập.Nếu các dự án trên được triển khai đồng bộ và thành công thì đến năm 2010, phần lớn các nhu cầu về đóng mới và sửa chữa tầu trong nước được thoả mãn và có thể giành được một phần thị phần quốc tế (đặc biệt trong khu vực) do các lợi thế về điều kiện tự nhiên, về nhân công, về xu hướng chuyển giao công nghệ từ các nước có công nghệ đóng tầu cao. Tỷ lệ nội địa hoá sẽ đạt 60-70% giá trị tầu đóng mới, 80-90% giá trị sửa chữa tầu. Đóng mới tàu đến 100000DWT, sửa chữa tàu đến 400000DWT. Chiến lược đầu tư phát triển ngành là một trong những bước đi quan trọng để đạt được mục tiêu phát triển của ngành. Để thành công với những kế hoạch đã đặt ra, ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam cần có chiến lược đầu tư phát triển ngành theo hướng: - Trong vòng 5 năm tới, chúng tôi cũng dự kiến sẽ xây dựng thêm một số nhà máy đóng tàu lớn, cũng như sẽ đầu tư nâng cấp các nhà máy đóng tàu hiện có để có năng lực đóng được các tàu cỡ lớn từ 100.000-150.000 tấn và trên 200.000 tấn; sản xuất được các máy móc, trang thiết bị tàu thuỷ, cũng như các dịch vụ đi kèm. Chúng tôi đang có các kế hoạch nghiên cứu để có thể chủ động phát triển một loại hình tàu mới mà không phải mua bản quyền của nước ngoài. - Mở rộng và nâng cấp các nhà máy có sẵn để đóng mới và sửa chữa tàu, tận dụng những điều kiện sẵn có của ngành. Tuy nhiên, do tồn tại trong thời gian dài nên hệ thống cơ sở hạ tầng nhiều nhà máy không đáp ứng được khả năng đóng mới và sửa chữa các loại tàu có trọng tải lớn. - Cần xây dựng các nhà máy mới tại các khu vực có tiềm năng nhằm hình thành các cụm công nghiệp tàu thuỷ đồng bộ như ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Vũng Tàu... để phát huy hết thế mạnh của từng địa phương, từng vùng để phát triển công nghiệp tàu thuỷ toàn quốc. Xây dưng các nhà máy lớn để đáp ứng việc đóng mới và sửa chữa các tàu có trọng tải lớn trên 50.000DWT. - Tích cực đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ với các nhà máy vệ tinh sản xuất các loại vật tư, trang thiết bị cho ngành công nghiệp tàu thủy như: Động cơ Diezel, thép đóng tàu, thiết bị điện...nhằm tăng tỷ lệ nội địa hoá cho các tàu đóng mới tại Việt Nam, nâng cao vị thế của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam trên thị trường thế giới. 3.1.3.3 Chiến lược phát triển thị trường Việt Nam có điều kiện thuận lợi để phát triển vận tải đường sông, đường biển, là một trong những cơ sở để phát triển ngành công nghiệp đóng tàu. Với nhu cầu khá lớn về phương tiện vận tải thuỷ cả thị trường trong nước lẫn thị trường thế giới, ngành công nghiệp đóng tàu cần nắm bắt cơ hội này để mở rộng thị trường, khẳng định thương hiệu tàu thuỷ Việt Nam. Đối với thị trường trong nước: Tiếp tục đóng các loại tàu phục vụ cho vận tải nội thuỷ và các tuyến vận tải ven biển như tàu có trọng tải 400 - 600T, tàu trọng tải từ 3.000 - 5.000DWT. Phát triển các phương tiện vận tải phục vụ du lịch ven hồ, trên sông. Đồng thời cố gắng đóng các tàu có trọng tải lớn phục vụ giao thông đường biển, hạn chế việc nhập khẩu tàu vào Việt Nam. Đối với việc sửa chữa, ngành cần đào tạo các cán bộ kỹ thuật có tay nghề cao, đồng thời xây dựng các chương trình khuyến cáo rộng rãi đến các đơn vị vận tải để có thể thu hút thêm khách hàng. Đối với thị trường nước ngoài: Đẩy mạnh việc đóng mới các tàu có trọng tải lớn đến 53.000DWT, tàu chở container 1.200 - 1.500 TEU, các tàu chở sản phẩm dầu, tàu chở khí và hoá chất lỏng...Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động quan hệ quốc tế để quảng bá thương hiệu tàu Việt Nam ra thị trường thế giới, tăng cơ hội xuất khẩu tàu ra thị trường thế giới. Đối với việc sửa chữa, tăng cường tiếp cận với các chủ hàng nước ngoài có phương tiện thường xuyên ra vào tại các cảng biển, quảng cáo khả năng đáp ứng nhu cầu sửa chữa của ngành đóng tàu Việt Nam. Đồng thời nâng cao sửa chữa các tàu có trọng tải lớn đáp ứng nhu cầu sửa chữa của thị trường thế giới. 3.1.3.4 Chiến lược phát triển khoa học công nghệ Trong tương lai công tác khoa học công nghệ của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam tập trung các nội dung sau: Hoàn thịên các thủ tục để có thể sớm tiến hành các nhiệm vụ khoa học công nghệ thuộc Dự án khoa học - Công nghệ “ Phát triển Khoa học và Công nghệ phục vụ đóng tàu chở dầu thô 100.000 tấn”. Chỉ đạo, tổ chức thực hiện và kiểm tra, đánh giá việc triển khai các nhiệm vụ Khoa học công nghệ theo các quy định hiện hành. Xây dựng và đề xuất các nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ cấp Nhà nước, Bộ năm 2008 và các năm tiếp theo, bao gồm cả các Dự án Khoa học và Công nghệ phục vụ các sản phẩm trọng điểm. Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới trong Tập đoàn, Viện Khoa học công nghệ tàu thuỷ và các đơn vị thành viên khác nhằm đưa Khoa học công nghệ thành động lực mạnh cho sự phát triển của ngành. Tiếp tục đầu tư hiện đại hóa, mở rộng Bể thử mô hình tàu thuỷ thành Trung tâm thử mô hình tàu thuỷ lớn nhất khu vực Đông Nam Á, xúc tiến xây dựng phòng thí nghiệm trọng điểm, Trung tâm nghiên cứu ứng dụng cơ bản, tiến tới thành Học viện tàu thuỷ quốc gia nhằm tạo ra các công nghệ tiên tiến, phục vụ đắc lực cho sự phát triển của ngành. Chú trọng hơn nữa công tác nội địa hoá để đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững của ngành, trong đó có Tập đoàn kinh tế Vinashin. Chủ động liên kết trong nước và quốc tế để đưa nhanh các kết quả mới nhất về Khoa học công nghệ vào thực tế sản xuất kinh doanh của ngành. 3.2 Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam 3.2.1 Giải pháp từ phía ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam 3.2.1.1 Giải pháp phát triển khoa học công nghệ Trong những năm vừa qua, mặc dù ngành đã có những đổi mới, nhiều máy móc thiết bị được chuyển giao từ những nước công nghiệp phát triển. Song tốc độ đổi mới công nghệ và trang thiết bị còn chậm, chưa đồng đều và chưa theo một định hướng rõ rệt. Hiện nay, các thiết bị sản xuất của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam chủ yếu là nhập khẩu, trong khi đó thì túi tiền thì có hạn, vẫn còn đan xen nhiều thiết bị lạc hậu, trung bình đến tiên tiến, do vậy làm hạn chế hiệu quả vận hành của thiết bị và giảm mức độ tương thích, đồng nhất giữa sản phẩm đầu vào và đầu ra. Bên cạnh đó, trình độ nghiên cứu thiết kế các thiết bị phục vụ ngành của đội ngũ cán bộ chưa cao nên tốc độ đổi mới công nghệ của ngành bị hạn chế. Chính vì vậy ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam cần chủ động đưa ra những giải pháp phù hợp để đổi mới công nghệ và trang thiết bị của ngành để phục vụ cho quá trình sản xuất và phát triển.Một trong những giải pháp để nâng cao trình độ công nghệ của ngành: - Giải pháp về chuyển giao, tiếp nhận công nghệ và tri thức Công nghệ chiếm vị trí quan trọng trong ngành công nghiệp đóng tàu. Hơn nữa, trong điều kiện quốc tế hoá, lợi thế so sánh của quốc gia dựa trên cơ sở nguồn nhân lực rẻ đang giảm dần do trình độ phát triển quá cao và quá nhanh của ngành công nghiệp đóng tàu. Công nghệ để phát triển sản xuất trong ngành phải được chủ yếu thông qua các kênh ngoại thương và đầu tư nước ngoài. Trong tiếp cận công nghệ mới cần thực hiện chiến lược đi tắt đón đầu để sớm có công nghệ tiến tiến, nhanh chóng hiện đại hoá công nghiệp đóng tàu. Việc chuyển giao công nghệ hiện nay chủ yếu