Luận văn Nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử của Lê Hoan

1. Lý do chọn đề tài 1.1. Việt Lam tiểu sử (hay còn gọi Việt Lam xuân thu) là cách đặt tên của Lê Hoan. Đây là một cuốn tiểu thuyết chữ Hán được viết theo kiểu chương hồi, có quy mô rộng lớn, phản ánh những biến cố lịch sử quan trọng trong những thời điểm lịch sử đặc biệt ở thế kỷ XV. Đó là sự nghiệp của đức Lê Thái Tổ gắn liền với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, người lãnh đạo nhân dân ta trường kỳ kháng chiến chống giặc Minh xâm lược. Tư tưởng chủ đạo của cuốn tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử vừa thể hiện được khát vọng độc lập, tôn phò chính thống, đề cao chính nghĩa, vừa khẳng định sức mạnh đoàn kết chiến đấu chống giặc ngoại xâm. 1.2. Sự ra đời của cuốn tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử cùng với những đóng góp về giá trị nội dung và nghệ thuật đã góp phần làm nên giá trị của văn học trung đại nói riêng, thúc đẩy quá trình phát triển của văn xuôi Việt Nam nói chung. Xuất hiện trong vai trò là đại biểu cuối cùng của tiểu thuyết chương hồi Việt Nam, Việt Lam tiểu sử của Lê Hoan đã đánh dấu những bước phát triển về mặt thể loại của tiểu thuyết chương hồi, để chuẩn bị cho sự ra đời của tiểu thuyết hiện đại có nguồn gốc từ phương Tây. 1.3. Đọc Việt Lam tiểu sử, ấn tượng lớn nhất của tác phẩm chính là ở chỗ tác giả đã rất thành công trong việc đưa các nhân vật lịch sử vào tác phẩm văn học thành những hình tượng nghệ thuật. Các nhân vật trong tác phẩm vừa bảo lưu những đặc điểm vốn có thật trong lịch sử vừa được hư cấu, sáng tạo thành những nhân vật văn học chứ không đơn thuần là những nhân vật lịch sử. Trong con mắt của các nhà nghiên cứu lịch sử thì những nhân vật này là con người của lịch sử, còn đối với các nhà nghiên cứu văn học thì đó lại là những nhân vật văn học thực sự. Điều gì làm nên những ấn tượng ấy nếu như không phải là tài năng và tâm huyết, vốn sống của nhà văn Lê Hoan. Xét một cách toàn diện, Việt Lam tiểu sử là một tác phẩm văn học đặc sắc. Trên thực tế, các tài liệu nghiên cứu, các bài viết về thiên tiểu thuyết này vẫn chưa nhiều. Vì thế, tìm hiểu nghiên cứu tác phẩm trên phương diện nghệ thuật thể hiện nhân vật là một việc làm cần thiết, nhằm có cái nhìn sâu sắc, thấu đáo và đúng đắn hơn những thành tựu, những đóng góp của tác giả, tác phẩm Việt Lam tiểu sử. Đó là những lý do thôi thúc người viết tìm hiểu về nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử của Lê Hoan. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài . 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2 3. Phạm vi đề tài 12 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 13 5. Phương pháp nghiên cứu . 13 6. Những đóng góp của luận văn . 14 7. Cấu trúc của luận văn 14 NỘI DUNG Chương 1: Tác giả, tác phẩm và vấn đề thể loại trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử 1. Tác giả Lê Hoan . 15 2. Tác phẩm Việt Lam tiểu sử 23 2.1. Tên gọi 23 2.2. Vấn đề xác định tác giả Việt Lam tiểu sử . 25 3. Vấn đề thể loại trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử . 30 3.1. Khái niệm tiểu thuyết chương hồi 30 3.2. Hoàn cảnh ra đời . 30 3.3. Đặc điểm thể loại . 34 3.4. Tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử - tiểu thuyết lịch sử được viết theo lối kết cấu chương hồi 36 3.4.1. Thể loại tiểu thuyết lịch sử . 36 3.4.2. Tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử - tiểu thuyết lịch sử viết theo lối kết cấu chương hồi . 36 Tiểu kết . 39 . Chương 2: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử - từ nguyên mẫu đến hình tượng văn học 2.1. Con đường từ hiện thực đến các hình tượng văn học . 40 2.2. Các nhân vật nguyên mẫu trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử 43 2.2.1. Lê Lợi từ nguyên mẫu lịch sử đến hình tượng văn học . 44 2.2.2. Hồ Quý Ly từ nguyên mẫu lịch sử đến hình tượng văn học . 47 2.2.3. Nguyễn Trãi từ nguyên mẫu lịch sử đến hình tượng văn học . 51 2.3. Những nét tương đồng và khác biệt giữa nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử với các nhân vật trong lịch sử 55 2.3.1. Những nét tương đồng giữa nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử với các nhân vật trong lịch sử và nguyên nhân của sự tương đồng . 56 2.3.2. Những nét khác biệt giữa nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử với các nhân vật trong lịch sử và nguyên nhân của sự khác biệt . 60 Tiểu kết 68 Chương 3: Nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử 3.1. Khái niệm nhân vật và vai trò của nhân vật trong tiểu thuyết chương hồi 70 3.1.1. Khái niệm nhân vật 70 3.1.2. Vai trò của nhân vật trong tiểu thuyết chương hồi 71 3.2. Giới thuyết chung về nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết chương hồi . 72 3.2.1. Vai trò của nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết chương hồi . 72 3.2.2. Nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết chương hồi . 73 3.2.3. Một số thủ pháp thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết chương hồi . 74 3.3. Nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử của Lê Hoan 74 3.3.1. Nghệ thuật thể hiện hành động nhân vật và sự kiện 75 3.3.2. Nghệ thuật thể hiện tính cách nhân vật 90 . 3.3.3. Nghệ thuật thể hiện ngôn ngữ nhân vật . 98 Tiểu kết . 108 KẾT LUẬN . 109 TÀI LIỆU THAM KHẢO 111

pdf122 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2219 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử của Lê Hoan, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên 89 Thông bị đánh tan ở Tích Giang, các thành Đông Quan, Thanh Hóa, Di Nam,… lần lƣợt bị hạ, Minh Tuyên Tông tiếp tục cử tƣớng đánh An Nam, Liễu Thăng đƣợc giao trọng trách chỉ huy mấy vạn hùng binh tiến đánh quan ải nƣớc Nam. Dù có một đội quân hùng mạnh nhƣng Liễu Thăng là kẻ hữu dũng vô mƣu nên sớm chuốc lấy thất bại. Vốn là một kẻ nóng nảy lại hiếu chiến, bất chấp mọi lời can ngăn của Hoàng Phúc, Liễu Thăng vừa tới quan ải đã ngông nghênh tự phụ coi thƣờng quân Nam vội vã đem quân đánh ồ ạt, dễ dàng chiếm đƣợc bảy đồn mà không hề nghi ngờ điều gì. Nắm bắt đƣợc bản chất kiêu căng tự phụ của tƣớng giặc, Lê Thiện và Lê Lợi phối hợp chặt chẽ cùng nghĩa quân Lam Sơn để dụ địch vào bẫy. Với một đội quân có vẻ chậm chạp toàn là những lính tráng mệt mỏi “thành rào sơ sài”, “hàng ngũ rời rạc, cờ xí nghiêng ngả” [26,367-368], quân ta đã đánh trúng vào lòng kiêu căng tự phụ của Liễu Thăng. Các tƣớng Xa Tam, Nông Văn Lịch, Phạm Đán, Cao Đoan, Doãn Hài, Mai Tố đƣợc giao trọng trách giữ các đồn nhƣng chỉ đánh vài hiệp lại giả thua bỏ chạy làm cho Liễu Thăng càng dƣơng dƣơng tự đắc không một chút hoài nghi “thấy nơi nào mình qua, đồn lũy đối phương đều liên tiếp bị phá, không ai dám chống cự, Thăng an tâm tiến thẳng tới địa giới Trấn Di” [26,368]. Nhƣ một con ngựa bất kham, Liễu Thăng bỏ qua mọi lời cảnh tỉnh can ngăn của Lý Khánh coi thƣờng quân Nam “dùng quân như kiến