Bảo đảm thực hiện tốt những vấn đề trên sẽ khắc phục sự hạn chế về năng lực
tư duy lý luận, xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh có đầy đủ
phẩm chất đạo đức, năng lực tư duy lý luận, năng lực lãnh đạo để chỉ đạo công cuộc đổi
mới ở địa phương cũng như cả nước theo mục tiêu dân giàu , nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh.
100 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2368 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cán bộ lãnh đạo
tỉnh có thể tham quan, học hỏi kinh nghiệm trong nước và quốc tế, mở rộng giao lưu
góp phần phát triển năng lực tư duy lý luận.
Kinh tế - xã hội phát triển cũng sẽ tạo điều kiện để nâng cao dân trí cho cán bộ
và nhân dân. Khi đời sống được nâng lên, con người sẽ có điều kiện phát triển cả về thể
chất và trí tuệ. Như thế, kinh tế - xã hội phát triển là điều kiện khách quan để phát triển,
hoàn thiện cơ sở sinh học của tư duy, tạo tiền đề cho việc phát triển năng lực trí tuệ, tư
duy của chủ thể. Nếu nhân dân toàn tỉnh được nâng lên về trình độ học vấn thì đó là cơ
sở để cán bộ lãnh đạo tỉnh nâng năng lực tư duy lý luận lên.
Kinh tế - xã hội phát triển tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho lãnh đạo tỉnh làm
công tác tuyên truyền giáo dục tư tưởng cho nhân dân. Bởi vì kinh tế phát triển, xã hội
ổn định đời sống của cán bộ, nhân dân được nâng lên thì đường lối, chủ trương của
Đảng sẽ được nhân dân tin tưởng và tự giác chấp hành.
Kinh tế - xã hội phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ thôi
thúc người cán bộ lãnh đạo tỉnh phải trau dồi nghiệp vụ chuyên môn, tri thức quản lý, tri
thức lý luận v.v... Trên cơ sở đó sẽ từng bước nâng cao năng lực tư duy lý luận.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, những vấn đề do phát triển kinh tế - xã hội
đặt ra sẽ thử thách về năng lực trí tuệ và phẩm chất cách mạng của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo tỉnh nói riêng. Khi gặp những vấn đề mới nảy
sinh, buộc các nhà lãnh đạo tỉnh phải huy động cao nhất năng lực trí tuệ để giải quyết
những vấn đề đó. Chẳng hạn, vấn đề đảng viên làm kinh tế gia đình đến mức độ nào?
Trang trại ở Bắc Giang quy mô bao nhiêu ha là vừa? v.v... Từ việc giải quyết những vấn
đề cụ thể ấy mà năng lực trí tuệ, tư duy của lãnh đạo sẽ thường xuyên được mài giũa và
không ngừng được nâng cao.
Từ những điều trình bày trên đây chúng ta thấy, phát triển kinh tế - xã hội theo
đường lối đổi mới của Đảng sẽ tạo môi trường thuận lợi cho việc nâng cao năng lực tư
duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh. Ngược lại, chính việc nâng cao năng
lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh lại làm cho tư duy lý luận của
chúng ta thêm sắc bén, năng động và sáng tạo hơn trong quá trình phản ánh hiện thực,
kịp thời phát hiện những vấn đề đặt ra và có những đề xuất sắc bén, góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động thực tiễn của con người. Chính vì những lẽ trên mà nâng cao năng lực
tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh phải gắn liền với sự phát triển kinh
tế - xã hội, nâng cao dân trí cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh là một trong những
phương hướng cơ bản không thể thiếu được.
2.3.1.2. Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
tỉnh phải kết hợp chặt chẽ với việc tăng cường rèn luyện đạo đức cách mạng cho họ
Năng lực tư duy lý luận có vai trò to lớn đối với hoạt động lãnh đạo của
người cán bộ nói chung, đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nói riêng. Tuy
nhiên, năng lực tư duy lý luận mới chỉ là một trong những phẩm chất mà người cán bộ
lãnh đạo cần phải có. Những phẩm chất của người cán bộ lãnh đạo được biểu hiện cụ
thể ở nhiều góc độ, nhiều lĩnh vực và rất phong phú, có thể khái quát ở các vấn đề như:
tri thức, năng lực trí tuệ, tình cảm, niềm tin, ý chí cách mạng và khả năng hoạt động
thực tiễn... Trong đó tình cảm, niềm tin, ý chí cách mạng là động cơ thôi thúc bên trong
khiến người ta biến những tri thức, trí tuệ thành hành động thực tiễn. Như vậy, năng lực
tư duy lý luận hiện diện ở người cán bộ lãnh đạo mới chỉ là khả năng, là tiền đề, nó có
được phát huy hay không và phát huy theo chiều hướng nào, tích cực hay tiêu cực phần
lớn phụ thuộc vào phẩm chất đạo đức cách mạng của người cán bộ lãnh đạo. Do vậy,
nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh phải gắn
liền với việc rèn luyện đạo đức cách mạng cho họ. Hồ Chủ tịch đã từng chỉ rõ: "Cũng
như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù
tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [43, tr. 252-253]. Trau dồi phẩm chất
đạo đức cách mạng trong điều kiện ngày nay phải tập trung vào việc bảo vệ, kiên trì và
vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; xây dựng động cơ hành động vì lý tưởng
cách mạng, vì sự nghiệp xây dựng một xã hội mới theo mục tiêu "dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ văn minh". Nếu không có đạo đức cách mạng như vậy thì
người cán bộ dù có năng lực tư duy lý luận cao đến đâu chăng nữa cũng chỉ trở thành
người nói mà không làm hoặc nói một đằng làm một nẻo. Nhiều khi biết làm một việc
gì đó sẽ có hại cho nhân dân, cho tổ quốc nhưng vì lợi ích cá nhân ích kỷ họ vẫn làm.
Chẳng hạn, dây chuyền công nghệ mua của nước ngoài với giá đắt, công nghệ lạc hậu,
nếu do không hiểu biết ta mua thì đó là yếu kém về năng lực về thông tin, nếu biết vẫn
mua vì được hưởng phần trăm hoa hồng thì là do không có đạo đức cách mạng. Nguy
cơ tụt hậu và chệch hướng xã hội chủ nghĩa cũng chính là ở đó. Một yêu cầu nữa trong
đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là có tinh thần dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm trước các quyết định của bản thân hay không? Cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp tỉnh là những người đảm trách các cương vị trọng yếu ở tỉnh, mỗi quyết
định của họ có ảnh hưởng tới sinh mệnh của hàng triệu con người. Cho nên, quyết định
vấn đề gì cũng phải xuất phát từ thực tế nhu cầu, tâm tư nguyện vọng của nhân dân hài
hòa với nhiệm vụ cách mạng là điều cần thiết. Nhưng không dám ra quyết định, không dám
chịu trách nhiệm cá nhân, sợ ảnh hưởng tới uy tín thanh danh cá nhân thì đó là biểu hiện
của chủ nghĩa cá nhân.
