MỞ ĐẦU1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tàiTrong thời đại ngày nay, những bước tiến kỳ diệu và những thành tựu to lớn của khoa học và công nghệ tác động sâu sắc đến sự phát triển của xã hội loài người. Đối với nước ta, khoa học và công nghệ cùng với giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao trình độ quản lý của Nhà nước và tiềm lực lãnh đạo của Đảng.
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội những năm qua của nước ta, khoa học công nghệ tiếp tục phát triển đã hướng vào nghiên cứu ứng dụng bước đầu phát huy vai trò động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Lực lượng khoa học đã góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho các chủ trương phát triển kinh tế, đóng góp tích cực vào việc soạn thảo cương lĩnh, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội . Rất nhiều thành tựu khoa học được ứng dụng trong thực tế đã tác động tích cực đến phát triển kinh tế sản xuất trong nhiều lĩnh vực trên nhiều vùng kinh tế của đất nước. Cơ chế quản lý khoa học công nghệ đã bước đầu được đổi mới nhằm gắn hoạt động khoa học công nghệ với sản xuất và đời sống, mở rộng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các tập thể và cơ quan khoa học.
Trong thời gian qua, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, nhiều văn bản quan trọng về định hướng chiến lược và cơ chế, chính sách phát triển khoa học và công nghệ đã được ban hành: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII (1996); Luật Khoa học và Công nghệ (2000); Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 khoá IX (2002); Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010 (2003); và nhiều chính sách cụ thể khác về xây dựng tiềm lực và đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ.
Tuy nhiên, trình độ khoa học và công nghệ của nước ta hiện nay nhìn chung còn thấp so với các nước trên thế giới và trong khu vực, năng lực sáng tạo công nghệ mới còn hạn chế, vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước và đang đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển kinh tế tri thức trên thế giới. Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ ra những hạn chế cơ bản của hoạt động khoa học và công nghệ hiện nay là: “Chưa thực sự gắn kết với nhu cầu và hoạt động của các ngành kinh tế, xã hội; chậm đưa vào ứng dụng những kết quả đã nghiên cứu được; trình độ khoa học và công nghệ của ta còn thấp nhiều so với các nước xung quanh; năng lực tạo ra công nghệ mới còn rất có hạn. Các cơ quan nghiên cứu khoa học chậm được sắp xếp cho đồng bộ, còn phân tán, thiếu phối hợp, do đó đạt hiệu quả thấp. Các viện nghiên cứu và các doanh nghiệp, các trường đại học chưa gắn kết với nhau. Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật thiếu tập trung và dứt điểm cho từng mục tiêu. Cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao tuy còn ít, song chưa được sử dụng tốt.”
Mục tiêu của Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010 là: “Tập trung xây dựng nền khoa học và công nghệ nước ta theo hướng hiện đại và hội nhập, phấn đấu đạt trình độ trung bình tiên tiến trong khu vực vào năm 2010, đưa khoa học và công nghệ thực sự trở thành nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.”
Để đạt được mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ nước ta đến năm 2010, phải đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, tạo bước chuyển biến căn bản trong quản lý khoa học và công nghệ theo hướng phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với đặc thù của hoạt động khoa học và công nghệ, với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm nâng cao rõ rệt chất lượng, hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ; tăng cường và sử dụng có hiệu quả tiềm lực khoa học và công nghệ.
Chính vì vậy việc nghiên cứu chuyển đổi Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng (Viện KHCNXD) từ tổ chức Khoa học Công nghệ sự nghiệp có thu thành tổ chức Khoa học Công nghệ tự trang trải kinh phí là cần thiết để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tàiNghiên cứu hoàn thiện giải pháp chuyển đổi Viện KHCNXD từ tổ chức Khoa học Công nghệ sự nghiệp có thu thành tổ chức Khoa học Công nghệ tự trang trải kinh phí.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứuNghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn của việc chuyển đổi Viện KHCNXD, đánh giá thực trạng khoa học công nghệ (KHCN), thực trạng hoạt động của Viện KHCNXD. Trên cơ sở nghiên cứu đề án chuyển đổi Viện KHCNXD nghiên cứu giải pháp hoàn thiện trong việc chuyển đổi.
4. Phương pháp nghiên cứuĐề tài sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát số liệu, phân tích tổng hợp, tham khảo ý kiến chuyên gia, biện chứng, logic lịch sử.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tàiLuận văn nghiên cứu có giá trị ứng dụng để hoàn thiện cơ sở lý luận, đề xuất những định hướng, giải pháp hoàn thiện việc chuyển đổi Viện KHCNXD và có thể tham khảo cho việc chuyển đổi những tổ chức KHCN tương tự.
