1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong số những thành tích đạt được của công cuộc đổi mới nền kinh tế
đất nước, trong thời gian qua, có thể nói nông nghiệp là một ngành đã có
những bước đột phá ngoạn mục. Thu nhập của nông dân không ngừng tăng
lên, bộ mặt nông thôn được cải thiện đáng kể. Sản xuất nông nghiệp đã đảm
bảo an toàn lương thực cho đời sống xã hội.
Thế nhưng, sự phát triển ấy so với yêu cầu phát triển kinh tế chung trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế mạnh mẽ như hiện nay thì vẫn còn quá thấp và nhỏ bé. Cho
đến bây giờ, nông nghiệp Việt Nam vẫn là một nền sản xuất kém hiệu quả và
thiếu tính hợp lý. Cần phải hình thành và phát triển những hình thức sản xuất
phù hợp hơn, mà trong đó, kinh tế trang trại là một mô hình tốt có thể áp dụng
để đáp ứng yêu cầu này.
Đã manh nhà từ rất lâu, nhưng chỉ trong khoảng chục năm trở lại đây,
vai trò của kinh tế trang trại mới thực sự được công nhận và được quan tâm
chú ý, đặc biệt là sau khi Nghị quyết số 03/2000/NQ- CP của Chính phủ ngày
2/2/2000 về kinh tế trang trại ra đời thì kinh tế trang trại mới thực sự được
một sự trợ giúp của Nhà nước về cơ chế, chính sách như là hỗ trợ cho các
doanh nghiệp thông thường của nền kinh tế thị trường. Sự tăng nhanh về số
lượng, gia tăng về giá trị sản lượng đã chứng tỏ đây là một mô hình tổ chức
sản xuất nông nghiệp phù hợp với đặc thù kinh tế nông nghiệp, nông thôn
nước ta, giúp nông dân làm giàu, tăng thu nhập cho bản thân họ và cho xã hội.
Không có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế trang trại với quy mô
đất đai lớn như ở vùng đồng bằng Sông Hồng hay vùng đồng bằng phía nam,
nhưng tỉnh Thái Nguyên là tỉnh miền núi phía Bắc là nơi có nhiều điều kiện
ưu đãi về điều kiện tự nhiên, điều kiện khí hậu .đặc biệt là vùng có truyền
thống sản xuất nông nghiệp lâu đời, trình độ thâm canh của người dân tương
đối cao. Huyện Đại Từ là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên trong
những năm qua sản xuất nông nghiệp của huyện đã đạt được nhiều tiến bộ
quan trọng Nhưng để ngành nông nghiệp của huyện đáp ứng được yêu cầu
phát triển trong thời kỳ mới thì phải hợp lý hoá, hiệu quả hoá sản xuất nông
nghiệp nhằm khai thác một cách triệt để tiềm năng về đất đai cũng như khả
năng lao động của con người vùng miền núi này và mô hình kinh tế trang trại
là phù hợp hơn cả. Những năm qua kinh tế trang trại của huyện đã có nhiều
thành tích đáng khích lệ, nhưng thật sự vẫn chưa phát triển tương xứng với
tiềm năng của nó. Câu hỏi đặt ra là: Khả năng phát triển kinh tế trang trại của
vùng đến đâu? làm sao để mô hình được áp dụng đem lại hiệu quả kinh tế xã
hội cao nhất? Trả lời cho câu hỏi này chính là mục đích của đề tài: "Nghiên cứu
các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ đến năm 2010"
Kết cấu của luận văn: Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục luận văn được chia thành 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu:
Chương 2: Tình hình phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ trong thời gian qua.
Chương 3: Các giải pháp để phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ từ nay đến năm 2010.
114 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2258 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ề thu nhập cũng khá lớn. Sở
dĩ trang trại của các xã đạt mức thu nhập khác nhau là do trình độ thâm canh
nuôi trồng thuỷ sản khác nhau.
Thu nhập của trang trại là chỉ tiêu phù hợp nhất vừa phản ánh kết quả
sản xuất vừa là hiệu quả hoạt động kinh doanh của kinh tế trang trại. Thu
nhập trang trại là chỉ tiêu tính toán cuối cùng của trang trại vừa bao hàm phần
tiền công của chủ trang trại và những người lao động trong trang trại vừa cả
phần lãi do kinh doanh của trang trại đem lại. Trên cơ sở mức thu nhập của
các trang trại, có thể tính mức thu nhập bình quân của một lao động và một
nhân khẩu của trang trại. Kết quả tính toán cho thấy mức thu nhập bình quân
một lao động trong độ tuổi của các trang trại điều tra là 1,25 triệu đồng. Mức
thu nhập lao động của các trang trại ở Na Mao đạt 27 triệu đồng và bằng gần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
80
1,8 lần mức thu nhập của các trang trại trên địa bàn toàn huyện. Có 7 xã có
mức thu nhập bình quân lao động cao hơn mức trung bình chung và 16 xã còn
lại đạt mức dưới trung bình, đáng chú ý là có 3 xã đạt mức tương đối thấp,
nhất là Vạn Thọ, Mỹ Yên và Hoàng Nông. Mức thu nhập bình quân hàng
tháng một lao động đạt 1,25 triệu đồng. Phân bổ trang trại ở các xã có mức
thu nhập bình quân một trang trại từ 1 triệu đồng trở xuống có 8 xã, đó là các
trang trại ở Thị Trấn Quân Chu, xã Phú Lạc, xã La Bằng, xã Hoàng Nông, xã
Mỹ Yên, xã Vạn Thọ, xã Quân Chu, từ 1 -2 triệu đồng có 12 xã, từ 2 – 2,5
triệu đồng có 3 xã. Mặc dù mức thu nhập của một lao động hàng tháng của
các trang trại điều tra còn thấp, nhất là nhóm trang trại phía Tây Nam với mức
bình quân 650 ngàn đồng, mức thu nhập này bằng 1,4 lần so với mức tiền
công lao động làm thuê thường xuyên của xã này. Mức thu nhập tính bình
quân một nhân khẩu các trang trại điều tra là 8,05 triệu đồng tính cho cả năm
và 670 ngàn đồng tính cho một tháng. Mức chênh lệch giữa thu nhập một
nhân khẩu ở xã cao nhất và thấp nhất thu hẹp xuống 2,7 lần. Nhìn chung thu
nhập bình quân nhân khẩu của trang trại các hộ chăn nuôi lợn nái ngoại là cao
nhất, tiếp đó là các trang trại cây lâu năm, thấp nhất là các trang trại lâm
nghiệp (Do đang ở thời kỳ kiến thiết). Với mức thu nhập này của các trang
trại là cao và vượt trội so với kinh tế hộ nông dân (xem biểu số 14).