Trong điều kiện thông tin phát triển rộng khắp hiện nay, sự gương mẫu trong
đạo đức, lối sống của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh có ảnh hưởng không nhỏ
tới uy tín lãnh đạo và hiệu quả công việc. Bởi thế, giữ vững, phát huy đạo đức cách
mạng trong sáng trong sự kết hợp với nâng cao dần năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh sẽ thúc đẩy sự phát triển toàn diện của địa phương,
góp phần thành công của sự nghiệp đổi mới trên cả nước.
2.3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay
Từ thực trạng về năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp tỉnh đã trình bày ở trên, cho thấy họ còn bộc lộ nhiều hạn chế. Những hạn chế đó
cần phải được khắc phục kịp thời và triệt để nhằm đáp ứng những yêu cầu của sự phát
triển đời sống kinh tế - xã hội ở địa phương trong điều kiện đất nước đang đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để góp phần vào công việc đó, dưới giác độ
nghiên cứu của luận văn, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp chủ yếu sau đây:
2.3.2.1. Trau dồi và rèn luyện phương pháp tư duy biện chứng cho cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
Muốn nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp tỉnh thì phải từng bước khắc phục được bệnh kinh nghiệm, giáo điều, chủ quan duy
ý chí và nâng cao phương pháp tư duy biện chứng duy vật. Để trau dồi, rèn luyện tư duy
biện chứng duy vật nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận trước hết cần tăng cường
nghiên cứu lịch sử triết học thời trước. Bởi lẽ "tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm
sinh dưới dạng năng lực của người ta mà có thôi. Năng lực ấy cần phải được phát triển
hoàn thiện và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là
nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước [40, tr. 487].
Lịch sử nhân loại đã hình thành nên các phương pháp tư duy khác nhau, nhưng
cho đến nay, chưa có một phương pháp nào có thể thay thế được phương pháp tư duy
biện chứng duy vật. Đó là phương pháp tư duy cách mạng và khoa học nhất trong thời
đại ngày nay. Phương pháp tư duy biện chứng duy vật là công cụ sắc bén giúp cho con
người nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan, đi sâu vào bản chất sự vật, phát hiện ra
các qui luật vận động nội tại và chiều hướng phát triển tất yếu của nó. Nếu không học
tập và rèn luyện thường xuyên phương pháp tư duy biện chứng duy vật thì chúng ta
không thể nâng cao được năng lực tư duy lý luận, sẽ không tạo được cơ sở nền tảng cho
mọi hoạt động trí tuệ sáng tạo. Kinh nghiệm khoa học cũng như thực tiễn cuộc sống
chứng tỏ rằng, chỉ có thực hiện tốt yêu cầu này, tư duy con người mới có khả năng đạt
tới chân lý khách quan, hoạt động của con người mới được bảo đảm định hướng đúng
đắn, trở nên chủ động, tự giác và đạt những kết quả nhất định. Ngược lại, nếu không
nắm vững và vận dụng đúng đắn, sáng tạo phương pháp tư duy biện chứng duy vật thì
không tránh khỏi sa vào phương pháp tư duy siêu hình, máy móc, chủ quan. Thực tiễn
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và nhiều nước xã hội chủ nghĩa trước đây đã cho
thấy, khi thiếu phương pháp tư duy biện chứng duy vật, con người không thể hiểu nổi
ngay chính thực tiễn mà mình đang sống, không thể phát hiện ra những điều kiện,
phương tiện đã và đang có trong hiện thực để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra và lại
càng không thể nói đến nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để rút ra những gì cần thiết cho
cuộc sống của mình.
Vậy rèn luyện phương pháp tư duy biện chứng duy vật bằng con đường nào?
Trước hết, bằng con đường học tập, người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh có
thể rèn luyện phương pháp tư duy biện chứng. Đó là quá trình học tập, nghiên cứu các
chuyên ngành khoa học Mác - Lênin và những môn khoa học liên quan; trong đó phải
đặc biệt quan tâm tới lịch sử triết học và lôgíc học.
Thực tế, những cán bộ lãnh đạo của chúng ta được học tập triết học và nhất là
lịch sử triết học không nhiều (như đã trình bày ở phần thực trạng), phương pháp, nội
dung ít được đổi mới cho phù hợp với tình hình.
Có một thực tế là, cán bộ nào nằm trong diện được qui hoạch thì được cử đi
học, có bằng rồi từ đó trở đi coi như đã hoàn thành về chương trình lý luận, không cần
học tập bổ sung gì thêm nữa. Nên chăng, hàng năm cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
phải bồi dưỡng lý luận bổ sung cho phần đã tốt nghiệp trước đây của mình.
Mặt khác, muốn có được phương pháp tư duy khoa học, chúng ta còn phải chú
ý đến các ngành học có liên quan đến tư duy như lôgíc học, tâm lý học, lý thuyết thông
tin... ở đây có một vấn đề cần phải nhấn mạnh là: cán bộ lãnh đạo được học chương
trình lịch sử triết học rất sơ sài; hơn thế nữa, trong chương trình đào tạo lý luận cao cấp
ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và các Phân viện, người học không được học
lịch sử triết học và lôgíc học - hai môn học góp phần trực tiếp vào rèn luyện, phát triển tư
duy của con người. Thực tế cho thấy, nếu con người biết học tập những kinh nghiệm
lịch sử thì hoạt động lý luận cũng như thực tiễn sẽ tránh được những vòng vo không cần
thiết. Nghiên cứu lịch sử triết học cũng chính là nghiên cứu lịch sử phát triển của tư
duy, sẽ giúp con người học tập, rèn luyện và trau dồi phương pháp tư duy khoa học, qua
đây mà phát triển năng lực và trình độ tư duy của mình. Điều đó lý giải, không phải
ngẫu nhiên mà những bộ óc bách khoa của mỗi thời đại đều là những nhà nghiên cứu
lịch sử triết học một cách nghiêm túc, cơ bản, hệ thống và sâu sắc. Đâu phải ngẫu nhiên
mà vào những tháng năm nóng bỏng của thế chiến thứ nhất, tình hình cách mạng Nga
đang hết sức căng thẳng, Lênin vẫn dành thời gian đọc lại các tác phẩm của Hêghen.
Tương tự như vậy, khi tình hình cách mạng đang hết sức khẩn trương để tiến tới tổng
khởi nghĩa giành chính quyền Hồ Chủ tịch lại bận rộn với việc dịch lịch sử Đảng Cộng sản
Liên Xô. Đúng là sự hiểu biết về lịch sử tư tưởng và văn hóa dân tộc càng sâu bao nhiêu
và sự tiếp thu những giá trị, thành tựu trí tuệ của nhân loại càng rộng bao nhiêu thì cái nền
của sự khái quát thực tiễn, phát triển năng lực tư duy càng dày bấy nhiêu [53, tr. 92].
Như thế, muốn nâng cao năng lực tư duy thì phải thường xuyên học tập, tu
dưỡng và rèn luyện phương pháp tư duy biện chứng. Phải nêu cao tinh thần phê phán
sáng tạo, tinh thần tôn trọng sự thật, trọng thực tiễn và hiệu quả thực tế. Đồng thời, mỗi
người phải khắc phục bệnh lười suy nghĩ, sự ỷ lại; phải thường xuyên rèn luyện hệ
thống các thao tác cơ bản của hoạt động trí tuệ sáng tạo như so sánh, phân tích, tổng hợp,
suy luận, chứng minh, bác bỏ...