là qua liên doanh giữa các doanh nghiệp đóng tàu Việt Nam với các doanh nghiệp đóng tàu nước ngoài. Tuy nhiên, trong chuyển giao công nghệ còn thiếu những tiêu chuẩn rõ ràng, hiệu quả chuyển giao công nghệ của các nhà đầu tư nước ngoài chưa cao, phần lớn công nghệ chuyển giao không đạt tiêu chuẩn hàng đầu quốc tế. Vì vậy, để nâng cao trình độ công nghệ cho ngành, việc đẩy mạnh quá trình chuyển giao công nghệ của những nước tiến tiến về ngành công nghiệp đóng tàu là rất quan trọng. Tuy nhiên, trong chuyển giao công nghệ cần lưu ý đầy đủ đến các tiêu chuẩn của công nghệ và việc chuyển giao toàn bộ kỹ năng thực hành công nghệ. - Giải pháp đẩy mạnh nghiên cứu triển khai Nghiên cứu và triển khai là yếu tố cực kỳ quan trọng đảm bảo sự phát triển độc lập và vững vàng của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. Hoạt động nghiên cứu và triển khai đòi hỏi sự đầu tư về trang thiết bị, về đội ngũ cán bộ có trình độ cao trong nhiều ngành kỹ thuật cùng phối hợp với nhau để tạo ra một sản phẩm mới. Để đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai, ngành cần dành một nguồn kinh phí cho công tác nghiên cứu sản phẩm mới, cải tiến công nghệ, quy trình sản xuất. Liên kết các trung tâm, các viện nghiên cứu chuyên ngành với các doanh nghiệp sản xuất để ứng dụng công nghệ và sản phẩm mới. Công nghệ là một trong những công cụ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đóng tàu của mọi quốc gia trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, với Việt Nam ngành công nghiệp đóng tàu đang trong giai đoạn phát triển việc nâng cao đổi mới công nghệ để có thể cạnh tranh được với bạn bè quốc tế là vấn đề cấp thiết. Do đó, Ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam cần tìm ra những giải pháp phù hợp với điều kiện của mình để nâng cao công nghệ, phát triển ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. 3.2.1.2 Giải pháp phát triển nguồn nhân lực Trong điều kiện hội nhập hiện nay nguồn nhân lực rẻ không còn là lợi thế so sánh quan trọng của mỗi nền kinh tế. Với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đòi hỏi phải có đội ngũ lao động có khả năng để có thể ứng dụng các công nghệ hiện đại đó đang là vấn đề được cả thế giới quan tâm. Ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam mặc dù đã có tiến bộ vượt bậc trong công tác đào tạo đội ngũ lao động cho ngành, song nó vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu lao động có trình độ phục vụ cho sự phát triển của ngành. Do đó ngành cần phải tìm ra các giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ lao động của ngành - Giải pháp thu hút nguồn nhân lực Các nhà quản lý ngành cần kết hợp với các doanh nghiệp xây dựng một chương trình thu hút nhân lực cho ngành. Chương trình này phải được tiến hành rất cụ thể dựa trên các thực trạng nguồn nhân lực hiện nay và nhu cầu cho sự phát triển trong tương lai. Cần xây dựng các chương trình hợp tác đào tạo giữa các doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài với các cơ sở đào tạo. Đặc biệt coi trọng phương pháp đào tạo qua việc làm đối với những công nhân kỹ thuật và đào tạo theo hình thức du học tại chỗ ( có chuyên gia nước ngoài giảng dạy tại doanh nghiệp) đối với đội ngũ cán bộ kỹ thuật. Các doanh nghiệp cần xây dựng hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, hệ thống cơ sở sản xuất để hấp dẫn người lao động. Đặc biệt các chính sách về công ăn việc làm, thu nhập, bảo trợ xã hội cần được quan tâm đúng mức đảm bảo công bằng tạo sự hấp dẫn đối với người lao động. - Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực Ngành công nghiệp đóng tàu cần có sự phối hợp với các trường đại học, các cơ sở đào tạo trong việc nghiên cứu cải tiến nội dung và chương trình đào tạo cho đội ngũ chuyên gia và công nhân kỹ thuật theo hướng đảm bảo học viên khi ra trường có thể ứng dụng kiến thức vào sản xuất thực tế. Trong một số trường hợp có thể thí điểm một số mô hình đào tạo theo hợp đồng, hoặc chỉ tiêu giữa doanh nghiệp và nhà trường để tuyển một số lao động theo yêu cầu và các tiêu chuẩn của doanh nghiệp đề ra. Về chương trình đào tạo, cần đổi mới và cải tiến theo các tiêu chuẩn quốc tế, tránh học lý thuyết xuông. 