ong tụ tập”. Hắn tuyên bố phải quyết “chém được bọn man khấu mới nghe”. Liễu Thăng đâu ngờ con đƣờng tƣởng nhƣ quá dễ dàng lại đƣa hắn đến cõi chết. Lúc hùng hổ, tức tối vì bị quân Nam lăng nhục “một mình cùng một trăm quân kỵ phóng ngựa qua cầu trước” Liễu Thăng nghe thấy “súng nổ liên hồi”. Vừa tới đầu cầu bờ Nam, Thăng bị “Thái tổ giương cung bắn trúng ngực… ngã xuống nước chết… quân Bắc chết quá nửa” [26,369]. Ngƣời đọc thật sự thấy hả hê thoải mái vì sau những phút giây hồi hộp đợi chờ, trận đánh đã diễn ra theo đúng với mong muốn của mình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90 Bằng nghệ thuật miêu tả các sự kiện lịch sử, tác giả Việt Lam tiểu sử đã dàn dựng lại đƣợc hàng chục trận đánh lớn nhỏ với không khí sôi sục, diễn biến bất ngờ. Điểm khả thủ của nghệ thuật miêu tả sự kiện trong Việt Lam tiểu sử chính là ở chỗ tác giả đã để cho ngòi bút của mình cuốn theo dòng cảm xúc khi miêu tả những trận chiến quân sự trên chiến trƣờng, đem lại cho ngƣời đọc cảm giác nhƣ đƣợc sống lại những phút giây hào hùng của những trận chiến kinh thiên động địa, những phen biến đổi sơn hà. Qua đó đem đến cho độc giả cảm hứng tự hào về truyền thống đấu tranh giữ nƣớc vĩ đại của dân tộc. Đồng thời nghệ thuật miêu tả sự kiện cũng góp phần phác họa những nét tính cách của nhân vật làm tô đậm thêm chân dung của những ngƣời anh hùng khởi nghĩa Lam Sơn. 3.3.2. Nghệ thuật thể hiện tính cách nhân vật Theo cuốn Lý luận văn học do tác giả Hà Minh Đức chủ biên, “tính cách” đƣợc dùng theo cách hiểu sau đây: “Tính cách cũng là nhân vật nhưng là nhân vật được thể hiện với một chất lượng tư tưởng và nghệ thuật cao hơn, tuy chưa đạt tới mức độ là các điển hình. Tính cách mang bản sắc riêng, độc đáo của con người cá biệt, cụ thể nhưng lại mang những nét chung tiêu biểu cho nhiều người khác nhau ở một mức độ nhất định đồng thời nó là một quá trình phát triển hợp với logíc cuộc sống. Tóm lại nó có tính chung tính riêng và tính Logíc” [20,130]. Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học của tác giả Lại Nguyên Ân, tính cách đƣợc trình bày nhƣ sau: “… Tính cách là hình ảnh con người được phác họa đến mức đủ rõ và đủ tính xác định, thông qua đó làm bộc lộ một kiểu ứng xử (hành vi, ứng xử, lời nói) có căn nguyên lịch sử, đồng thời cũng làm bộc lộ một quan niệm của tác giả về con người... Tính cách (của văn học nghệ thuật) là sự thống nhất hữu cơ giữa cái chung, cái mang tính trùng lặp và cái cá thể, cái riêng không bị lặp lại, là sự thống nhất giữa cái có tính khách quan (thực Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91 tại xã hội lịch sử của đời sống con người, nơi cung cấp hình mẫu cho tính cách văn học) và cái mang đặc tính chủ quan, sự trình bày và đánh giá hình mẫu ấy bởi tác giả” [1,260]. Qua một vài khái niệm trên, ta có thể thấy tính cách có một vai trò hết sức quan trọng đối với cả nội dung và hình thức trong tác phẩm văn học. Nói nhƣ Hê ghen: “Tính cách là điểm trung tâm của mối quan hệ giữa nội dung và hình thức”. Hay Đôxtôiepski cũng khẳng định: “Đối với nhà văn toàn bộ vấn đề là ở tính cách” [20,129] (Trích lại theo giáo sƣ Hà Minh Đức). Nhận thức đƣợc tính cách là yếu tố hạt nhân của văn học cho nên trong tác phẩm Việt Lam tiểu sử Lê Hoan rất chú ý đến việc xây dựng tính cách nhân vật. Với một số lƣợng nhân vật đông đảo hùng hậu gồm cả ta và địch, quân tƣớng và binh sĩ, mẹ con, vợ chồng nhƣng đƣợc tác giả khắc họa mỗi ngƣời một nét tính cách không ai giống ai. Có những nhân vật đƣợc miêu tả rất kỹ nhƣng cũng có những nhân vật chỉ đƣợc phác họa qua một vài ba dòng hoặc xuất hiện trong một vài trang song mỗi ngƣời đều để lại dấu ấn riêng của mình không dễ bị nhòa lẫn. Những biện pháp đƣợc tác giả Lê Hoan sử dụng để thể hiện tính cách nhân vật rất phong phú và đa dạng có thể qua lời ngƣời kể chuyện, qua thái độ, cách đánh giá của nhân vật trong truyện hoặc qua ngôn ngữ, hành động,... Vì lý do hành động nhân vật đã đƣợc khai thác ở mục 3.3.1, và ngôn ngữ nhân vật sẽ đƣợc đề cập đến ở mục 3.3.3, cho nên trong phần này ngƣời viết chỉ tập trung tìm hiểu cách giới thiệu tính cách của nhân vật thông qua lời giới thiệu trực tiếp của ngƣời kể chuyện và lời giới thiệu gián tiếp của các nhân vật khác ở trong truyện. 3.3.2.1. Giới thiệu trực tiếp nét tính cách của nhân vật thông qua lời ngƣời kể chuyện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92 Trong tác phẩm Việt Lam tiểu sử, tác giả giới thiệu trực tiếp những phẩm chất vốn có của nhân vật là cách để tác giả đƣa ra những đánh giá khái quát về nhân vật nhƣ những nhận định chung nhất về nhân vật. Khi giới thiệu nhân vật Đặng Tất tác giả viết: “Đặng Tất vốn tính cần kiệm nhân từ, thương người cô quả, sống hòa mình với dân” [26,174]. Hay nói về Nguyễn Trãi tác giả viết: “Trãi từ tấm bé đã côi cút bần hàn, nhưng vốn tính thông minh, các phép bói Nhâm, Cầm, Độn, Ất, không thứ nào không thạo” [26,250]. Những lời giới thiệu trực tiếp về nhân vật đƣợc xem nhƣ là những nhận định khái quát về tính cách của nhân vật. Những lời giới thiệu ấy thƣờng đƣợc sử dụng khi nhân vật mới xuất hiện trong tác phẩm để từ đó ngƣời đọc có thể cảm nhận những nét tính cách và phẩm chất hiện lên rõ nét trong tác phẩm. Cũng có lúc những nét tính cách của nhân vật lại đƣợc đánh giá khái quát sau khi nhân vật đã xuất hiện, tức là khi nhân vật đã bộc lộ những phẩm chất đƣợc nói tới. Chẳng hạn khi ca ngợi tài đức của Lê Lợi, tác giả viết: “Thế mới biết kẻ có đức ắt được trời giúp, người theo, không cậy phú cường mà thiên hạ vẫn tự bình trị” [26,381]. Những nhận định này có ý nghĩa nhƣ là sự tổng kết lại sau một quá trình tiếp xúc với nhân vật giúp cho ngƣời đọc khẳng định lại những gì mà mình cảm nhận đƣợc là đúng đắn. Trong Việt Lam tiểu sử, tác giả giới thiệu trực tiếp nét tính cách của nhân vật là rất ít, tuy nhiên qua những lời giới thiệu trực tiếp xen kẽ thêm vào đó những lời bình luận của chính tác giả cũng là một cách góp phần làm nổi bật đƣợc phẩm chất và tính cách của một số nhân vật, đồng thời cũng là cách để tác giả bày tỏ thái độ của mình với các nhân vật trong tác phẩm. 3.3.2.2. Giới thiệu gián tiếp nét tính cách của nhân vật thông qua các nhân vật khác ở trong truyện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93 Trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử, những nét tính cách của nhân vật chủ yếu đƣợc hiện lên qua thái độ, tình cảm và cái nhìn của các nhân vật khác. Các nhân vật khác mà ngƣời viết muốn nói ở đây chính là những cá nhân cụ thể trong tác phẩm và những nhân vật đám đông (hay còn gọi là những ngƣời đƣơng thời và ngƣời đời sau). + Tính cách nhân vật đƣợc khắc họa gián tiếp qua các cá nhân cụ thể Văn học vốn phản ánh đời sống của con ngƣời. Con ngƣời là tổng hòa của những mối quan hệ xã hội phức tạp. Các nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử cũng tồn tại trong các mối quan hệ nhất định với những cá nhân khác và từ đó tất yếu nảy sinh những