Việc học tập và rèn luyện phương pháp tư duy biện chứng duy vật phải hết sức
sáng tạo và biện chứng; bởi vì, bản chất của phương pháp tư duy ấy là khoa học sáng
tạo và biện chứng. Nói theo cách nói của Hồ Chủ tịch là phải học "cái tinh thần xử trí
mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình" [45, tr. 292]. Nghĩa là phải học
phương pháp tư duy chứ không đơn thuần là học thuộc những khái niệm phạm trù,
nguyên lý của phép biện chứng duy vật.
Thực tế cho thấy, coi nhẹ việc học tập, nghiên cứu hệ thống lý luận Mác - Lênin
nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng, hoặc là học tập, nghiên cứu theo lối chủ
quan, tùy tiện, giáo điều, chắp vá thì sẽ không thể nắm được bản chất khoa học sáng tạo,
linh hồn sống của phương pháp tư duy biện chứng duy vật. Trong tình hình hiện nay, đã
đến lúc chúng ta cần khắc phục triệt để tình trạng học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách tùy tiện, chắp vá và thiếu hệ thống.
Kinh nghiệm cũng chỉ ra rằng, chỉ có thể nắm được bản chất, linh hồn sống của
phương pháp tư duy biện chứng duy vật trên cơ sở của sự chăm chỉ học tập, nghiên cứu
một cách cặn kẽ, tỉ mỉ, có hệ thống những vấn đề cơ bản trong học thuyết Mác - Lênin.
Cùng với quá trình học tập và tự học tập để thực sự có được phương pháp tư
duy khoa học thì việc rèn luyện, trau dồi phương pháp tư duy biện chứng duy vật qua
nghiên cứu tổng kết thực tiễn cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực
tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh. Qua nghiên cứu, tổng kết thực tiễn
trên địa bàn được phân công, người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh sẽ nâng cao được
năng lực tư duy lý luận của mình.
Về thực chất, nghiên cứu tổng kết thực tiễn chính là quán triệt và thực hiện
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung,
triết học Mác - Lênin nói riêng. Nghiên cứu, tổng kết thực tiễn là quá trình bằng tư duy
khoa học với phương pháp duy vật biện chứng để phân tích, đánh giá, khái quát thực
tiễn nhằm rút ra những bài học cho chỉ đạo hoạt động thực tiễn cũng như lý luận tiếp
theo.
Nghiên cứu, tổng kết thực tiễn là đòi hỏi khách quan, là nguyên tắc, là biện
pháp quan trọng không thể thiếu được đối với việc học tập, trau dồi phương pháp tư duy
biện chứng duy vật của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh. Điều đó được thể hiện
trên các mặt chủ yếu sau đây:
- Nghiên cứu, tổng kết thực tiễn trực tiếp góp phần hoàn thiện phương pháp tư
duy biện chứng duy vật. Nếu học tập ở trường và tự học tập có vai trò hết sức quan
trọng đối với việc hình thành phương pháp tư duy thì nghiên cứu tổng kết thực tiễn lại
có ý nghĩa quyết định đối với việc tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi phương pháp tư duy ấy,
biến nó thành của bản thân mỗi cán bộ lãnh đạo. Điều này có tác dụng tích cực, trực tiếp
nâng cao năng lực tư duy lý luận của mỗi người. Sở dĩ như vậy là vì phương pháp tư
duy, dù khoa học đến đâu, tự nó cũng không quyết định được nội dung kết quả của tư
duy. Được học tập phương pháp tư duy biện chứng một cách cẩn thận chu đáo nhưng
mỗi người có biến nó thành phương pháp nhận nhận thức, phương pháp tư duy của
mình hay không lại là một vấn đề hoàn toàn khác. Cách tốt nhất để biến những điều đã
được học thành hành động có kết quả cao nhất là soi xét những điều đã học vào thực
tiễn nơi mình phụ trách, cố gắng lý giải những vấn đề thực tiễn sinh động, ủng hộ cái
mới, tạo điều kiện cho cái mới tích cực phát triển. Từ thực tiễn mà suy nghĩ để chỉ đạo
là cách thức tốt nhất để người lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh không mắc phải bệnh giáo
điều, sách vở, đồng thời dám đề đạt những vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn. Qua đó mà
nâng cao năng lực tư duy lý luận cho chính họ. Quá trình này phải được diễn ra liên tục
không có giới hạn cuối cùng. Việc tổng kết thực tiễn ở địa phương sẽ tạo nền phát triển
tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh. Đây sẽ là những đóng góp sâu sắc,
đúng đắn làm phong phú bức tranh thực tiễn cách mạng Việt Nam hiện nay để từ đó
Đảng có đường lối sát hợp hơn với tình hình.
- Nghiên cứu, tổng kết thực tiễn góp phần mài sắc tư duy lý luận, làm cho nó
mềm dẻo, năng động, phản ánh kịp thời và sáng tạo sự vận động, biến đổi của thực tiễn.
Điều này giúp cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh không ngừng phát triển năng lực tư
duy lý luận trên cơ sở khắc phục có hiệu quả một số căn bệnh trong nếp tư duy cũ.
Người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh đòi hỏi phải có tầm nhìn bao quát, toàn
diện, có khả năng khái quát các vấn đề mà thực tiễn ở tỉnh đặt ra trong tính chỉnh thể,
thống nhất của những vấn đề ấy. Trên cơ sở ấy mà đề ra các chủ trương, chính sách
mang tính chiến lược cho mọi mặt, mọi lĩnh vực phát triển ở địa phương. Điều này đòi
hỏi người cán bộ lãnh đạo tỉnh phải hòa mình vào thực tiễn, bám sát thực tiễn. Chính
việc làm này giúp họ thấy rõ những ưu điểm và những thiếu sót, hạn chế trong chủ
trương đường lối mà họ hoạch định, cũng chính thông qua tổng kết thực tiễn họ mới tìm
ra những mâu thuẫn mới, hiện tượng, mô hình mới nảy sinh, đòi hỏi phải có sự chỉ đạo
định hướng hoặc giải quyết nhanh chóng kịp thời. Điều kiện đó buộc họ phải vận dụng
tối đa năng lực tư duy lý luận để giải quyết những vấn đề của thực tiễn. Thực tiễn mới
lại tiếp tục đòi hỏi ở họ những năng lực cao hơn. Do đó, tổ chức hoạt động thực tiễn,
tổng kết thực tiễn luôn luôn là điều kiện tối ưu để họ rèn luyện nâng cao năng lực tư duy
lý luận của mình và bảo đảm cho năng lực tư duy ấy không xa rời với thực tiễn địa
phương, từ đó mà nâng cao được năng lực lãnh đạo dẫn đến hiệu quả cao trong hoạt
động lãnh đạo của họ.
Tầm quan trọng của vấn đề là vậy, nhưng làm thế nào để cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp tỉnh làm tốt công tác này?
Đây là một vấn đề lớn và khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải triển khai thường
xuyên, liên tục vừa mang tính cấp bách vừa mang tính lâu dài.