6. Kết cấu của luận vănKết cấu của luận văn gồm:
Mở đầu
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc chuyển đổi Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng
Chương 2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng
Chương 3. Phân tích, đánh giá đề án chuyển đổi Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
Kết luận
Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
109 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1603 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu chuyển đổi Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng từ tổ chức Khoa học Công nghệ sự nghiệp có thu thành tổ chức Khoa học Công nghệ tự trang trải kinh phí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tra chất lượng nước, môi trường, vật liệu phòng chống cháy nổ, tư vấn đánh giá tác động môi trường liên quan công trình xây dựng, hệ thống kỹ thuật công trình, hạ tầng kỹ thuật đô thị và cơ sở sản xuất công nghiệp;
- Tư vấn, tiếp nhận, chuyển giao hệ thống thiết bị, công nghệ mới các lĩnh vực thuộc ngành xây dựng.
(4) Tổ chức sản xuất, thực hiện xuất nhập khẩu, đầu tư xây dựng, kinh doanh thiết bị, thiết bị thí nghiệm, vật liệu xây dựng và các phần mềm ứng dụng.
(5) Nhận thầu và tổ chức thi công xây dựng mới, sửa chữa, cải tạo công trình; bảo tồn, trùng tu công trình kiến trúc cổ, công trình di tích.
(6) Tổ chức đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ, thí nghiệm viên, kiểm định viên, cán bộ quản lý dự án, giám sát chất lượng công trình xây dựng, công nhân kỹ thuật chuyên Ngành, bồi dưỡng, tập huấn phổ biến thông tin về khoa học công nghệ xây dựng và tiêu chuẩn hoá xây dựng; bồi dưỡng, tập huấn các chuyên đề kỹ thuật phục vụ công tác xây dựng.
(7) Thực hiện hợp tác với các tổ chức trong nước và quốc tế về các lĩnh vực hoạt động của Viện theo chức năng, nhiệm vụ được Bộ giao.
(8) Quản lý tổ chức cán bộ thực hiện chế độ tiền lương, đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật và các chế độ chính sách khác đối với cán bộ, viên chức theo phân cấp thuộc quyền quản lý của Viện.
(9) Quản lý tài chính, tài sản được giao, quản lý các hoạt động có thu của Viện theo quy định của pháp luật.
(10) Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng giao.
Theo Quyết định số 955/QĐ-BXD của Bộ trưởng Bộ Xây dựng ngày 3 tháng 7 năm 2006, Viện được chỉ định là Tổ chức kiểm tra chất lượng hàng hoá.
c, Dự kiến thay đổi về biên chế, phương án giải quyết nhân lực sau khi sắp xếp lại tổ chức.
Tất cả cán bộ công nhân viên (CBCNV) hiện có được ký hợp đồng làm việc và hợp đồng lao động theo quy định của Nhà nước.
Trong đó:
Số CBCNVC không đủ tiêu chuẩn về sức khoẻ, trình độ chuyên môn sẽ được sắp xếp theo các phương án sau:
- Người có đủ tiêu chuẩn nghỉ chế độ trước tuổi thì giải quyết theo nguyện vọng;
- Người không đủ điều kiện nghỉ chế độ, người không có nguyện vọng nghỉ trước tuổi, sẽ sắp xếp điều chuyển trong nội bộ Viện, phù hợp với trình độ chuyên môn, điều kiện sức khoẻ và sẽ được trả với mức lương tương xứng;
Các trường hợp khác cho chuyển công tác theo nguyện vọng;
Số nhân lực hợp đồng khi chuyển đổi: 400 ¸ 450 cán bộ.
* Phương hướng hoạt động
a, Dự kiến thay đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ
Về căn bản giữ nguyên chức năng nhiệm vụ theo Quyết định số 630/QĐ-BXD ngày 12 tháng 4 năm 2005 và Quyết định số 955/QĐ-BXD ngày 3 tháng 7 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng.