thái độ tình cảm nhất định trong mỗi cá nhân. Chính bởi vậy, tác giả Lê Hoan đã nhiều lần không miêu tả trực tiếp những phẩm chất, tính cách nhân vật mà để cho nhân vật của mình đƣợc hiện lên rõ nét trong cái nhìn của nhân vật khác, và rõ ràng sự cảm nhận của nhân vật khác về tính cách của nhân vật này bao giờ cũng tạo nên tính khách quan cho các hình tƣợng nhân vật bởi vì đây là những cảm nhận đã trải qua một thời gian tiếp xúc nhất định tức là đã trải qua một sự chiêm nghiệm, một quá trình lâu dài. Tâm điểm của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là ngƣời anh hùng Lê Lợi cho nên tác giả đã rất cố gắng lột tả tính cách của nhân vật này. Ngay từ đầu khi nói về lai lịch xuất xứ và tính cách của Lê Lợi, tác giả không trực tiếp giới thiệu mà để cho nhân vật hiện lên qua cảm nhận của nhân vật khác là Đoàn Phát. Khi nhận đƣợc tin Trần Thiên Bình về nƣớc, Hồ Hán Thƣơng rất lo lắng không biết phải làm gì đang trong lúc bối rối thì Đoàn Phát bƣớc lên xin tiến cử một ngƣời có thể giúp gỡ rắc rối. Lúc tiến cử Lê Lợi, Đoàn Phát giới thiệu: “Lê Lợi lúc sinh nhà có đóa mây hồng che phủ suốt ba ngày liền không tan. Ông tính tình cởi mở, ít nói, có kiến thức, Ngũ kinh, Chư sử chỉ xem qua là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 94 nhớ’’ [26,32]. Mặc dù lúc này Đoàn Phát còn đang là một vị tƣớng trung nghĩa của nhà Hồ, nhƣng trong mắt Đoàn Phát, Lê Lợi luôn đƣợc xem nhƣ một thần tƣợng, một cá nhân kiệt xuất đáng để ngợi ca. Chẳng thế mà vừa nghe Dân Hiến phỉ báng Lê Lợi, Đoàn Phát đã nói: “Nguyên soái chớ coi thường người ta, Lê Lợi có cái lượng của bậc đế vương” [26,113]. Ngay cả mẹ Đoàn Phát cũng rất tự hào vinh dự vì thấy con mình đã bỏ chỗ tối về chỗ sáng phục vụ cho Lê Lợi. Trong lời nói với con, bà luôn kính trọng và hết lời ca ngợi ông chân nhân họ Lê “Ngày trước do tình thế bức bách, con phải ra phục vụ ngụy triều, lòng mẹ thường áy náy. Nay gặp buổi Lê Công là vị vua trưởng giả khoan hồng độ lượng, mẹ muốn đến Đông Đô chửi bọn Hoàng Phúc, Trương Phụ một mẻ, có chết cũng sướng” [26,211]. Phải là con ngƣời có nhân cách mẫu mực lắm Lê Lợi mới đƣợc nhân dân mến mộ và ca ngợi hết lời đến nhƣ vậy. Khi nói về vị tƣớng tài Lê Thiện, tác giả cũng để cho ngƣời đọc cảm nhận những nét tính cách của nhân vật này qua lời giới thiệu của nhân vật Đoàn Phát “Riêng Lê Thiện mẹ ông lúc có mang, đêm nằm mộng thấy một ngôi sao to bằng hạt cườm rơi trên bụng, lúc tỉnh dậy sinh ra ông. Năm lên ba, ông đã biết nói; mười lăm tuổi, làu thông các sách kinh điển, am hiểu thao lược, người đương thời gọi ông là thần đồng” [26,32]. Cũng mến mộ Lê Thiện nhƣ Đoàn Phát, nhân vật thổ quan khi đƣợc Trƣơng Phụ hỏi: “Lê Thiện ở nước người như thế nào” thì liền đáp: “Ông ấy học vấn uyên thâm, vừa có tài, vừa có trí, cha con cùng nổi tiếng ở đời. Họ Hồ nhiều lần cho người đến mời ra giúp mà không được, nói chi tước lộc” [26,74]. Vốn là một ngƣời giàu lòng cƣơng trực, đạo đức trong sáng không màng danh lợi và luôn hết lòng vì đại cuộc, Lê Thiện luôn để lại những dấu ấn tốt đẹp với mọi ngƣời. Dù không nhận chức quân sƣ do Lê Lợi ban cho nhƣng ông vẫn đem hết khả năng của mình ra giúp dân giúp nƣớc. Trong mắt Lê Lợi, Lê Thiện là cánh tay phải đắc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 lực trợ giúp cho ông hoàn thành đại nghiệp đánh đuổi giặc Minh vì vậy làm việc gì Lê Lợi cũng hỏi Lê Thiện. Ngay cả kẻ thù cũng phải trầm trồ ca ngợi: “Lê Thiện dùng binh thật như thần” [26,119]; “Quân sư mưu lược thần tình, khiến người ta không sao đoán nổi” [26,130]; “Quân sư tính toán giỏi như thế, thật là bậc kỳ tài” [26,136]. Đến cả Nguyễn Trãi là một vị quân sƣ tài trí hơn ngƣời cũng phải phục tài của Lê Thiện: “Ông tư kiến thức hơn thần gấp mười lần, xin bệ hạ bảo ông ấy cùng hiệp sức thì có khả năng lấy thiên hạ được” [26,325]. Chỉ qua thái độ tình cảm và lời nhận xét của các cá nhân khác dành cho Lê Thiện, chúng ta đã có thể phần nào nắm bắt đƣợc những phẩm chất và tính cách của nhân vật này. Vị quân sƣ tài ba Nguyễn Trãi cũng đƣợc tác giả giới thiệu tƣơng tự, tác giả để cho phẩm chất tài năng của Nguyễn Trãi hiện lên qua cái nhìn của Lê Thiện. Khi đƣợc Lê Lợi hỏi về Nguyễn Trãi, Lê Thiện nói: “Trãi thiên văn địa lý không mặt nào là không thạo, tam giáo cửu lưu không thứ gì là không học, hơn Thiện kể gấp mười lần. Tiểu đệ nghe tên tuổi của ông ấy đã lâu, nhiều phen muốn gặp mà chưa có dịp” [26,257]. Là một ngƣời thông minh tài trí nhƣ Lê Thiện mà hết lời ca ngợi Nguyễn Trãi nhƣ vậy, khiến cho chúng ta càng hiểu hơn về phẩm chất tài năng của Nguyễn Trãi. Có thể nói, sử dụng hình thức miêu tả tính cách nhân vật qua ngôn ngữ của các cá nhân khác mang lại sự nhìn nhận đánh giá từ nhiều góc độ, nhiều hệ quy chiếu. Đó là cơ sở để có thể so sánh các ý kiến khác nhau về cùng một nhân vật và việc tổng hợp các ý kiến đó để rút ra kết luận sẽ khách quan hơn là nhìn từ một phía. Nhờ vậy mà tính cách của các nhân vật sẽ đƣợc bộc lộ khách quan và tự nhiên hơn. + Tính cách nhân vật đƣợc khắc họa gián tiếp qua lời ngợi ca của ngƣời đƣơng thời và ngƣời đời sau. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 Ở đây “ngƣời đƣơng thời và ngƣời đời sau” ngƣời viết sử dụng để chỉ số đông, không cụ thể một cá nhân nào. Những lời ngợi ca hay chê trách bình luận của họ chỉ có ý nghĩa nhƣ những lời lan truyền hay là những dƣ luận. Tuy nhiên chúng ta không thể coi thƣờng dƣ luận bởi vì trong dƣ luận ít nhiều đều có một phần sự thật. Nhằm phát triển tính khách quan, tạo góc nhìn khác nhau về nhân vật sau mỗi sự kiện mỗi quyết định của nhân vật, tác giả Việt Lam tiểu sử thƣờng đƣa ra các bài thơ bình tán của ngƣời đƣơng thời và ngƣời đời sau để làm cho tính cách của các nhân vật hiện lên rõ nét hơn trong tác phẩm. Ví dụ: Sau sự kiện Trƣơng Phụ sai Đinh Mỹ ra chém, Mỹ luôn mồm chửi mắng bọn giặc cho đến chết, tác giả viết: “Người đường thời có thơ ca ngợi rằng: Trượng Phu ngạo nghễ chí cần vương, Thà chết lòng son chẳng chịu hàng. Trung hiếu để đời vừng nhật nguyệt, Nghìn thu sử sách mãi lưu hương” [26,65]. Sau sự kiện Lê Lợi chài đƣợc gƣơm báu ở Bích Hồ “Người đương thời có thơ ca ngợi rằng: Vật thiêng đây vốn của trời trao, Tỏa chiếu hào quang tận Đẩu, Ngưu. Ba thước Long tuyền nơi đức độ, Đế vương vẫn thuộc chúa Nam châu” [26,138]. Tƣơng tự nhƣ vậy, sau sự kiện Trƣơng Phụ bị Phan Để đấm vào mắt suýt lòi con ngƣơi, Trƣơng Phụ cả giận quát lôi ra chém. Phan Để giƣơng cổ đón lấy cái chết, ca ngợi về khí tiết của Phan Để, “Người đương thời có thơ điếu rằng: Tấm lòng trung nghĩa thấu thần linh, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 Một vạn cô nhi chống hải kình. Giặc nghịch đang tâm mà giết hại, Trời kia rõ khí tiết Phan Sinh” [26,195]. Hoặc sau sự việc Phạm Yến bị Lý Bân rút gƣơm chém mà vẫn luôn mồm chửi giặc cho đến chết “Người đương thời có thơ điếu rằng: Quân kỳ ủ rũ bóng trầm trầm, Máu đẫm chiến bào chí vẫn căm. Một dạ thờ vua không đổi chủ, Lâm