Biểu 14 Mức thu nhập bình quân lao động trong tuổi và nhân khẩu
của các trang trại năm 2007
Đơn vị tính: Triệu đồng
TN của một lao động TN của một nhân khẩu
BQ 1 năm BQ 1 tháng BQ 1 năm BQ 1 tháng
Bình quân chung 15,03 1,25 8,05 0,67
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
81
TT Q Chu 11,28 0,94 6,26 0,52
Phúc Lương 13,44 1,12 7,07 0,59
Đức Lương 25,20 2,10 12,60 1,05
Phú Cường 16,80 1,40 9,24 0,77
Na Mao 27,00 2,25 13,50 1,13
Phú Lạc 9,84 0,82 5,17 0,43
Tân Linh 13,68 1,14 7,60 0,63
Phú Thịnh 10,80 0,90 6,35 0,53
Phú Xuyên 14,40 1,20 7,58 0,63
Bản Ngoại 25,20 2,10 12,36 1,03
Tiên Hội 16,68 1,39 9,26 0,77
Hùng Sơn 14,52 1,21 8,06 0,67
Cù Vân 12,00 1,00 6,67 0,56
La Bằng 10,92 0,91 6,06 0,51
Hoàng Nông 10,20 0,85 5,66 0,47
Khôi Kỳ 13,20 1,10 6,94 0,58
Tân Thái 14,64 1,22 8,12 0,68
Bình Thuận 22,80 1,90 11,40 0,95
Mỹ Yên 9,60 0,80 5,05 0,42
Vạn Thọ 7,80 0,65 5,57 0,46
Văn Yên 21,60 1,80 11,36 0,95
Cát Nê 12,60 1,05 7,00 0,58
Quân Chu 11,40 0,95 6,34 0,53
(Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả tháng 12/2007)
2.4. Đánh gía chung và những vấn đề cần đặt ra trong phát triển
kinh tế trang trại của huyện Đại Từ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
82
2.4.1. Những nhận xét và đánh gía:
Từ khảo sát thực tế và phân tích thực trạng phát triển của 80 trang trại ở
huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên, có thể rút ra một số kết luận sau đây:
- Trong những năm gần đây kinh tế trang trại đã phát triển mạnh ở huyện
Đại Từ. Mặc dù đang trong quá trình phát triển, nhưng kinh tế trang trại đã
thực sự là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá ngày càng lớn, một mặt đã tạo
ra lượng giá trị lớn về nông, lâm thuỷ sản hàng hoá mà quy mô của nó vượt
trội nhiều lần so với kinh tế hộ nông dân, mặt khác là mô hình lấy sản xuất
hàng hoá làm mục tiêu chính. Số liệu điều tra cho thấy ở 80 trang trại thì giá
trị sản phẩm hàng hoá bình quân một trang trại năm 2007 là 47,36 triệu đồng.
- Kinh tế trang trại là nhân tố mới trong nông thôn. Phát triển kinh tế
trang trại là động lực mới nối tiếp và phát huy động lực của kinh tế hộ, là
điểm đột phá trong bước chuyển sang sản xuất nông nông nghiệp hàng hoá
lớn. Các trang trại đã tạo ra khối lượng nông lâm, thuỷ sản hàng hoá lớn đáp
ứng tiêu dùng trong huyện và một phần bán ra tỉnh ngoài. Phát triển kinh tế
trang trại đã góp phần tích cực trong quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng,
vật nuôi và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Phát triển
kinh tế trang trại là con đường tất yếu, là bước đi thích hợp để chuyển nền
nông nghiệp từ tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hoá lớn.
- Chủ trang trại với cơ cấu xuất thân rất đa dạng, trong đó các chủ trang
trại có nguồn gốc từ hộ nông dân làm ăn giỏi là lực lượng chủ yếu để xây
dựng và phát triển kinh tế trang trại. Với tỷ lệ 67,5% số chủ trang trại là nông
dân. Điều đó có thể khẳng định để phát triển kinh tế trang trại ở huyện Đại Từ
trước hết và chủ yếu phải dựa vào lực lượng những hộ nông dân làm ăn giỏi
và các trang trại gia đình là hình thức tổ chức chiếm tuyệt đại bộ phận trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
83
kinh tế trang trại ở huyện Đại Từ. Bên cạnh đó có khoảng 3% là các chủ trang
trại sản xuất với quy mô lớn, đây là những trang trại có điều kiện để áp dụng
công nghệ khoa học vào sản xuất kinh doanh và là trang trại tạo thêm được
nhiều việc làm và thu nhập cho các địa phương. Vì lẽ đó theo tôi ngoài việc
thúc đẩy phát triển mạnh các trang trại gia đình thì các trang trại khác cũng
cần được khuyến khích.
- Để khởi sự phát triển kinh tế trang trại, các ông chủ trang trại cần phải
tích tụ vốn ban đầu nhất định, trong đó chủ yếu bằng vốn tự có. Tuỳ thuộc
vào điều kiện cụ thể của từng vùng, việc lựa chọn hướng sản xuất kinh doanh
của các trang trại mà lượng vốn của từng ông chủ có sự khác nhau. Các trang
trại ở huyện Đại Từ lượng vốn tích luỹ ban đầu nhỏ, chủ yếu đi lên từ đất thực
hiện phương châm lấy ngắn nuôi dài, chuyên môn hoá kết hợp phát triển tổng
hợp, tăng cường sự tích góp thành quả lao động để phát triển kinh tế trang
trại. Quy mô các trang trại này còn nhỏ bé.
- Một số đáng kể trang trại đã lựa chọn hướng kinh doanh chính phù hợp
với các vùng chuyên canh theo quy hoạch của tỉnh và huyện, góp phần sớm
định hình các vùng sản xuất chuyên môn hoá lớn gắn với chế biến, tiêu thụ
sản phẩm, các trang trại chè ở La Bằng, Hùng Sơn, Phú Thịnh, Hoàng
Nông…Các trang trại qua điều tra đã thể hiện được các loại hình trang trại
chuyên môn hoán theo từng loại cây trồng, vật nuôi, tỷ trọng giá trị sản phẩm
hàng hoá này trong các trang trại có hướng kinh doanh chính chiếm rất cao.
- Phát triển kinh tế trang trại đã góp phần khai thác và sử dụng quỹ đất
tốt hơn, đưa đất đai hoang hoá vào sản xuất nhất là những xã vùng núi trọc,
bãi bồi ven sông, ven biển đã được đưa vào sản xuất, tạo ra khối lượng sản
phẩm hàng hoá đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên quá trình chuyển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
84
nhượng đất chủ yếu diễn ra ở vùng đất mới khai phá, quỹ đất chuyển nhượng
chưa lớn.
- Các trang trại đã tạo thêm việc làm và thu nhập đáng kể cho bộ phận
lao động ở nông thôn. Số liệu điều tra 80 trang trại cho thấy ngoài số lao động
của bản thân các trang trại, hàng năm đã tạo thêm nhiều việc làm cho hàng
ngàn lao động, bao gồm cả lao động làm thuê thường xuyên theo thời vụ.
Mức tiền công hàng tháng của lao động thường xuyên đạt trên 1 triệu
đồng/tháng. Từ thực tiễn đó có thể khảng định: Một mặt kinh tế trang trại đã
tạo thêm nhiều việc làm và tăng thu nhập cho những người lao động ở nông
thôn. Mặt khác kinh tế trang trại có thể sử dụng lao động gia đình hoặc có thể
thêm lao động thường xuyên và lao động thời vụ khi cần thiết, chứ không
nhất thiết phải thuê lao động mới là kinh tế trang trại.
2.4.2. Những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu và giải quýêt.
Bên cạnh những kết luận và khẳng định nêu trên, kinh tế trang trại ở
huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên đang đặt ra một loạt các vấn đề cần được
nghiên cứu và giải quyết, đáng chú ý là những vấn đề sau:
- Nhà nước chưa có những chính sách đồng bộ cụ thể nhằm khuyến
khích kinh tế trang trại phát triển tương xứng với tiềm năng: Trong những
năm gần đây kinh tế trang trại đã phát triển khá mạnh theo đường lối đổi mới
của Đảng, nhưng chưa được hướng dẫn và chủ yếu còn mang tính chất manh
mún, chưa gắn chặt với quy hoạch các vùng sản xuất và công nghiệp chế biến
nông, lâm, thuỷ sản. Vấn đề đang đặt ra cho UBND huyện và các cơ quan
chức năng của huyện là từng bước hướng dẫn kinh tế trang trại phát triển phù
hợp với mục tiêu, quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của đất nước và từng
địa phương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
85
- Nhận thức và tiêu chí nhận dạng trang trại mới được thống nhất: Còn
nhiều bàn cãi về vai trò của kinh tế trang trại, thậm chí cho đến nay một số
cán bộ, chuyên gia còn băn khoăn có nên phát triển kinh tế trang trại ở nước
ta hay không? Liệu có chệch hướng sang phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa
hay không? Về tiêu chí nhận dạng kinh tế trang trại của tỉnh chưa rõ nét, do
vậy việc xác định số lượng các tang trại đang khác nhau. Cần khẳng định việc
phát triển kinh tế trang trại là hình thức thích hợp và có hiệu quả đối với sản
xuất nông, lâm, thuỷ sản của huyện .
