MS: LVVH-LLVH011
SỐ TRANG: 126
NGÀNH: VĂN HỌC
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC
TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM
NĂM: 2008
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Văn học Việt Nam từ buổi sơ khai đến nay đã trải qua nhiều thời
kì. Mỗi thời kì đều để lại dấu ấn riêng với những tác giả tác phẩm sống mãi
trong lòng bao thế hệ độc giả. Hòa trong công cuộc đổi mới đất nước, văn học
sau 1975 cũng đổi mới tư duy nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật tiểu thuyết.
Nếu như nền văn học cách mạng của ta trong suốt ba mươi năm (1954-1975)
đã khơi dậy và phát triển cao độ ý thức cộng đồng dân tộc mà cốt lõi là tinh
thần yêu nước, tinh thần dân tộc, và ý thức giai cấp thì sau 1975; khi đất nước
hòa bình, cuộc sống đã trở lại với qui luật bình thường, con người lại trở về
với muôn mặt của đời sống thường nhật, phải đối diện với bao nhiêu vấn đề
trong một giai đoạn có nhiều biến động, đổi thay đã thức tỉnh ý thức cá nhân;
đòi hỏi phải có sự quan tâm đến từng con người, từng số phận, văn học phải
đáp ứng nhu cầu đó. Do vậy, tiểu thuyết thời kì đổi mới có những chuyển biến
phong phú, đa dạng, làm nóng lại không khí có phần lặng lẽ của tiểu thuyết
giai đoạn trước. Con đường đổi mới này dẫu còn nhiều thử thách, dẫu chưa
thật hoàn thiện nhưng chúng ta thấy cũng đã phần nào định hình.Trên con
đường ấy, có thể nói, Lê Lựu là một trong những tác giả đặt những bước chân
đầu tiên để lại dấu ấn sau đậm trong lòng người đọc với Thời xa vắng, tiểu
thuyết đoạt giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam. Tác phẩm đã gây được
tiếng vang, thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu văn học về việc đổi
mới tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết. Độc giả đã biết đến Lê Lựu từ trước
“Thời xa vắng” với những truyện ngắn làm rung động lòng người như: Trong
làng nhỏ, Người cầm súng, Chuyện kể từ đêm trước, Người về đồng cói, Quê
hương người lính và quyển tiểu thuyết đầu tiên: Mở rừng. Nhưng phải đến
Thời xa vắng thì Lê Lựu mới thật sự trở thành một hiện tượng. Người ta thấy
khắp nơi diễn đàn về “Thời xa vắng”. Anh chàng nhà quê Giang Minh Sài của
nhà văn đi vào tận các ngõ ngách của cuộc sống, hắn vượt cả biên giới, ra
khỏi địa phận nước Việt. Có thể nói Lê Lựu đã thành công vang dội. Sau
thành công ấy, ông vẫn miệt mài lao động và những đứa con tinh thần của ông
lại lần lượt ra đời như : Đại tá không biết đùa (1989), Chuyện làng Cuội
(1991), Sóng ở đáy sông (1995), Chuyện hai nhà (2000). Tất nhiên, không
phải những tác phẩm của ông đều thành công, đều là những đỉnh cao của văn
học nhưng không thể phủ nhận rằng sáng tác của ông đều thể hiện tinh thần
miệt mài lao động, sự nghiêm túc của nhà văn trên con đường tìm tòi, sáng
tạo hướng đi mới cho tiểu thuyết. Trong từng tác phẩm ông đã thể hiện sự đổi
mới của mình ở nhiều góc độ. Chính sự đổi mới ấy đã góp phần đem đến cho
văn học những hình tượng mới lạ về người lính trong chiến tranh, người lính
trong đời thường và những hiện tượng nóng bỏng đang được quan tâm trong
xã hội.
Trong quá trình lao động miệt mài, nghiêm túc, Lê Lựu đã khẳng định
mình ở nhiều thể loại như : tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, tạp văn Thành
quả nghệ thuật của ông được khẳng định trong một loạt giải thưởng như: giải
nhì hội thi truyện ngắn báo Văn Nghệ 1967-1968 (không có giải nhất) với
truyện ngắn Ngươi cầm súng, giải A cuộc thi viết về thương binh của Hội nhà
văn, Bộ thương binh với truyện Người về đồng cói. Đặc biệt với giải thưởng
của Hội nhà văn dành cho Thời xa vắng, đã có hàng loạt bài phát biểu về tiểu
thuyết của ông. Có thể nói Lê Lựu đã trở thành cây bút của văn chương
đương đại được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Vậy cái gì đã tạo nên sự
thành công cho Lê Lựu? Có rất nhiều yếu tố, trong đó theo tôi không thể
không kể đến nghệ thuật xây dựng tác phẩm của tác giả mà cụ thể là nghệ
thuật trần thuật của ông. Tuy nhiên, ở góc độ thi pháp thì chưa có công trình
nghiên cứu một cách hệ thống tác phẩm của ông mà chỉ khai thác ở vài khía
cạnh trong các bài viết tản mác.
Nhìn chung, sáng tác của Lê Lựu không phải tất cả đều là đỉnh cao, là
kiệt tác nhưng nó có sức hấp dẫn riêng làm cho người đọc đã chạm vào rồi thì
khó mà dứt ra được hay nói như Trần Đăng Khoa “Lê Lựu biết cuốn hút
người đời bằng một thứ văn không nhạt. Ngay cả những truyện xoàng xoàng,
người đọc vẫn thu lượm được một cái gì đấy, có khi là một chi tiết, một đoạn
tả cảnh hoặc một nét phác họa tính cách nhân vật” [51,tr.80]. Lê Lựu có một
vị trí khá quan trọng trong thời kì đổi mới văn học, tác phẩm của ông xứng
đáng được nghiên cứu riêng biệt trong một công trình. Vì vậy, trong luận văn
này, chúng tôi sẽ vận dụng một số kiến thức về Lí luận văn học và văn học
thời kì đổi mới mà bản thân lĩnh hội được trong quá trình học tập để tìm hiểu,
sắp xếp, hệ thống các vấn đề có liên quan đến nghệ thuật xây dựng tiểu
thuyết của Lê Lựu mong chỉ ra được một số nét nổi bật trong phong cách trần
thuật của nhà văn nhằm góp phần vào việc nghiên cứu tác phẩm của ông một
cách sâu sắc hơn, toàn diện hơn. Hy vọng rằng,với luận văn này, chúng tôi có
thể đóng góp một phần nhỏ trong công trình nghiên cứu chung về Lê Lựu để
thấy được đóng góp của nhà văn đối với văn học dân tộc trong quá trình đổi
mới tiểu thuyết cũng như góp phần nhìn nhận vị trí của nhà văn trong văn học
đương đại.
2. Giới hạn đề tài:
Lê Lựu có vị trí khá vững chắc trong lòng bạn đọc bởi qúa trình
sáng tác tương đối dày với hàng loạt tác phẩm ở nhiều thể loại khác nhau
trong nhiều giai đoạn khác nhau, ở những chủ đề khác nhau. Nhưng do hạn
chế về mặt thời gian cũng như khả năng nghiên cứu nên người viết chỉ tập
trung khảo sát các tiểu thuyết:
- Mở rừng (1975)
- Ranh giới (1979)
- Thời xa vắng (1986)
- Đại tá không biết đùa (1989)
- Chuyện làng Cuội (1991)
- Sóng ở đáy sông (1995)
- Hai nhà (2000)
3. Lịch sử vấn đề:
3.1 Phần mở đầu:
Cái tên Lê Lựu đã không còn xa lạ với độc giả. Ông là nhà văn sáng
tác ở nhiều thể loại và khá thành công. Là nhà văn mang đặc chất quê nhưng
kì thực vốn sống của ông vô cùng phong phú với kho tàng là sự trải đời lọc
lõi. Ông thuộc lớp nhà văn quân đội, ra đời và trưởng thành trong thời kì
chống Mĩ cứu nước. Người đọc biết đến tên Lê Lựu với tác phẩm trình làng
Tết làng mụa (1964). Sau đó là các truyện ngắn: Người cầm súng, Phía mặt
trời, Chuyện kể từ đêm trước và đến Người về đồng cói thì ông đã thật sự
tạo được dấu ấn trong lòng độc giả. Đây cũng là tác phẩm đoạt giải trong cuộc
thi viết về thương binh của Hội nhà văn và Bộ thương binh. Hơi hướng tiểu
thuyết đã xuất hiện trong những truyện ngắn của ông như dự báo một thành
công xa hơn nữa và mọi người vẫn khắc khoải mong chờ một tiếng vang, một
bước nhảy xa hơn nữa ở Lê Lựu. Không phụ lòng độc giả, quyển tiểu thuyết
đầu tiên của ông ra đời, đó là Mở rừng (1975). Đây là quyển tiểu thuyết đề tài
chiến tranh có thể nói là khá thành công. Tác giả xây dựng hình ảnh một cuộc
chiến oai hùng nhưng cũng không kém phần bi thảm của các chiến sĩ Trường
Sơn. Tác phẩm đã phần nào tạo được dấu ấn riêng, mới mẻ. Trong thời điểm
bấy giờ, Mở rừng ra đời thể hiện một cách nhìn nhận hiện thực có phần
mạnh dạn của nhà văn so với xu thế thời đại là sự náo nức của lòng người
trước chiến thắng vang dội 1975. Tuy nhiên để có được Lê Lựu trong lòng
người đọc lúc bấy giờ và cho đến mai sau thì phải nói đến Thời xa vắng. Nó là
đứa con ngoan của nhà văn. Đứa con này đã đem đến nét mới mẻ thật sự đã
được nhen nhuốm từ Mở rừng. Cái Thời xa vắng rất gần ấy đã làm xôn xao dư
luận. Ở đâu cũng nghe thời xa vắng, ở đâu cũng thấy Giang Minh Sài, thậm
chí Lê Lựu còn được gọi là cu Sài!
Lê Lựu thuộc kiểu nhà văn viết bền. Sau thành công của Thời xa vắng
ông không dừng lại, tự mãn mà vẫn đi tiếp con đường mình đã mở dù cho khá
chông gai, chông gai như bước chân của những chiến sĩ mở đường Trường
Sơn. Họ vẫn đi vì ngày mai tươi sáng. Lê Lựu cũng có niền tin ấy, lòng dũng
cảm ấy, ông cũng là người lính mà! Ông bền chí ơ công việc thay đổi cách
viết tiểu thuyết của mình. Vì vậy, Đại tá không biết đùa, Chuyện làng Cuội,
Sóng ở đáy sông, Hai nhà tiếp tục ra đời. Tất nhiên không phải tất cả đều
thành công nhưng mỗi tác phẩm đều có một nét riêng đáng cho ta quan tâm.
Cho đến nay, trong mấy mươi năm sáng tác, Lê Lựu đã có một khối lượng tác
phẩm đáng trân trọng.