b, Định hướng hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, sản xuất và dịch vụ: nội dung, quy mô, phạm vi hoạt động, sản phẩm, dịch vụ cung cấp
b.1 Nội dung
(1) Hoạt động Nghiên cứu khoa học và Phát triển công nghệ:
Ưu tiên các hoạt động Nghiên cứu khoa học phục vụ quản lý nhà nước của Ngành trong lĩnh vực Xây dựng. Thực hiện các đề tài nghiên cứu áp dụng vật liệu, kết cấu, công nghệ tiên tiến, hiệu quả, thân thiện môi trường; Biên soạn các Quy chuẩn, tiêu chuẩn phù hợp với điều kiện Việt Nam và hội nhập Quốc tế;
Tập trung nghiên cứu các điều kiện kỹ thuật đối với công trình xây dựng ở Việt Nam gắn với hệ thống phòng thí nghiệm đã được đầu tư trong các lĩnh vực: phòng chống gió bão, phòng chống động đất, phòng chống cháy, địa kỹ thuật, phòng chống suy thoái vật liệu và kết cấu xây dựng (đặc biệt là các công trình di tích kiến trúc), phòng chống ăn mòn và bảo vệ công trình, giảm thiểu ô nhiễm môi trường;
(2) Hoạt động sản xuất, kinh doanh, tư vấn và dịch vụ kỹ thuật:
Ưu tiên thực hiện các dịch vụ tư vấn có hàm lượng kỹ thuật cao như: thiết kế, thẩm tra thiết kế các công trình có kết cấu, nền móng phức tạp; Tư vấn kiểm tra, giám sát chất lượng các công trình quy mô lớn, kỹ thuật thi công đặc biệt; Kiểm định, chứng nhận sự phù hợp về chất lượng và giải quyết sự cố công trình xây dựng;
Cung ứng các phần mềm tin học ứng dụng, thiết bị và quy trình công nghệ xây dựng tiên tiến;
Sản xuất, chuyển giao các sản phẩm, hóa phẩm và vật liệu xây dựng có hiệu quả, sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường thay vật liệu nhập ngoại;
Áp dụng công nghệ hiệu quả trong xây dựng, sửa chữa công trình, trùng tu các di tích kiến trúc;
Doanh thu dự kiến mỗi năm tăng 15 ¸ 20 %, tỷ lệ tư vấn đạt 50%, sản xuất dịch vụ khác 50%.
(3) Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kỹ thuật:
Ưu tiên tổ chức đào tạo thí nghiệm viên, kỹ thuật viên, kiểm định viên, cán bộ quản lý dự án, cán bộ giám sát chất lượng công trình xây dựng, tiến sĩ, thạc sĩ, công nhân kỹ thuật; bồi dưỡng, tập huấn phổ biến thông tin về khoa học công nghệ xây dựng và tiêu chuẩn hoá xây dựng; các chuyên đề kỹ thuật phục vụ công tác xây dựng.
b.2 Quy mô và phạm vi các hoạt động
Mở rộng ngành, nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; tăng cường hợp tác quốc tế, mở rộng thị trường trong và ngoài nước; đẩy mạnh đầu tư, liên danh, liên kết và chuyển giao công nghệ.
c, Xác định ngành, nghề, lĩnh vực đăng ký kinh doanh
(1) Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ:
Thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; biên soạn các Quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức, quy trình công nghệ; dự án sự nghiệp kinh tế; dự án sản xuất thực nghiệm, dự án hợp tác quốc tế; xây dựng cơ sở dữ liệu, phần mềm các ngành Xây dựng dân dụng, công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật và các chuyên ngành xây dựng khác;
(2) Tư vấn và dịch vụ kỹ thuật các công trình dân dụng, công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật và xây dựng chuyên ngành:
Lập dự án đầu tư, khảo sát địa chất, môi trường, lập bản đồ và hệ thống mốc, lưới khống chế mặt bằng, cao độ phục vụ công tác khảo sát, thiết kế, thi công, khai thác sử dụng các công trình và dự án đầu tư xây dựng;
Thiết kế công trình xây dựng, thẩm tra thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán các công trình xây dựng;
Tư vấn đấu thầu, quản lý dự án, giám sát chất lượng công trình xây dựng (bao gồm cả thi công xây dựng và lắp đặt thiết bị công trình);
Kiểm định chất lượng thi công xây dựng, bao gồm: thí nghiệm, kiểm tra chất lượng vật liệu, đất đá, nền móng và kết cấu xây dựng; kiểm định các thiết bị đo đạc, thiết bị thí nghiệm và thiết bị xây dựng; kiểm định các lưới khống chế trắc địa phục vụ xây dựng, quan trắc biến dạng và dịch chuyển công trình;
Kiểm tra, giám định chất lượng công trình xây dựng; xác định nguyên nhân và thiết kế sửa chữa, khắc phục sự cố kỹ thuật các công trình xây dựng;
Kiểm tra chất lượng nước, môi trường, vật liệu phòng chống cháy nổ, tư vấn đánh giá tác động môi trường liên quan công trình xây dựng, hệ thống kỹ thuật công trình, hạ tầng kỹ thuật đô thị và cơ sở sản xuất công nghiệp;
Kiểm tra, chứng nhận chất lượng hàng hoá, sản phẩm xây dựng; chứng nhận sự phù hợp về chất lượng các công trình xây dựng;
Tư vấn, tiếp nhận, chuyển giao hệ thống thiết bị, công nghệ mới các lĩnh vực thuộc ngành Xây dựng.