- Quỹ đất của các trang trại rất đa dạng: nhất là phần đất chưa được giao,
phần này chiếm trên 20% đó là đất nhận thầu của hợp tác xã, chính quyền địa
phương, dự án…đang làm cho các chủ trang trại chưa thật yên tâm bỏ vốn
đầu tư để khai thác có hiệu quả quy đất này.
- Sản phẩm hàng hoá của các trang trại có quy mô thương đối lớn, song
vấn đề chế biến và thị trường tiêu thụ sản phẩm còn mang tính cục bộ. Vài ba
năm tới các trang trại đưa diện tích cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả, rừng
nguyên liệu vào kinh doanh sản xuất thì vấn đề chế biến nông, lâm, thuỷ sản
và tiêu thụ sản phẩm sẽ đặt ra hết sức gay gắt, nếu không chú ý giải quyết từ
bây giờ thì chắc chắn sẽ gây ra tổn thất lớn cho các trang trại và nền kinh tế
quốc dân.
- Trình độ của các chủ trang trại về chuyên môn, nghiệp vụ còn thấp. Tỷ
lệ các chủ trang trại được đào tạo có bằng từ sơ cấp trở lên mới đạt 32,5% số
chủ trang trại, còn lại chủ yếu là do họ học tập qua báo chí, đài…và các tổ
chức xã hội khác. Vấn đề đào tạo những kiến thức cần thiết về kỹ thuật và
quản lý cho chủ trang trại đã và đang đặt ra một cách bức bách. Huyện cần
nghiên cứu chính sách đào tạo và bồi dưỡng phù hợp với các chủ trang trại,
họ là một lực lượng chủ yếu của nông nghiệp huyện trong tương lai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
86
- Để phát triển kinh tế trang trại trước hết người chủ phải dựa vào vốn tự
có là chủ yếu, do vậy mà nhiều người có kiến thức, ý chí làm giàu nhưng chưa
đủ điều kiện để phát triển kinh tế trang trại. Nếu đáp ứng được nguồn vốn vay
trong đó cơ cấu vay trung và dài hạn hợp lý chắc chắn xu thế phát triển kinh
tế trang trại sẽ mạnh hơn, rộng rãi hơn, sẽ góp phần sử dụng hợp lý quỹ đất
còn hoang hoá, nhất là ở các xã miền núi. Vấn đề đặt ra cần có chính sách tín
dụng phát triển kinh tế trang trại thích hợp với từng vùng, từng địa phương
trong giai đoạn hiện nay.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm chưa mở rộng: Giá cả thiếu ổn định, rủi ro cao,
mặc dù vấn đề được đề cập nhiều nhưng còn mang tính cục bộ. Nguyên nhân
nhì có nhiều: Chất lượng nông sản thấp, trình độ chế biến, bảo quản yếu kém,
chủ trang trại thiếu nghiệp vụ thị trường, sản xuất không theo quy hoạch các
vùng chuyên môn hoá gắn với các cơ sở chế biến rau quả, thuỷ sản... vài ba
năm tới, hầu hết các trang trại đưa diện tích cây lâu năm, cây công nghiệp,
rừng nguyên liệu vào khai thác cho sản phẩm đồng loạt thì vấn đề chế biến
nông, lâm, thuỷ sản và thị trường tiêu thụ, giá cả sản phẩm sẽ đặt ra hết sức
gay gắt, không chú ý giải quyết ngày từ bây giờ chắc chắn sẽ gây ra tổn thất
lớn cho các trang trại và cho nền kinh tế quốc dân.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn còn yếu, nhất là những vùng kinh
tế trang trại phát triển, đáng chú ý là mạng lưới giao thông, thuỷ lợi, điện
nông thôn, chế biến nông sản rất yếu kém. Các trang trại đang mong muốn
được ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nhất là cây, con giống tốt, công
nghệ sau thu hoạch….vấn đề đặt ra cần được nhà nước hỗ trợ các trang trại về
xây dựng các yếu tố cần thiết của hệ thống kết cấu hạ tầng, từng bước đưa
tiến bộ khoa học- công nghệ vào sản xuất và chế biến của các trang trại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
87
CHƢƠNG III
CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI
HUYỆN ĐẠI TỪ ĐẾN NĂM 2010
3.1. Quan điểm-Phƣơng hƣớng - Mục tiêu:
3.1.1. Quan điểm phát triển
* Phát triển kinh tế trang trại nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả đất
đai, vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý góp phần phát triển nông nghiệp bền
vững, tạo việc làm tăng thu nhập, khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói
giảm nghèo; phân bố lại lao động, dân cư, xây dựng nông thôn mới... Tiếp tục
phát triển trên diện rộng không chỉ ở những vùng có nhiều đất, nhất là đất
trống, đồi núi trọc, đất còn hoang hoá mà còn ở ngay trên những vùng đất ít
(là phần lớn) bằng thâm dụng lao động, tăng cường đầu tư vốn và thâm dụng
kỹ thuật, gắng với chế biến và thương mại, dịch vụ, làm ra nông sản có giá trị
kinh tế lớn.
* Coi trọng hiệu quả kinh tế của các trang trại, khuyến khích làm giàu
hợp pháp. Bên cạnh đó cũng cần nhìn nhận một thực tế là, đại bộ phận nông
dân rất kém linh hoạt thiếu nhạy bén trong cơ chế thị trường, vì thế thu nhập
và đời sống nông thôn chậm được cải thiện. Do vậy trước mắt những người
có vốn, có kinh nghiệm và có năng lực, bất kể thuộc thành phần xã hội nào,
thành phần kinh tế nào, nếu có mong muốn làm giàu từ sản phẩm nông
nghiệp, đều được khuyến khích làm kinh tế trang trại, chấp nhận giải quyết
một lượng lao động thấp hơn nhưng đem lại hiệu quả cao, chấp nhận có một
bộ phận nông dân giàu hơn hẳn để làm đầu tầu, tạo ra động lực kích thích sản
xuất, kích thích động cơ làm giàu của bộ phận nông dân còn lại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
88
* Tôn trọng nguyên tắc phát triển nông nghiệp bền bững, quá trình canh
tác, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản của trang trại không vì lợi nhuận trước mắt
mà khai thác một cách bừa bãi các tài nguyên, sử dụng tài nguyên đất, tài
nguyên nước... không chú trọng cải tạo hay chú ý đến lợi ích lâu dài, để chục
năm sau, đất đai bạc màu, ô nhiễm hoá học khiến co đất không thể tái sản
xuất được nữa. Không những thế, trang trại cũng phải được chú ý để tạo nên
một vùng sinh thái hợp lý góp phần cần bằng môi trường sống của dân cư.
yếu tố an toàn lương thực phải được coi trọng.
3.1.2. Định hƣớng:
- Trong những năm tới việc phát triển kinh tế trang trại phải được coi là
một giải pháp lớn, quan trọng trong phát triển kinh tế nông lâm nghiệp của
huyện, phát triển kinh tế trang trại nhằm đẩy nhanh qúa trình CNH - HĐH
nông nghiệp, nông thôn, phát triển mạnh các loại hình kinh tế trang trại cả về
quy mô, số lượng và hiệu quả kinh doanh để kinh tế trang traị phát huy vai trò
đầu tầu dẫn dắt cho kinh tế hộ phát triển.
16
- Phát triển theo hướng hàng hoá chuyên canh
- Quy hoạch các vùng phát triển phù hợp với điều kiện của huyện.
- Phát triển kinh tế trang trại phải có sự quản lý của Nhà nước.
3.1.3. Mục tiêu:
- Phát triển bền vững.
- Phấn đấu năm 2010 đạt 100 trang trại.
16 Nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện Đại Từ lần thứ 21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
89
- Hình thành rõ nét các loại hình trang trại như sau:
+ Chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô vừa, tiến tới quy mô lớn.
+ Chuyên sản xuất giống.
+ Chuyên sản xuất chè chất lượng cao.
+ Sản xuất, kinh doanh cây trồng, vật nuôi đặc sản
- Giá trị sản xuất của loại hình kinh tế trang trại đạt từ 2 - 3% tổng giá trị sản
xuất nông nghiệp, tạo nên nguồn sản phẩm hàng hoá chính hướng tới xuất khẩu.