Cán bộ lãnh đạo tỉnh là những người đã trưởng thành từ cơ sở đi lên. Nếu
không quán triệt tốt phương hướng nhiệm vụ chỉ đạo và tổng kết thực tiễn thì họ dễ đem
những kinh nghiệm ở cương vị cũ ra "mài" để phục vụ cho công việc mới mà họ đảm
nhiệm. Như vậy, khi thực tiễn đã vận động phát triển rồi thì những quyết định từ những
căn phòng làm việc sang trọng ở trung tâm tỉnh sẽ không phù hợp với thực tế ở cơ sở
nữa.
Mặt khác, khi tổng kết thực tiễn là động đến vấn đề phức tạp, cụ thể đòi hỏi chủ
thể tư duy phải huy động hết khả năng hiện có của mình để giải quyết. Công việc ấy đòi
hỏi mất thời gian, công sức có khi va chạm với cấp dưới, với nhân dân... đòi hỏi họ phải
có nhiệt tình cách mạng, có năng lực công tác nhất định mới hoàn thành được nhiệm vụ.
Đây là một trong những điều kiện tốt giúp họ phấn đấu vươn lên hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ. Bởi lẽ, thực tế cho thấy, người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, nếu không vi
phạm kỷ luật gì, không tỏ ra quá yếu về công tác thì sẽ duy trì được cương vị hiện tại
hoặc thậm chí sẽ lên cao nữa. Cơ chế này đã triệt tiêu lòng dũng cảm, tinh thần dám nghĩ,
dám làm, dám chịu trách nhiệm của đội ngũ này. Rõ ràng chúng ta chưa có cơ chế,
chính sách cụ thể để khơi dậy ở họ năng lực làm việc để kinh tế - xã hội phát triển mạnh
hơn, chắc chắn hơn lại càng không thể đòi hỏi ở họ thường xuyên tổng kết thực tiễn một
cách nghiêm túc, khoa học để khái quát thành lý luận mới nhằm chỉ đạo công cuộc đổi
mới thành công. Công việc này phải bắt đầu từ các tỉnh bởi vì nước ta thành phố không
nhiều. Sự chuyển mình của các tỉnh sẽ là điều kiện để phát triển của cả nước.
2.3.2.2. Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo cán bộ nói chung, cán bộ lãnh đạo
cấp tỉnh nói riêng, đồng thời phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của đội ngũ
này trong việc tự phấn đấu rèn luyện nâng cao năng lực tư duy lý luận
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh có vị trí quan trọng không chỉ đối với
tỉnh mà còn là một khâu quan trọng liên kết với trung ương. Mọi sự lãnh đạo của Đảng
đối với nhân dân và mọi sự phản hồi của nhân dân đối với Đảng đều phải qua cấp tỉnh.
Có thể nói, chất lượng cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả lãnh đạo của Đảng.
Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vẫn còn nhiều bất
cập. Do vị trí của mình, đội ngũ này phải có trình độ cử nhân chính trị, có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ từ đại học trở lên mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Trên
thực tế chỉ có 79,3% số cán bộ chủ chốt cấp tỉnh bình quân cả nước có trình độ lý luận
từ cao cấp trở lên. ở Bắc Giang còn thấp hơn, chỉ có 70,2% số cán bộ chủ chốt cấp tỉnh
là có trình độ lý luận cao cấp, cử nhân chính trị, đó là chưa kể trong số này đa phần đã
tốt nghiệp từ cách đây năm đến mười năm. Họ đang rất cần được đào tạo lại, bồi dưỡng
thêm để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Nhưng khi đề bạt cán bộ lãnh đạo trong hồ
sơ có ghi đã qua lý luận cao cấp thì mặc nhiên là họ đủ điều kiện rồi và không bao giờ
nghĩ tới chuyện phải đi học thêm lý luận nữa. Mặt khác, công việc ở tỉnh nặng về giải
quyết hành chính giấy tờ chưa thúc bách họ hăng say học tập lý luận. Bình quân trong
cả nước còn có 18,4% cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh có trình độ lý luận trung cấp và 64% có
trình độ chuyên môn từ đại học trở lên. ở Bắc Giang tương ứng là 29,8% và 82,9%. Rõ
ràng con số này phần nào đã phản ánh đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nước
ta chưa được chuẩn hóa. Hồ Chủ tịch đã lưu ý: "Cán bộ đảng viên ta, vì bận việc hành
chính hoặc quân sự mà xao nhãng việc học tập. Đó là một khuyết điểm rất to. Khác nào
người thầy thuốc chỉ đi chữa người khác, mà bệnh nặng trong mình thì quên chữa" [43,
tr. 231].
Đó là chưa kể những người có học lý luận rồi mà hoạt động vẫn kém hiệu quả.
Theo chúng tôi, cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh nhất thiết phải có trình độ đại học
chính qui và có trình độ cử nhân lý luận chính trị. Trong nhiệm kỳ công tác của tỉnh
phải được bồi dưỡng lý luận ít nhất một lần vào nửa đầu nhiệm kỳ của Ban chấp hành
tỉnh Đảng bộ.
Trong những năm qua, công tác đào tạo nhằm chuẩn hóa đội ngũ cán bộ lãnh
đạo cấp tỉnh đã có nhiều cố gắng nhưng thực tế cho thấy chất lượng đào tạo chưa cao.
Chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo chưa được cải tiến cho phù hợp với yêu
cầu của tình hình. Nên chăng, có chương trình đào tạo lý luận riêng cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh. ở đó sẽ kết hợp giảng dạy lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh chuyên sâu với việc cùng giải quyết những vấn đề thực tiễn ở địa phương đặt
ra. Mặt khác, cán bộ được cử đi học phải học tập hăng say, nghiêm túc để đạt kết quả
tốt. Có chính sách rõ ràng để họ yên tâm học tập. Đối với người cán bộ lãnh đạo cấp
tỉnh, khi đã vững vàng về tư duy khoa học, thì khả năng loại bỏ lối tư duy phiến diện,
một chiều càng cao, việc khắc phục tư duy giáo điều, kinh nghiệm càng có hiệu quả.
Chính vì thế, đào tạo nâng cao trình độ tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp
tỉnh là vấn đề cốt lõi để nâng cao năng lực tư duy lý luận. Nhưng vấn đề đặt ra là, làm
thế nào để đội ngũ cán bộ này có trình độ tư duy lý luận ở mức độ nắm chắc thực chất
phương pháp tư duy biện chứng duy vật và vận dụng được phương pháp đó trong nhận
thức và trong hoạt động lãnh đạo. Chỉ có thông qua đào tạo trong nhà trường và nâng
cao ý thức thường xuyên học tập, nghiên cứu lý luận thông qua hoạt động thực tiễn thì
đội ngũ cán bộ lãnh đạo tỉnh mới có thể giải quyết tốt vấn đề này.
Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận rằng chất lượng đào tạo cán bộ, cả về mặt trình
độ và năng lực tư duy lý luận, không chỉ phụ thuộc vào bản thân hoạt động đào tạo, mà
còn phụ thuộc vào ý thức tự giác và phương pháp học tập của chính đội ngũ cán bộ.