nguy, sống chết vẫn vô tâm” [26,282]. Đây mới chỉ là một trong số rất nhiều các bài thơ bình tán của ngƣời đƣơng thời và ngƣời đời sau đƣợc tác giả Lê Hoan sử dụng. Những lời ngợi ca, lời bình luận ấy có giá trị không nhỏ trong việc nhấn mạnh phẩm chất và tƣ cách của nhân vật, đồng thời có ý nghĩa nhƣ là những lời đánh giá khách quan về nhân vật trong tác phẩm. Đây cũng chính là cách thức để tác giả lồng ghép những nhận định, sự đánh giá hay những quan niệm của mình đối với những hành động việc làm cũng nhƣ nhân cách của các nhân vật. Việc sử dụng những bài thơ bình tán của ngƣời đƣơng thời và ngƣời đời sau là một trong những sáng tạo và cũng là sự táo bạo của ngƣời viết nhằm thể hiện tối đa quan niệm về tính khách quan cho các nhân vật của mình. Cùng với sự thể hiện tính cách của nhân vật văn học thông qua hành động và ngôn ngữ, thì việc sử dụng trực tiếp ngôn ngữ của tác giả và gián tiếp qua ngôn ngữ của các nhân vật khác để bộc lộ tính cách của nhân vật, cho thấy một đóng góp mới trong nghệ thuật thể hiện hình tƣợng nhân vật của tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử với văn xuôi chữ Hán Việt Nam thời trung đại. Có một điều đáng nói là, dù nhân vật đƣợc miêu tả theo cách nào, trực tiếp hay gián tiếp thì tất cả đều là sự nỗ lực cố gắng của tác giả Lê Hoan nhằm khai thác và thể hiện toàn diện những nét tính cách của từng nhân vật. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 3.3.3. Nghệ thuật thể hiện ngôn ngữ nhân vật Theo Từ điển thuật ngữ văn học viết: “Ngôn ngữ nhân vật là một trong các phương tiện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật... trong các tác phẩm tự sự, nhà văn thường trực tiếp miêu tả phong cách ngôn ngữ của nhân vật” [23,214]. Ngôn ngữ nhân vật là yếu tố quan trọng để cấu thành nên nhân vật. Tính cách cũng nhƣ bản chất nhân vật sẽ đƣợc bộc lộ một cách rõ ràng thông qua ngôn ngữ nhân vật. Với Việt Lam tiểu sử nói riêng, văn học trung đại nói chung, ngôn ngữ nhân vật là một phƣơng tiện để tác giả bộc lộ thái độ, quan điểm của mình về nhân vật, về cuộc sống xã hội. Nói cách khác ngôn ngữ nhân vật trong văn học trung đại và Việt Lam tiểu sử đã đƣợc sàng lọc cẩn thận qua ngôn ngữ của tác giả. Ngôn ngữ của nhân vật văn học trong tác phẩm đƣợc thể hiện dƣới nhiều dạng thức khác nhau nhƣ: Ngôn ngữ đối thoại, ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Trong Việt Lam tiểu sử, ngôn ngữ của nhân vật hầu hết là thể hiện qua ngôn ngữ đối thoại. Đó là lời nói trực tiếp của các nhân vật trong những tình huống cụ thể, là những phản ứng rất tự nhiên của nhân vật trƣớc hiện thực nhƣng lại bắt nguồn sâu xa từ tính cách nhân vật. Do vậy bao giờ qua những lời nói ấy cũng thể hiện đƣợc những nét thuộc về bản chất nhân vật. Để khắc họa chân dung Lê Lợi - một vị vua nhân từ trung nghĩa, tác giả Lê Hoan không những chỉ bằng những hành động mà còn chú ý miêu tả rất kỹ ngôn ngữ của nhân vật này. Bất kỳ một lời nói nào của Lê Lợi nói ra đều thấm đẫm tình yêu thƣơng dân chúng. Ông dấy binh dẹp loạn không phải màng danh lợi mà tất cả là vì giang sơn xã tắc. Khi giặc Minh lộ rõ tham vọng thôn tính nƣớc Nam, Lê Lợi quyết không thoả hiệp với giặc Minh. Lúc sứ nhà Minh mang chiếu sang An Nam, Lê Lợi nói với các tƣớng rằng: “Ta dẹp giặc là để khôi phục nhà Trần, không ngờ lại hóa thành trò bù nhìn! không biết Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 Giản Định giờ đang ở đâu” [26,161]. Khát vọng giúp nhà Trần khôi phục lại giang sơn đã nhen nhóm từ lâu trong suy nghĩ của Lê Lợi, cho nên khi Đoàn Phát vừa có ý “tôn minh công lên làm chúa” Lê Lợi nói: “Tiên sinh mới đến sao lại đẩy tôi vào chỗ bất nghĩa? Tôi mặt mũi nào đang tâm chiếm đoạt thiên hạ của họ Trần” [26,162]. Điều Lê Lợi sợ nhất là phụ nghĩa với ngƣời. Dù bị Trần Giản Định lột hết chức tƣớc đuổi về quê, Lê Lợi vẫn một lòng giữ trọn khí tiết. Lúc cho quân vào Nghĩa An Lê Lợi vẫn cho quân vào bái yết vua Trần. Biết tin vua Trần đã vào Thuận Châu Lê Lợi nói: “Muốn được vào gặp mặt vua, may được rủ lòng thương để mình phải dốc tâm phụng sự. Nay lại không gặp phải chăng tại trời?” [26,224]. Là ngƣời nhân từ lại có cá tính khiêm tốn, khi Nguyễn Trãi và các tƣớng sĩ đồng lòng “xin minh công hãy lên làm chúa”, Lê Lợi vẫn nhất định không nghe. Lê Lợi nói với Nguyễn Trãi: “Sao ông lại thốt ra những lời như vậy? Ta có đức độ gì đâu mà giám làm vua” [26,259]. Từ chối lời đề nghị của mọi ngƣời không phải vì ông sợ gánh nặng trách nhiệm mà ông không muốn mang tiếng là kẻ bất nghĩa chiếm ngôi của nhà Trần. Với Lê Lợi, khát vọng trừ bạo cứu dân luôn là một lý tƣởng cao nhất để ông hƣớng tới. Nói đến Nguyễn Trãi là nói đến một vị quân sƣ tài trí mƣu lƣợc. Bởi vậy khi thể hiện nhân vật, tác giả Lê Hoan rất chú ý lựa chọn ngôn ngữ để thể hiện đƣợc bản chất của con ngƣời này. Vốn là ngƣời yêu thƣơng dân chúng, những lời nói của Nguyễn Trãi đối với ngƣời trên kẻ dƣới đều xứng danh là một bậc hiền sĩ. Chẳng hạn lúc “vén màn xông vào” gặp Lê Lợi, Nguyễn Trãi làm Lê Lợi giật mình định rút gƣơm ra chém nhƣng nhờ những lời nói hết sức giõng rạc lƣu loát Nguyễn Trãi không những không bị Lê Lợi sử tội chết mà còn đƣợc kính mộ “thần là tiến sĩ triều Trần, người Nhị Khê, họ Nguyễn tên Trãi, bởi tướng nhà Minh bạo ngược nên phải lẩn lút tha phương. Nghe minh công là bậc trưởng giả khoan dung, thần đặc biệt muốn tới đây xin theo, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 nhưng không có cách gì đề đạt nguyÖn vọng. May gặp lúc minh công ra tiếp dân, thần hân hạnh được biết dung nhan, muốn vái chào nhưng sợ đường đột. Vì vậy mà liều lĩnh đi theo trốn vào góc phòng” [26,252]. Chỉ thông qua một vài câu nói rất ngắn gọn khi đối đáp với Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã bộc lộ tất cả sự khôn ngoan khéo léo của mình. Cũng vì những lời nói khôn khéo này mà ông nhanh chóng chiếm đƣợc cảm tình của Lê Lợi. Bản chất lanh lợi cộng với sự thẳng thắn khiến cho Nguyễn Trãi không ngại nói ra những suy nghĩ của mình với bất cứ ai kể cả với Lê Lợi. Thấy Lê Lợi một mực từ chối lên làm chúa, Nguyễn Trãi nói: “Mệnh trời ở lòng người, lòng người theo về đâu tức mệnh trời ở đó. Nay mệnh trời đã ở minh công đúng như người ta nói: “Mệnh trời quy về kẻ có đức”. Nếu không có đức sao nhân tâm lại hướng về? Minh công dù muốn tránh cũng không được” [26,259]. Những lời nói của Nguyễn Trãi thể hiện sự am hiểu sâu rộng về “mệnh trời” về lòng ngƣời. Qua cách nói ấy còn thấy đƣợc ở Nguyễn Trãi một vị quân sƣ có tầm nhìn xa trông rộng, một con ngƣời sáng suốt am hiểu lòng dân. Nguyễn Trãi thật không hổ danh là một vị quân sƣ “văn võ song toàn” đƣợc Lê Lợi hết sức tin cậy. Dẫu không phải là một yếu nhân lịch sử nhƣng Đoàn Phát cũng đƣợc tác giả Lê Hoan chú ý miêu tả ngôn ngữ để làm nổi bật đƣợc phẩm chất thẳng thắn cƣơng trực của nhân vật này. Ví dụ khi còn là một tƣớng nhà Hồ, ngƣời đọc rất ấn tƣợng với những lời nói rất ngay thẳng dứt khoát của Đoàn Phát. Lúc Dân