- Thu nhập bình quân 100 triệu đồng/năm/trang trại, thu nhập người lao
động đạt 1 triệu đồng/tháng.
- Tạo điển hình tiên tiến về thâm canh, chuyên môn hoá, ứng dụng khoa
học công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp.
- Phấn đấu 100% các chủ trang trại nâng cao tay nghề.
17
3.2. CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ
3.2.1. Các giải pháp về phía Nhà nƣớc
Nhà nước đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tạo ra một môi
trường thuận lợi cho trang trại cả trong khâu hỗ trợ đầu vào và tiêu thụ sản
phẩm đầu ra. Những sự hỗ trợ ấy sẽ tác động thông qua các giải pháp về các
vấn đề sau đây:
17 Đề án phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ giai đoạn 2006-2010.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
90
3.2.1.1. Các giải pháp về đất đai: Đất đai là mối quan tâm hàng đầu đối
với các hộ nông dân nói chung, các trang trại nói riêng. Trên thực tế, những
năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều đổi mới về chủ trương chính sách
ruộng đất, tạo điều kiện cho quá trình tập trung ruộng đất diễn ra trên nhiều
địa phương. Tuy nhiên quá trình tập trung còn chậm. Đất khai hoang và
chuyển nhượng chiếm tỷ trọng nhỏ. Trong bối cảnh trên, giải pháp đất đai đối
với phát triển kinh tế trang trại phải đạt được các mục đích sau:
- Tạo điều kiện tập trung đất đai để hình thành trang trại cũng như quy
mô hợp lý của các trang trại cũ.
- Đưa đất đai còn hoang hoá vào phát triển kinh tế trang trại
- Hợp pháp hoá về mặt pháp lý để các chủ trang trại yên tâm bỏ vốn đầu
tư phát triển sản xuất.
- Khuyến khích các trang trại khai thác sử dụng đất đai đầy đủ hợp lý,
gắn khai thác với bảo vệ và nâng cao chất lượng ruộng đất
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai
Để đạt được các mục đích trên, trong tình hình hiện nay cũng như trong
sự biến chuyển kinh tế- xã hội trong năm tới, cần tập trung giải quyết các vấn
đề sau:
* Cần sớm có quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế - xã hội, quy hoạch
đất đai ở cấp huyện.
Huyện là cấp hành chính trực tiếp giải quyết các vấn đề có liên quan đến
phát triển kinh tế trang trại. Trên cơ sở các định hướng phát triển đã được xác
định, đất đai của huyện được chia thành các tiểu vùng kinh tế - sinh thái - xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
91
hội. Từ đó bố trí sản xuất trên toàn bộ địa bàn của huyện và tính toán tốc độ
phát triển của từng ngành. Các tiểu vùng dự định phát triển kinh tế trang trại
cần được quy định rõ trong quy hoạch của huyện theo từng bước phát triển, từ
đó đi sâu vào quy hoạch cụ thể và thiết kế các tiểu vùng kinh tế trang trại trên
địa bàn huyện trên cơ sở định hình quy mô các vùng chuyên môn hoá tập
trung đã có, thực hiện quy hoạch các vùng chuyên môn hoá mới, đặc biệt là
vùng cây ăn quả, cây công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản...như quy hoạch vùng
phát triển cây chè tại các xã Tân Linh, Phú Lạc, Phú Thịnh, Phú Cường,
Hoàng Nông, La Bằng, Hùng Sơn, Quân Chu; Vùng phát triển chăn nuôi thuỷ
sản tại các xã như Tân Thái, Cù Vân, Vạn Thọ, Lục Ba…; Phát triển trang trại
sản xuất rau, hoa, cây cảnh…tại các xã Hùng Sơn, Bình Thuận, Tiên Hội, Bản
Ngoại; Phát triển vùng sản xuất cây lâm nghiệp tại Phúc Lương, Đức Lương,
Minh Tiến, Mỹ Yên…
* Khuyến khích tập trung đất đai và những người có nguyện vọng nhận
đất ở các vùng đất trống, đồi núi trọc, vùng đất hoang hoá để hình thành các
trang trại có quy mô hợp lý.
Để trở thành trang trại các nông hộ phải tập trung ruộng đất đến quy mô
nhất định. Trên thực tế, quá trình tập trung ruộng đất diễn ra chậm, cần tiếp
tục khuyến khích quá trình tập trung ruộng đất theo hướng hình thành trang
trại. Đó là yêu cầu đòi hỏi thực tế (80% lãnh đạo các cấp và 75% các chủ
trang trại thống nhất với ý kiến này) và là yêu cầu khách quan của phát triển
kinh tế trang trại. Tuy nhiên, việc tập trung ruộng đất phải được tiến hành một
cách thận trọng. Đặc biệt, ở các vùng đồng bằng nơi diện tích đất nông nghiệp
bình quân thấp, khả năng để lao động nông nghiệp chuyển sang phi nông
nghiệp rất hạn chế nên việc tập trung đất đai có thể làm cho một bộ phận nhỏ
nông dân vì hoàn cảnh khó khăn quẫn bách buộc phải mất đất để chỗ thất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
92
nghiệp, bần cùng hoá. Do vậy, việc tập trung đất đai không thể diễn ra tự phát
mà phải có sự quản lý, kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước, nhất là các chính
quyền địa phương. Trong bối cảnh hiện nay theo tôi khuyến khích tập trung
ruộng đất phát triển kinh tế trang trại cần tập trung sử lý một số vấn đề như:
- Nhà nước cần nhanh chóng giao quyền sử dụng đất lâu dài: Đối với
những diện tích đất trang trại đã được giao và sử dụng hợp pháp: có thể cho
phép chuyển nhượng quyền sử dụng. Khuyến khích bằng cách giảm thuế, gia
hạn hợp đồng thuê đất, sử dụng đất... cho những chủ trang trại biết đầu tư
khoa học, kỹ thuật và tái đầu tư mở rộng vào khai thác hiệu quả cao nhất diện
tích đang được giao quản lý sử dụng.
- Đối với những diện tích đất chưa được giao: Đẩy mạnh việc giao đất,
cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những trang trại
sử dụng hợp pháp để các chủ trang trại yên tâm đầu tư phát triển sản xuất. Các
địa phương rà soát lại các trang trại hiện có, xúc tiến nhanh việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo chính sách đất đai như trong Nghị quyết
của Chính phủ và hướng dẫn của Bộ Tài Nguyên-MT. Những hộ gia đình cá
nhân đã sử dụng đất phát triển trang trại mà chưa được giao, chưa được thuê
hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chưa được cấp giấy chứng nhận
trước khi ban hành Nghị quyết 03/2000/NQ-CP, sử dụng đúng mục đích và
không tranh chấp thì dược xét giao, cho thuê, được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho trang trại.
- Đối với những phần đất đai vượt mức hạn điền: Mức hạn điền quy định
cần phải phù hợp với đặc trưng của cơ cấu sản xuất của từng loại trang trại và
phù hợp với hiện trạng đất đai chật hẹp của vùng, đảm bảo người sản xuất có
đất, đồng thời khuyến khích tích tụ đất theo hướng quy mô lớn ở những nơi
có điều kiện.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
93
- Đối với đất trồng cây dài ngày hay để chăn nuôi đại gia súc, ở những
nơi có nhiều ruộng đất cần nghiên cứu quy định cho thuê lâu dài phần diện
tích vượt mức hạn điền trên nguyên tắc khuyến khích sử dụng đất có hiệu quả,
đồng thời có biện pháp ngăn ngừa việc kiếm lời bằng mua bán đất đai.
- Đối với gia đình, cá nhân đã được Nhà nước giao đất hoặc đã được
chuyển nhượng quyền sử dụng đất vượt mức hạn điền trước ngày 02/2/2000
thì tiếp tục sử dụng và chuyển sang cho thuê đất với thời gian sử dụng bằng
thời gian đất được giao.