(3) Sản xuất, xuất nhập khẩu trực tiếp, đầu tư kinh doanh xây dựng, thiết bị, thiết bị thí nghiệm, vật liệu xây dựng và các phần mềm ứng dụng;
(4) Thi công xây dựng mới; sửa chữa, cải tạo công trình; bảo tồn trùng tu công trình kiến trúc cổ, công trình di tích;
(5) Đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ, thí nghiệm viên, kỹ thuật viên, kiểm định viên, cán bộ quản lý dự án, giám sát chất lượng công trình xây dựng; tay nghề công nhân kỹ thuật; tập huấn về công nghệ xây dựng, tiêu chuẩn và phần mềm ứng dụng trong xây dựng;
(6) Thực hiện các hoạt động khác phù hợp lĩnh vực chuyên môn của Viện.
Đó là những nội dung chủ yếu trong Đề án chuyển đổi Viện KHCNXD. Đề án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và hiện nay Viện đang thực hiện việc chuyển đổi theo nội dung trong đề án.
3.2 Phân tích, đánh giá đề án chuyển đổi Viện KHCNXD
Trong chương 2 luận văn đã nêu thực trạng hoạt động của Viện KHCNXD trước khi chuyển đổi và thấy được sự cần thiết của việc chuyển đổi hoạt động.
* Trước khi chuyển đổi Viện là một đơn vị sự nghiệp có thu khi đó Viện có được các quyền sau:
Được tự chủ tài chính, chủ động bố trí kinh phí để thực hiện nhiệm vụ, được ổn định kinh phí hoạt động thường xuyên theo định kỳ 3 năm và hàng năm được tăng thêm theo tỷ lệ do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Được vay tín dụng để mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp và tự chịu trách nhiệm trả nợ vay theo qui định của pháp luật. Được giữ lại khấu hao cơ bản và tiền thu thanh lý tài sản để tăng cường cơ sở vật chất cho đơn vị.
Được chủ động sử dụng số biên chế được cấp có thẩm quyền giao, thực hiện chế độ hợp đồng lao động theo qui định của Bộ Luật lao động.
Thủ trưởng đơn vị được quyết định mức chi quản lý, chi nghiệp vụ cao hoặc thấp hơn mức chi do Nhà nước qui định.
Được tính quĩ tiền lương để trả cho người lao động trên cơ sở tiền lương tối thiểu tăng không quá 2 lần tiền lương tối thiểu chung do Nhà nước qui định.
Kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm hoạt động thường xuyên và các khoản thu sự nghiệp, cuối năm chưa chi hết đơn vị được chuyển sang năm sau để tiếp tục chi.
Hàng năm, căn cứ vào kết quả hoạt động tài chính, đơn vị được trích lập 4 quĩ: Quĩ dự phòng ổn định thu nhập, Quĩ khen thưởng, Quĩ phúc lợi, Quĩ phát triển hoạt động sự nghiệp.
Khi Nhà nước điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu hoặc thay đổi định mức chi, chế độ, tiêu chuẩn chi ngân sách nhà nước, đơn vị sự nghiệp có thu tự bảo đảm trang trải các khoản chi tăng thêm, từ các nguồn: Thu sự nghiệp, các khoản tiết kiệm chi, các quỹ của đơn vị và kinh phí ngân sách nhà nước cấp tăng thêm hàng năm (đối với các đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí).
Là một đơn vị sự nghiệp có thu Viện cũng đã được tự chủ nhiều mặt nhưng khi nền kinh tế phát triển có thể nhận thấy hoạt động của Viện bị hạn chế nhiều không có điều kiện để phát huy được thế mạnh của mình.
Việc thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học, nhiệm vụ quản lý Nhà nước khi được giao là bắt buộc làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động triển khai, kinh phí thực hiện lại hạn chế không thu hút được cán bộ tham gia.
Viện được mở tài khoản tại ngân hàng, có con dấu riêng nhưng cũng chỉ được đăng ký hoạt động khoa học công nghệ chứ chưa được đăng ký kinh doanh do vậy đã làm hạn chế đến việc ký kết hợp đồng như loại hợp đồng cung ứng vật tư, thiết bị,..., khó khăn trong việc tham gia dự thầu khi có yêu cầu phải có đăng ký kinh doanh trong khi năng lực của Viện hoàn toàn có thể thực hiện được.