3.2 Những ý kiến xung quanh nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu:
Tiểu thuyết Lê Lựu gắn liền với quá trình đổi mới tiểu thuyết của văn
học Việt Nam. Nó đem đến cho người đọc những ấn tượng mới mẽ về một
phong cách nghệ thuật riêng biệt của nhà văn quân đội Lê Lựu. Tùy vào cảm
hứng tiếp cận, mục đích và phạm vi khai thác vấn đề, các nhà nghiên cứu đã
đề cập tới một số khía cạnh nổi bật về nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết
của ông với mức độ đậm nhạt, nhiều ít khác nhau. Một trong những nét nổi
trội trong lối tự sự của Lê Lựu được các nhà nghiên cứu quan tâm, đề cập tới
là lối hành văn tự nhiên của ông và sự cách tân, tìm tòi cái mới trong cách
thức trần thuật. Trong từng tác phẩm khác nhau, ở nhiều góc độ khác các nhà
nghiên cứu đều thống nhất với nhau rằng Lê Lựu luôn có cách tân trong trần
thuật, luôn làm mới tiểu thuyết của mình. Ông không bao giờ bằng lòng với
lối mòn cũ. Ở mỗi tiểu thuyết của ông người đọc đều có thể nhìn thấy sự cách
tân của nhà văn đặc biệt là sự đổi mới hình tượng người trần thuật, kết cấu lời
văn trần thuật. Nói như Ngô Thảo: “Hầu như anh không vừa lòng với bất cứ
bề mặt phẳng phiu, một kết cấu quen thuộc nào. Anh dẫn người đọc đi từ xa
tới gần từ gần lại bật ra xa, đang chuyện hôm nay bỗng quay bật về qúa khứ,
đang từ tuyến trước sang chuyện tuyến sau, từ phía trong ra phía ngoài, từ nội
tâm trực tiếp qua lời người kể của người khác ” [102,tr. 215]. Văn của ông
không phải là kiểu văn dễ dãi quen thuộc, đọc qua một lần là có thể hiểu hết
các tầng ý nghĩa. Với mỗi lần tiếp xúc tác phẩm là một lần người đọc tìm
thêm một vấn đề nào đó. Những vấn đề đó được nhà văn giấu kín trong lời
văn của mình mà nói như Trần Đăng Khoa thì đó là “thứ văn không nhạt”,
ông nhận xét : “Lê Lựu biết cuốn hút người đời bằng một thứ văn không nhạt.
Ngay cả những truyện xoàng xoàng người đọc vẫn thu lượm được một cái gì
đấy , có khi là một chi tiết, một đoạn tả cảnh hoặc một nét phác họa tính cách
nhân vật.” [51, tr.80]. Cùng suy nghĩ với Trần Đăng Khoa, Đinh Quang Tốn
cũng cho rằng văn của “anh chàng nhà quê” có một sức hút vô hình bằng lời
văn mang phong cách riêng: “Văn anh không rành rẽ, không mạch lạc nhưng
có chất nhựa gì đấy ở bên trong. Nhiều khi cả đoạn cả trang cứ thùng thình
mà người đọc vẫn thấy thích, không ai chê vì người ta biết đấy là văn tự
nhiên của riêng anh, chứ không phải anh làm văn mà chê anh về văn phạm”
[93, tr.17]. Chính chất văn tự nhiên ấy đã đem đến cho chúng ta những trang
viết đặc sắc về những cảnh sinh hoạt của nông thôn miền Bắc; về hình ảnh
người lính trong chiến tranh, người lính trong thời bình. Nhìn nhận tiểu thuyết
thuyết Lê Lựu ở góc độ trần thuật, nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến lại chú ý
đến câu văn, ông đặc biệt hứng thú với kiểu đặt câu của Lê Lựu, thừa nhận sự
thành công trong nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết không dừng lại ở lời văn
mạch lạc. Cũng như Đinh Quang Tốn, ông cho rằng Lê Lựu có văn phong
riêng : “Trong Thời xa vắng câu văn lùa thùa có khi mềm và rối như bún
nhưng lại rất được. Câu văn Lê Lựu là một sự thách đố với cách đặt câu quá
mạch lạc, gẫy gọn do sự thấm nhuần ngữ pháp của một ngôn ngữ phương Tây
tạo ra“ [35, tr.119]. Cũng nhận xét về nghệ thuật trần thuật, La Khắc Hòa
quan tâm đến người trần thuật : “Người trần thuật kể lại câu chuyện về cuộc
đời Giang Minh Sài không phải là để người đọc có dịp được suy ngẫm, mà là
để nó được nói thật to những điều hình như nó đã ngẫm nghĩ xong xuôi. Cho
nên chỗ nào nó cũng lắm lời, lời kể của nó đã lùa thùa, dài dòng mà cái luận
đề thì lộ rất rõ. Đã thế tác phẩm lại cố gò để kết thúc có hậu { }. Nguyên tắc
trần thuật sử thi cũng để lại dấu ấn ở mối quan hệ giữa người kể chuyện và
người đọc trong Thời xa vắng. Nhưng đặt bên cạnh những tác phẩm cùng
thời, tiểu thuyết của Lê Lựu đúng là bước ngoặt của tiếng trình đổi mới văn
xuôi nghệ thuật” {95, tr.66}. Ngô Thảo cũng thừa nhận sự tìm tòi sáng tạo lời
văn trần thuật của Lê Lựu là một công việc cần được khích lệ: “Cũng sẽ buồn
cười và lố bịch nữa khi khuyên Lê Lựu chọn cách viết chân mộc cổ điển. Chỉ
có thể nghĩ là anh hiểu biết đầy đủ đối tượng khi điều anh muốn nói là tâm
đắc, sáng tỏ thì anh sẽ có được cách thể hiện thích hợp, dù hoa mỹ bay bướm
một chút hay mộc mạc thật thà cũng không quan trọng gì” {102, tr.217}.
Nhận xét về kiểu kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu, Trần Đăng Khoa
cũng chú ý tới kiểu kết cấu truyện lồng trong truyện trong tiểu thuyết Mở
rừng. Ông cho rằng: “Đấy là cuốn tiểu thuyết viết trực tiếp về chiến tranh với
cái nhìn không đơn giản và ở thời điểm đó, đã có thể coi là mạnh dạn. Lê Lựu
đề cập đến số phận của một lớp ngươì trong chiến tranh. Oai hùng và bi
thảm. Giản đơn và phức tạp. Mỗi người là một cách rừng âm u rậm rịt, phải tự
mở lấy lối mà đi. Chẳng ai giống ai, bằng những con đường riêng, những số
phận riêng, họ đã đến với cuộc chiến tranh bi tráng“{51,tr.83}. Nhiều nhà
nghiên cứu thống nhất ý kiến rằng Thời xa vắng là câu chuyện về cuộc đời
Giang Minh Sài nhưng mở ra rất nhiều vấn đề, tạo nên tính nhiều tầng bậc
cho câu chuyện. Người đọc có thể tìm thấy ở đó từ những vấn đề lớn lao đến
những vấn đề vụn vặt trong đời sống. Nguyễn Bích Thu viết : “Có lẽ to
chuyện qúa chăng? Nhưng Thời xa vắng là những trang bi kịch về sự hôn
phối đó, sự xen cài vào nhau đó: chiến tranh rồi hòa bình, nông thôn ra thành
phố, “nhà quê” và “kẻ chợ” Không phải người viết đưa hai mảng ngẫu
nhiên bập vào nhau, cho tồn tại bên nhau, mà gắn nối cài xen với nhau như là
sự tiếp tục và phát triển tự nhiên của lịch sử” [96].
Một đặc điểm nổi bật khác cũng được chú ý trong tiểu thuyết Lê Lựu
là chất giọng giễu nhại. Các nhà nghiên cứu đều nhìn nhận sự thành công của
nhà văn khi sử dụng chất giọng trầm tĩnh và chất giọng giễu nhại để phản ánh
hiện thực. Nhận xét về một trong những yếu tố đem đến thành công cho Lê
Lựu trong Thời xa vắng, nhà nghiên cứu Thiếu Mai cho rằng : “Cách nhìn
thấu đáo của anh, tấm lòng thiết tha của anh đã thể hiện đầy đủ ở giọng văn,
một giọng văn trầm tĩnh vừa giữ được vẻ đầm ấm chân tình, vừa khách quan
không thêm bớt tô vẻ, đặc biệt không cay cú, chính giọng văn như vậy đã góp
phần đáng kể vào sức thuyết phục hấp dẫn của tác phẩm” [65]. La Khắc Hòa
thì cho rằng: “Thời xa vắng của Lê Lựu là một tiểu thuyết giễu nhại độc đáo.
Nó không cần sử dụng những thủ pháp lạ hóa quen thuộc như phóng đại hay
vật hóa hình ảnh con người để làm nổ ra tiếng cười. Nó chỉ đơn giản thuật lại
những chuyện “thật như đùa” mà đã có thể tạo ra được một hình tượng giễu
nhại. Nhờ thế lời văn của Thời xa vắng khi thì như bông đùa, lúc lại xót xa,
chì chiết nhưng giễu nhại bao giờ cũng là giọng chủ đạo của nó”. {96, tr.66-
67}. Cũng đề cập tới giọng trần thuật, Đỗ Tất Thắng nhận xét về thái độ của
nhà văn trong Thời xa vắng: “Lê Lựu phê phán một thời đã qua, mổ xẻ nó
nhưng không hề oán trách, không cay nghiệt, không nổi khùng. Anh phê phán
những dư luận, hoàn cảnh làng xã những năm sáu mươi đã tạo nên tính cách
Giang Minh Sài, đã làm khổ cuộc đời Sài mấy chục năm trời, nhưng anh
không hề bôi bác, chê bai những người nông dân. Trong Thời xa vắng anh đã
viết những trang nồng ấm tình người về người nông dân chân lắm tay bùn,
một nắng hai sương. Ngòi bút Lê Lựu viết về nông thôn thật là nhân hậu”
{102}.
Nhìn nhận đóng góp của Lê Lựu về mảng tiểu thuyết lẫn truyện ngắn,
Đinh Quang Tốn cho là “Lê Lựu viết đều cả truyện ngắn và tiểu thuyết và cả
hai thể loại anh đều thành công, nhưng thành công hơn vẫn là tiểu thuyết. Đê
tài hậu phương nông thôn miền Bắc trong chiến tranh chống Mỹ có nhiều
người viết, nhưng Lê Lựu là người viết thành công hơn cả. Hình ảnh anh nông
dân mặc áo lính trở thành viên chức ở thành thị cũng có nhuững nhà văn đề
cập đến, nhưng Lê Lựu đã thành công hơn. Có lẽ đó là hai thành công tiêu
biểu nhất của Lê Lựu” [93, tr.22].
Tiểu thuyết của Lê Lựu còn được nhìn nhận ở những góc độ khác
Nguyễn Bích Thu nhận xét về việc khai thác đề tài trong tiểu thuyết Lê Lựu
và khẳng định tính tích cực trong việc đề cập đến hạnh phúc con người: “Tiểu
thuyết đã không ngần ngại miêu tả sắc dục, tình yêu nhục thể là một lĩnh vực
rất riêng của mỗi cá nhân. Miêu tả những con người tự nhiên, khai thác yếu tố
tích cực của con người tự nhiên cũng là một khía cạnh nhân bản của văn học
( { } Hai nhà của Lê Lựu)” [96, tr.231]. Nguyễn Trường Lịch khẳng định
thành công của Lê Lựu trong tiểu thuyết Thời xa vắng ở việc khai thác những
xung đột của trái tim con người: “ Có thể khẳng định nét đổi mới ở Thời xa
vắng là tác giả không hướng ngòi bút mình mô tả các sự kiện lịch sử xã hội
bên ngoài theo thời gian tự sự chốn chiến trường máu lửa như một số tác
phẩm cùng thời và cả trước đó mà đi sâu khai thác những xung đột đầy kịch
tính của trái tim con người trong bối cảnh giã từ chiến tranh về hậu phương
thời hòa bình”.