- Hộ nông dân không có đất sản xuất ở địa phương phải được ưu tiên
giao đất. Cho phép các hộ gia đình phi nông nghiệp có nguyện vọng lập trang
trại được thuê đất; hộ gia đình, cá nhân ở địa phương khác nếu có nguyện
vọng lập trang trại lâu dài, có vốn đầu tư được thuê đất để lập trang trại.
- Tiếp tục khai hoang: Tiếp tục khai thác những vùng đất hoang hoá ở
các vùng đồi núi trọc rải rác trong vùng, các bãi bồi ven sông Công, mặt nước
nuôi trồng thuỷ sản còn chưa sử dụng, ít người muốn nhận làm, những cá
nhân có nguyện vọng thiết tha muốn làm trang trại sản xuất nông nghiệp, có
khả năng về vốn, kinh nghiệm sản xuất và quản lý thì cho họ nhận không thu
tiền, với diện tích có thể cao hơn hạn điền. Những vùng có nhiều khó khăn
trong khai thác và sản xuất thì có thể cho giao với mức thuế thấp, hoặc miễn
hẳn. Cho thuê hoặc khoán theo luật định.
- Đối với đất đai của các dự án xin kiến nghị xử lý theo hướng: Những
trang trại hoạt động theo hình thức dự án do các cấp có thẩm quyền duyệt với
quy mô diện tích lớn trên 100 ha, đền nghị UBND huyện, Công ty lâm nghiệp
cho chuyển hình thức hoạt động sang công ty tư nhân hay công ty trách nhiệm
hữu hạn theo luật công ty; Đối với các chủ dự án khai thác trồng mới cây lâu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
94
năm, rồi giao khoán lại cho các hộ thuộc địa phương chăm sóc, phân phối
theo sản phẩm đề nghị Nhà nước cho họ thuê đất sản xuất nông lâm nghiệp,
ổn định và lâu dài theo thời gian mà Luật đất đai quy định
18
.
* Khắc phục tình trạng ruộng đất manh mún: Việc khắc phục tình
trạng đất manh mún của các nông hộ là sẽ tạo điều kiện đi vào sản xuất tập
trung, đồng thời là tiền đề để chuyển từ nông hộ lên trang trại một cách thuận
lợi. Tuy nhiên giải quyết tình trạng đất đai manh mún là vấn đề phức tạp liên
quan đến lợi ích và tâm lý, tập quán sản xuất của hàng triệu hộ, hàng ngàn
trang trại. Vì vậy, không thể dựa vào mệnh lệnh áp đặt từ trên xuống, mà phải
thuyết phục nông dân tự nguyện, đồng thời phải có phương pháp đúng đắn và
thích hợp.
Trước hết, phải có quy hoạch lâu dài đất đai của huyện, xã phù hợp với
điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội ở từng nơi. Dựa vào quy hoạch, các địa
phương cần có kế hoạch chuyển đổi đất đai thích hợp khắc phục tình trạng
manh mún.
Sau đó, cần khuyến khích các hộ nông dân chuyển đổi ruộng đất trước
khi đo đạc để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Có chính sách dồn điền để lập các trang trại lớn: Để thuận lợi cho tích
tụ đất đai hình thành và phát triển kinh tế trang trại một cách nhanh chóng,
thuận lợi, đúng quy luật, có hiệu quả nhất, tuân theo quy hoạch của Nhà nước
và tránh những hậu quả khác ở nông thôn thì nhà nước cần có chính sách cụ
thể hơn nữa như đã thực hiện tại các địa phương như Hà Nội, huyện Phổ Yên
…cho phép nông dâ, các trang trại có thể nhận, chuyển nhượng quyền sử
dụng hoặc có thuê đất đai, để tích tụ đất ở những nơi có điều kiện.
18 Luật đất đai năm 1993
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
95
- Có chính sách ưu đãi về thuế sử dụng đất, thuế phụ thu để khuyến
khích các chủ trang trại mạnh dạn mở rộng quy mô của mình.
* Thừa nhận về pháp lý đất đai là một hàng hoá đặc biệt để quản lý và
sử dụng đất đai có hiệu quả.
Thị trường đất đai ở nước ta đang trong quá trình hình thành. Trong năm
qua thị trường này đã và đang bộc lộ những yếu kém, những hiện tượng tiêu
cực nảy sinh trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai cần thiết phải được
khắc phục. Nhà nước cần thừa nhận đất đai là một hàng hoá đặc biệt và có
chính sách phù hợp để đảm bảo hàng hoá này vận động trong cơ chế thị
trường. Từ đó nông dân có thể yên tâm khai thác và sử dụng đất đai có hiệu
quả, tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước quản lý tốt đất đai.
* Nhanh chóng xây dựng kết cấu hạ tầng cho các tiểu vùng kinh tế trang trại
Trước hết cần tiếp tục cải thiện hệ thống đường sá, giao thông đi lại cho
thuận tiện. Nâng cấp những tuyến đường đã hư hỏng làm cản trở giao thông
trong vùng.
Tìm nguồn nước, xây dựng các hồ chứa nước, hoàn tiện hệ thốg thuỷ lợi
phục vụ sản xuất, hệ thống cung cấp nước sinh hoạt cho dân cư trong vùng và
phục vụ nhu cầu tưới tiêu, nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của trang trại.
3.2.1.2. Các chính sách về vốn
Trong các nguồn lực phát triển kinh tế-xã hội nông thôn nói chung, kinh
tế trang trại nói riêng, vốn là nguồn lực quan trọng. Kết quả điều tra cho thấy
vốn đầu tư cho các chủ trang trại thấp (bình quân 102,58 triệu đồng/trang trại)
và có sự chênh lệnh lớn giữa các vùng. Nguồn vốn chủ yếu là vốn tự có. Việc
hình thành và phát triển kinh tế trang trại đòi hỏi vốn lớn hơn so với kinh tế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
96
hộ vì quy mô sản xuất lớn hơn, phải tiến hành khai hoang, kiến thiết đồng
ruộng, mặt nước, trồng rừng, trồng cây dài ngày, làm thuỷ lợi, mua sắm máy
móc…Vốn ít, các trang trại chưa có tư cách pháp nhân nên các trang trại chỉ
phát triển dần quy mô sản xuất theo phương châm “ Lấy ngắn nuôi dài”,
nhiều cơ sở hạ tầng không xây dựng, công cụ sản xuất còn thô sơ. Đây là
nguyên nhân làm cho kinh tế trang trại những năm qua phát triển chậm, hiệu
quả thấp, nhất là những trang trại có lượng vốn thấp, trong khi nhu cầu đầu tư
để mua sắm máy móc, xây dựng các cơ sở hạ tầng của trang trại rất lớn.
Nhưng hiện nay các trang trại không muốn vay vốn của ngân hàng vì sử dụng
vốn vay hiệu quả thấp, các thủ tục vay, thời điểm vay và thời hạn vay chưa
hợp lý. Để khắc phục mâu thuẫn trên cần giải quyết theo các vấn đề sau:
* Một là, cần có sự hỗ trợ nguồn vốn ngân sách cho việc phát triển kinh
tế trang trại. Vốn ngân sách hỗ trợ trang trại tập trung vào xây dựng các công
trình hạ tầng như thuỷ lợi, giao thông, điện….Các công trình được đầu tư xây
dựng ở bên ngoài trang trại nhưng là cơ sở quan trọng cho việc hình thành và
phát triển kinh tế trang trại. Nhà nước hỗ trợ đầu tư là chủ yếu, tuy nhiên
trong trường hợp nguồn ngân sách hạn hẹp, nhu cầu xây dựng lớn thì cần tính
toán đầu tư có trọng điểm và kết hợp nguồn lực của các trang trại với phương
trâm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm”.