3.2.1.3 Giải pháp mở rộng thị trường Duy trì và mở rộng thị trường là vấn đề quan trọng bất cứ doanh nghiệp nào. Ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam cũng đang có chiến lược mở rộng thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế. Để đạt được mục tiêu này, ngành cần tạo ra những sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam có chất lượng cao, do đó ngành phải có những giải pháp phát triển đúng đắn: Để nâng cao năng lực cạnh tranh ngành cần đa dạng hoá sản phẩm, tăng cường hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp với điều kiện phát triển theo cơ chế thị trường. Cần coi trọng việc sửa chữa các loại tàu thuyền. Đây là một thị trường đầy tiềm năng có thể đạt giá trị hàng trăm triệu USD hàng năm. Nhu cầu sửa chữa là rất lớn, nhất là các đội tàu của nước ngoài khi đi qua lãnh hải Việt Nam. Xúc tiến công tác tiếp thị, khảo sát thị trường, chọn lựa phương án tổ chức sản xuất và bán một số loại sản phẩm của công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam ra thị trường quốc tế như Tàu cá xa bờ 600 CV, tàu hút, tàu hàng... Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới để có cơ hội xuất khẩu các sản phẩm của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam ra thị trường thế giới. Các sản phẩm của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam đã đáp ứng phần lớn nhu cầu các phương tiện giao thông đường thuỷ trong nước và đáp ứng một phần nhu cầu thế giới. Trong tương lai, thương hiệu của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam sẽ được khẳng định trên thị trường thế giới, nâng cao vị thế của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. 3.2.1.4 Giải pháp về cơ sở hạ tầng Hiện nay, hệ thống cơ sở hạ tầng của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam đã trở nên lạc hậu, nhiều nhà máy đóng tàu được xây dựng khoảng 50 năm trở về trước. Trong khi sự phát triển của kinh tế thế giới đang diễn ra rất mạnh mẽ, nhiều nước trên thế giới luôn có sự cải tiến hệ thống cơ sở hạ tầng ngành công nghiệp đóng tàu cho phù hợp với sự phát triển của thời đại. Để đạt được mục tiêu đã để ra, ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam cần có định hướng chiến lược đầu tư xây dựng các hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất phát triển. Mở rộng và nâng cấp các nhà máy sẵn có để đóng mới và sửa chữa các tàu có trọng tải ngày càng lớn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Cần đặt trọng tâm vào các nhà máy có nhiều lợi thế về điều kiện tự nhiên, con người, kỹ thuật...Xây dựng các nhà máy thành các trung tâm, làm hạt nhân cơ sở để phát triển các khu vực đóng tàu Bắc - Trung - Nam của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. Ngành cần tạo ra các cơ sở đóng tàu đủ sức cạnh tranh với các nước ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, chuẩn bị điều kiện kỹ thuật, vật chất để đóng tàu đến 100.000 DWT, chế tạo thép tàu, động cơ thủy, thiết bị thuỷ... Bên cạnh việc xây dựng các nhà máy phục vụ sản xuất, ngành cũng cần quan tâm hơn nữa tới việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng cho