Ngoài nguồn ngân sách nhà nước cấp, Viện có nguồn thu sự nghiệp từ hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ nhưng mức lương trả cho cán bộ lại bị hạn chế đây là một hạn chế lớn trong việc khuyến khích các nhà khoa học ở lại Viện.
Đơn vị được chủ động sử dụng số biên chế được cấp có thẩm quyền giao; sắp xếp và quản lý lao động phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị nhưng chưa được tự chủ về tổ chức và biên chế, chưa được tự quyết định số biên chế hàng năm, do đó có những người không làm được việc nhưng vẫn được trả lương, đây là một vấn đề cần được giải quyết.
Như vậy hoạt động theo mô hình đơn vị sự nghiệp có thu không còn thích hợp trong nền kinh tế thị trường, mô hình đấy lại làm hạn chế sự phát triển của đơn vị khi mà khả năng thì có nhưng lại không được thực hiện, không có cơ chế khuyến khích các nhà khoa học do vậy dễ dẫn đến chảy máu chất xám. Chính vì vậy cần phải có sự chuyển đổi mô hình hoạt động để có thể mang lại hiệu quả cao góp phần xây dựng nền kinh tế đất nước.
* Ở trên luận văn cũng đã giới thiệu về đề án chuyển đổi của Viện KHCNXD từ đơn vị sự nghiệp có thu sang tổ chức KHCN tự trang trải kinh phí.
Đề án được lập theo hướng dẫn của Thông tư 12/2006/TTLT/BKHCN-BTC-BNV đã đưa ra thực trạng tổ chức và hoạt động trước khi chuyển đổi sau đó đưa ra các dự kiến về cơ cấu tổ chức, phương hướng hoạt động, xác định ngành nghề, lĩnh vực đăng ký kinh doanh sau khi chuyển đổi, dự kiến xin giao và phương án sử dụng tài sản.
Sau khi chuyển đổi cơ cấu bộ máy tổ chức được sắp xếp lại, có sự phân cấp trao quyền tự chủ cho các đơn vị trực thuộc, Viện điều hành, quản lý chung. Bên cạnh đó Viện vẫn có một Viện nghiên cứu cơ bản để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước. Cơ cấu trên được xây dựng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ theo mô hình hoạt động mới. Tuy nhiên khi bắt đầu gia nhập thị trường thì cần phải tổ chức một bộ phận để nghiên cứu thị trường, làm công tác quảng bá thương hiệu, hình ảnh của Viện.
Ngành nghề và lĩnh vực đăng ký kinh doanh được xác định dựa vào năng lực của Viện, những quyền lợi được hưởng sau khi chuyển đổi. Viện tiếp tục phát triển những lĩnh vực đang hoạt động, mở rộng thêm những lĩnh vực có triển vọng tận dụng tiềm năng sẵn có, tích cực tham gia vào thị trường trong nước và quốc tế.
Sau khi chuyển đổi cơ chế hoạt động mở cửa hơn Viện được tự do hơn trong hoạt động KHCN và cả trong hoạt động dịch vụ sản xuất kinh doanh.
Trong hoạt động khoa học công nghệ:
a, Tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc tiến hành các hoạt động khoa học - công nghệ: đăng ký tham gia tuyển chọn thực hiện nhiệm vụ khoa học - công nghệ ở các cấp; ký kết hợp đồng khoa học - công nghệ và tổ chức thực hiện các hợp đồng trên; Đào tạo, thông tin khoa học và phục vụ quản lý nhà nước của Ngành;
b, Thành lập các tổ chức nghiên cứu và phát triển, tổ chức dịch vụ khoa học - công nghệ, các doanh nghiệp khoa học - công nghệ trực thuộc theo quy định của Luật Khoa học và Công nghệ và các quy định khác của pháp luật;
c, Viện được tham gia tuyển chọn hoặc được giao chủ trì các chương trình, đề tài nghiên cứu khoa học - công nghệ cấp Bộ, cấp Nhà nước và các dự án thuộc các chương trình kinh tế - kỹ thuật của Nhà nước;
d, Được hưởng các chính sách ưu đãi của nhà nước như đối với đơn vị sản xuất mới thành lập và ưu đãi như đối với đơn vị nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ vào các mục đích:
Thực hiện các nhiệm vụ khoa học - công nghệ; nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên, trọng điểm, nhiệm vụ khoa học - công nghệ phục vụ lợi ích chung của xã hội; đào tạo, thông tin khoa học và phục vụ quản lý NN của Ngành;
Tổ chức đào tạo, đào tạo lại nhân lực sau khi được chuyển đổi tổ chức, hoạt động của Viện;
Phát triển tiềm lực khoa học - công nghệ;
Xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật và đầu tư chiều sâu.