Từ những bài nghiên cứu về tiểu thuyết Lê Lựu đã mở ra cho người
viết hứng thú tìm hiểu vấn đề này. Học tập, kế thừa những bài viết có liên
quan đến sáng tác của Lê Lựu, chúng tôi muốn đi sâu vào tìm hiểu nghệ thuật
trần thuật trong tiểu thuyết của ông và phát triển nó thành bài nghiên cứu khoa
học trong luận văn này.
4. Phương pháp nghiên cứu:
4.1 Phương pháp hệ thống:
Một trong những phương pháp bao trùm mà thi pháp học rất quan tâm là
phương pháp hệ thống. Vì vậy trong luận văn, chúng tôi sử dụng phương pháp
nghiên cứu này. Khi áp dụng phương pháp này vào nghiên cứu nghệ thuật trần thuật
trong tiểu thuyết Lê Lựu yêu cầu phải đặt từng yếu tố của nghệ thuật trần thuật trong
tiểu thuyết của ông vào hệ thống nghệ thuật trần thuật nói chung, trong tiến trình
chung của văn học dân tộc; phân tích những mối quan hệ giữa các yếu tố với nhau
đồng thời đặt nó vào trong giai đoạn đổi mới văn học và trên tiến tình phát triển của
thể loại tự sự của văn học dân tộc.
4.2 Phương pháp phân tích :
Trong quá trình thực hiện luận văn chúng tôi có sử dụng một số
dẫn chứng để minh họa cho lập luận của mình. Do đó, phương pháp phân tích
được vận dụng để trình bày cặn kẽ vấn đề hoặc bình giá các vấn đề cụ thể
trong luận văn.
4.3 Phương pháp thống kê:
Trong chừng mực nhất định của quá trình nghiên cứu, chúng tôi
sử dụng phương pháp thống kê xem trong mỗi yếu tố nghệ thuật tầng số xuất
hiện của những hiện tượng nào là cao, hiện tượng nào là thấp và nó có báo
hiệu điều gì không.
5. Đóng góp của luận văn:
Khi nghiên cứu văn xuôi nghệ thuật, vấn đđề đđược người nghiên cứu
quan tâm nhiều chính là nghệ thuật trần thuật. Đó chính là một trong các yếu
tố đđem đđến sự thành công cho nhà văn trong quá trình chuyển tải tư tưởng,
quan đđểm của mình. Vì vậy, khi nghiên cứu sáng tác của Lê Lựu chúng tôi
đặc biệt quan tâm đến nghệ thuật trần thuật của ông đđặc biệt ở mảng tiểu
thuyết vì theo chúng tôi tiểu thuyết là “vùng đất” thể hiện rõ nhất phong cách
của nhà văn. Tiểu thuyết là thể loại “sinh sau đđẻ muộn” trong qúa trình sáng
tạo nghệ thuật của ông nhưng nó lại có ý nghĩa nhất định trên con đđường
đđổi mới tiểu thuyết của dân tộc. Khảo sát tiểu thuyết của ông ở góc độ thi
pháp, cụ thể là ở nghệ thuật trần thuật chúng tôi không có tham vọng chỉ ra
đđược tất cả đặc điểm nghệ thuật trong sáng tác của nhà văn, chỉ mong có thể
góp phần khẳng định sự thành công nhất định của nhà văn trong quá trình
miệt mài lao động sáng tạo nghệ thuật, thấy được diện mạo riêng của Lê Lựu
trong tiến trình sáng tác nói chung và trong quá trình đổi mới tiểu thuyết nói
riêng của văn học nước nhà.
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần dẫn nhập và kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Người trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu
Chương2: Kết cấu lời văn trần thuật
Chương3: Giọng điệu trần thuật
126 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2944 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g con người biết giữ phẩm giá của mình trong
khó khăn nhọc nhằn tủi hổ. Đất vô tư trong sáng lại phải hứng chịu bao đớn
đau của kiếp người vẫn không một lời oán than kẻ đã hủy hoại đời mình, vẫn
sống đúng phận mình. Cách sống của cô đã làm thay đổi cách nghĩ của một kẻ
xảo trá như tổng Lỡi: “Cái túp lều mẹ con Đất ở trông như một đụm rát đổ
nghiêng. Ruột gan quan cứ nẫu ra.[…]. Hơn mười bốn năm giời rồi! Giá như
nó cứ nanh nọc, độc ác cắn xé và tham lam như hàng chục con đàn bà khác
thì quan chỉ cần vứt lại ít tiền, cúng lắm cho bọn hầu hạ ban phát cho nó chút
ân huệ gì đấy rồi ráo tay là xong. Hết nợ. Đằng này! Nó cứ lặng lẽ cắn răng
nuôi con giữa rừng rú, không đòi gì, không than thở trách móc một lời. Một
con bé ngơ ngác thật thà lúc nào cũng là người lớn, còn quan như một thằng
trẻ ranh. Hèn. Một thằng kẻ cắp đã cuỗm mất cả thời con gái của no”.
Sử dụng lời văn lạnh lùng là một kiểu biểu hiện sự phức hợp trong
giọng trần thuật của Lê Lựu. Đằng sau chất giọng lạnh lùng đó là cả một nỗi
niềm, sự trăn trở ray rức không nguôi của nhà văn đối với những cảnh đời cụ
thể. Những trang viết sắc lạnh ấy làm cho người đọc phải trăn trở suy tư cùng
nhân vật. Chân dung người chiến sĩ Trường sơn sau bao năm chinh chiến
được tác giả dựng lên với một vẻ “vô tâm”: “Chưa bao giờ nhìn vô gương
Ngà thấy khuôn mặt mình tiều tụy như lúc này. Đám tóc phía trước như
những dược mạ quá một trận lụt và vầng trán trông như cạo nhẵn, trơ trẽn,
còn hai gò má hóp lại, khuôn mặt đã dài ra”. Cô gái Trường Sơn hiện ra với
chân dung “chẳng ra người”. Nhà văn không miệt thị nhân vật mà từ hình ảnh
rất chân thật ấy làm nổi bật giọng xót thương trước những hy sinh gian khổ
của người chiến sĩ trong công cuộc gìn giữ hòa bình, thấy được bên cạnh vinh
quang là mất mát đau thương.
Người kể đóng vai một người thuật chuyện bàng quan, lạnh lùng vô
cảm đối với nhân vật bằng cách dùng cách kể tả cay độc, không một từ biểu
cảm. Chẳng hạn khi kể về sự bất hiếu của nhân vật Hiếu với mẹ mình hay sự
lãnh đạm của nhân vật cha Núi nhà văn tỏ ra rất dửng dưng với hành động của
nhân vật, để cho nhân vật bộc bạch tình cảm suy nghĩ, hành động đúng với
bản chất anh ta. Nhưng ẩn sau câu chữ chính là nỗi xót xa của nhà văn trước
tình cảnh của nhân vật, là tiếng kêu bi ai của tác giả về sự xuống cấp đạo đức
của con người trong một xã hội văn minh, là tiếng hỗ trợ ứng cứu đối với
người đọc để cuộc sống tốt đẹp hơn, con người sống với nhau có tình hơn.
Có vẻ qúa lạnh lùng vô cảm khi nhà văn kể về mối quan hệ cha con,
mẹ con, vợ chồng trong Sóng ở đáy sông, Chuyện làng Cuội, Hai nhà. Nhà
văn không “nương tay” khi kể sự nhẫn tâm của Hiếu đối với mẹ, sự cay độc
của cha đối với con, sự bất nghĩa của vợ đối với chồng… Đọc những trang
viết này ta như thấy ngợp bởi những toan tính của con người, thấy đau nỗi
đau nhân tình thế thái. Ta lại thấy nhà văn sao “tàn nhẫn” thế nhưng chính nó
đã làm cho người đọc lại thấy được chất giọng chua cay của nhà văn về sự vô
tâm vô cảm của con người, một kiểu sống vẫn đang nhan nhãn hằng ngày
trước mắt chúng ta. Từ việc phân tích nỗi đau hiện tại, chân lí được cất lên.
Cái đáng sợ nhất đối với con người chính là sự nhỏ nhen, ích kỉ hẹp hòi của
lòng người.
Cách kể “vô tâm” này xuất hiện khá nhiều trong tiểu thuyết Lê Lựu bởi
phần lớn sáng tác của ông theo kiểu khách quan hóa (6 tiểu thuyết). Người
trần thuật đứng ngoài câu chuyện với cái nhìn hờ hững, giọng điệu đay
nghiến, phỉ báng. Ngay cả những lúc nhân vật rơi vào những cảnh bi thương
người trần thuật cũng tỏ ra lạnh lùng, vô cảm, tạo một khoảng cách với nhân
vật. Cái chết của nhân vật bé Hồng trong Hai nhà được nhà văn thuật lại vô
cùng nhẹ nhàng, bình tỉnh. Cái chết của bà cụ Đất cũng vậy. Nó được nhà
văn dựng lại như một sự kiện vui mừng của làng Cuội: “Nào ai ngờ cái chết
của bà cụ Đất lại tạo cho làng Cuội một khí thế tưng bừng sôi nổi, rất là tự
hào[…]. Khi nào làng có chung một khuôn mặt buồn đều đều náo nhiệt và thì
thào còn chán. Thế lại hóa vui.[…]. Xác bà lão được vớt lên từ trưa hôm
qua. Một cái xác trương phềnh. Cả mặt và hai cánh tay xước tướp táp, không
rõ do cá rỉa hay mắc mớ vào đâu mà không còn một mảng da nào nguyên.
Trưa hôm qua chiếc tàu chở khách từ Hà Nội xuôi, sóng rào rạt xô vào bờ
một người mặc quần đen, áo nái vàng, tóc xõa như là ma nằm nghiêng ở bờ
cát một tay dang ra để khỏi trục xuống”. Nhà văn sử dụng cách diễn đạt thể
hiện sự vô cảm trước cái chết của nhân vật, đọc lên người đọc thấy rợn người.
Cái chết của một con người lại là niềm vui cho cả làng thì quả là vô nhân. Sự
biến dạng của xác chết được nhà văn miêu tả như sự biến chất của những con
người vô cảm với đồng loại. Trước số phận đắng cay của nhân vật nhà văn
như phỉ nhổ vào nó, đay nghiến nó, cười ngạo nó, như có vẻ đồng tình với
những người dân làng Cuội nhưng thật ra ở đó chất chứa biết bao nỗi niềm
chua xót đắng cay trước sự rẻ rúng của mạng người. Người trần thuật không
chiều chuộng người đọc, không vuốt ve người đọc, không đem đến cho người
đọc những cảm giác ngọt ngào mà bỏ người đọc vào một không khí ảm đạm
lạnh lùng. Người trần thuật để cho nhân vật hiện lên đầy vẻ khinh miệt thậm
chí để cho nhân vật chết tức tưởi, chết oan ức. Đó cũng chính là lúc nhà văn
đang tìm sự đồng cảm nơi người đọc. Ông muốn nói to với mọi người cuộc
sống vẫn còn đó những tủi nhục, vẫn còn đó những con người phần “con” lấn
át phần người. Nhà văn không né tránh những nghịch dị thô kệch, đen nhám
của cuộc đời. Tất cả những cung bậc ấy đều dội vào trang giấy của ông. Vì
vậy, những gì sống động nhất, chân thật nhất của cuộc đời đều hiển hiện trước
mắt người đọc, đem đến cho người đọc những cung bậc cảm xúc rất đời
thường nhưng rất nhân văn. Đặc biệt khi lên án mặt trái của cuộc đời nhà văn
rất dửng dưng. Cái chất “lạnh lùng” ấy thể hiện được sự từng trải của nhà
văn. Lê Lựu không cất tiếng kêu khổ cho nhân vật của mình mà nhập thân vào
để quan sát sau đó cho nhân vật bước ra trang giấy thể hiện chính mình. Thế
giới nhân vật hiện lên một cách sống động ở mọi mặt, ở mặt rạng rỡ nhất cũng
như ở góc khuất nhất trong tâm hồn con người. Qua những điểm nhìn khác
nhau, người trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu đã chạm đến những vấn đề
nóng bỏng của cuộc đời mà không phải ai cũng có can đảm để nói một cách
mạnh mẽ như thế. Đó là những vấn đề về đạo đức nhân cách, là danh vọng và
tình máu mủ, là lòng vị tha và thói ích kỉ. Bức tranh sống động, đa dạng với
những mảng sáng tối ấy hiện lên trọn vẹn. Ở đó có niềm vui nỗi buồn, có
hạnh phúc, đắng cay, có kẻ thức thời có người lạc lối… nói chung nó sống
động chư chính cuộc đời thật thể hiện được chất giọng của nhà văn đằng sau
những trang viết.