Chính vì thế, quá trình đào tạo cần phải làm thế nào để hun đúc cho người học ý thức tự
giác học tập, nghiên cứu để biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo. Phải phát huy được
tính chủ động, tích cực, sáng tạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong
việc tự học tập, rèn luyện để nâng cao năng lực tư duy lý luận. Bởi lẽ, thiếu sự chủ
động, tích cực, sáng tạo của chính đội ngũ này thì chúng ta không bao giờ nâng cao
được năng lực tư duy lý luận cho họ. Mọi giải pháp về phía Đảng, Nhà nước, đoàn thể
xã hội chỉ có tác dụng khi chính đội ngũ này có quyết tâm cố gắng phấn đấu vươn lên, tự
học tập, tự rèn luyện, tự trau dồi nâng cao năng lực tư duy lý luận. Muốn vậy, trước hết,
phải động viên, cổ vũ, khơi dậy được ở đội ngũ này tình cảm, nhiệt tình cách mạng, cũng
như nâng cao ý chí phấn đấu vươn lên; thứ hai, phải hình thành được cơ chế chính sách
theo hướng khuyến khích, thúc đẩy họ tích cực, chủ động, nhạy bén, sáng tạo trong học tập
cũng như hoạt động chỉ đạo thực tiễn; thứ ba, từng bước nâng cao năng lực tư duy lý
luận cho cán bộ, đảng viên và nhân dân với tư cách là nhân tố "thúc đẩy, gây áp lực" và tạo
nền tảng xã hội để phát triển năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp tỉnh. Bởi lẽ, để lãnh đạo có hiệu quả những đối tượng có năng lực tư duy lý luận thì
bản thân người lãnh đạo phải tự mình nâng cao năng lực tư duy lý luận. Điều này sẽ gián
tiếp hoặc trực tiếp thôi thúc cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh phải chủ động, tích cực,
sáng tạo tự học tập, rèn luyện nâng cao mọi mặt, trong đó có năng lực tư duy lý luận.
Đồng thời, phải cung cấp cho người học phương pháp học tập, nghiên cứu một cách khoa
học để họ tránh được lối học tập khuôn sáo, học vẹt, thuộc lòng câu chữ mà không nắm
được bản chất của lý luận.
Những tri thức lý luận có tính chất trừu tượng cho nên để hiểu sâu sắc những tri
thức ấy, người học phải liên hệ với thực tiễn nhất là thực tiễn địa phương mình. Đó là
cách học tập đúng đắn, tích cực nhất để vừa hiểu được các khái niệm, nguyên lý, phạm
trù một cách chính xác, khoa học lại vừa lý giải được nó trong thực tiễn sinh động ở địa
phương. Trong học tập phải tranh luận sôi nổi mọi vấn đề, nhất là những vấn đề chưa rõ
hoặc những vấn đề thực tiễn đang đặt ra. Làm được như vậy học viên sẽ hứng thú học
tập hơn và tự họ đã biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
2.3.2.3. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách đối với cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp tỉnh
Trước đòi hỏi của thực tiễn đổi mới đất nước cũng như yêu cầu đổi mới phương
thức lãnh đạo của cán bộ cấp tỉnh ở nước ta hiện nay, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ
chế quản lý, chính sách đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo tỉnh là một giải pháp quan trọng
không thể thiếu được, góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
này.
Chính sách đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là bộ phận trong hệ thống
chính sách cán bộ của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, đổi mới chính sách đối với đội ngũ
cán bộ này phải gắn liền với quá trình đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý và chính
sách nói chung. Nếu không, chúng ta sẽ khó mà thực hiện được trên thực tế.
Về lý luận cũng như trên thực tế, cơ chế quản lý và chính sách cán bộ như thế
nào thì sẽ trực tiếp tạo ra những mẫu người cán bộ như thế. Với cơ chế cũ không thể tạo
ra những cán bộ năng động được. Trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, chúng
ta cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hơn nữa cơ chế quản lý và chính sách cán bộ theo
hướng khuyến khích mọi người thường xuyên phấn đấu, học tập và rèn luyện để không
ngừng nâng cao đạo đức, phẩm chất cách mạng, trình độ văn hóa, khoa học nói chung.
Đã đến lúc chúng ta cần kiên quyết, dứt khoát không chấp nhận những cán bộ có năng
lực và trình độ chuyên môn cũng như phẩm chất đạo đức chưa tương xứng với yêu cầu
nhiệm vụ mà lại không chịu học tập, rèn luyện để vươn lên. Trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cùng với việc đề cao phẩm chất đạo đức, chúng ta
cần hết sức coi trọng năng lực, trình độ trí tuệ của đội ngũ cán bộ nói chung, đặc biệt là
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nói riêng. Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cũng như năng lực vận dụng những tri thức đó vào lĩnh vực công tác thực tiễn
phải trở thành một trong những tiêu chí cơ bản và quan trọng khi sắp xếp, bố trí cán bộ,
cũng như trong chính sách đãi ngộ đối với họ.
Thực tế chứng tỏ, giữa phẩm chất và năng lực, đức và tài trong mỗi con người
luôn hòa quyện với nhau, tác động ảnh hưởng nhau một cách biện chứng. Do đó trong
xem xét, đánh giá con người nói chung, cán bộ nói riêng, không được tách rời một cách
máy móc, siêu hình giữa các mặt ấy. Phải thấy rằng, trong giai đoạn cách mạng hiện nay,
trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ cũng như năng lực công tác thực tế cũng chính
là biểu hiện cụ thể và sinh động của phẩm chất, đạo đức cách mạng. Chính vì vậy,
chúng ta kiên quyết không sử dụng những cán bộ có biểu hiện kiêu ngạo, tự cao, tự đại,
dấu dốt, lười học tập. Phải tạo nên dư luận xã hội trên cơ sở hình thành và thực hiện
nguyên tắc coi những đảng viên, cán bộ mắc những sai phạm như trên là vi phạm tư
cách đảng viên. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với ý kiến của một nhà nghiên cứu rằng,
lười học tập lý luận khoa học là một trong những biểu hiện quan trọng nhất của sự mất
phẩm chất cộng sản. Bởi vì, những cán bộ đảng viên mà kiêu ngạo, tự thỏa mãn, ngại
học tập, lười suy nghĩ và rèn luyện thì không thể có một năng lực tư duy thực sự và sớm
muộn cũng mắc bệnh giáo điều, kinh nghiệm, chủ quan duy ý chí.
Đối với cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh, yêu cầu trên càng phải được thực hiện nghiêm
ngặt mới đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ. Vấn đề không chỉ là nhận thức, là qui
định mà phải thực sự kiên quyết và nghiêm túc thực hiện như vậy thì mới có tác dụng
trên thực tế.
Để nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ thì cùng với sự phát
triển kinh tế - xã hội, phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hơn nữa cơ chế quản lý và
chính sách xã hội. Đó là chính sách thực sự vì con người và cho con người. Bởi vì, tư
duy cũng như năng lực tư duy ngoài cơ sở xã hội ra, còn có cơ sở sinh học của nó nữa.
Cơ sở sinh học là tiền đề không thể thiếu được của tư duy. Cho nên, muốn nâng cao
năng lực tư duy, phải chú ý bồi dưỡng, phát triển sức mạnh thể chất của con người, con
người phải được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản về vật chất và tinh thần. Sự thỏa mãn
đó chỉ có thể được bảo đảm bằng sự quan tâm chung của tập thể, của cộng đồng xã hội,
được thể hiện một cách cụ thể qua hệ thống chính sách kinh tế - xã hội. Thiếu sự quan
tâm chung của cộng đồng, xã hội thì năng lực tư duy, trình độ nhận thức của các thành
viên sẽ khó mà phát triển được.