đ) Được Nhà nước hỗ trợ kinh phí đầu tư phát triển khoa học - công nghệ, tăng cường năng lực nghiên cứu, xây dựng trung tâm kiểm định chất lượng, phòng thí nghiệm trọng điểm đầu ngành;
e) Hợp tác, liên doanh, nhận tài trợ của tổ chức, cá nhân; góp vốn bằng tiền, tài sản, giá trị quyền sở hữu trí tuệ để tiến hành hoạt động khoa học - công nghệ, sản xuất - kinh doanh theo quy định của pháp luật;
g) Được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; chuyển giao, chuyển nhượng kết quả nghiên cứu khoa học - công nghệ theo quy định của pháp luật;
h) Viện và các đơn vị thành viên được hưởng chế độ ưu đãi về thuế, tín dụng, các ưu đãi khác khi ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học - công nghệ nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và đầu tư đổi mới công nghệ theo Luật Khoa học và Công nghệ;
i) Được thu thập và cung cấp các thông tin cần thiết phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, thiết kế, sản xuất, hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam theo quy định của pháp luật;
k) Hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ:
Được mở rộng, giao lưu và hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ với các tổ chức, cá nhân nước ngoài, các tổ chức quốc tế theo quy định của pháp luật, đảm bảo nguyên tắc độc lập, chủ quyền quốc gia, bình đẳng và cùng có lợi;
Được nhận tài trợ, tham gia tổ chức hội nghị khoa học - công nghệ quốc tế, hội khoa học - công nghệ trong và ngoài nước; tư vấn, đào tạo, nghiên cứu với các tổ chức, cá nhân và hợp tác thực hiện nhiệm vụ khoa học - công nghệ của Việt Nam ở nước ngoài;
Được cử cán bộ ra nước ngoài để tiến hành các công việc của Viện theo quy định của pháp luật;
Được lập các chi nhánh hoặc đại diện ở trong nước và ngoài nước theo nhu cầu công việc của Viện được pháp luật cho phép.
l) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Trong tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất - kinh doanh:
a, Tổ chức sản xuất - kinh doanh, tổ chức bộ máy quản lý theo yêu cầu kinh doanh và đảm bảo kinh doanh có hiệu quả;
b, Kinh doanh các ngành nghề pháp luật không cấm, mở rộng quy mô kinh doanh theo khả năng của Viện và nhu cầu thị trường;
c, Tự lựa chọn thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng;
d, Trực tiếp kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định của pháp luật;
đ) Tự quyết định giá mua, giá bán sản phẩm và dịch vụ (trừ những sản phẩm, dịch vụ do Nhà nước định giá);
e) Ban hành, áp dụng các định mức kinh tế - kỹ thuật, đơn giá tiền lương và các chi phí khác trên cơ sở bảo đảm hiệu quả kinh doanh của Viện, phù hợp với quy định của pháp luật;
g) Tuyển chọn, thuê mướn, bố trí, sử dụng, đào tạo, khen thưởng, kỷ luật, cho thôi việc đối với lao động; lựa chọn các hình thức trả lương, thưởng phù hợp với yêu cầu sản xuất - kinh doanh và có các quyền khác của người sử dụng lao động theo quy định của Bộ luật Lao động, các quy định khác của pháp luật; được quyết định mức lương, thưởng cho người lao động trên cơ sở bảo đảm hiệu quả sản xuất - kinh doanh của Viện và phù hợp với quy định của pháp luật;
h) Các quyền kinh doanh khác theo nhu cầu thị trường và phù hợp với quy định của pháp luật.
Trong quản lý tài chính của Viện:
a, Các nguồn kinh phí của Viện:
Kinh phí do ngân sách nhà nước cấp: kinh phí thực hiện các nhiệm vụ KH&CN; kinh phí hoạt động thường xuyên; vốn đầu tư xây dựng cơ bản; vốn đối ứng dự án; kinh phí mua sắm thường xuyên; kinh phí mua sắm trang thiết bị và sửa chữa lớn tài sản cố định; các nguồn kinh phí khác (nếu có);
Nguồn thu từ các hoạt động sự nghiệp, bao gồm: thu từ hoạt động cung ứng dịch vụ, thông tin, đào tạo; thu từ hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, hợp đồng chuyển giao công nghệ; thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh; thu sự nghiệp khác.