Xuất phát từ mối quan hệ giữa điểm nhìn chủ thể tác giả và hiện thực
khách quan giọng điệu được tạo ra phù hợp với từng hoàn cảnh, từng trường
hợp cụ thể. Giọng điệu thể hiện thái độ cảm xúc của nhà văn đối với cuộc đời.
Cảm xúc nào, giọng điệu ấy. Do vậy, ta mới nói khám phá được giọng điệu là
khám phá được cái thần của tác phẩm, khám phá được phong cách của nhà
văn. Lê Lựu đã cất tiếng nói kêu gọi lương tri con người đằng sau những sự
việc tưởng chửng như rất nhỏ. Hiện thực được nhà văn phơi bày một cách
“nhẫn tâm” chính là tiếng kêu nhức nhối về những giá trị tốt đẹp của con
người đang dần mất đi khi người ta sống quá vụ lợi, sống cho riêng mình. Đó
chính là kẻ thù “ẩn mặt” mà con người chúng ta phải đối phó trong thời bình..
Tuy nhiên không phải lúc nào nhà văn cũng giấu mình khi thể hiện
giọng điệu như thế. Đã không ít lần nhà văn không giấu được cảm xúc của
mình khi đối thoại cùng nhân vật nên đã để lộ nó trên trang giấy bằng cách
kết hợp lời kể với lời bình luận. Mỗi khi động đến một chuyện gì là nhà văn
lại đưa ra một lời bình, một lời nhận xét. Sự kết hợp này giúp cho người trần
thuật bộc lộ trực tiếp thái độ, tình cảm của mình và đưa ra nhiều triết lí thể
hiện chiều sâu của tư duy cũng như chiều dài của những trải nghiệm cuộc
sống. Sự xuất hiện của những lời bình trong tiểu thuyết của ông rất đa dạng,
nó không thuộc một vị trí cố định nào, có khi nó nằm ngay đầu đoạn văn
trước khi đi vào lời kể, có khi lại nằm ở phần kết nhưng cũng có khi nó lại
xuất hiện xen ngang lời kể, xen ngang lời nhân vật. Đây là lời bình luận đầu
đoạn kể trong Thời xa vắng: “Nhưng nó giống như ông nói. Biết tất cả mọi
cái để mà rút kinh nghiệm thôi. Cái gì xảy ra nó vẫn cứ xảy ra. Cái gì qua đi
nó vẫn phải qua đi. Nghĩa là cả hai cái tin: không được kết nạp Đảng trong
năm nay và Hương đã đi lấy chồng tháng trước vẫn cứ đến với Sài và anh
không thể phát điên, không thể nổi khùng không thể nằm ỳ, không thể nói
năng vô trách nhiệm và thiếu tính tổ chức. Sáng dậy tập thể dục, chiều tăng
gia, vẫn phải soạn bài đầy đủ, lên lớp đều đặn. Tối thứ sáu sinh hoạt đoàn, tối
thứ năm học hát…Không thể uể oải, không thể thiếu vắng, dù đã gần một
tuần nay, hầu như không đêm nào nah chợp mắt được”. Trước khi kể về
những biểu hiện của Sài sau khi nhận được tin người yêu đi lấy chồng và anh
không được kết nạp Đảng do lí lịch nhà vợ không “sạch” nhà văn đưa ra lời
nhận xét của mình như để bênh vực cho nhân vật, tỏ ra cảm thông với nhân
vật của mình, xem anh ta như là nạn nhân của kiểu làm việc không xét đến
cảm nhận của người khác. Sài bị buộc phải “yêu” vợ để “tiến bộ”. Anh yêu
vợ, Hương xa cách anh. Cuối cùng vì “yêu” vợ như sự sắp đặt của tổ chức và
người thân mà anh không thể vào Đảng và cũng không có được tình yêu anh
ngày đêm mơ ước. Lời bình nằm đầu đoạn kể có tác dụng lí giải với người
đọc hành động của nhân vật, thể hiện sự đồng cảm của người trần thuật thì lời
bình cuối đoạn kể có tính đúc kết sự việc. Khi kể về cái chết của cha Núi
(Sóng ở đáy sông), người trần thuật lại để lời bình xuất hiện ở cuối đoạn cũng
là cuối truyện: “Cũng như ông, giá như…Nếu người ta biết rằng dưới đáy
sông Lấp vẫn còn có hai dòng nước chảy ra của sông Cấm. Sự lên xuống của
con nước, sự rạt rào của sóng vỗ cũng từ đáy sông mà tạo nên. Nếu người
biết là lấp sông vẫn còn nước chảy, còn sóng vỗ, thì hàng trăm năm trước
người ta lấp sông làm gì???”. Từ hoàn cảnh của nhân vật , người trần thuật
đưa ra triết lí để người đọc cùng chiêm nghiệm về “những con sóng ngầm“
dưới đáy đại dương. Ta lại thấy ở Mở rừng lời bình xuất hiện xen ngang lời
kể: “Anh biết binh trạm trưởng bao giờ cũng dễ xúc động bằng tấm lòng
thành thật. Nghĩa là ông có thể phê phán ầm ĩ, phẫn nộ không có căn cứ
chính xác về một khuyết điểm nào đó của cấp dưới. Khi bình tĩnh rồi ông, ông
lại có thể thú nhận công khai trước mặt mọi người “mình khuyết điểm”[…]
Nhưng với một thói quen, chẳng hạn cái tính nóng nảy đã thành cố tật dễ gì
sửa đổi ngay một lúc… Và, nói cho cùng khi trước mặt không phải là cái chết
đang rập rình, con người ta ai cũng thích thú sự xoa mát nhẹ nhàng, không
mấy ai chịu để những vật gai cào xước da thịt mình, dù đó là những mũi chích
khơi ra nụm nhọt. Đứng ở dưới nhìn lên, chiến sĩ đánh giá “tầm cỡ” của cán
bộ cấp trên là ở chỗ này”. Sử dụng lời bình xen ngang, nhà văn thể hiện
giọng triết lí của mình từ hoàn cảnh, tính cách cụ thể của nhân vật. Thường
thấy nhất trong cách thể hiện này là nhà văn sử dụng những từ “giá như”, “
nếu như”: “Nếu như hắn có nghị lực vượt lên khỏi nỗi chán ngán. Nếu như
hắn dám vứt bỏ sự thèm thuồng tội lỗi đã ngấm ngầm trở thành thói quen, đã
biến hắn thành kẻ nghiện ngập bụi bặm, háo hức đầy hứng thú. Nếu
như…Nếu như…”; “Giá như ông đừng học Tây học Tàu bắt con gọi bố mẹ
bằng cậu, bằng me kiểu cách yểu điệu để nó sang trọng…”
Khi sử dụng lời bình, lúc người trần thuật tỏ ra tiếc nuối, lúc lại phẫn
nộ đối chọi với giọng của nhân vật, kiểu như: “Giá những người làm thuê biết
bảo ban nhau một tí, biết dửng dưng xem rẻ đồng tiền bát gạo một tí, thì từng
người đỡ bị chê bai, cả đám người đêm nào cũng đằm mình trong sương muối
ở mặt đê đỡ bị rẻ rúng khinh thường”.
Lời văn của Lê lựu đôi lúc có vẻ trần trụi, gần với khẩu ngữ. Nếu
khắc khe người đọc có thể không chấp nhận. Nhưng nếu ta đặt nó vào trong
môi trường đối thoại của nhân vật, đặt vào cả hễ thống tác phẩm thì sẽ thấy
cách nói ấy cũng là một sự lựa chọn phù hợp để nhà văn thể hiện giọng điệu
của mình. Như ta đã nói, tiểu thuyết của ông có tính đa thanh, có sự phức hợp
nhiều giọng. Vì vậy, lời văn gần với khẩu ngữ ấy chẳng những không phản lại
nhà văn mà còn làm phong phú giọng điệu tiểu thuyết của ông. Vả lại, khi đặt
nhân vật vào cuộc đối thoại thì mỗi nhân vật có một giọng riêng và nhân vật
tự do thể hiện giọng của mình. Khi đề cập đến văn khẩu ngữ Bakhtin cho
rằng: “Sự kể chuyện của người kể chuyện có thể được phát triển dưới các
hình thức của lời văn viết hay các hình thức của lời khẩu ngữ, lời kể miệng
trong ý nghĩa đích thực của từ đó. Và đây là kiểu cách ngôn từ của người
khác được tác giả sử dụng như một quan điểm, một lập trường cần thiết để
tiến hành trần thuật” {7, tr.202}.
Trong quá trình thể hiện sự phức hợp giọng, nhà văn thường dựng lên
những đối lập giữa ngoại hình, hành động với tính cách bên trong của nhân
vật. Khi cần phơi bày mặt trái của con người nhà văn cho nhân vật xuất hiện
với sự đĩnh đạc trọn vẹn, hoàn hảo trái ngược với tính cách của nhân vật và
tính cách ấy chỉ được bộc lộ dần trong qúa trình đối thoại của nhân vật. Chẳng
hạn, khi xây dựng nhân vật phản diện-Hiếu, nhà văn đã dựng lên hình ảnh
một con người mẫu mực trong hành vi, nhẹ nhàng trong cư xử dù là đối với
kẻ thù hay người thân nhưng bên trong ấy lại chứa đựng một bản chất “lòng
lang dạ sói”. Bản chất ấy lần lượt hiện ra trong từng hành động rất mực khuôn
thước rất mực chu toàn rất mực tình nghĩa của anh ta như nhận xét của nhân
vật nhà báo: “Tay này có khả năng và mưu mẹo rất ghê đấy. Nhưng không
Minh mà cũng chẳng Hiếu đâu các ông ạ. Rồi các ông cứ nghiệm mà xem.
Cái mắt và cái mồm của hắn rất chửi nhau. Cai mồm là mồm của thằng tán
gái thành phần. Con kiến trong lỗ cũng phải chui ra với nó. Còn cái mắt lạnh
tanh, bạc. Kinh. Cái mắt gian ngoan xảo quyệt, mưu mẹo và tàn nhẫn lắm.