Hiến bị Phạm Đán lừa tổ chức tiệc tùng khao quân ăn uống, Đoàn Phát không hề sợ hãi “hớt ha hớt hải” từ ngoài vào lớn tiếng mắng rằng: “Nay hai nước đang giằng co chưa biết hươu chết vào tay ai, vậy mà Nguyên Nhung không biết lo xa, đam mê chơi bời” [26,92]. Những lời nói này đã chứng tỏ đƣợc khí chất khẳng khái của Đoàn Phát. Với con ngƣời này, mọi lời nói đều tỏ ra ngay thẳng không biết vòng vèo uốn lƣợn. Tuy đã bị bắt nhƣng Đoàn Phát không hề nhún mình, thấy Lê Thiện hạ mình pha trà liền gạt đổ cốc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101 nƣớc rồi mắng Lê thiện rằng: “Ngươi là kẻ không có lương tâm cùng sinh ở cõi nước Nam lại thông đồng với giặc Bắc, cùng chung một tổ quốc mà lại bỏ rơi dân mình, sống ở nước nhà mà dở mặt phản chúa, ta mặt mũi nào đi uống trà cùng ngươi? mau mau chém ta đi” [26,116]. Những lời nói lƣu loát thẳng thắn của Đoàn Phát làm cho Lê Thiện càng mến mộ và quyết tìm mọi lý lẽ để thuyết phục. Khi đã phân biệt đƣợc chính ngụy, Đoàn Phát về phò tá cho Lê Lợi trƣớc sau vẫn là con ngƣời thẳng thắn dám nghĩ dám làm. Vừa biết tin triều Minh chiếm giữ lãnh thổ, Đoàn Phát không quản gió mƣa tức tốc đến gặp Lê Lợi nói: “Kế sách bây giờ là hãy tiêu diệt bọn tướng tá nhà Minh rồi tôn Minh công lên làm chúa... nếu chúng đến là đánh chứ đâu có chuyện non sông ta cứ để bọn chúng ngang nhiên muốn làm gì thì làm” [26,162]. Thấy Lê Lợi không chịu lên làm chúa, Đoàn Phát không ngại nói ra những suy nghĩ của mình: “Người ta theo minh công là để chung lo việc đánh kẻ có tội, cứu vớt dân lành. May được chút công lao, trên có thể làm vẻ vang tiên tổ, dưới có thể làm hiển hách họ hàng. Nếu Minh công không làm theo ý nguyện của dân thì lòng người sẽ trễ biếng, còn ai cộng sự với minh công nữa” [26,258]. Dám nói ra những suy nghĩ của mình không phải Đoàn Phát không kính nể ngƣời khác mà xuất phát từ bản chất thật thà ngay thẳng. Từng lời nói của Đoàn Phát đều là lời nói của một con ngƣời trung nghĩa thật đáng để cho ngƣời sau phải ngƣỡng mộ nể phục. Để lột tả bộ mặt xấu xa nham hiểm của Trƣơng Phụ - một tƣớng giặc của nhà Minh, tác giả Việt Lam tiểu sử không chỉ bằng hành động mà còn tái hiện qua ngôn ngữ của nhân vật này. Vừa thấy Trần Thiên Bình sang cầu cứu nhà Minh, Phụ đã tâu với Minh Thành Tổ “Quý Ly phản phúc bạo ngược đủ điều, tội ác không gì lớn hơn. Nay nhân cơ hội trong nước biến loạn, phúc tộ họ Trần đã hết, ta nên đưa quân đi bắt cha con họ Hồ đem về đây rồi đặt nước họ vào chế độ quận huyện để dứt mối lo về sau” [26,27]. Lời nói của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102 Trƣơng Phụ ngay từ đầu đã bộc lộ rõ ý định thôn tính phƣơng Nam, bắt phƣơng Nam thuần phục và biến cả đất nƣớc ấy thành quận huyện nhỏ, thuộc quyền cai trị của phƣơng Bắc. Khi đảm nhiệm làm một tƣớng giặc đƣa quân sang xâm lƣợc Nam Việt, Trƣơng Phụ luôn tỏ ra kiêu căng tự phụ. Mặc dù mọi chiến thắng nhà Hồ phần lớn là nhờ công lao của Lê Thiện nhƣng thấy nhiều ngƣời tán dƣơng Lê Thiện, Phụ khó chịu nói: “Hạng tép riu ấy thì làm nên trò trống gì. Chẳng qua là dựa vào cái thế của ta để hành động mới được như vậy” [26,120]. Những lời nói của Trƣơng Phụ còn bộc lộ đƣợc cả bản chất lạnh lùng thâm độc của hắn. Khi thấy Tiết Thạch và Nhiếp Hạnh giết bọn Hiến, Nhạc, trả thù cho cha, Trƣơng Phụ thản nhiên nói: “Ngươi trả thù cho cha một cách ngoạn mục, chỉ tiếc là giết khi người ta đang bị trói, giết như thế thì chưa khoái lắm” [26,121]. Chỉ với ngần ấy câu nói cũng đã đủ vẽ nên những nét tính cách cơ bản của Trƣơng Phụ - một kẻ tàn bạo không có tính ngƣời. Những ngày tháng đƣa quân sang xâm lƣợc Nam Việt, chính Trƣơng Phụ đã nhiều lần hồn siêu phách lạc, biết bao nhiêu tƣớng sĩ nhà Minh phải bỏ mạng ở nƣớc Nam, nhân dân đất Việt thì lầm than nheo nhóc. Vậy mà cho đến phút cuối khi Minh Tuyên Tông đƣa tờ biểu cầu hòa của Lê Lợi cho Trƣơng Phụ đọc để ngầm xem ý Phụ thế nào, Phụ vẫn một mực nói: “Không thể như thế được. Tướng sĩ vất vả suốt bao nhiêu năm trời mới có được đất ấy. Tờ biểu này là do sự xảo quyệt của Lê Lợi mà ra. Ta nên đưa thêm quân sang để giết tên giặc đó” [26,375]. Tất cả mọi lời nói của Trƣơng Phụ đều chứa chất những mƣu đồ xảo quyệt nham hiểm. Mỗi lời nói mà Y thốt ra đều làm sáng tỏ bản chất của một kẻ hiếu chiến luôn khát chinh chiến và xâm lăng. Với con mắt nhìn tinh tế của tác giả, chỉ thông qua một vài câu nói của nhân vật thì tính cách của nhân vật đã hiện lên một cách rõ rệt, cụ thể và đầy đủ nhất. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103 Có thể thấy khi xây dựng nhân vật, tác giả Lê Hoan rất chú trọng đến ngôn ngữ nhân vật. Thực chất ngôn ngữ cũng là một dạng hành động của nhân vật, chỉ có điều đặc biệt hơn đây là hành động với chất liệu là ngôn từ. Việc tách riêng ngôn ngữ ra khỏi hành động cũng là nhằm đi sâu hơn vào hệ thống này để tìm hiểu đặc trƣng rất riêng của nó. Từ đó hiểu hơn về nhân vật, chủ thể của ngôn ngữ đó. Các nhân vật trong Việt Lam tiểu sử do đƣợc xây dựng chủ yếu trên bút pháp tƣợng trƣng, ƣớc lệ cho nên ngôn ngữ của nhân vật cũng chịu ảnh hƣởng bởi bút pháp này. Ngôn ngữ của các nhân vật nhiều khi bị quy định chặt chẽ bởi lối công thức, nhiều sáo ngữ hoa mĩ, diễn tả bằng nhiều câu biền ngẫu, đăng đối nhịp nhàng. Ta có thể dễ dàng bắt gặp trong Việt Lam tiểu sử những đoạn đối thoại giữa ngƣời trên kẻ dƣới, giữa bề tôi và tƣớng lĩnh. Các nhân vật bề tôi đều có một thái độ rất khiêm nhƣờng, lời lẽ của họ bao giờ cũng thể hiện sự tôn kính. Lời nói của các nhân vật thƣờng chứa những cụm từ có tính chất hoa mĩ, giàu hình ảnh, ngƣời nói thƣờng so sánh mình với những sự vật nhỏ nhoi thấp hèn đã trở thành công thức kiểu nhƣ: “Gắng sức ngựa hèn”, “tài hèn học cạn, ít trí nghèo mưu”, “cá bơi trong chậu”,… Chẳng hạn nhƣ lời nói của Trần Thiên Bình với vua Minh Thành Tổ: “Nay hoàng thượng thừa kế đại Tống, tôn trọng nếp xưa cúi mong bệ hạ lấy đức sinh thành của trời đất cha mẹ mà thương sót kẻ bề tôi bé mọn này, làm cho đời đời được giữ đất phương Nam chăm lo triều cống” [26,24]. Hoặc lời nói của Lê Thiện với Mai Sĩ sứ giả nhà Hồ: “Coi như anh em Thiện đây chỉ là hạng trí mọn tài sơ không xứng đáng để triều đình sai phái” [26,36]. Có thể nói, ngôn ngữ đối thoại trong Việt Lam tiểu sử của Lê Hoan là một hiện tƣợng khá lý thú. Dù nhân vật là ngƣời có trình độ học vấn cao hay chỉ là kẻ bề tôi hèn mọn không biết chữ, dù là bậc khanh tƣớng hay những con ngƣời bình thƣờng thì ngôn ngữ của họ bao giờ cũng rất sang trọng thể hiện tầm nhận thức cao của những ngƣời có học thức. Đấy là cách nói có hình ảnh, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 thƣờng hay so sánh ví von với những ngƣời nổi tiếng trong sử sách khiến cho ngƣời đối thoại có ấn tƣợng sâu sắc. Ví nhƣ lời nói của Mai Sĩ sứ giả nhà Hồ lúc đem thƣ của Hồ Quý Ly đến gặp Lê Lợi: “Ngày nay trên có thánh chúa sáng suốt, khắp bốn biển không ai không xưng bề tôi. Giúp triều đình giữ mối hòa hiếu với các nước vĩnh viễn