các ngành phụ trợ nhằm tăng tỷ lệ nội địa hoá, giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế tạo điều kiện cho việc đóng mới và sửa chữa tàu đạt hiệu quả cao hơn. 3.2.2 Giải pháp từ phía Nhà nước 3.2.2.1 Tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của ngành Năm 2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO do đó tất cả các ngành, các lĩnh vực đều phải hoạt động phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra các các ngành một môi trường sản xuất kinh doanh mới, đẩy nhanh sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong một ngành để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Việc tạo môi trường phù hợp với môi trường phát triển trong khu vực và thế giới là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. Môi trường phát triển bao gồm các yếu tố như cơ sở hạ tầng, môi trường kinh tế, môi trường pháp lý....trong đó môi trường pháp lý đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của ngành. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho ngành tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng các nhà máy đóng tàu, nhập khẩu các thiết bị, hợp tác liên kết với các đối tác nước ngoài... sẽ thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. Chính phủ cần tiếp tục xây dựng, bổ sung và hoàn thiện chính sách pháp luật phù hợp và tạo môi trường thuận lợi cho các nhà máy đóng tàu tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh trên thị trường trong nước và quốc tế. Đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống pháp luật cần đảm bảo tính đồng bộ, đồng thời đam bảo lợi ích của nhà đầu tư tạo điều kiện cho ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. 3.2.2.2 Giải pháp tạo vốn cho ngành công nghiệp đóng tàu Ngành công nghiệp đóng tàu là một ngành đòi hỏi một lượng vốn lớn cho sự phát triển. Tuy nhiên, hiện nay nguồn vốn để phục vụ cho ngành còn hạn chế, chính vì vậy cần có giải pháp phù hợp để tạo nguồn vốn cho ngành phát triển. - Để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển xây dựng những nhà máy mới, nâng cấp nhà máy đóng tàu hiện có, chủ yếu thu hút vốn liên doanh nước ngoài. Chính vì vậy cần đẩy mạnh quá trình hợp tác liên doanh với nước ngoài để bổ sung nguồn vốn cho sự phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. - Để phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực cần phải có sự hỗ trợ của Nhà nước, các quỹ phát triển của ngành. - Đối với nguồn vốn phục vụ cho việc đóng tàu đòi hỏi một lượng vốn rất lớn. Tuy nhiên, Nhà nước mới chỉ cấp cho các doanh nghiệp chưa đựơc 20% so với nhu cầu, do đó cần phải có các biện pháp để huy động vốn phục vụ sản xuất như: Thông qua việc bảo lãnh của ngân hàng trong nước để nhập khẩu các thiết bị phục vụ sản xuất; thông qua sự bảo lãnh của Chính phủ để vay vốn các ngân hàng thương mại trong nước; Thực hiện phát hành trái phiếu công ty để thu hút vốn... - Phát triển hoạt động Công ty tài chính công nghiệp tàu thuỷ. Công ty này đóng vai trò như một ngân hàng chuyên doanh phục vụ cho ngành với nhiệm vụ cung ứng và điều hoà vốn cho các đơn vị trong ngành. 3.2.2.3 Giải pháp Phát triển ngành công nghiệp phụ trợ Công nghiệp phụ trợ là khái niệm chỉ toàn bộ những sản phẩm công nghiệp có vai trò cho việc hỗ trợ cho việ sản xuất các sản phẩm chính. Công nghiệp phụ trợ đóng vai trò rất quan trọng trong việc tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính và đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá theo hướng vừa mở rộng vừa thâm sâu. Công nghiệp phụ trợ không phát triển sẽ làm cho các công ty lắp ráp và các công ty sản xuất thành phẩm cuối cùng khác sẽ phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Trong thời gian vừa qua mặc dù đã được sự quan tâm của Nhà nước nhưng ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ cho ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển, tỷ lệ nội địa hoá của ngành chỉ đạt khoảng 20% - 30%, các loại vật tư thép vỏ, máy móc thiết yếu hầu như phải nhập từ nước ngoài. Dù những sản phẩm này có thể được cung cấp với giá rẻ ở nước ngoài nhưng vì chủng loại quá nhiều, phí tổn chuyên chở, bảo hiểm tăng sẽ làm tăng phí tổn đầu vào. Đó là chưa nói đến rủi ro tiến độ, thời gian nhận hàng nhập khẩu. Vì lý do này, công nghiệp phụ trợ không phát triển thì các ngành công nghiệp chính sẽ thiếu sức cạnh tranh. Do đó, để đạt mục tiêu tỷ lệ nội địa hoá đạt 60% - 70% Nhà nước phải chú trọng nhiều hơn nữa vào sự phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ: Cho ra soát lại các cơ sở sản xuất công nghiệp phụ trợ , ưu tiên cấp vốn và tạo điều kiện khác để đổi mới thiết bị, đổi mới công nghệ tại những cơ sở có quy mô tương đối lớn. Khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp phụ trợ, với sự hỗ trợ đặc biệt về vốn, và những ưu đãi đặc biệt về thuế ( miễn thuế nhập khẩu thiết bị và công nghệ...) Nhà nước cần có các biện pháp để cung cấp thông tin về kế hoạch phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ cho các tổ chức, DN tạo điều kiện cho các họ tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh các ngành này. Bên cạnh sự đầu tư, quan tâm của Nhà nước tới ngành công nghiệp phụ trợ, ngành cũng cần chủ động hơn nữa trong việc xây dựng các ngành phụ trợ phục vụ cho sự phát triên của mình, hạn chế sự phụ thuộc vào việc nhập khẩu từ nước ngoài, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. 3.2.2.3 Một số kiến nghị để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành Công nghiệp đóng tàu Việt Nam Việt Nam là một quốc gia ven biển, cơ hội cho sự phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu rất lớn. Để khai thác tốt lợi thế này, đưa công nghiệp đóng tàu trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Chính Phủ Việt Nam cần có những quan tâm đặc biệt hơn nữa đối với ngành công nghiệp này. Để tạo điều kiện cho sự phát triển của ngành, Nhà nước cần tạo ra một cơ chế và chính sách thể hiện sự ưu tiên và hỗ trợ của Nhà nước đối với một ngành công nghiệp đầy triển vọng cho sự phát triển của đất nước. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về khoa học công nghệ nhằm nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới phục vụ cho việc đóng mới các sản phẩm có tính năng kỹ thuật cao, đạt chất lượng quốc tế. Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ xây dựng các ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ cho sự phát triển của ngành. Sự phát triển của doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm phụ trợ cho ngành tạo điều kiện thuận lợi cho ngành giảm các chi phí đóng tàu từ đó có điều kiện để đóng mới các con tàu có trọng tải lớn. Về nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển của ngành, Nhà nước cần quan tâm hơn nữa việc đào tạo ra các cán bộ chuyên môn cao, nâng cao khả năng thiết kế của các cán bộ kỹ thuật, đào tạo đội ngũ công nhân có khả năng ứng dụng các tiến bộ khoa học của thế giới nhằm nâng cao năng suất lao động cho ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. Kết luận Việt Nam là quốc gia có điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ngành công nghiệp đóng tàu. Trong thời gian vừa qua, ngành đã có những sự phát triển vượt bậc, những con tàu có trọng tải lớn đã ra đời, góp phần khẳng định thương hiệu tàu Việt Nam trên thị trường thế giới. Mặc dù đã có