Nhưng tất cả những cái ấy lại được giấu kín đi ở những cái nhìn thường
xuyên khép hờ, kiểu kín kín hở hở, rất khó có ai phát hiện ra con người thật
của hắn”. Những tính cách ấy của Hiếu không phải cùng một lúc thể hiện ra
mà nó được bộc lộ từ từ trong quá trình nhân vật đối thoại. Nhà văn đặt nhân
vật của mình vào từng hoàn cảnh cụ thể, từng môi trường cụ thể để nhân vật
bộc lộ tính cách. Nét tính cách của nhân vật lộ ra khi nhân vật đối thoại cùng
các nhân vật khác, đối thoại với người trần thuật với người đọc và với chính
mình. Hắn sẵn sàng “tách thành phần” khỏi gia đình, sẵn sàng bằng mọi cách
có thể để đặt cha dượng, cũng là ân nhân của anh ta vào cuộc “đấu tố” và rồi
hắn cũng rất sẵn sàng đau khổ tiếc thương, tổ chức lễ tang long trọng khi
người ấy, một chiến sĩ cách mạng trung kiên bị xử tử oan. Cứ như thế tính
những mặt đen tối được ẩn khuất trong con người Hiếu ngày một hiện ra một
cách rõ nét.
Sự phức hợp giọng điệu của Lê Lựu còn được thể hiện bằng cách nhà
văn để cho nhân vật của mình đối thoại trong các luồng ý thức trái ngược
nhau. Từ trong sự đối thoại ấy, những giọng điệu khác nhau xuất hiện: “Chú
Kiêm đi họp, mẹ đi làm, anh lục lọi tất cả “gia tài” riêng của mình để tách
ra khỏi cái nhà ngói năm gian to nhất xã này […]. Những gì còn thấp thoáng
trước kia giờ như hòn đá dè lên đầu anh đang gục xuống ở xó buồng. Làm
sao mẹ lại đẻ ra con? Giá mẹ cứ để cho chó tha, hay ngay lúc đẻ xong mẹ
quẳng con đi để khỏi khổ mẹ khổ con, đeo đẳng suốt đời sự dối trá thế này!
Chưa bao giờ anh thấy một nỗi xót xa, một nỗi tủi hổ và hoảng sợ nó như bây
giờ. Cũng chưa bao giờ anh thương mẹ, một người mẹ đã khốn đốn gian nan
vì con! Mẹ đi làm về, chạy vào buồng thấy con gục đầu vào chiếc tay nải mẹ
đã hiểu điều gì xảy ra […] “Con muốn mẹ cho con đốt đi để vợ con con, các
em con sau này. Rồi Đội người ta đã về đánh đổ đế quốc phong kiến”-“Làm
thế nào cốt con khỏi khổ là mẹ vui rồi, mẹ giữ làm gì”. Đoạn văn có lời độc
thoại, có lời đối thoại. Trong lời đối thoại của nhân vật có độc thoại, Hiếu độc
thoại, mẹ Hiếu độc thoại. Vẻ khổ đau toan tính cá nhân dồn vào người con khi
tìm được bí mật đời mình, có giọng lạnh lùng khi nhân vật chà đạp nên nỗi
đau của mẹ. Ở người mẹ lại là giọng dịu nhẹ pha lẫn xót xa. Bà đã có sự
chuẩn bị tâm lí cho ngày này nên đón nhận nó nhẹ nhàng hơn đồng thời cũng
chua xót hơn khi nỗi đau mà bà không muốn từ bỏ trở về và chua xót hơn khi
giờ bà phải làm theo lời con, đốt nó đi. Người trần thuật để cho quá khứ và
hiện tại đối mặt, cọ sát nhau để làm nổi bật lên sự khác biệt trong nhận thức,
tâm hồn nhân vật. Đối diện với quá khứ, người mẹ đau khổ muôn phần nhưng
không muốn chối bỏ nó, ngược lại người con không muốn nhìn nhận nó,
muốn nó tan biến đi vĩnh viễn. Hai luồng ý thức ấy đối chọi nhau làm nên sự
phong phú cho giọng điệu. Đôi lúc sự đối chọi giữa hai luồn thức được nhà
văn đặt trong sự đối lập nhau trong cách sống cách nghĩ của hai thế hệ…
Trong tiểu thuyết Đại tá không biết đùa, nhà văn đã để cho hai thế hệ đối
chọi nhau. Đó là sự đối lập trong cách sống cách nghĩ của đại tá Hoàng Thủy
với con trai và người yêu của nó. Đại tá là người của mệnh lệnh thời chiến,
ông chỉ biết ra lệnh và luôn cho rằng mọi việc làm của mình là đúng mà
không quan tâm xem nó đã đem đến hạnh phúc thật sự cho những người thân
của mình hay chưa. Ông luôn sống theo lập trường của mình: “Ở đời không
thể tin ngay tất cả mọi điều khi mà không ở trong ta, không phải là sự chính
kiến của ta”. Quan niệm sống ấy của ông đối lập hoàn toàn với ý thức của
nhân vật Tùy và Hoài về hạnh phúc cá nhân. Do vậy, cả quyển tiểu thuyết là
sự cọ sát của hai luồng ý thức trái ngược nhau để vấn đề được bật lên theo
dòng ý thức của nhân vật.
Được kể từ nhiều điểm nhìn khác nhau, tiểu thuyết của Lê Lựu đặc biệt
có sự chuyển giao lời văn đột ngột từ nhân vật này sang nhân vật khác, từ
ngôi kể này sang ngôi kể khác. Trong quá trình trao điểm nhìn cho nhân vật
nhà văn thường tạo sự bất ngờ cho người đọc bằng cách chuyển lời đột ngột,
trộn lẫn lời trần thuật với lời thoại của nhân vật. Sự chuyển giao đó làm cho
vấn đề được thể hiện sâu sắc hơn. Chẳng hạn, lời triết lí trong đoạn văn Mở
rừng được tác giả chuyển giao cho nhân vật làm cho nội dung triết lí thêm
thấm thía: “Chính ủy ngồi lặng im, mắt chớp chớp làm cho hai nhánh lông
mày to, vuông như thỏi mực tàu giật liên hồi[…]. Nhìn anh, nhìn vào hoàn
cảnh của thằng Vũ, cô Ngà, và bao nhiêu chiến sĩ của chúng ta tôi mới nhận
ra một điều: Cái ác nghiệt nguy hiểm nhất đối với chúng ta trong những năm
tháng này không phải là những quả bom rơi trước mặt, rơi sau lưng, và cái
chết áp vào mình. Như thế sự hy sinh của người chiến sĩ có sá gì, nhẹ nhõm
lắm, giản dị lắm. Cái dữ dội gay cấn, nhiều khi u uẩn là những gì ta để lại
phía sau và những gì ở nơi ta sẽ tới.”. Lời văn đang thuộc về người trần thuật
khi kể về những nỗi thương tâm của binh trạm trưởng Lan bỗng đột ngột
được chuyển sang lời của chính ủy. Lời văn từ khách quan chuyển sang chủ
quan. Chính ủy xưng “tôi” để tiếp tục mạch trần thuật. Cảm xúc của ông, vấn
đề triết lí ông đặt ra thật sâu sắc và tinh tế bởi ông là người gắn bó với binh
trạm trưởng trong hai cuộc chiến, từng chứng kiến biết bao hoàn cảnh của các
chiến sĩ Trường Sơn. Sự chuyển giao đột ngột ấy thể hiện được sự xúc động
mãnh liệt của người chiến sĩ trước hoàn cảnh của đồng đội. Khi chuyển giao
đột ngột như thế, tính đa giọng được thể hiện rất đặc sắc do các giọng lồng
vào nhau. Lời văn đang thuộc về người trần thuật bỗng đột ngột chuyển sang
nhân vật, nằm trong tâm tưởng của nhân vật, trong những dòng độc thoại
trong đối thoại hoặc đối thoại trong độc thoại mà không có sự đánh dấu về
mặt hình thức. Người đọc nhận ra được những cung bậc tình cảm khác nhau,
những tiếng nói khác nhau cùng xuất hiện, có khi ở những nhân vật khác nhau
nhưng cũng có khi ở trong cùng một nhân vật.: “Đêm nào ông cũng che kín
chiếc phên bằng cỏ ở trước cửa, ngồi phục vào “bàn” nhưng không viết gì,
cũng không nghĩ gì […]. Tại sao? Tại sao như thế. Bởi dễ hiểu lắm. Nó vẫn
chỉ là một vật chất thôi. Không ở dạng này thì ở dạng khác có gì là lạ…Làm
xong nghĩa vụ với tổ quốc mà phải hi sinh mình là chuyện bình thưởng chứ.
Ôi con ơi, con ơi, Tùy ơi? Tại sao chỉ một mình tôi ở đây! Tại sao nó không
thể là đồng đội của tôi?[…]. Ai bảo nó chết ? Ai, ai? Căn cứ vào cái gì để có
thể kết luận như thế? Không, nó còn sống còn sống. Còn sống như một anh
hùng đấy con ơi”. Sự đau đớn không gì sánh bằng cuả đại tá Thủy đối với sự
mất tích của đứa con trai duy nhất được cất lên bằng tiếng kêu than, bằng
những câu ngắn gọn, ngắt quãng, hòa cùng lời dẫn truyện của người trần
thuật. Người trần thuật như không thể ngăn được dòng cảm xúc tuôn trào ấy.
Và, nguồn cảm xúc ấy cũng không ai có diễn tả được trọn vẹn, trừ người
trong cuộc. Đó chính là nỗi đau tận đáy lòng của một người cha khi đối diện
với những tổn thương mất mát của con được che giấu trong lớp vỏ nghiêm
khắc cứng nhắc của một đại tá. Có thể làm cho nhân vật này cất lên tiếng kêu
than không đơn giản tí nào thế mà nhà văn đã làm được khi chuyển giao lời
văn đột ngột.
Lại có lúc xen vào lời thoại của nhân vật là lời nhận xét của người trần
thuật, cắt ngang mạch cảm xúc của nhân vật. Lúc này vấn đề được bỏ ngỏ.
Quyền phán xét tùy thuộc vào người đọc, mở ra cho người đọc nhiều chân
trời suy tưởng thậm chí người đọc có thể tự sáng tạo ra kết thúc, giúp cho sự
sống của tiểu thuyết kéo dài trong lòng người đọc. Với kiểu xen ngang lời
trần thuật làm cho vấn đề được phản ánh thêm phong phú bởi nhiều chất
giọng. Có chất giọng của người trong cuộc, chất giọng của người ngoài cuộc,
có giọng chính, giọng bè, giọng đồng tình giọng phản bác. Các giọng hòa lẫn
vào nhau.
Tính đa giọng điệu còn được nhà văn thể hiện bằng cách khi điểm nhìn
đang thuộc về người trần thuật thì đột ngột chuyển sang nội tâm nhân vật
bằng những dòng nhật kí. Khi ấy tât cả những gì sâu kín nhất trong tâm hồn
con người được thổ lộ ra trang giấy. Từ những dòng nhật kí của nhân vật
người đọc phát hiện ra nhiều giọng điệu, có giọng của nhân vật đối thoại với
người đọc tìm sự chia sẻ, có giọng đối thoại với người trần thuật, đối thoại với
chính mình. Trong lời của nhân vật lúc này lại có lời của người khác xâm
nhập. Chẳng hạn, ở Thời xa vắng, cắt ngang mạch trần thuật của nhà văn là
những dòng nhật kí của Sài. Ở đó người ta phát hiện ra một anh Sài khác hẳn
với anh Sài hằng ngày. Trong những dòng nhật kí của anh có sự đối thoại của
nhân vật với cả tổ chức, với cả một guồng máy chính quyền đang hoạt động,
có sự đối thoại của nhân vật với chính mình, với những nhân vật khác. Những
khát khao tận đấy tâm hồn được thổ lộ trong những dòng nhật kí. Từ sự phức
hợp giọng trong cùng một nhân vật ta phát hiện ra một anh Sài với những ước
mơ rất đời thường, những khao khát rất đời thường nhưng vẫn không với tới
được mặc dù ngày ngày trong mắt mọi người anh vẫn là con người thành đạt
trên mọi lĩnh vực. Từ bi kịch đời Sài, chúng ta nhận thấy, vấn đề trung tâm
được đặt ra trong tác phẩm là số phận con người và cụ thể hơn chính là hạnh
phúc của con người trong cái “Thời xa vắng”. Hạnh phúc con người mà tác
phẩm đặt ra là hạnh phúc cá nhân, là tiếng kêu cho chỗ đứng của con người
cá nhân, một chỗ đứng mà người ta đã quên đi trong “thời xa vắng” làm bao
bi kịch xuất hiện trong đó Sài là một điển hình. Ở Hai nhà, nhà văn dành cả
một chương cho những trang nhật kí của nhân vật. Từ những trang nhật kí ấy,
người đọc hiểu rõ hơn về nhân vật Linh Anh. Những suy nghĩ, toan tính, lỗi
lầm của nhân vật được bộc lộ trọn vẹn. Có thể nói nhà văn đã thành công khi
để cho nhân vật của mình sống trong những trang nhật kí. Ở đó nhân vật bộc
lộ mình trong đối thoại với nhiều người kể cả đối thoại với chính mình. Vì
vậy, những gì sâu kín nhất trong tâm hồn sẽ được phát ra rất tự nhiên.
Như nhận xét của một số nhà phê bình thì lời văn của Lê Lựu có vẻ
luộm thuộm. Ý kiến đó không sai. Nhưng theo chúng tôi đó cũng là một điều
tất yếu khi nhà văn liên tục chuyển giao điểm nhìn, trộn lẫn lời thoại và lời
trần thuật và đó cũng là kiểu lời văn phù hợp để Lê Lựu chuyển tải quan điểm
tư tưởng của mình. Cuộc sống vốn vẫn luộm thuộm thế đấy thôi! Có vẻ như
nhà văn đã tham, làm cho lời văn dong dài nhưng nó thể hiện được độ trầm
tỉnh của người trần thuật khi nhà văn đi vào mọi ngõ ngách của đời sống xã
hội, đối thoại với cuộc đời để nắm bắt được “Cái hôm nay bề bộn ngổn
ngang”, lặn sâu vào trong hồn người để lắng nghe những âm vang bí ẩn trong
tiếng lòng con người với những yêu thương, hờn giận, những tính toán nhỏ
nhen. Có thể nói tiểu thuyết Lê Lựu đã phơi bày đời sống xã hội một cách
chân thật, sống động đến nhức nhối. Nhà văn khai thác đến “tầng vỉa” của
hiện thực đời sống qua số phận con người. Sự luộm thuộm của lời văn chính
là cách để nhà văn chuyển tải tư tưởng quan niệm của mình. Thế giới nhânvật
được phản ánh trong tiểu thuyết Lê Lựu đầy những ngổn ngang bề bộn. Ở đó
có những rối ren trong cuộc đời, có sự hỗn tạp phá vỡ mọi nề nếp bởi nó
được nhìn từ sự thật bên trong con người, những sự thật bấy lâu được giấu
giếm bao bọc kĩ lưỡng trong lớp vỏ đạo đức văn hóa. Tất cả chúng được lột
trần một cách công khai, minh bạch từ trong phát ngôn của các nhân vật. Lời
văn luộm thuộm của Lê Lựu với các lời chồng chéo lên nhau nhằm đẩy hiện
thực lên trang viết. Đó là một hiện thực không được sửa sang gọt tỉa cho vừa
với ý đồ giáo huấn đã định sẵn mà là một cuộc đời đầy những phức tạp đang
diễn ra từng ngay quanh ta. Phải nói rằng Lê Lựu rất thẳng tay khi phơi bày
chúng. Ở Chuyện làng cuội nhân vật chính được chọn là nhân vật tiêu cực với
những giả dối thấp kém về đạo đức. Kiểu nhânvật này không lạ trong văn học
nhưng có thể nói là dạng hiếm khi đó chính là con người đại diện cho diện
mạo của người cán bộ. Trước đây những nhân vật xấu thường là những con
người phản dân hại nước, là kẻ thù của cách mạng còn những người trong bộ
máy nhà nước thường chỉ được miêu tả với những thiếu sót, những khuyết
điểm có thể sửa chữa được, còn về cơ bản họ vẫn là những người tốt, xứng
đáng đứng trong hàng ngũ của Đảng. Nhưng nhân vật Hiếu của Lê Lựu lại
khác, anh ta là một cán bộ gương mẫu. Nhưng ẩn đằng sau đó lại là một con
người mượn danh, lợi dụng danh nghĩa để trục lợi, sẵn sàng đem mạng sống
của người thân của ân nhân để lót đường cho bản thân một cách lạnh lùng tàn
nhẫn. Ta lại thấy trong Sóng ở đáy sông hình ảnh một người cha với lớp vỏ
đạo đức bao bọc sự nhỏ nhen, tầm thường, hà khắc với những đứa con do
chính mình sinh ra. Hay là sự toan tính, ích kỉ của những con người trong Hai
nhà; những mưu mô, xảo quyệt không có tình người trong Chuyện làng
Cuội... Người đọc có thể thấy có gì đó quá chua chát khi tất cả những mặt xấu
có thể có của con người đều bị nhà văn đưa lên trang giấy. Lê Lựu có vẻ quá
mạnh tay với nhân vật của mình nhưng đó cũng là sự can đảm của nhà văn
trên tiến trình đổi mới tiểu thuyết. Đó là sự dũng cảm của nhà văn trong quá
trình phản ánh hiện thực, dấn thân vào hiện tại chưa hình thành, ổn định. Tiểu
thuyết của Lê Lựu có tính nhiều tầng bậc trong giọng điệu. Nói như nhà
nghiên cứu Phùng Quí Nhâm thì : “Nó ngân vang nhiều sắc điệu, nhiều tầng
bậc về giọng điệu” {74, tr.59}. Sự thể hiện giọng điệu trong tác phẩm của ông
rất phong phú với nhiều sắc thái khác nhau tùy vào đối tượng, hoàn cảnh,
cảm hứng chủ đạo của nhà văn… góp phần tạo nên phong cách nhà văn .
KẾT LUẬN
Trong phạm vi nghiên cứu của mình chắc chắn chúng tôi chưa khai
thác hết mọi vấn đề liên quan đến nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Lê
Lựu. Trong chừng mực nhất định chúng tôi xin đưa ra một số kết luận như
sau:
1. Lê Lựu đã có những đóng góp không nhỏ trong quá trình
vận động và phát triển của tiểu thuyết Việt Nam. Ông là một trong những nhà
văn đặt viên gạch đầu tiên cho công trình đổi mới tiểu thuyết Việt Nam.
2. Sự sáng tạo nghệ thuật miệt mài của Lê Lựu thể hiện rõ
nhất ở các mặt:
- Về người trần thuật: Nghiên cứu về người trần thuật trong
tiểu thuyết của Lê Lựu, trước khi đi vào phần chính của vấn đề, chúng tôi
trình bày khái niệm về người trần thuật trong loại hình tự sự thông qua các ý
kiến có cơ sở khoa học của các nhà nghiên từ đó xác định tầm quan trọng của
việc nghiên cứu người trần thuật trong quá trình chiếm lĩnh tác phẩm nghệ
thuật. Tiếp cận tiểu thuyết Lê Lựu từ điểm nhìn của người trần thuật chúng tôi
thấy có sáu tiểu thuyết trần thuật theo hướng khách quan hoá, một tiểu thuyết
trần thuật theo hướng chủ quan hoá. Trần thuật theo hướng khách quan hoá,
tiểu thuyết của ông xuất hiện các dạng: Trần thuật hoà mình với nhân vật, trần
thuật uỷ thác cho nhân vật và trần thuật có giọng điệu riêng. Các kiểu trần
thuật theo hướng này có đặc điểm chung là ngưòi kể luôn tách mình ra khỏi
các` biến cố, các sự kiện trong truyện, dẫn dắt câu chuyện từ ngôi thứ ba. Với
kiểu trần thuật hòa mình với nhân vật, người trần thuật nhập thân vào nhân
vật, đối thoại với nhân vật nên lời văn nửa trực tiếp được sử dụng khá nhiều.
Khi sử dụng lời văn nửa trực tiếp lời của người trần thuật và lời của nhân vật
hòa vào nhau, khắc phục được tính đơn điệu buồn tẻ thường thấy của lời văn
khách quan hóa. Người trần thuật hào mình vào những suy nghĩ, tình cảm của
nhân vật; khám phá thế giới nội tâm của nhân vật bằng chi chính ngôn ngữ
của nhân vật nhưng cũng đồng thời thể hiện được sự đồng cảm của người
trần thuật làm cho lời văn thêm mượt mà sâu lắng. Để câu chuyện thêm sinh
động hiện thực đươc phản ánh đảm bảo được tính chân thật, người trần thuật
“ủy thác“ lời kể cho nhân vật. Lúc bấy giờ, điểm nhìn trần thuật được chuyển
vào nội tâm nhân vật. Lúc này lời văn nửa trực tiếp được sử dụng nhiều nhất.
Chính sự phân bố điểm nhìn trần thuật như vậy đã tạo được sự phong phú cho
lời văn, làm cho người đọc có thể đối thoại trực tiếp cùng với nhân vật; hiện
thực được phản ánh ở nhiều góc độ khác nhau bởi nhiều quan điểm khác
nhau tạo nên cái nhìn nhiều chiều và tạo khả năng biến thể của viễn cảnh trần
thuật. Người đọc không có cảm giác bị gò ép bởi một tư tưởng nào vì vậy quá
trình tiếp nhận tác phẩm cũng thoải mái hơn.
Nhìn từ góc độ người trần thuật, tiểu thuyết Lê Lựu đem đến cho
người đọc những nét riêng bởi nhà văn luôn có sự trộn lẫn, hoán chyển ngôi
kể, tạo được sự bình đẳng của nhân vật với người trần thuật. Nhân vật không
lệ thuộc vào chính kiến của người trần thuật và người trần thuật vẫn có được
chất giọng riêng của mình. Chất giọng riêng của nhà văn được thể hiện phong
phú và khéo léo bởi người trần thuật giấu mình nhưng hoàn toàn không biến
mất trong lời trần thuật. Giọng điệu ấy có khi là một đoạn trữ tình ngoại đề,
có khi được gởi gắm trong lời của nhân vật này. có khi được gởi gắm trong
lời của nhân vật kia, khi trực tiếp, khi gián tiếp. Chính chất giọng riêng đó đã
đem đến cho người đọc những ấn tượng đặc biệt về Lê Lựu.
Nhìn chung, khi chọn kiểu trần thuật khách quan hóa theo hướng hiện
đại, Lê Lựu đã thành công đáng kể trong quá trình làm phong phú lời văn
trần thuật và tạo được dấu ấn cá nhân trong sáng tác của mình.