Nguồn kinh phí khác của tổ chức KH&CN, bao gồm: vốn khấu hao tài sản cố định; thu thanh lý tài sản được để lại theo quy định; vốn huy động của các cá nhân, vốn vay các tổ chức tín dụng; vốn tài trợ, viện trợ, quà biếu, tặng của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước; các nguồn kinh phí hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
b, Sử dụng nguồn kinh phí:
Chi cho các hoạt động thường xuyên; chi cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, viên chức; chi cho đầu tư xây dựng cơ bản; chi thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ: áp dụng phương thức khoán chi thực hiện nhiệm vụ KH&CN của Nhà nước; đơn vị tự quyết định việc sử dụng kinh phí được khoán; chi cho các hoạt động dịch vụ tư vấn khoa học, tư vấn xây dựng theo hợp đồng đã ký kết hoặc nhiệm vụ phục vụ quản lý nhà nước; chi tiền lương; trích lập quỹ; chi thực hiện các hoạt động khác; chi thu nhập tăng thêm.
c, Sử dụng vốn, các quỹ cho hoạt động khoa học - công nghệ theo Luật Khoa học và Công nghệ và sử dụng vốn, quỹ cho sản xuất - kinh doanh của Viện theo nguyên tắc có hoàn trả;
d, Tự huy động vốn để hoạt động khoa học - công nghệ và sản xuất - kinh doanh dưới hình thức: Vay vốn của các tổ chức tín dụng, huy động vốn của người lao động trong Viện và các hình thức huy động vốn khác theo quy định của pháp luật. Lãi suất huy động vốn của các thành phần kinh tế khác không được cao hơn lãi suất do Ngân hàng công bố tại thời điểm huy động vốn. Việc huy động vốn của các cá nhân, tổ chức nước ngoài thực hiện theo quy định của Chính phủ về quản lý vay, nợ nước ngoài;
đ, Việc huy động vốn để sản xuất - kinh doanh thực hiện theo nguyên tắc tự chịu trách nhiệm, có hoàn trả, bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn huy động, không được làm thay đổi hình thức sở hữu vốn của Viện. Việc huy động vốn để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ do Viện trưởng quyết định theo quy chế chi tiêu nội bộ của Viện;
e, Được bảo lãnh bằng tài sản, tín nhiệm của Viện với các tổ chức tín dụng để vay vốn hoặc cho các đơn vị thành viên vay vốn theo quy định của pháp luật;
f) Quyết định trích khấu hao cơ bản theo nguyên tắc mức trích khấu hao tối thiểu phải bảo đảm bù đắp hao mòn hữu hình, hao mòn vô hình thực tế của tài sản và không thấp hơn tỷ lệ trích khấu hao tối thiểu do Nhà nước quy định với các tài sản tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Viện phải đăng ký mức trích khấu hao với cơ quan thuế, cơ quan tài chính, đảm bảo kết quả sản xuất - kinh doanh không bị thua lỗ;
g, Quyết định tính hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình với tài sản giao để nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đào tạo để làm cơ sở cho việc xác định giá trị tài sản. Được sử dụng những tài sản này để làm dịch vụ khi có sự đồng ý của Viện trưởng, số tiền thu dịch vụ được phân bổ theo quy định của Nhà nước và quy chế nội của Viện;
h) Được hưởng các chế độ trợ cấp, trợ giá hoặc các chế độ ưu đãi khác của Nhà nước khi thực hiện các nhiệm vụ hoạt động công ích, quốc phòng, an ninh, phòng chống thiên tai hoặc cung cấp sản phẩm, dịch vụ theo chính sách giá của Nhà nước mà doanh thu không đủ bù đắp chi phí sản xuất sản phẩm, dịch vụ này của Viện;
i) Được hưởng các chế độ ưu đãi đầu tư hoặc tái đầu tư theo quy định của pháp luật; Viện còn được hưởng các chế độ ưu đãi sau:
Chế độ ưu đãi về thuế và các chế độ ưu đãi khác như đối với đơn vị sản xuất mới thành lập;
Chế độ ưu đãi như đối với đơn vị nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và chế độ ưu đãi khác của một doanh nghiệp nhà nước;
Chế độ cấp hỗ trợ kinh phí để tăng cường trang thiết bị phục vụ cho nghiên cứu và xây dựng, sửa chữa nhà, xưởng.
j) Thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu đối với phần vốn của Viện đầu tư vào các đơn vị thành viên;
k) Từ chối và tố cáo mọi yêu cầu cung cấp các nguồn lực không được pháp luật quy định của bất kỳ cá nhân, cơ quan hay tổ chức nào, trừ những khoản tự nguyện đóng góp vì mục đích nhân đạo, công ích;
l) Việc sử dụng lợi nhuận sau thuế của Viện được thực hiện theo các nguyên tắc quy định trong Quy chế tài chính do Bộ Tài chính quy định và các quy định khác của pháp luật.