*Hai là, Nhà nước cần thực hiện cơ chế cho các chủ trang trại vay theo
dự án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Nhà nước nên có chính sách tín dụng ưu đãi cho các trang trại theo hai
hướng: Tăng vốn cao hơn cho kinh tế hộ, đồng thời tăng lượng vốn vay trung
hạn và dài hạn; không phân biệt vốn vay giữa các khu vực kinh tế quốc doanh
và ngoài quốc doanh, đơn giản hoá thủ tục, giảm lãi suất... coi như đó là một
phần gián tiếp Nhà nước đầu tư cho doanh nghiệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
97
Ngày 22/9/2000 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành
quyết định số 423/2000/NĐ-NHNN về chính sách tín dụng ngân hàng đối với
kinh tế trang trại. Theo đó quy định thời gian cho vay phù hợp với thời gian
sinh trưởng, thu hoạch, tiêu thụ sản phẩm của cây trồng, vật nuôi, thời gian
khấu hao tài sản cố định, thời gian thuê và khả năng của chủ trang trại. Mức
ngắn hạn là 12 tháng, trung hạn là 12 - 16 tháng và dài hạn theo dự án đầu tư
là trên 60 tháng. Nếu vay từ 20 đến dưới 15 triệu thì không phải thế chấp tài
sản, nhưng phải có phương án kinh doanh hiệu quả và phải nộp giấy chứg
nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy xác nhận của UBND xã, phường là đất
đang sử dụng không có tranh chấp.
- Đa dạng hoá các hình thức cho vay và huy động vốn. Các ngân hàng
huy động vốn từ tiết kiệm, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu...; vay vốn của các
tổ chức tài chính quốc tế và cả vốn ODA, vốn vay thương mại, ngoài ra hàng
năm cũng nên dành một phần ngân sách để chuyển sang các tổ chức tín dụng
cho vay theo chương trình, dự án
19
.
- Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, đảm bảo một môi trường tài chính,
tiền tệ lành mạnh, trong đó giữ vững ổn định tương đối giá trị đồng tiền Việt
Nam để tạo điều kiện khuyến khích việc huy động vốn dài hạn phục vụ cho
mục tiêu đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn. Cần tiến tới việc xoá bỏ
quy định về lãi suất trần để tạo cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tín
dụng, thúc đẩy dòng luân chuyển được nhanh hơn.
- Cần đổi mới mạnh mẽ phương thức cho vay, thu nợ phù hợp vớ i đặc
điểm của từng loại hình kinh tế trang trại. Đổi mới thủ tục cho vay, thu lãi sao
19 Quyết định 67/QĐ-TT ng ày 30/3/1999 về m ột số chính sách ngân hàng phục vụ phát t riển nông thôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
98
cho đơn giản, thuận tiện hơn, có cơ chế cho vay, thu lãi theo thời vụ của cây
trồng, vật nuôi.
- Cần có cơ chế cho phép Ngân hàng thương mại thực hiện cho vay theo
dự án đầu tư trọn gói (bao gồm cả chi phí trả lãi ngân hàng) đối với kinh tế
trang trại.
3.2.1.3. Giải pháp về thị trường cho kinh tế trang trại để đẩy mạnh tiêu
thụ sản phẩm:
Đây là vấn đề sống còn không chỉ riêng với kinh tế trang trại mà còn đối
với cả nền nông nghiệp nước ta. Cần tập trung vào các mặt sau đây:
- Về thông tin thị trường:
Việc người sản xuất nắm bắt thông tin thị trường là vô cùng quan trọng
trong nền kinh tế hàng hoá. Nhà nước cần lầm tốt công tác thông tin kinh tế,
đưa những thông tin này đến người sản xuất thông qua nhiều hệ thống kênh
trong đó có thông qua hệ thống khuyến nông để tăng khả năng tiếp thị của
người sản xuất, để chủ trang trại có điều kiện phân tích cung cầu trên thị
trường. Chẳng hạn, hình thành các kênh thông tin để doanh ngiệp và các chủ
trang trại tiếp cận thị trường như: tạo điều kiện thuận lợi cho thương nhân
nước ngoài vào Việt Nam đặt hàng, thương nhân Việt Nam ra nước ngoài
chào hàng; triển khai các hội chợ hàng nông sản, hội thảo hàng nông sản, dần
dần tổ chức thành các thị trường mua bán kỳ hạn như ở các nước.
UBND huyện và UBND các xã, TT tổ chức tốt việc cung cấp thông tin,
khuyến cáo khoa học giúp trang trại định hướng kinh doanh phù hợp nhu cầu
thị trường trong nước và quốc tế. Các cơ quan xúc tiến thương mại của Nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
99
nước cần làm tốt công tác dự báo thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài
nước để giúp các trang trại có hướng sản xuất thích hợp.
- Về lưu thông hàng hoá.
Đa dạng hoá các hình thức liên kết giữa thương nghiệp Nhà nước với các
thành phần kinh tế, giữa các viện nghiên cứu với các cơ sở sản xuất và các địa
phương, gắn việc ký kết hợp đồng cung ứng vật tư với bao tiêu sản phẩm
nhằm bảo đảm hiệu quả kinh tế. Hình thành và phát triển kinh tế hợp tác trên
cơ sở tự nguyện và nguyên tắc các bên cùng có lợi giữa các trang trại và dân
cư nông thôn gắn vói thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá và nơi cung cấp
các mặt hàng công nghiệp thực phẩm thiết yếu cho sản xuất và đời sống của
nông dân và nông thôn. Khuyến khích phát triển hệ thống chợ nông thôn và
các trung tâm giao dịch mua bán nông sản, vật tư nông nghiệp ở các thị trấn,
thị tứ nhất là các địa bàn tập trung phát triển kinh tế trang trại.
Khắc phục tình trạng thả nổi thị trường nông thôn tạo điều kiện cho các
chủ trang trại không chỉ xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình mà nếu có
điều kiện còn có thể thu gom của các chủ trang trại khác, hay khuyến khích
làm đại lý vật tư nông nghiệp.
Bên cạnh đó cần củng cố hệ thống các doanh nhiệp thương mại làm
nhiệm vụ xuất khẩu cho các trang trại ở các vùng chuyên canh. Qua hệ thống
này có thể vừa không ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các
trang trại, vừa có thể kiểm soát các quan hệ kinh tế theo hướng bảo đảm lợi
ích hợp lý cho cả phía trang trại lẫn doanh nghiệp thương mại phi Nhà nước.
Đồng thời phải thắt chặt sự kiểm soát đối với hàng hoá nông sản giá rẻ, chất
lượng kém của nước ngoài xâm nhập vào thị trường trong nước thông qua con
đường phi mậu dịch ở các vùng biên giới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
100
- Về xuất khẩu nông sản: Một mặt nhà nước, các doanh nghiệp tiếp tục
duy trì quan hệ với các thị trường truyền thống như Đông Âu, Trung Quốc,
Cu Ba, ... mặt khác tích cực tìm kiếm các thị trường mới. Đẩy mạnh việc
khuyến khích các chủ trang trại có điều kiện về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và
có thị trường tham gia xuất khẩu trực tiếp những nông sản hàng hoá đã qua
chế biến.
Khắc phục tình trạng quá nhiều đầu mối xuất khẩu không có tổ chức dẫn
đến tranh chấp, ép giá. Hoàn chỉnh chính sách tiêu thụ ổn định lâu dài và trực
tiếp cho những mặt hàng nông sản quan trọng như gạo, thịt, rau quả cao cấp,
nông sản đặc sản... Thoát dần tình trạng xuất khẩu nhỏ từng chuyển qua các
khâu trung gian, khuyến khích các đơn vị trực tiếp giao dịch với các đối tác
nước ngoài, tăng cường và mở rộng hợp tác kinh tế đối ngoại trong sản xuất
kinh doanh nông nghiệp.
3.2.1.4. Giải pháp về khoa học công nghệ ở các trang trại:
- Nhà nước cần đổi mới, hoàn thiện tổ chức hoạt động khoa học công
nghệ từ nghiên cứu đến triển khai. Cần huy động các tiềm năng của các thành
phần kinh tế tập trung đầu tư vào khoa học và công nghệ nông nghiệp, coi đây
là mặt trận hàng đầu.