loại bỏ nạn xâm chiếm từ bên ngoài, vin theo mình rồng, tựa vào cánh phượng vốn không thiếu chi người. Riêng có hạng hiền sĩ câu ở sông Vị, cày ở núi Sằn thì còn đang khát khao mong ngóng. Nếu quý ngài chịu tung chí hồng hộc, trổ tài kỳ lân ra mà duy trì thế đạo giúp chúa làm lợi cho dân khiến công danh lưu sử sách thì hay biết mấy” [26,36]. Rõ ràng thông qua ngôn ngữ nhân vật, tác giả đã nói lên đƣợc rất nhiều điều. Chỉ cần qua những ngôn ngữ này chúng ta có thể thấy Mai Sĩ là một ngƣời có trình độ học vấn cao. Để cố gắng thuyết phục đƣợc anh em nhà họ Lê về với Hồ Quý Ly, Mai Sĩ đã lựa chọn những ngôn ngữ hết sức giàu hình ảnh, có sức thuyết phục mạnh mẽ. Nhƣng thật không may cho Mai Sĩ ngƣời đối thoại với ông lại là Lê Thiện một con ngƣời tài trí vốn thông kim bác cổ. Nếu nhƣ ngôn ngữ của Mai Sĩ đã rất sắc bén thì những lời nói của Lê Thiện còn sắc bén hơn. Đáp lại những lời nói của Mai Sĩ, Lê Thiện cũng dùng những lời nói ví von gắn liền với những điển tích điển cố “Trên đã có bậc vua hiền như Nghưu Thuấn, dưới lại có bề tôi giỏi như Trác, Tiết, Vũ, Cao, dù bên ngoài triều đình có hàng trăm Sào Phủ, Hứa Do đi chăng nữa thì cũng không ảnh hưởng đến nền thịnh trị của đời Đường, còn như anh em Thiện đây…” [26,36]. Những lời nói của Lê Thiện không chỉ thể hiện đƣợc sự hiểu biết sâu rộng về tri thức mà qua đó ông cũng kín đáo gửi gắm lời từ chối hợp tác với họ Hồ. Đây cũng là một cách từ chối rất khéo léo, chắc chắn rằng ngƣời có hiểu biết nhƣ Mai Sĩ không những không bực tức mà còn phải kính nể. Hay nhƣ lời biện bạch của ngƣời đàn bà họ Đinh ở vùng Liêu Đông nói với chồng về bài thơ tức cảnh trên vách cũng xứng danh là một ngƣời Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105 thông thạo chữ nghĩa “thiếp từ tuổi còn thơ đã nâng khăn sửa túi cho chàng, không hề thay lòng đổi dạ, trước sau vẫn một niềm chung thuỷ, nào có chuyện chăng gió như Tiểu Ngọc, sỗ sàng như Văn Quân? Bài thơ kia là để vịnh cái bóng của thiếp đó thôi” [26,45]. Cho đến khi tự tử biến thành yêu tinh nƣơng náu trên cây ngô đồng ngàn năm mà lời nói của ngƣời đàn bà họ Đinh vẫn một mực là con nhà dòng dõi. Lúc nói chuyện với Quý Ly, luận về đức trị của vua thị nói: “Nhà trần hết phúc cho nên đức không thắng được yêu tinh, còn nay là triều thánh yêu tinh không thắng được đức. Huống chi bệ hạ đạo như Nghiêu Thuấn, đức giống Vũ Thang, lấy lễ làm nhạc đánh xe, lấy nhạc làm cỗ xe chở, dùng người làm cái mộc, dùng nghĩa làm cái khiên. Như thế kẻ xa sẽ tới, người gần sẽ đẹp lòng” [26,47]. Chỉ là một ngƣời phụ nữ bình thƣờng thôi nhƣng mọi lời nói đều hết sức chau chuốt bóng bẩy. Ngƣời đàn bà họ Đinh trong khi đối thoại thƣờng hay so sánh ví von với các nhân vật nổi tiếng có trong sử sách. Cách nói ấy vừa thể hiện đƣợc trình độ hiểu biết sâu sắc lại vừa gây đƣợc thiện cảm đối với ngƣời nghe. Các nhân vật trong Việt Lam tiểu sử khi đối thoại không chỉ so sánh ví von với các nhân vật có trong điển tích điển cố mà đôi lúc họ còn sử dụng những lời nói hết sức văn hoa bóng bẩy kiểu nhƣ lời nói của Trƣơng Phụ (đại tƣớng nhà Minh) với thái giám nhà Trần là Lý Tự Thành: “Lan sinh ở khe sâu không có ý khoe thơm mà hương thơm ngào ngạt, trăng mọc ở nơi biển thẳm không cố tình phô sắc mà ánh sáng lung linh. Cần gì phải ngắm mình trước gương, đứng đầu ngọn gió rồi mới biết?” [26,75]. Để thuyết phục đƣợc Lý Tự Thành sớm khuyên con rể ra hợp tác với mình, Trƣơng Phụ đã dùng những lời nói thật bay bƣớm khen chàng rể Lê Thiện khiến cho Lý Tự Thành ít nhiều cũng phải xiêu lòng. Điểm dễ nhận thấy nhất với các nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử là trong những cuộc đối thoại giao tiếp, tác giả Lê Hoan thƣờng để cho các Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106 nhân vật viện dẫn các điển tích điển cố trong sử sách Trung Quốc khiến cho tính chất của lời nói trở nên sắc sảo, mạnh mẽ và dễ hiểu hơn đối với ngƣời đối thoại. Chẳng hạn khi đối thoại với Đoàn Phát, luận về tội ác của họ Hồ, Lê Thiện nói: “Họ Hồ tàn hại muôn vật giết hại dân lành ác như Kiệt Trụ, giết vua cướp nước tội quá Vương Tào. Huống hồ dân là dân nhà Trần, chúa là chúa nhà Trần. Việc dấy quân của Thiện này không nhằm lợi ích bản thân, mà chính là trên là vì nước dưới thì vì dân” [26,117]. Để thu phục đƣợc Đoàn Phát một vị tƣớng giỏi trung nghĩa của nhà Hồ, Lê Thiện đã rất khéo léo viện dẫn những điển tích, điển cố rất quen thuộc để vạch ra tội ác tày trời của nhà Hồ giúp Đoàn Phát nhanh chóng phân biệt đƣợc chính ngụy. Những câu đối đáp ngắn gọn của Lê Thiện vừa thể hiện sự hiểu biết về lẽ đời, khả năng đối đáp linh hoạt lại vừa làm cho ngôn ngữ trở nên trang trọng, giàu khả năng biểu cảm. Ngoài ra, chúng ta còn có thể dễ dàng bắt gặp các điển tích điển cố đƣợc các nhân vật trích dẫn trong khi giao tiếp nhƣ lời của Cảnh Dị lúc đối đáp với vua Trần: “Nhị đế nhường ngôi cho người hiền, Tam Vương nhường ngôi cho con mình. Trần Tể tướng đức, nghĩa, nhân, hiếu đều nổi tiếng ở đời, bệ hạ nhường ngôi cho ông ấy ý đồ cũng giống như vua Nghiêu, vua Thuấn có gì mà không được” [26,183]. Hay nhƣ lời của Phùng Quý nói với Đỗ Dung: “Ta là tôi con của thiên triều, đứng vào hàng danh giá chỉ muốn sống như Hứa Viễn, Trương Tuần, chứ không thể làm theo Lý Lăng, Vệ Luật. Nguyện làm cái lưỡi của Nhan Thường Sơn, cái đầu của Nghiêu tướng quân, đó là tố trí của đấng trượng phu” [26,294]. Việc tác giả Việt Lam tiểu sử để cho các nhân vật vận dụng các điển tích điển cố trong sử sách Trung Quốc và Việt Nam, vừa nhằm mục đích tô điểm cho ngôn ngữ của nhân vật có sắc thái trang trọng vừa thể hiện đƣợc sự hiểu biết sâu sắc của ngƣời nói làm cho ngƣời đối thoại nhanh chóng bị thuyết phục trƣớc ngôn ngữ đầy hàm xúc nhƣ vậy. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 107 Có thể nói rằng, ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử là một đặc điểm khá lý thú. Cùng với lối nói ví von hình ảnh, viện dẫn các điển tích, điển cố, các nhân vật trong Việt Lam tiểu sử nhiều lúc còn sử dụng lối chơi chữ trong khi giao tiếp thể hiện đƣợc trình độ học vấn của ngƣời nói, đồng thời khiến cho lối diễn đạt phù hợp với cấu trúc câu văn biền ngẫu. Chẳng hạn, nhân cơ hội Phạm Đán vào rừng bắt đƣợc đôi chồn đen mang tới dâng nộp cho Lê Thiện, ông đã mƣợn hình ảnh đôi chồn đen này để chơi chữ nói về Hồ Hán Thƣơng “Chồn tức là Hồ, đen tức là Thương. Hán Thương sắp đi đời rồi sao?” [26,88]. Lối chơi chữ của Lê Thiện càng góp phần thể hiện đƣợc trình độ uyên thâm của ông. Vốn là ngƣời “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý” những lời mà Lê Thiện nói ra đều xuất phát từ sự am hiểu sâu sắc về thời thế. Bởi vậy, dựa vào đôi chồn đen Phạm Đán vừa săn đƣợc, Lê Thiện đã chơi chữ luận giải ý nghĩa sau đó sai ngƣời nộp cho Dân Hiến khiến hắn bị mắc mƣu góp phần dẫn đến sự thất bại của nhà Hồ sau này. Nhìn chung trong Việt Lam tiểu sử, Lê Hoan đã vận dụng rất có hiệu quả việc tái hiện lại những lời nói của các nhân vật nhƣ một phƣơng tiện để làm nổi bật những nét tính cách cơ bản của nhân vật. Có thể khẳng định rằng, ngôn ngữ nhân vật trong Việt Lam tiểu sử đã thực hiện tốt chức năng của mình là một trong những yếu tố quan trọng để tạo nên tính cách nhân vật. Ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật trong tác phẩm đã tạo nên đƣợc một phần giá trị nghệ thuật của tác phẩm Việt Lam tiểu sử nói riêng và tiểu thuyết chƣơng hồi Việt Nam chữ Hán nói chung. Chính nhờ có ngôn ngữ làm cho các nhân vật trong Việt Lam tiểu sử sống động hơn so với các nhân vật trong sử sách. Ngôn ngữ nhân vật có thể đƣợc đánh giá là một trong những thành công của Việt Lam tiểu sử. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 108 Tiểu kết Với sự kết hợp một cách hài hòa các thủ pháp xây dựng nhân vật, tác phẩm Việt Lam tiểu sử đã rất thành công trong nghệ thuật thể hiện nhân vật. Sở dĩ tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử có nhiều trang viết gây đƣợc ấn tƣợng đối với ngƣời đọc chính là nhờ vào nghệ thuật thể hiện nhân vật của Lê Hoan. Một mặt, tác giả Việt Lam tiểu sử vẫn tuân theo những công thức của bút pháp truyền thống, mặt khác nhà văn cũng luôn cố gắng sáng tạo theo cách riêng của mình và đã để lại những dấu ấn khá đậm nét. Trong quá trình thể hiện nhân vật, tác giả Lê Hoan không tránh khỏi những hạn chế nhƣ: Tính cách của nhân vật đa dạng nhƣng chƣa thật sự có chiều sâu, nhà văn chƣa chú ý miêu tả nội tâm nhân vật, hoặc do ảnh hƣởng của tiểu thuyết chƣơng hồi Trung Quốc đặc biệt là tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa nên nhiều nhân vật còn mang dáng dấp nhân vật của tiểu thuyết này: Lê Lợi giống Lƣu Bị, Lê Thiện giống Khổng Minh, Đoàn Phát giống Từ Thứ,... Song với những gì mà tác giả Lê Hoan thể hiện, chúng ta không thể không khẳng định rằng nhờ nghệ thuật thể hiện nhân vật, Lê Hoan đã giúp cho Việt Lam tiểu sử đạt đến giá trị văn học đích thực. Nhân vật từ nguyên mẫu lịch sử trở thành hình tƣợng văn học sống động lung linh hơn, giúp cho tác phẩm có một sức sống lâu dài và bền bỉ hơn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 109 KẾT LUẬN 1. Việt Lam tiểu sử là cuốn tiểu thuyết chữ Hán viết theo lối kết cấu chƣơng hồi ra đời vào buổi xế chiều của nền văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm đã dựng lên đƣợc một bức tranh hoành tráng rộng lớn của dân tộc trong vòng 30 năm đầu thế kỷ XV. Đây là giai đoạn có nhiều biến cố lịch sử trọng đại, đặc biệt là sự kiện Lê Lợi lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn đánh thắng quân Minh đem lại độc lập tự do cho dân tộc. Bằng tài năng của mình, tác giả Việt Lam tiểu sử đã đem đến cho ngƣời đọc cái cảm giác đƣợc sống lại những giây phút hào hùng, những phen biến đổi sơn hà. Qua đó, đem đến cho độc giả cảm hứng tự hào về truyền thống đấu tranh giữ nƣớc vĩ đại của dân tộc. Chúng ta ghi nhận tâm huyết và sự cố gắng của nhà văn Lê Hoan trong việc tái tạo lại những năm tháng vừa đau thƣơng vừa hùng tráng ấy. Tìm hiểu giá trị của Việt Lam tiểu sử ta có thêm cơ sở để khẳng định, cùng với truyện ngắn, ký, tiểu thuyết chƣơng hồi đã hoàn chỉnh hình thức văn xuôi tự sự trung đại. Từ đây, văn xuôi tự sự trƣởng thành vƣợt bậc, đủ sức phản ánh những vấn đề lịch sử xã hội rộng lớn với tầm khái quát hóa cuộc sống trên quy mô toàn quốc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 110 2. Việt Lam tiểu sử là một cuốn tiểu thuyết lịch sử lấy nhân vật và sự kiện lịch sử làm nòng cốt. Từ nguyên mẫu lịch sử đi vào tác phẩm văn học để trở thành hình tƣợng nghệ thuật là cả một quá trình. Tuy vậy trong khi sáng tạo nghệ thuật, nhà văn Lê Hoan luôn cố gắng thoát khỏi cách ghi chép lạnh lùng của các sử gia, đồng thời chú ý khai thác những yếu tố mà các nhà sử học ít khi chú ý tới. Đó là những chi tiết cụ thể trong hành động, ngôn ngữ tính cách của nhân vật, đặc biệt là sử dụng các yếu tố hƣ cấu để làm nên chất huyền thoại và tạo nên hƣơng men quyến rũ cho ngƣời đọc. 3. Một trong những thành công của Việt Lam tiểu sử chính là nghệ thuật thể hiện nhân vật. Nhân vật trong Việt Lam tiểu sử không chú trọng miêu tả về đặc điểm tâm lý mà đƣợc chú ý nhiều hơn ở phƣơng diện hành động, ngôn ngữ. Chính ở phƣơng diện này, nhân vật có khả năng tự bộc lộ những phẩm chất và tính cách của mình một cách khách quan và nhiều chiều nhất. Nghệ thuật thể hiện nhân vật có thể xem là một yếu tố quan trọng giúp chúng ta khẳng định tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử là một tác phẩm văn học có nhiều giá trị trong nền văn học truyền thống của dân tộc. 4. Mặc dù đạt đƣợc nhiều thành tựu nhƣng tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử vẫn mắc phải những hạn chế nhƣ: Việc phản ánh sai lệch sự kiện tiến trình lịch sử (sáng tạo ra việc Lê Lợi bắt tay với giặc Minh đánh nhà Hồ); khắc họa hình ảnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi, mờ nhạt bên cạnh Lê Thiện. Tuy nhiên, những hạn chế đó cũng bắt nguồn từ nhiều lý do cá nhân của tác giả. Những hạn chế ấy cũng có thể xem nhƣ là những “hạt sạn” trong nội dung Việt Lam tiểu sử và ít nhiều có gây nên một số phản cảm tâm lý ở ngƣời đọc, nhƣng chúng ta không thể phủ nhận những thành tựu to lớn trong nội dung và nghệ thuật mà tác phẩm Việt Lam tiểu sử đã đạt đƣợc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 111 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học (tái bản), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 2. A.Brebion (1935), Từ điển thư mục tác giả, tác phẩm tổng quát, cổ điển và hiện đại về Đông Dương thuộc Pháp (Trung tâm dịch thuật dịch), Nxb Thế giới, Hà Nội. 3. M. Baktin (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cƣ tuyển chọn và dịch), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 4. Trần Lê Bảo (1991), “Cái kỳ trong tổ chức nghệ thuật Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung”, Tạp chí Văn học, số 3. 5. Nguyễn Đông Châu (1914), Nhời của người dịch sách, sách Việt Lam xuân thu, Đông kinh ấn quán, Hà Nội 6. Phạm Tú Châu (1981), “Đọc văn bản Hoàng Lê nhất thống chí”, Tạp chí Văn học, số 2. 7. Phạm Tú Châu (1997), Hoàng Lê nhất thống chí – văn bản, tác giả và nhân vật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 8. Phạm Tú Châu (2001), Tiểu thuyết Minh Thanh và diễn tiến tiểu thuyết Hán Nôm ở nước ta, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 112 9. Nguyễn Huệ Chi (2002), “Con đƣờng giao tiếp văn học cổ trung đại Việt Nam trong mối liên hệ khu vực”, Tạp chí Văn học, số 5. 10. Nguyễn Huệ Chi (2003), “Mấy đặc trƣng loại đặc biệt của nền văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX”, Tạp chí Văn học, số 4. 11. Nguyễn Phƣơng Chi (1980), “Tiểu thuyết “Trùng Quang tâm sử” nghĩ về đề tài lịch sử chống Trung Quốc xâm lƣợc qua một số sáng tác hiện nay”, Tạp chí Văn học, số 4. 