Một vấn đề quan trọng cần phải nhấn mạnh là: cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
tỉnh là những người ưu tú được bầu ra từ đại hội tỉnh đảng bộ.
Họ chịu trách nhiệm toàn bộ trước nhân dân trong tỉnh, trước Đảng bộ. Vì thế
vai trò của họ trong tỉnh là rất lớn. Vì lẽ đó, trong chính sách cán bộ chúng tôi thiết
nghĩ, trung ương nên tạo điều kiện để họ làm tốt công tác ngay tại tỉnh.
Hiện nay chúng ta rất cần những cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh có đủ uy tín và năng
lực lãnh đạo làm việc. Trong khi đó, cứ đồng chí cấp tỉnh nào làm việc tốt là kéo ngay
về trung ương. Nói như vậy không có nghĩa là cán bộ trung ương không quan trọng mà
phải coi trọng đúng mức cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh - là những cán bộ lý luận -
thực tiễn trực tiếp góp phần vào sự lãnh đạo thành công của công cuộc đổi mới đất
nước.
Như vậy, trước đòi hỏi của thực tiễn đổi mới đất nước, trước yêu cầu nâng cao
năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, chúng ta cần tiếp tục đổi mới và
hoàn thiện hơn nữa cơ chế quản lý và chính sách cán bộ. Điều quan trọng là phải có
được hệ thống chính sách cụ thể, được thể chế hóa về mặt nhà nước để tạo điều kiện cho
những biện pháp trên đây được thực thi trên thực tế. Làm được như vậy, chúng ta mới
hy vọng có thể từng bước xây dựng một đội ngũ lãnh đạo cấp tỉnh vừa có năng lực,
trình độ chuyên môn, vừa có phẩm chất, đạo đức cách mạng để có thể đáp ứng được yêu
cầu ngày càng cao của nhiệm vụ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trên đây là những phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm từng bước nâng cao
năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh ở nước ta hiện
nay. Hệ phương hướng và giải pháp ấy phải được tiến hành động bộ và nhất quán, nếu
không thì khó có thể đạt được chất lượng và hiệu quả cao trên thực tế. Tuy nhiên, cần
thấy rằng, giải quyết tốt những yêu cầu trên cũng mới chỉ tạo ra những điều kiện khách
quan, những tiền đề cần thiết cho việc nâng cao năng lực tư duy lý luận mà thôi. Thiếu
sự nỗ lực cá nhân thì không thể nâng cao được năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh. Vì vậy, ngoài việc tuyên truyền, giáo dục, thì còn phải có
được một cơ chế trên thực tế để hướng được tất cả mọi cán bộ lãnh đạo vào quỹ đạo học
tập và rèn luyện, trong đó, tự học tập, tự rèn luyện là quan trọng nhất để nâng cao năng
lực tư duy lý luận cho mình. Có như vậy thì chủ trương nâng cao năng lực tư duy lý
luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, mới không dừng lại trên lý thuyết
sách vở, thực sự đi vào cuộc sống. Đồng thời phải không ngừng trau dồi, rèn luyện đạo
đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ này.
Kết luận
Năng lực tư duy lý luận là khả năng tư duy về những vấn đề chung, tổng thể,
toàn vẹn, nắm bắt đối tượng trong tính chỉnh thể của sự tồn tại, vận động và phát triển;
là khả năng tiến hành các thao tác tư duy; là khả năng tích lũy vốn tri thức và nghệ thuật
sử dụng vốn tri thức, xử lý thông tin và phương pháp tư duy một cách khoa học, hiệu
quả. Năng lực tư duy lý luận có cơ sở là yếu tố bẩm sinh di truyền, nhưng chủ yếu và
quyết định vẫn là sản phẩm của lịch sử - xã hội. Do đó nó phải được rèn luyện, mài giũa
thường xuyên, phải thông qua hoạt động để biến tri thức và phương pháp tư duy thành
phẩm chất và sức mạnh của chủ thể tư duy, tạo ra một sự nhanh nhạy, chính xác như
một nghệ thuật trong suy nghĩ cũng như hành động.
Năng lực tư duy lý luận là vũ khí sắc bén nhất trong hoạt động lãnh đạo nói
chung, trong hoạt động lãnh đạo của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh nói riêng. Nó giúp người
lãnh đạo tỉnh nâng cao khả năng nắm bắt bản chất chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và những tri thức khoa học
khác. Đồng thời giúp họ nâng cao năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn, cũng như
vận dụng sáng tạo lý luận, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước để ra được nghị
quyết, chủ trương, chính sách về các mặt, các lĩnh vực, phát triển đời sống xã hội và tổ
chức thực hiện nó trên địa bàn tỉnh. Năng lực tư duy lý luận còn giúp cán bộ lãnh đạo
tỉnh nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, tìm ra nguyên nhân của thành công và thất bại, đúc
rút bài học kinh nghiệm, định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
tiếp theo.
Năng lực tư duy lý luận được biểu hiện cụ thể ở người cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp tỉnh là năng lực nắm bắt chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước... trong quan hệ với nhiệm vụ của mình;
là khả năng chỉ đạo và tổng kết thực tiễn nơi mình phụ trách, từ đó mà có những điều
chỉnh phù hợp hơn với tình hình thực tế; là năng lực đề xuất những vấn đề mới nảy sinh.
Đó là yêu cầu cơ bản đối với hoạt động lãnh đạo cấp tỉnh. Đây là biểu hiện cụ thể của
năng lực tư duy lý luận. Dựa vào đó để đánh giá thực trạng đội ngũ này, có thể nhận
định rằng, năng lực tư duy lý luận của đội ngũ này còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được
yêu cầu của thực tiễn đổi mới đất nước nói chung
và địa phương nói riêng. Do đó, việc nâng cao năng lực tư duy lý luận là một
yêu cầu cấp bách và quan trọng đối với người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh.
Để làm được việc đó cần phải thực hiện đồng bộ các phương hướng và giải
pháp như đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao trình độ dân trí cho cán bộ và
nhân dân trong tỉnh; rèn luyện đạo đức cho họ; trau dồi và rèn luyện phương pháp tư
duy biện chứng duy vật thông qua học tập và tổng kết thực tiễn cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo cấp tỉnh. Đồng thời, phải tiếp tục đổi mới công tác đào tạo cán bộ và từng bước
chuẩn hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh; tiếp tục đổi mới và hoàn thiện
chính sách đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh.
Bảo đảm thực hiện tốt những vấn đề trên sẽ khắc phục sự hạn chế về năng lực
tư duy lý luận, xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh có đầy đủ
phẩm chất đạo đức, năng lực tư duy lý luận, năng lực lãnh đạo để chỉ đạo công cuộc đổi
mới ở địa phương cũng như cả nước theo mục tiêu dân giàu , nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Hoàng Chí Bảo (1988), "Từ tư duy kinh nghiệm tới tư duy lý luận", Thông tin lý
luận, (6), tr. 54-62.