Khảo sát tiểu thuyết Lê Lựu, chúng tôi thấy chỉ có một tiểu thuyết
được trần thuật theo hướng chủ quan hóa. Tuy nhiên nó cũng đem đến cho
người thưởng thức những ấn tượng thú vị. Ở tác phẩm này, người trần thuật
xuất hiện theo kiểu vừa là người dẫn chuyện vừa là một nhân vật trong câu
chuyện. Với kiểu trần thuật này, người trần thuật có thể dùng lời văn gián
tiếp hai giọng và lời nửa trực tiếp. Người trần thuật có nhiều cơ hội để cùng
một lúc vừa miêu tả hiện thực vừa thể hiện trực tiếp thái độ tình cảm của
mình về các hiện tượng ấy và khám phá thế giới nội tâm phong phú của con
người.
Nhìn chung, các dạng lời văn kể trên được sử dụng rất linh hoạt, tùy
thuộc vào việc di chuyển điểm nhìn của người trần thuật. Trong cùng một tác
phẩm, ta cũng có thể tìm thấy tất cả các lời văn kể trên do diểm nhìn của
người trần thuật không cố định và vị trí của nhân vật được đặt ngang hàng với
người trần thuật.
- Kết cấu lời văn nghệ thuật : Theo chúng tôi, đây cũng là yếu
tố quan trọng góp phần hình thành phong cách của nhà văn. Tiểu thuyết Lê
Lựu được chúng tôi khảo sát chủ yếu thuộc hai dạng cấu trúc. Đó là: cách
viết trộn lẫn trình tự kể, đan xen các không – thời gian và cấu trúc nhiều tầng
bậc. Sự kết hợp linh hoạt của hai dạng cấu trúc này đã đem đến thành công
đáng kể cho nhà văn trong quá trình rút ngắn khoảng cách giữa người đọc và
câu chuyện được kể. Có thể nói, sự thâm nhập, khám phá thế giới hình
tượng nhân vật từ nhiều góc độ với nhiều quan điểm khác nhau đã tạo nên sức
hấp dẫn riêng cho lời văn trần thuật của Lê Lựu.
- Giọng điệu nghệ thuật: Giọng điệu là một trong những yếu tố
tạo nên nét riêng trong phong cách nhà văn. Tìm hiểu giọng điệu nghệ thuật
trong tiểu thuyết Lê Lựu, chúng tôi thấy nó thật sự góp phần khẳng định vị trí
của nhà văn trong tiến trình đổi mới tiểu thuyết. Tiểu thuyết của ông đã đem
đến cho người đọc ấn tượng sâu đậm với chất giọng giễu nhại. Chính chất
giọng này giúp nhà văn dễ dàng tấn công vào những mặt trái của xã hội, phơi
bày những khuất tất được che giấu trong cuộc sống tạo nên giá trị hiện thực
cho tiểu thuyết của ông, góp phần làm cho nó gần với cuộc đời hơn. Ngoài ra,
khi tìm hiểu tiểu thuyết Lê Lựu từ góc độ trần thuật chúng tôi đặc biệt quan
tâm đến tính đa thanh trong lời văn có nhiều tiếng nói đối thoại nhau. Nhân
vật của Lê Lựu thường được nhà văn đặt vào môi trường đối thoại sinh động
để bộc lộ tính cách. Nhân vật được xếp ngang hàng với người trần thuật, đối
thoại tự do với người trần thuật, người đọc và với chính mình. Tạo được môi
trường đối thoại cho các nhân vật, nhà văn cũng đồng thời tạo cho người đọc
môi trường tự do, thoải mái khi tiếp nhận tác phẩm vì không lệ thuộc vào
quan điểm của nhà văn, không bị gò bó bởi một tư tưởng nào. Các vấn đề đều
được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau, nhiều quan điểm khác nhau tạo nên tính
phức điệu cho lời văn.
Giọng điệu trong tiểu thuyết của ông được thể hiện với nhiều sắc thái
khác nhau. Khi thì giọng triết lí được thể hiện một cách tự nhiên trong lời của
nhân vật khi lại là lời trực tiếp của người trần thuật. Chính vì được gởi gắm
một cách tự nhiên trong cuộc đối thoại mà những vấn đề triết lí ấy đi vào lòng
người nhẹ nhàng, sâu sắc. Tùy vào hoàn cảnh cụ thể, giọng văn ông được thể
hiện từ chất giọng lạnh lùng, mỉa mai đến xót thương, ngậm ngùi; từ đồng
tình đến phẫn nộ. Dù được thể hiện như thế nào thì tiềm ẩn trong nó cũng là
nỗi trăn trở, suy tư của nhà văn trước hiện thực cuộc sống, mong làm đẹp
cuộc đời.
Trên đây là một số kết quả mà chúng tôi nhận thấy trong qúa trình tiếp
cận nghệ thuật trần thuật thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu. Từ những nghiên
cứu trên chúng tôi nhận ra rằng Lê Lựu là một nhà văn tài năng. Tiểu thuyết
của ông quả thật đã đem đến cho Văn học Việt Nam nhiều điều mới mẻ, góp
phần không nhỏ vào quá trình mới tiểu thuyết. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ
nghệ thuật trần thuật, chúng tôi nhận thấy tiểu thuyết của ông cũng có những
hạn chế nhất định. Chẳng hạn khi thể hiện quan điểm riêng của mình,tuy
không nhiều nhưng đôi chỗ nhà văn còn gượng ép. Ở một số đoạn kể, lời trần
thuật có vẻ luộm thuộm. Tuy nhiên, những hạn chế này theo chúng tôi là
không đáng kể so với những thành công mà nhà văn đã đem đến cho chúng ta.
Dù đã rất cố gắng nhưng do sự hạn chế về khả năng chuyên sâu và
điều kiện nghiên cứu, chắc chắn luận văn tiếp cận và giải quyết một số vấn
đề không tránh khỏi chủ quan, chưa có tính thuyết phục. Vì vậy, chúng tôi
mong nhận được sự góp ý chân thành của quí thầy cô để có thể khắc phục
được các nhược điểm trong luận văn này, và cho ra đời những bài nghiên cứu
có tính chất chuyên sâu hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (2006), “Đổi mới văn học và tinh thần nhân văn trong
sự hội nhập ý thức nhân văn toàn cầu”, Tạp chí Nghiên cứu
Văn học, (số 8).
2. Lại Nguyên Ân (1982), Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới, H.
3. Lại Nguyên Ân (1996), “Hệ thống thể loại ở văn học Việt Nam từ
sau 1945”, bài in chung trong: Một thời đại mới trong văn học,
nhiều tác giả, Nxb Văn học, H.
4. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG, H.
5. Từ điển Văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX, Nxb
ĐHQG, H.
6. M.Bakhtin (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư
tuyển chọn, dịch và giới thiệu, Bộ Văn hoá thông tin và thể
thao, Trường Viết văn Nguyễn Du, H.
7. M.Bakhtin (1998), Những vấn đề thi pháp Đôxtôixepki, Nxb GD, H.
8. Lê Huy Bắc (?), “Đồng hiện trong văn xuôi”, Tạp chí Văn học (số 6).
9. Nguyễn Thị Bình (1996), “Mấy nhận xét về nhân vật của văn xuôi
Việt Nam sau 1975”, in chung trong Năm mươi năm văn học
Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, Nxb ĐHQG, H.
10. Nguyễn Thị Bình (2007), “Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 - một cái
nhìn khái quát”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (số 2 ).
11. Lê Nguyên Cẩn (2006), “Thế giới kì ảo trong Mảnh đất lắm người
nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường từ điểm nhìn văn hóa”,
Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (số 8)
12. Vũ Khắc Chương(2000), Nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm
Nam Cao, Nxb Văn học, H.
13. Trần Cương (1945), “Văn xuôi viết về nông thôn từ nửa sau những
năm 1980”, Tạp chí Văn học,(số 4)
14. Trần Cương (1995), “Đánh giá văn xuôi viết về nông thôn trước
thời kì đổi mới (1986)”, Tạp chí Văn học, (số 12).
15. Nguyễn Văn Dân (1986), Nghiên cứu sự tiếp nhận văn chương trên
quan điểm liên ngành, Tạp chí Văn học, (số 4)
16. A.V.Dranov(2002), “Mỹ học tiếp nhận”, Lại Nguyên An dịch, Tạp
chí văn học, (số 3)
17. Trương Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Nxb
KHXH,H.
18. Hà Huy Dũng (2007), Người kể chuyện trong truyện ngắn và tiểu
thuyết Nguyễn Khải, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, ĐHSP Tp
HCM.
19. Đặng Anh Đào (1993), “Sự tự do của tiểu thuyết một khía cạnh thi
pháp”, Tạp chí Văn học, (số 3).
20. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây
hiện đại, Nxb GD, H.
21. Đặng Anh Đào (2002), “Sự phát triển nghệ thuật tự sự ở Việt Nam:
một vài hiện tượng đáng lưu ý”, Tạp chí Văn học,(số 2).
22. Phan Cự Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb GD, H.
23. Phan Cự Đệ (2001), “Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thời kì
đổi mới”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, (số 3).
24. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn
học, H.
25. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn
học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học
26. Anh Đức (2000), Đôi diều suy ngẫm về tiểu thuyết, Tạp chí Nhà
văn, (số 8).
27. Hà Minh Đức (chủ biên), (2001), Lí luận văn học, Nxb GD, H.
28.Hà Minh Đức (2006), “Suy nghĩ về một vài hướng tìm tòi đổi mới
trong văn học”, Tạp chí văn học, (số 4).
29. Nguyễn Trung Đức (1993), “Tự sự nhiều người kể trong “ Kí sự về
một cái chết được báo trước” của G.G.Mackét”, Tạp chí Văn
học, (số 2).
30. Văn Giá (1994), “Quan niệm về tiểu thuyết trong khoa nghiên cứu
văn học giai đoạn 1932- 1945”, Tạp chí Văn học,(số 8).
31. Gorki (1965), Bàn về văn học,tập 2, Nxb Văn học, H.
32. Nguyễn Hải Hà- Nguyễn Thị Bình (1995), Quan niệm nghệ thuật
về con người trong văn xuôi Việt Nam sau Cách mạng tháng
Tám, Công trình khoa học cấp nhà nước, KX-07, đề tài KX-
07-01, H.
33. Hồ Thế Hà (1998), Tìm trong trang viết, Nxb Thuận Hoá, Huế.
34. Nguyễn Văn Hạnh (1998), Về đặc trưng của Văn học( trích Lí
Luận văn học vấn đề và suy nghĩ, Nguyễn Văn Hạnh- Huỳnh
Như Phương), Nxb GD, H.
35. Hêghen (1999), Mỹ học, tập 1, Phan Ngọc giới thiệu và dịch, Nxb
Văn học, H.
36. Hoàng Ngọc Hiến (1987), “Đọc Thời xa vắng của Lê Lựu”, Tạp chí
Văn nghệ Quân đội, ( số 4 ).
37. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Tập bài giảng nghiên cứu văn học, Nxb
GD, H.
38. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Văn học và học văn, Nxb Văn học, H.
39. Hoàng Ngọc Hiến (2003), Nhập môn Văn học và phân tích thể loại,
Nxb Đà Nẵng.
40. Phùng Minh Hiến (2002), Tác phẩnm văn chương một sinh thể
nghệ thuật, Nxb Hội Nhà văn, H.