12. Nguyễn Khoa Chiêm (1994), Nam Triều công nghiệp diễn chí (Ngô Đức Thọ – Nguyễn Thuý Nga giới thiệu dịch và chú thích), Nxb Hội Nhà văn Hà Nội. 13. Nguyễn Đình Chú (2002), “Hiện tƣợng Văn - Sử - Triết bất phân trong văn học Việt Nam thời trung đại”, Tạp chí Văn học, số 5. 14. Quỳnh Cƣ - Đỗ Đức Hùng (2006), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh Niên, Hà Nội. 15. Đỗ Đức Dục (1968), “Tính cách điển hình trong Hoàng Lê nhất thống chí”, Tạp chí Văn học, số 4. 16. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 17. Trần Xuân Đề (2001), Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo Dục, Hà Nội. 18. Trần Xuân Đề (2003), Tác giả, tác phẩm văn học phương Đông (Trung Quốc), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 19. Hà Minh Đức (1971) Nhà văn và tác phẩm văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 20. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2006), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội 21. Trần Văn Giáp (1990), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 113 22. Vũ Thanh Hà (2005), “Hoàng Lê nhất thống chí và thể loại tiểu thuyết chƣơng hồi trong văn học trung đại Việt Nam”, Tạp chí Văn học, số 6. 23. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2004), Từ điển thuật ngữ văn học (tái bản), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 24. Đỗ Đức Hiểu - Nguyễn Huệ Chi - Phùng Văn Tửu - Trần Hữu Tá (Đồng chủ biên) (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội. 25 Nguyễn Xuân Hoà (1998), Ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc đến tiểu thuyết cổ Việt Nam, Nxb Thanh Hoá. 26. Lê Hoan (1999), Việt Lam xuân thu, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 27. Nguyễn Văn Hoàn (1973), “Phong trào khởi nghĩa nông dân và văn học Việt Nam thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX”, Tạp chí Văn học, số 4. 28. Nguyễn Huy Khánh (1991), Khảo luận tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa, Nxb Văn học, Hà Nội. 29. M. B. Khrarchenko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp nghiên cứu văn học (Trần Đình Sử tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 30. N. I. Konrat (1997 ), Phương Đông và phương Tây (Trịnh Bá Đĩnh dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 31. Phan Huy Lê (1964), “Tác phẩm Việt Lam xuân thu có giá trị về mặt sử liệu hay không?”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 58. 32. Phan Thị Minh Lễ (1998), “Thƣ gửi từ Pháp”, Tạp chí Xưa và Nay, số 55. 33. Ngô Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử ký toàn thư (tái bản), Tập 1 (Cao Huy Giu dịch), Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. 34. Ngô Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử ký toàn thư (tái bản), Tập 2 (Cao Huy Giu dịch), Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. 35. Đoàn Ánh Loan (2000), “Ảnh hƣởng của quan niệm thẩm mĩ cổ phƣơng Đông trong việc sử dụng điển cố”, Tạp chí Văn học, số 3. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 114 36. Nguyễn Lộc (1997), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ thứ XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 37. Bùi Văn Lợi (1999), “Mối quan hệ giữa tính chân thực lịch sử và hƣ cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Văn học, số 9. 38. Phƣơng Lựu (chủ biên) (2002), Lý luận văn học, Tập 1, Nxb Đại học Sƣ phạm, Hà Nội. 39. Phƣơng lựu (2005), Lý luận văn học cổ điển phương Đông, Tập 1, NXb Giáo dục, Hà Nội. 40. Đặng Thai Mai (1961), “Mối quan hệ lâu đời và mật thiết giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 7. 41. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn, tư tưởng và phong cách (tái bản), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 42. Nguyễn Đăng Na (2000), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Tập 3, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 43. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 44. Trần Nghĩa (chủ biên) (1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Tập 1, Nxb Thế giới, Hà Nội. 45. Trần Nghĩa (1997), “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, danh mục và phân loại”, Tạp chí Hán Nôm, số 3. 46. Trần Nghĩa (1997), Nguồn gốc tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam sách Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Tập 1, Nxb Thế giới, Hà Nội. 47. Trần Nghĩa (1997), “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, nội dung và nghệ thuật”, Tạp chí Hán Nôm, số 4. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 115 48. Trần Nghĩa (1999), “Chỗ khác nhau giữa tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam và tiểu thuyết cổ các nƣớc trong khu vực”, Tạp chí Văn học, số 4. 49. Bùi Văn Nguyên (1987), Lịch sử văn học Việt Nam, Tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 50. Charles Fourniau (1998), “Thƣ gửi từ Pháp”, Tạp chí Xưa và Nay, số 55. 51. G. N. Pospelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu khoa học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 52. Nguyễn Hữu Sơn (1988), “Đặc điểm văn học Việt Nam thế kỷ XVI – các bƣớc nối tiếp và phát triển”, Tạp chí Văn học, số 5. 53. Nguyễn Hữu Sơn (1990), “Khảo sát cái nhìn đạo lý trong văn học cổ điển dân tộc”, Tạp chí Văn học, số 6. 54. Nguyễn Hữu Sơn (2000), “Về thi pháp và việc nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam”, Tạp chí Văn học, số 7. 55. Nguyễn Hữƣ Sơn ( 2005), Văn học trung đại Việt Nam - Quan niệm con người và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 56. Trần Đình Sử (chủ biên) (1987), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 57. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo Dục, Hà Nội. 58. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 59. Gerard Sasger (2002), “Quanh việc đánh giá nhân vật Lê Hoan trong lịch sử cận đại”, Tạp chí Xưa và Nay, số 110. 60. Bùi Duy Tân (2005), Theo dòng khảo luận văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 61. Bùi Duy Tân (2006), “Mối quan hệ về thể loại giữa văn học Trung Quốc và văn học Việt Nam thời trung đại: Tiếp nhận - cách tân - sáng tạo”, Tạp chí Văn học, số 1. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 116 62. Bùi Việt Thắng (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 63. Chƣơng Thâu (1999), “Đọc Việt Lam xuân thu (bản Duy Tân), nghĩ về ngƣời khắc in công bố và một vài nhân vật thời đại”, Tạp chí Văn học, số 8. 64. La Quán Trung (2006), Tam quốc diễn nghĩa, Tập 2 (Phan kế Bính dịch), Nxb Văn học, Hà Nội. 65. La Quán Trung (2006), Tam quốc diễn nghĩa, Tập 3 (Phan Kế Bính dịch), Nxb Văn học, Hà Nội. 66. Lê Trí Viễn (2000), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh. 67. Trần Ngọc Vƣơng (2003), “Một số vấn đề liên quan đến tính đặc thù của văn học trung đại Việt Nam”, Tạp chí Văn học, số 5. 68. Trần Ngọc Vƣơng (chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam thế kỷ X - XIX, những vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf174LV09_SP_VHVNPhamThiHongXiem.pdf
Tài liệu liên quan