2. Nguyễn Đức Bình (1992), "Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí
Cộng sản, (6), tr. 7.
3. Nguyễn Trọng Chuẩn (1978), "Di truyền và một số vấn đề nhận thức khoa học
hiện đại", Triết học, (4), tr. 90-103.
4. Nguyễn Trọng Chuẩn (1992), "Công tác triết học trong giai đoạn hiện nay và việc
thực hiện Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị về công tác lý luận", Triết học, (2),
tr. 3-6.
5. Vũ Đình Chuyên (2000), Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở nước ta hiện nay qua thực tế tỉnh Kiên Giang,
Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1/1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khóa VII, Lưu hành nội bộ.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb CTQG, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG, Hà Nội.
11. Đặng Tuyết Em (2000), Vấn đề thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong phong
cách làm việc của người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh nước ta hiện nay
(qua thực tế tỉnh Kiên Giang), Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội.
12. Nguyễn Tĩnh Gia (1997), "Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo
đức người cán bộ quản lý", Nghiên cứu lý luận, (2).
13. Tiến Hải (1989), "Năng lực lãnh đạo", Tạp chí Cộng sản, (10).
14. Phạm Văn Hai (1997), Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở (qua thực tế Long An), Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
15. Trần Hậu (1990), "Chủ nghĩa quan liêu - căn bệnh nguy hiểm làm suy yếu sức
chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản", Thông tin lý luận, (11).
16. Dương Phú Hiệp (1987), "Quán triệt tư duy biện chứng là nội dung quan trọng của
việc đổi mới tư duy", Triết học, (2).
17. Tô Duy Hợp (1988), "Hội nghị bàn tròn về đổi mới tư duy", Tạp chí Cộng sản,
(8), tr. 54.
18. Trần Đình Huỳnh (1995), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của năng lực trí tuệ
và lý luận của Đảng trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền", Xây dựng
Đảng, (2).
19. Từ Đình Hương (1993), "Đã tìm ra loại gen di truyền - nguyên nhân của bệnh trí
tuệ kém phát triển", Thông tin lý luận, (11), tr. 52.
20. Vũ Nhật Khải (1996), "Nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của giai đoạn mới", Nghiên cứu lý
luận, (4).
21. Nguyễn Thế Kiệt (2001), "Thực trạng tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo, quản lý
nước ta hiện nay", Trong sách Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh, Nxb
CTQG, Hà Nội.
22. V.I.Lênin (1975), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
23. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 9, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
24. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
25. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 20, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
26. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
27. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
28. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
29. V.I.Lênin (1984), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
30. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
31. Nguyễn Văn Linh (1991), "Học tập để nắm vững và vận dụng đúng chủ nghĩa Mác
- Lênin", Trong sách Những vấn đề lý luận cấp bách về chủ nghĩa xã hội,
Nxb Thông tin - văn hóa, Hà Nội.
32. Nguyễn Văn Linh (1987), Đổi mới tư duy và phòng cách, Nxb Sự
33. thật, Hà Nội.
34. Nguyễn Ngọc Long (1988), "Chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, khắc phục bệnh
kinh nghiệm và bệnh giáo điều trong quá trình đổi mới tư duy lý luận",
Trong sách Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy lý luận, Học viện Nguyễn
ái Quốc, Hà Nội.
35. Nguyễn Ngọc Long (1987), "Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư
duy", Tạp chí Cộng sản, (10), tr. 47-51.
36. Nguyễn Ngọc Long (1984), "Kinh nghiệm và lý luận", Nghiên cứu lý luận, (1).
37. Bùi Đình Luận (1992), "Về ranh giới giữa kinh nghiệm và lý luận trong nhận thức
khoa học và hoạt động thực tiễn", Triết học, (2).
38. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội.
39. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội.
40. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, Hà Nội.
41. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, Hà Nội.
42. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb CTQG, Hà Nội.
43. C.Mác - Ph.Ăngghen (1996), Toàn tập, tập 29, Nxb CTQG, Hà Nội.
44. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội.
45. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội.
46. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, Hà Nội.
47. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11, Nxb CTQG, Hà Nội.
48. Nguyễn Minh (1987), "Phân tích lôgíc mệnh đề đổi mới tư duy", Triết học, (1), tr.
78-85.
49. Đỗ Mười (1994), "Bài nói chuyện với cán bộ Học viện CTQG Hồ Chí Minh ngày
7/1/1994", Thông tin công tác tuyên giáo, (1), tr. 2-3.
50. Nguyễn Chí Mỳ (1990), Tư tưởng tiểu tư sản ở Việt Nam hiện nay (những biểu
hiện đặc trưng và cách khắc phục nó), Luận án PTS Triết học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
51. Thái Ninh (1988), "Mấy ý kiến về đổi mới tư duy lý luận", Tạp chí Cộng sản, (3),
tr. 13-17.
52. "Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay, ngày
28/3/1992" (1992), Thông tin công tác khoa giáo, (2), tr. 17.
53. Lê Hữu Nghĩa (1992), "Quan hệ giữa lý luận và chính trị", Tạp chí Cộng sản, (6).
54. Trần Văn Phòng (1994), Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở đội ngũ cán bộ nước ta
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Luận án PTS Triết học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
55. Trần Văn Phòng (1997), "Đạo đức một bộ phận cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay
- Thực trạng và giải pháp", Thông tin lý luận, (6).
56. Trần Văn Phòng (1998), "Quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
hoạt động lý luận của chúng ta hiện nay", Nghệ thuật quân sự, (2).
57. Nguyễn Đa Phúc (1997), Phát triển tư duy biện chứng của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cơ sở nước ta hiện nay, Luận án thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh.
58. Mai Trọng Phụng (1988), "Để thực hiện việc đổi mới tư duy, cần tìm hiểu nguyên
nhân của sự lạc hậu về nhận thức lý luận", Triết học, (4).
59. Trần Viết Quang (1996), Phát triển năng lực tư duy lý luận cho sinh viên thông
qua việc giảng dạy môn Triết học Mác - Lênin ở nước ta hiện nay, Luận văn
thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
60. Nguyễn Đăng Quang (1987), "Quan hệ giữa đổi mới nội dung và phương pháp tư
duy", Tạp chí Cộng sản, (10), tr. 39-42.
61. Phạm Ngọc Quang (1994), "Yêu cầu đổi mới về năng lực trí tuệ của Đảng trong
giai đoạn hiện nay", Triết học, (2), tr. 3-6.
62. Nguyễn Duy Quý (1987), "Nâng cao tri thức khoa học - Điều kiện quan trọng để
đổi mới tư duy", Tạp chí Cộng sản, (12), tr. 35-38.
63. Minh Tâm (Chủ biên) (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Thanh Hóa.
64. Phạm Văn Thạch (1995), Khắc phục bệnh giáo điều ở đội ngũ cán bộ nước ta
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Luận án PTS Triết học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
65. Duy Thành (1987), "Đổi mới tư duy, cơ sở khoa học và ý nghĩa thực tiễn", Triết
học, (1).
66. Hồ Bá Thâm (1994), "Bàn về năng lực tư duy", Triết học, (2), tr. 7-10.
67. Hồ Bá Thâm (1995), Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý chủ chốt cấp xã hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội.
68. Lê Thi (1988), "Thực trạng tư duy của cán bộ, đảng viên ta và căn nguyên của nó",
Triết học, (3).
69. Nguyễn Quang Thông (1987), "Những đặc trưng cơ bản của phương pháp tư duy
khoa học", Tạp chí Cộng sản, (10).
70. Trần Hữu Tiến (1990), "Công tác tổng kết thực tiễn trong điều kiện đổi mới", Tạp
chí Cộng sản, (7), tr. 63-66.
71. Lại Văn Toàn (1988), "Đổi mới tư duy lý luận. Tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi
mới", Triết học, (1), tr. 26 - 34.
72. Nguyễn Đình Trãi (1999), "Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với
việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên Mác - Lênin ở các trường
chính trị tỉnh hiện nay", Triết học, (1), tr. 50.
73. Từ điển Triết học (1986), Bản dịch ra tiếng Việt có sửa chữa và bổ sung của Nxb
Tiến bộ và Nxb Sự thật.
74. Hà Xuân Trường (1987), "Vai trò của lý luận trong cuộc sống", Nghiên cứu lý luận,
(1).
75. Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XV, Bắc Giang, 2001.
76. Vũ Văn Viên (1992), "Rèn luyện năng lực tư duy khoa học cho sinh viên, học
sinh", Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, (2), tr. 10-12.
77. Ngô Đình Xây (1990), "Vài nét về thực trạng tư duy lý luận hiện nay ở nước ta",
Triết học, (4), tr. 32-36.
Phụ lục 1
Cơ cấu Ban chấp hành đảng bộ tỉnh, thành
qua một số nhiệm kỳ đại hội
Nội dung
Nhiệm
kỳ 1977-
1979
Nhiệm
kỳ 1980-
1982
Nhiệm
kỳ 1986-
1990
Nhiệm
kỳ 1991-
1995
Nhiệm
kỳ 1996-
2000
1. Tổng số cấp ủy 1486 1485 2241 2261 2487
2. Bình quân mỗi cấp ủy 39 39 56 43 47
3..Số cũ rút ra 29,4 % 34,6 % 33,6 % 41,4 %
4. Số mới trúng cử 27,3 % 38,2 % 50,7 % 39,6 % 34,8 %
5. Thành phần công nhân 8,4 % 10,2 % 8,5 % 5,1 % 2,2 %
6. Phụ nữ 8,4 % 8,9 % 10,3 % 9,5 % 11,2 %
7. Dân tộc thiểu số 11,4 % 13,5 % 13,6 % 14,8 % 14,2 %
8. Tuổi bình quân 49,1 % 49,5 % 48,5 % 48,2 % 48,7 %
9. Dưới 40 tuổi 9,2 % 8,5 % 9,9 % 8,6 % 7,6 %
10. Trên 50 tuổi 45, 4 % 46 % 41 % 39,2 % 40,2 %
11. Có trình độ từ ĐH trở
lên
23,4 % 30,4 % 46,6 % 57,2 % 64,0 %
12. Đã học lý luận cao cấp 24,6 % 55,3 % 60,1 % 60,3 % 79,3 %
13. Đã học lý luận trung
cấp
29,2 % 29 % 30,2 % 34,4 % 18,4 %
14. Đã học quản lý kinh tế 8,6 % 21,3 % 35,6 % 35,7 % 32,2 %
15. Đã học quản lý nhà
nước
6,7 % 11,5 % 27,3 %
16. Công tác ở huyện, cơ
sở
18,7 % 19,1 % 24,3 % 24 % 1,9 %
Nguồn: Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001.
Phụ lục 2
Cơ cấu Ban chấp hành đảng bộ tỉnh, thành
Hải Phòng, Bắc Ninh, Bắc Giang, Cao Bằng
Nội dung Bắc Giang Bắc Ninh Cao Bằng Hải Phòng
1. Tổng số cấp ủy 47 45 47 47
2. Phụ nữ 8,5 % 8,8 % 12,7 % 10,63 %
3..Dân tộc thiểu số 2,1 % 95,75 %
4. Tuổi bình quân 50 48,5 47,6 49,61
5. Từ 40 đến 55 tuổi 93,6 % 13,3 % 93,64 % 85,16 %
6. Có trình độ từ ĐH trở lên 93,6 % 93,3 % 78,71 % 100 %
7. Đã học lý luận cao cấp 70,2 % 49,4 % 87,23 % 97,87 %
8. Đã học lý luận trung cấp 29,8 % 50,6 % 4,25 % 2,13 %
9. Công tác ở huyện, cơ sở 23,4 % 17,6 % 27,56% 21,27 %
Nguồn: Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang, Bắc Ninh, Cao Bằng, Hải Phòng.
Phụ lục 3
Một số kết quả sau hơn một năm thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần nghị quyết Trung ương 6 (lần 2)
khóa VIII của Ban chấp hành tỉnh đảng bộ Bắc Giang.
... Một năm qua các cấp ủy trong toàn Đảng bộ đã xử lý kỷ luật 07 cấp ủy và tổ
chức cơ sở Đảng.
- Cảnh cáo 01 đảng ủy xã, 01 chi bộ thôn.
- Khiển trách 01 ban thường vụ đảng ủy xã, 03 ban chi ủy, 01 chi bộ.
Xử lý kỷ luật 720 đảng viên, trong đó có 02 tỉnh ủy viên, 03 phó ngành cấp tỉnh,
06 huyện ủy viên và tương đương, 86 cán bộ chủ chốt cấp xã.
- Cấp tỉnh xử lý 11 trường hợp: khiển trách 03, cảnh cáo: 06, cách chức: 02.
- Cấp huyện xử lý 111 trường hợp: khiển trách 40, cảnh cáo 47, cách chức 16,
khai trừ 08.
- Cấp cơ sở xử lý 598 trường hợp: khiển trách 191, cảnh cáo 282, cách chức 38,
khai trừ 87.
... Để bảo đảm lựa chọn các cán bộ, đảng viên đủ tiêu chuẩn, tín nhiệm, xứng
đáng tham gia các cơ quan lãnh đạo của Đảng và nhà nước, cấp ủy các cấp đã không
giới thiệu và cho rút khỏi danh sách bầu cử những đồng chí có tín nhiệm thấp:
- Hội đồng nhân dân tỉnh 01 đồng chí tỉnh ủy viên.
- Hội đồng nhân dân cấp huyện 08 đồng chí, trong đó có 03 chủ tịch ủy ban
nhân dân, 05 phó chủ tịch ủy ban nhân dân.
- Hội đồng nhân dân cấp xã cho rút 102 đồng chí là cán bộ chủ chốt cấp xã.
- Ban thường vụ tỉnh ủy không giới thiệu tiếp tục tham gia cấp ủy khóa mới 01
đồng chí tỉnh ủy viên do có khuyết điểm.
- Ban thường vụ các huyện, thị ủy, đảng ủy trực thuộc không giới thiệu tiếp tục
tham gia cấp ủy khóa mới 22 đồng chí cấp ủy viên do có khuyết điểm hoặc tín nhiệm
thấp.
- Cấp ủy cơ sở cho rút 84 đồng chí cán bộ chủ chốt cấp xã.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29_2951.pdf