- Ngoài chính sách chung về khoa học và công nghệ nông nghiệp, cần có
chính sách cụ thể hướng dẫn khuyến khích, hỗ trợ khoa học và công nghệ đối
với kinh tế trang trại là lực lượng, là loại hình tổ chức sản xuất có nhiều nhu
cầu và khả năng nhất trong việc ứng dung khoa học và công nghệ nông
nghiệp vào sản xuất. Đó chính là công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến
ngư.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
101
Nâng cao, hướng dẫn cho các trang trại áp dụng các mô hình canh tác
tổng hợp có hiệu quả, ứng dụng các biện pháp kỹ thuật, quy trình kỹ thuật
canh tác tiến bộ nhất là sử dụng các loại giống mới, có năng suất và chất
lượng cao vào sản xuất, khuyến khích hỗ trợ các trang trại có điều kiện về đất
đai, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật tham gia sản xuất và cung ứng giống.
Tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp trong hoạt động khuyến nông của
mọi tổ chức, mọi thành phần kinh tế và phương châm tất cả mọi hoạt động
khuyến nông đều tác động đến người lao động, đem lại hiệu quả cao nhất.
Cần có chính sách mạnh mẽ để tập hợp được nhiều cán bộ khuyến nông,
chuyên môn giỏi, nhiều cán bộ quản lý kỹ thuật, kinh tế và xã hội, những
nông dân giỏi trong sản xuất và có kinh nghiệm làm giàu. Đảm bảo công tác
khuyến nông đạt chất lượng cao nhưng phù hợp với ngân sách của địa
phương. Tiếp tục sử dụng những cán bộ khuyến nông có năng lực chuyên
môn và giỏi thực hành biết làm công tác tuyên truyền và vận động quần
chúng ở từng xã, trả lương ngân sách. Nhiệm vụ của số cán bộ này là tuyên
truyền và phổ biến, hướng dẫn tập huấn các chủ trang trại và người lao động
có đủ khả năng ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về công nghệ sau thu hoạch,
bảo quản sản phẩm, công nghệ chế biến nông, lâm, thuỷ sản theo quy mô vừa
và nhỏ sử dụng các trang trại thiết bị cơ giới phù hợp trong khâu làm đất, vận
chuyển, bơm nước... Bên cạnh ngân sách của Nhà nước đầu tư cho khuyến
nông, cần xây dựng các chính sách thu hút vốn của các ngành hàng, các cơ sở
sản xuất kinh daonh nông sản, và nguồn tài trợ quốc tế tham gia công tác này.
Hiện nay ngành nông nghiệp chỉ hoạt động khuyến nông chung cho cả nông
dân giàu lẫn nghèo. Đã đến lúc cần tập trung công tác khuyến nông riêng đối
với các hộ nông dân, trang trại sản xuất hàng hoá. Hình thành và mở rộng các
câu lạc bộ khuyến nông cho các chủ trang trại theo các ngành sản xuất, đi về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
102
những chuyên đề thiết thực. Mục tiêu của công tác là hướng dẫn các trang trại
sử dụng các giống cây, con mới; áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về bảo quản sản
phẩm, nhất là bảo quản rau quả nhằm kéo dài thời gian tiêu thụ; áp dụng công
nghệ chế biến nông, lâm, hải sản tiên tiến; phân loại và đóng gói sản phẩm
tiêu thụ, sử dụng máy móc phù hợp để làm đất, vận chuyển và bơm nước tưới
tiêu...
- Chính sách khoa học công nghệ của Nhà nước phải kết hợp những kinh
nghiệm, tinh hoa cổ truyền với hiện đại hoá theo hướng cơ giới hoá, tin học
hoá, thuỷ lợi hoá, đặc biệt là ứng dụng những thành tựu mới nhất của công
nghệ sinh học trong nước và quốc tế.
- Nhà nước cũng nên tiếp tục tăng cường quản lý và kiểm tra chặt chẽ
chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, vật tư nông nghiệp theo pháp lệnh giống
cây trồng, vật nuôi, tăng cường kiểm tra, đặc biệt là giống nhập từ các nước,
xử lý kịp thời những trường hợp buôn bán hàng giả, giống chất lượng kém
thậm chí có nguy cơ gây hại cho cả ngành sản xuất chung để hạn chế rủi ro
cho các trang trại và cho toàn ngành nông nghiệp.
- Phát huy vai trò của các phòng ban, trạm, trại của địa phương. Các cơ
quan này cần theo dõi sát sao nhu cầu của các trang trại, liên kết với các trang
trại để xác định các mô hình chuyển giao kỹ thuật mới cho nông dân trong
vùng. Đầu tư xây dựng các vườn ươm nhân giống cây trồng, vật nuôi trên địa
bàn phát triển trang trại, thậm chí khuyến khích loại hình trang trại kinh doanh
hình thức này để đảm bảo cung cấp đủ giống tốt tại chỗ cho các trang trại.
- Tổ chức đào tạo nâng cao đội ngũ cán bộ khoa học phục vụ nông
nghiệp bằng nhiều hình thức đa dạng. Khuyến khích cá nhân, tập thể mở rộng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
103
trao đổi, hợp tác với nước ngoài, có chính sách đãi ngộ thoả đáng với những
sáng tạo công nghệ và ứng dụng có hiệu quả vào sản xuất.
- Đối với công nghiệp chế biến, trên cơ sở quy hoạch các vùng nguyên
liệu tập trung, các nguồn vốn đầu tư của nước ngoài, nguồn vốn 135, sắp xếp
lại hệ thống các cơ sở chế biến công nghiệp, đồng thời phát triển công nghiệp
chế biến với các trình độ sản xuất khác nhau để tăng lượng nông sản qua chế
biến, phục vụ nhu cầu đa dạng không chỉ của trong vùng mà còn của các vùng
khác. Đối với các loại nông sản xuất khẩu thì phải đầu tư đổi mới công nghệ
để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.
3.2.1.5. Giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng:
- Trước hết cần hoàn thiện và nâng cấp hệ thống đường giao thông trong
vùng, nhất là đường giao thông nông thôn. Hệ thống đường bộ quốc gia đã có
thể đảm bảo lưu thông hàng hoá, vật tư và nông sản trong phạm vi toàn vùng.
Vấn đề là nâng cấp chất lượng đường giao thông liên huyện, liên xã phù hợp
với yêu cầu phát triển của nông nghiệp hàng hoá và kinh tế nông thôn cũng
như kinh tế trang trại. Giải pháp nâng cấp đường giao thông hiện nay phải coi
trọng chất lượng hơn số lượng.
- Hoàn thiện hệ thống điện nông thôn. Hiện nay điện nông thôn ở huyện
Đại Từ đã về 100% số xã nên giải pháp hoàn thiện hệ thống điện là ổn định
nguồn điện bằng các biện pháp kỹ thuật và quản lý. Nên chăng giảm giá điện sản
xuất cho các trang trại nhỏ. Giảm giá bán điện cho nông nghiệp nói chung.
- Nâng cấp các công trình thuỷ lợi trong vùng. Hệ thống thuỷ lợi hiện
nay chưa đáp ứng được yêu cầu thâm canh cao hơn và đối phó với những biến
động thất thường của thời tiết. Yêu cầu tưới tiêu chủ động, tiến tới tưới tiêu
theo yêu cầu của sinh trưởng và phát triển của cây trồng đang đặt ra hàn loạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
104
vấn đề kinh tế và kỹ thuật đối với các công trình thuỷ lợi trong vùng, do đó
cần phải nâng cấp các công trình hiện có để tăng công suất tưới tiêu và cải
tiến phương pháp tưới tiêu. Sắp tới vốn đầu tư xây dựng cơ bản nhấn mạnh
vào việc kiên cố hoá kênh mương, gắn kết việc xây dựng kênh mương với hệ
thống giao thông nội đồng.
- Đầu tư nâng cao, chuyển giao và ứng dụng kỹ thuật mới trong nông
nghiệp: Danh mục đầu tư cần được ưu tiên đầu tư vốn, khoa học công nghệ.