41. Bùi Hiển (1996), Hướng về đâu văn học?, Nxb Hội nhà văn, H.
42. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, H.
43. Nguyên Hữu Hiệu (2002), Con đường sáng tạo, Nxb Trẻ
44. Nguyễn Kim Hoa (1995), Văn học sáng tạo và cảm thụ, Nxb Văn
nghệ, thành phố Hồ Chí Minh.
45. Võ Đình Hoá (2001), Lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn trước
1945 của Nam Cao, luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn
chuyên ngành văn học Việt Nam, Trường ĐHSP Thành phố
Hồ Chí Minh.
46. Nguyễn Hoà (2000), “Một cách lí giải về thực trạng tiểu thuyết Việt
Nam đương đại”, Tạp chí Nhà văn, H (số8 ).
47. Nguyễn Thái Hoà (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb
GD, H.
48. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế
kỉ XX, Nxb ĐHQG, H.
49. Lê Thị Hường (1995), “Các kiểu kết thúc củaa truyện ngắn hôm
nay”, Tạp chí Văn học, (số 4 ).
50. Nguyễn Văn Kha (2000), Đổi mới quan niệm về con người trong
văn học hiện đai Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1991 (Luận
án Tiến sĩ Ngữ văn),Trường ĐH KHXH và NV, Thành phố Hồ
Chí Minh.
51. Ma Văn Kháng (2000), “Sự đủng đỉnh cuả tiểu thuyết”, Tạp chí
nhà văn, (số 8).
52. Trần Đăng Khoa (1998),Chân dung và đối thoại, Nxb Thanh niên,
H.
53. M.B.Khrapchenko (1978),Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát
triển văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam, H.
54. M.B.Khrachenko (2002), Những vấn đề lí luận và phương pháp
luận nghiên cứu văn học, nhiều người dịch, Trần Đình Sử
tuyển chọn và giới thiệu, Nxb ĐHQG, H.
55. Nguyễn Kiên (2000), “Văn xuôi không tự bằng lòng” Tạp chí Nhà
văn, ( số 1)
56. M.Kundera (2001), Nghệ thuật tiểu thuyết- Những di chúc bị phản
bội, Nxb Văn hoá thông tin- Trung tâm văn hoá ngôn ngữ
Đông Tây.
57. Lê Đình Kị (2000), Phê bình nghiên cứu văn học, Nxb GD, H.
58. Nguyễn Lai (1998), Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học,
Nxb GD, H.
59. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học Tiếng Việt, Nxb GD, H
60. Tôn Phương Lan (2002), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh
Châu, Nxb KHXH.
61. Phong Lê (1980), Văn xuôi Việt Nam trên con đường hiện thực xã
hội chủ nghĩa, Nxb KHXH, H.
62. Phong Lê (1985), “Trên hành trình của 40 năm văn xuôi: ngôn ngữ
và giọng điệu”, Tạp chí Văn học, ( số 5,6 )
63. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới ( Tiểu luận – Phê
bình ), Nxb Hội nhà văn, H.
64. Nguyễn Văn Long (2001), Tiếp cận và đánh giá văn học Việt Nam
sau Cách mạng tháng Tám, Nxb GD, H.
65.Nguyễn Trường Lịch (2006), “Đôi điều về đổi mới tiểu thuyết trong
bối cảnh giao lưu văn hóa”, Tạp chí nghiên cứu Văn học tháng
12.
66. Lê Lựu (2005), “Tôi chỉ có khiếu ăn mài”, báo Pháp luật Tp HCM
(số ngày 13/2 )
67. Lê Lựu (2007), “Tôi thấy mình là đứa con bạc bẽo”, bài phỏng vấn
do Dương Thục Anh thực hiện, báo An ninh thế giới cuối
tháng 11.
68. Thiếu Mai (1987), “Nghĩ về một “ Thời xa vắng” chưa xa”, Văn
nghệ quân đội, (số 4).
69. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), (1985), các nhà văn nói về văn),tập
1, Nxb Tácphẩm mới ,Hội nhà văn Việt Nam ,H.
70 .Nguyễn Đăng Mạnh (1996), “Nền văn học mới từ sau Cách mạng
tháng Tám”, in chung trong Một thời đại mới trong văn học ,
nhiều tác giả , Nxb Văn học, H.
71. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật
của nhà văn , Nxb GD , H.
72. Hà Mật (2000), “Tiểu thuyết đặc trưng và khuynh hướng” , Tạp chí
nhà văn,(số 4).
73. Nguyên Ngọc (1990)“Đôi nét về một tư duy văn học mới đang hình
thành”, Tạp chí văn học, ( số 4).
74. Mai Ngữ (1988 “Cái tâm và cái tài của người viết”, Báo Quân đội
nhân dân, ngày 27/8
75. Vương Trí Nhàn (1996), “Bốn mười năm phát triển văn học”, bài
in chung trong : Một thời đại mới trong văn học , nhiều tác giả,
Nxb Văn học , H
76. Vương Trí Nhàn (2002), “Vài nét về tư duy tự sự của người Việt”,
Tạp chí văn học , ( số 2 ).
77. Phùng Quý Nhâm (1991) , Thẩm định văn học, Nxb Văn nghệ,
Tp.HCM
78. Phùng Quý Nhâm (1994), Tiếp cận văn học, Phùng Quý Nhâm –
Lâm Vinh , Trường ĐH SP Thành phố Hồ Chí Minh
79.Đỗ Hải Ninh (2006), “Tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới”, Tạp chí
nghiên cứu văn học, số 7.
80. Phan Diễm Phương (2000), Lối văn kể chuyện của Nam Cao, sách
lời giải bài của văn chương, Nxb KHXH, H
81. Huỳnh Như Phương (1993), “Văn học hôm nay đang nhìn lại chính
mình”, Tạp chí văn học, (số 1).
82. Huỳnh Như Phương (2002), “Trường phái hình thức Nga và văn
xuôi tự sự”, Tạp chí văn học .
83. Pospelov (chủ biên ), (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập 2
(Trần Đình Sử , Lại Nguyên An , Nguyễn Nghĩa Trọng dịch),
Nxb GD , H.
84. Văn Tuệ Quang (tuyển chọn và giới thiệu), (2000), Về một cách
tiếp cận tác phẩm văn học , Nxb ĐHQG Hà Nội.
85. J.P.Sartre (1999), Văn học là gì?, Nguyên Ngọc dịch , Nxb Hội nhà
văn, H.
86. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Giáo trình ĐHSP
Thành phố Hồ Chí Minh.
87. Trần Đình Sử (1996), Lý luận phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn ,
H .
88. Trần Đình Sử (2001), Văn học và thời gian, Nxb Văn học, H.
89. Trần Đình Sử (2002), Tự sự học – Một bộ môn nghiên cứu liên
ngành giàu tiềm năng, Tạp chí văn học, (số 2).
90. Trần Đình Sử (2003), Văn học Việt Nam – Cuộc đồng hành sáng
tạo, Tạp chí nhà văn , (số 2).
91. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học, một số vấn đề lý luận và lịch sử,
Nxb ĐHSP, Tp HCM.
92. Trần Đình Sử, (1998), “Cấu trúc đối thoại trong truyện truyện ngắn
Chí Phèo của Nam Cao”, Tạp chí Văn học, (số 12).
93. Trần Đình Sử (1999), “Giọng điệu nghệ thuật và chủ nghĩa cảm
thương trong truyện Kiều”, Tạp chí Văn học (số 2).
94. Đinh Quang Tốn (1995), “Lê Lựu- Thời xa vắng”, bài in chung
trong Tản mạn và chính kiến văn chương, Nxb Văn học , H.
95. Đinh Quang Tốn (1996), “Ma Văn Kháng với Đám cưới không có
giấy giá thú”, bài in chung trong Tản mạn và chính kiến văn
chương, Nxb Văn học, H.
96. Nhiều tác giả (1983), Số phận của tiểu thuyết (tác phẩm dịch), Nxb
Tác phẩm mới, H.
97.Nhiều tác giả (2008), Văn học Việt Nam sau 1975 : những vấn đề
nghiên cứu và giảng dạy, Nxb GD, H.
98. Nhiều tác giả (1984), Từ điển văn học , tập 2 , Nxb KHXH , H
99. Nhiều tác giả (1980), Cơ sở lý luận văn học, (chủ biên : Nguyên
Lương Ngọc), Nxb ĐH và THCN, H.
100. Nhiều tác giả (1997), Lý luận văn học (chủ biên : Phương Lựu).
101. Nhiều tác giả (1992), Từ điển thuật ngữ văn học (chủ biên:
Nguyễn Khắc Phi ), Nxb GD , H.
102. Đào Thản (1994), “ Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện
trong văn xuôi”, Tạp chí văn học, (số 2).
103. Ngô Thảo (1973), “Về truyện ngắn Lê Lựu”, Bài in chung trong
Văn học về người lính, Nxb GD, H.
104. Ngô Thảo (1984), “Viết cho hôm nay”, Tạp chí VNQĐ, (số 11).
105. Ngô Thảo (1996), “Sự hình thành của đội ngũ nhà văn kiểu mới”,
bài in chung trong Một thời đại mới trong văn học, Nxb Văn
học.
106. Ngô Thảo (2000 , Đời người đời văn (phê bình tiểu luận), Nxb Hội
nhà văn, H.
107. Đỗ Tất Thắng (1986), “Mỗi người phải chịu trách nhiệm về nhân
cách của mình”, Báo Văn nghệ ngày 6.12.
108. Nguyễn Thành Thi (1999), Đặc trưng truyện ngắn Thạch Lam,
Nxb GD, H.
109. Bích Thu (2006), Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kì
đổi mới, Tạp chí Nghiên cứu văn học ( số 11).
110. Nguyễn Văn Trung (1965), Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết, Nxb
Nam Sơn, Sài Gòn.
111. Tiền Trung Văn (2006), Những vấn đề lí thuyết của M.Bakhtin về
tính phức điệu, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (số 6).
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................1
2. Giới hạn đề tài ..........................................................................................4
3. Lịch sử vấn đề...........................................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................11
5. Đóng góp của luận văn ...........................................................................12
6. Kết cấu của luận văn ..............................................................................12
Chương 1: NGƯỜI TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU
1.1. Khái niệm người trần thuật trong loại hình tự sự ................................13
1.2. Trần thuật khách quan hóa trong tiểu thuyết Lê Lựu ..........................16
1.3. Trần thuật chủ quan hóa trong tiểu thuyết Lê Lựu..............................44
Chương 2: KẾT CẤU LỜI VĂN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT
LÊ LỰU
2.1. Vấn đề kết cấu lời văn nghệ thuật .......................................................52
2.2. Các kiểu kết cấu lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu ............54
Chương 3: GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT TROGN TIỂU THUYẾT LÊ LỰU
3.1. Giọng trần thuật ...................................................................................78
3.2. Giọng trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu...........................................80
3.3. Sắc thái biểu hiện của giọng trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu .....107
KẾT LUẬN ...................................................................................................................129
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 134
BOÄ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC SÖ PHAÏM TP. HOÀ CHÍ MINH
Voõ Thò Myõ Haïnh
NGHEÄ THUAÄT TRAÀN THUAÄT
TRONG TIEÅU THUYEÁT
LEÂ LÖÏU
LUAÄN VAÊN THAÏC SÓ VAÊN HOÏC
Thaønh phoá Hoà Chí Minh – 2008
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHLLVH011.pdf