nhiều thắng lợi, nhưng ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Do đó, ngành phải tìm ra những hạn chế đó để tìm cách khắc phục, nâng hiệu quả hoạt động của ngành. Đặc biệt, trong xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá thế giới, sự cạnh tranh diễn ra ngày càng sâu sắc. Với nhu cầu ngày càng tăng các phương tiện vận tải phục vụ cho giao thông đường thuỷ, cơ hội phát triển cho ngành công nghiệp đóng tàu VIệt Nam là rất lớn. Tuy nhiên, so với một số nước trên thế giới thì năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam chưa cao. Do đó, ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam cần có chiến lược và giải pháp phát triển phù hợp để đứng vững trên thị trưòng trong nước cũng như thị trường thế giới. Hiện nay, Việt Nam đang trên đường thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần phát huy sức mạnh tổng hợp, mỗi ngành cần nhận thấy vai trò và vị trí của mình trong nền kinh tế đất nước để xây dựng chiến lược phù hợp với đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy, ngành công nghiệp đóng tàu, một ngành công nghiệp mũi nhọn trong tương lai phải có những giải pháp phát triển phù hợp để nâng cao năng lực cạnh tranh, khẳng định vị thế của ngành và đưa nền kinh tế Việt Nam đi lên. Mặc dù đã cố gắng tìm hiểu và nghiên cứu, nhưng do thời gian và khả năng có hạn nên bài viết không thể tránh khỏi những hạn chế, rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo nhằm hoàn thiện hơn bài viết và kiến thức cho bản thân. Phụ lục Phụ lục 1: Bảng 1 - Năng lực hạ thuỷ hiện tại ở Việt Nam TT Loại tàu Số lượng (Chiếc /năm) Thời gian nằm đà (tháng) 1 Aframax Tankers (80-120.000dwt) 0.9 14 2 Handy Product Tanker (10-60.000dwt) 2.0 6 3 Panamax Bulkers (60-80.000dwt) 2.0 6 4 Handymax Bulkers (40-60.000dwt) 2.4 5 5 Handysize Bulkers (10-40.000dwt) 2.4 5 5 Dry Cargo (< 10.000dwt) 4.0 3 6 Sub Panamax Containership (2-3.000TEU) 2.0 6 6 Handy Containership (1-2.000TEU) 2.4 5 7 Feedermax Containership (5-1.000TEU) 2.4 5 8 Pure Car Carrier > 5.000dwt 1.5 8 9 Multi Purpose > 5.000dwt 2.4 5 10 Others ( Tug, Barge, Supply vessel, dreger…) 4.0 3 Nguồn: Vinashin.com.vn Phụ lục 2: Hình ảnh Tàu 53.000 DWT Phụ lục 3: Bảng 2 - THỊ PHẦN ĐÓNG TÀU CỦA MỘT SỐ NƯỚC TT Tên nước Năng lực Thị phần Đặc điểm 1 Nhật Bản 9,9 ¸ 11 triệu DWT 40¸43% 1182 nhà máy, 386 ụ, trong đó có 12 ụ cho tàu ³ 100.000 DWT 2 Hàn Quốc 7 triệu DWT 27¸28% Chủ yếu là đóng tàu chuyên dụng 3 Tây Âu Gặp khó khăn >10% Tàu cao tốc, tàu chiến, tàu dịch vụ 4 Trung Quốc 1,5 triệu DWT 5,7% 408 nhà máy, đã có ụ khô cho tàu 300.000 DWT Nguồn: Tạp chí Hàng hải Việt Nam - Tin từ www.Google.com.vn Danh mục tài liệu tham khảo Chu Văn Cấp, năm 2003, Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia Đỗ Đức Bình và Nguyễn Thường Lạng, năm 2004, Kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội Nguyễn Thị Hường, năm 2004, Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - FDI, Nhà xuất bản Thống kê Trần Xuân Kiên, năm 1998, Chìa khoá để nâng cao năng lực tiếp thị và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê Vũ Trọng Lâm, năm 2006, Nâng cao sức cạnh tranh của các Doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia Tập đoàn kinh tế vinashin, năm 2004 - Báo cáo tài chính Tập đoàn kinh tế vinashin, năm 2005 - Báo cáo tài chính Tập đoàn kinh tế vinashin, năm 2006 - Báo cáo tài chính Tập đoàn kinh tế vinashin - Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006 và kế hoạch năm 2007 Website: www.moi.gov.vn www.vinashin.com.vn www.google.com.vn www.toquoc.gov.vn ........

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32046.doc
Tài liệu liên quan