- Tổ chức các hệ thống dịch vụ, sản xuất, kinh doanh đồng bộ liên hoàn
từ các khâu đầu vào cho đến các khâu đầu ra của sản xuất. Hình thành hệ
thống cung ứng vật tư, kỹ thuật, dịch vụ tư vấn, thông tin...
3.2.2. Các giải pháp hỗ trợ khác cho sự phát triển kinh tế trang trại:
UBND các huyện, các phòng ban chuyên môn và UBND các xã thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với kinh tế trang trại, chỉ đạo xây dựng quy
hoạch, kế hoạch, phối hợp các biện pháp hỗ trợ kinh tế trang trại phát triển.
Nhanh chóng ổn định việc quy hoạch phát triển các vùng cây trồng, vật
nuôi với khối lượng và chất lượng nông sản hàng hoá lớn. Tại những vùng
này, Nhà nước cùng các chủ trang trại đầu tư các hệ thống bảo vệ thực vật,
thu mua và chế biến, kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm cuối cùng, đồng thời có
chiến lược dự trữ các mặt hàng nông sản chủ yếu để sẵn sàng can thiệp và
điều tiết giá cả thị trường khi cần thiết.
Bộ Nông nghiệp và PTNT phối hợp với Tổng cục Thống kê và các cơ
quan có liên quan hướng dẫn tiêu chí về xác định trang trại để phân biệt với
các loại hình tổ chức sản xuất khác. Tiêu chí cơ bản là giá trị sản xuất hàng
hoá. Các tiêu chí phụ khác được sử dụng để phản ánh quy mô, trình độ, hiệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
105
quả sản xuất hàng hoá của trang trại phù hợp với điều kiện cụ thể của từng
vùng, gồm: Quy mô diện tích đất đai, diện tích cây trồng chính, số đầu con
gia súc, tỷ trọng hàng hoá, tỷ suất lợi nhuận, số lượng nhân công làm thuê...
Việc xác định trang trại để cấp giấy chứng nhận trang trại là điều kiện để các
trang trại nhận được sự ưu đãi về vốn và tiêu thụ sản phẩm của nhà nước.
Các địa phương tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, đảm bảo các chủ
trang trại thực hiện đầy đủ quy trình kỹ thuật canh tác và làm giàu đất, bảo vệ
môi trường thống kê trang trại hàng năm.
Tổ chức tổng kết đúc rút kinh nghiệm các mô hình trang trại tiên tiến, để
tuyên truyền phổ biến, tham quan học tập lẫn nhau. Khen thưởng kịp thời các
trang trại sản xuất kinh doanh giỏi, tao được nhiều việc làm, hỗ trợ nhiều hộ
nghèo đói khó khăn vươn lên sản xuất, ổn định cuộc sống.
Trong bối cảnh nước ta đã tham gia vào ASEAN, APEC và gia nhập
AFTA, WTO thì sự cạnh tranh trên thị trường lại càng khốc liệt. Theo đó vai
trò của các doanh nghiệp Nhà nước trong nông thôn và các chủ trang trại là
hết sức quan trọng, doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp
thương mại phải định hướng cho các chủ trang trại bảo đảm lợi ích lâu dài và
ổn định.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
106
K ÕT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Trong bối cảnh nền nông nghiệp nước ta đang đòi hỏi gay gắt phải có sự
chuyển biến mạnh mẽ cho thích hợp với lối sản xuất hàng hoá và đem lại thu
nhập cao cho người nông dân, kinh tế trang trị kịp xuất hiện như một tất yếu
khách quan và nhanh chóng chứng tỏ là một trong những loại hình tổ chức
sản xuất quan trọng, có vai trò và vị trí tiên phong trong tiến trình thực hiện
các mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.
Kinh tế trang trại là một bộ phận của nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá
được vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, nên nó cung được hưởng tất cả các chính sách đổi
mới của Đảng và Nhà nước đối với nông nghiệp, đồng thời kinh tế trang trại
cũng phải làm tất cả các nghĩa vụ mà các thành phần kinh tế khác trong nông
nghiệp phải làm tất cả các nghĩa vụ mà các thành phần kinh tế khác trong
nông nghiệp phải làm. Ngoài ra, kinh tế trang trại mang nhiều yếu tố sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp chế biến thực phẩm, mở mang ngành nghề dịch vụ ở
nông thôn theo một cơ cấu hợp lý, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Song thực tế những năm qua đã cho thấy kinh tế trang trại thực sự là đầu
tàu trong việc đổi mới nền nông nghiệp của vùng, là cách tốt nhất để phát
triển nền nông nghiệp hàng hoá và trong tương lai nó còn có nhiều triển vọng,
hứa hẹn đem lại một khối lượng lớn giá trị hàng hoá, nâng cao trình độ sản
xuất nông nghiệp của vùng lên một bước mới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
107
Với hệ thống các biện pháp đã đưa ra, để kinh tế trang trại phát triển
đúng với tiềm năng, đem lại nguồn thu lớn cho sản xuất nông nghiệp, xin có
một số kiến nghị như sau:
- Sau khi có quy hoạch đất, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
và quy hoạch các vùng chuyên canh của vùng UBND huyện chỉ đạo các cơ
quan của huyện dựa vào đó và căn cứ những thế mạnh của địa phương để
hướng dẫn các hộ gia đình có điều kiện kinh doanh trang trại, lựa chọn một cơ
cấu sản xuất thích hợp.
- Không chỉ khuyến khích các trang trại đưa tiến độ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất mà với các hộ gia đình sản xuất nhỏ cũng nên có biện pháp hỗ
trợ tương tự để họ mở rộng dần quy mô, bước đầu tạo tiền để đi lên làm kinh
tế trang trại.
- Cho đến nay các trang trại vẫn hoạt động độc lập, thiếu sự phối kết hợp
với nhau và với các chủ thể kinh tế khác của nền kinh tế. Có lẽ nên nghiên
cứu xem xét việc thành lập Hiệp hội các trang trại của huyện để trang trại có
điều kiện thuận lợi hơn trong việc chia sẻ kinh nghiệm, hợp tác sản xuất, chế
biến, tiêu thụ sản phẩm, đồng thời cũng tốt cho chủ trương hình thành các
vùng chuyên canh lớn của Nhà nước nhờ sự thoả thuận phân công giữa các
trang trại trong hiệp hội với nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1-
Báo cáo chuyên đề: "Chính sách phát triển kinh tế trang trại và tác
động của nó đến việc và thu nhập của lao động nông thôn" - Viện Quy
hoạch và thiết kế nông nghiệp- năm 2002
2- Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 22/2/2000 của chính phủ về việc kinh tế
trang trại.
3- Thực trạng và các giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ
đổi mới công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở Việt Nam.
4-Kmarx. Toàn tập, tập 25, phần 2
5- Thông tƣ số 74/TT-BNN về việc sửa đổi bổ sung mục III của thông tƣ
liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000
6-A Connugin: Kinh tế nông trại Mỹ, Trƣờng Đại Học Kinh tế Thành
phố Hồ Chí Minh
7-Nguyễn Điền. Kinh tế trang trại trên thế giới và ở Châu Á
8-Phát triển kinh tế hợp tác và kinh tế trang trại gia đình ở Việt Nam
9- Kết quả thực hiện Đề án phát triển kinh tế trang trại ở Thái Nguyên
10+11+14- Báo cáo đánh giá 3 năm (2002-2004) thực hiện chƣơng trình
phát triển kinh tế trang trại tỉnh Thái Nguyên- tháng 12/2004.
12-Báo Kinh tế nông thôn-Mục Kinh tế trang trại với công nghiệp hoá-
hiện đại hoá nông nghiệp-nông thôn ngày 19/7/2007.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
109
13-Báo cáo tổng kết năm 2007 của Ngân hàng chính sách xã hội huyện
Đại Từ
15-Tạp chí công nghiệp Việt Nam tháng 5/2001.
16- Nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện Đại Từ lần thứ 21
17- Đề án phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ giai đoạn 2006-2010.
18- Luật đất đai năm 1993
19- Quyết định 67/QĐ-TT ng ày 30/3/1999 về một số chính sách ngân
hàng phục vụ phát triển nông thôn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doc208.pdf