Về tài sản:
Được chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của Viện, thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp khác từ tài sản của Viện, được thay đổi cơ cấu về tài sản để phát triển hoạt động khoa học - công nghệ và sản xuất - kinh doanh.
Được chuyển nhượng, cho thuê, cầm cố, thế chấp, thanh lý tài sản của Viện theo quy định của pháp luật; được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất cùng với tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật.
Với đất đai (cùng với tài sản gắn liền với đất ), máy móc thiết bị do Viện mua bằng kinh phí tự có, Viện được toàn quyền chuyển nhượng, cho thuê, cầm cố, thế chấp và thanh lý theo Quy chế nội bộ của Viện.
Được quản lý và sử dụng các tài sản là đất đai, tài nguyên do Nhà nước giao theo quy định của pháp luật để hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ, sản xuất - kinh doanh và thực hiện các hoạt động công ích khác được Nhà nước giao.
Viện có quyền quyết định tỷ lệ cổ phần nắm giữ khi cổ phần hoá các công ty thành viên Nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc đơn vị phụ thuộc; tỷ lệ góp vốn khi tham gia liên doanh với các đơn vị bên ngoài.
Được quyền góp vốn hoặc góp vốn bằng tài sản khi đầu tư ra nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam và nước sở tại;
Về tổ chức:
Thủ trưởng quyết định sắp xếp, điều chỉnh tổ chức bộ máy của đơn vị; quyết định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cho từ chức cấp trưởng, phó của bộ phận trực thuộc và đề xuất nhân sự để lãnh đạo cấp trên quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm cấp phó của đơn vị.
Về biên chế: Thủ trưởng được quyền:
Quyết định tổng số biên chế hàng năm;
Quyết định việc tuyển dụng, ký hợp đồng làm việc đã được tuyển dụng vào biên chế trước ngày NĐ 116/2003/NĐ-CP có hiệu lực;
Quyết định việc sắp xếp, bố trí sử dụng, điều động, biệt phái, nghỉ hưu, chấm dứt hợp đồng lao động, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, viên chức dưới quyền;
Quyết định việc xếp lương, nâng bậc lương trước thời hạn và đúng thời hạn, vượt bậc trong cùng ngạch và bổ nhiệm vào ngạch viên chức, chuyển ngạch viên chứ từ ngạch nghiên cứu viên chính và tương đương trở xuống;
Xem xét bổ nhiệm các chức vụ lãnh đạo đối với cán bộ viên chức sau khi hết hạn tập sự, được ký hợp đồng không xác định thời hạn nếu đủ điều kiện quy định.
Như vậy, có thể nhận thấy sự khác biệt rõ rệt giữa hai mô hình hoạt động, mô hình hoạt động theo hình thức tự trang trải kinh phí thông thoáng hơn, mở cửa cho tổ chức khoa học vươn ra thị trường, tạo điều kiện cho các nhà khoa học yên tâm làm việc, phát huy được năng lực của mình.
* Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực của việc chuyển đổi vẫn còn có những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện.
Khi bước vào chuyển đổi khó khăn trước hết là giải quyết lao động dôi dư, hiện nay vẫn chưa có những chính sách cụ thể để giải quyết một số cán bộ chưa đủ năng lực hoặc không còn phù hợp với cơ chế chuyển đổi sang hình thức mới.
Vướng mắc trong việc xác định giá trị và phân chia tài sản nào thuộc danh sách phục vụ nghiên cứu khoa học, tài sản nào thuộc nhóm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh để từ đó có các phương thức tính khấu hao thích hợp. Chưa có cơ chế, chính sách cụ thể về việc sử dụng tài sản được giao để thế chấp vay vốn, đầu tư kinh doanh.
Thiếu sự phối hợp giữa các ban, ngành để giải quyết các thủ tục đăng ký kinh doanh được đơn giản, nhanh chóng.
Thị trường công nghệ chưa phát triển. Khi thị trường này chưa phát triển, cũng đồng nghĩa với việc các tổ chức, doanh nghiệp và xã hội chưa thực sự quan tâm đến các sản phẩm, dịch vụ KH&CN, chưa tạo ra thói quen tìm kiếm các sản phẩm, dịch vụ này, như vậy các tổ chức KH&CN sau chuyển đổi sẽ gặp nhiều khó khăn về đầu ra. Hiện nay, trong công tác quản lý khoa học và công nghệ (KH&CN) nói riêng và hoạt động KH&CN nói chung đang nổi lên một vấn đề là các kết quả nghiên cứu chưa thật sự đi vào sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, hay nói cách khác là chưa có sự gắn kết giữa nhà khoa học với doanh nghiệp.Về phía các doanh nghiệp, do thiếu thông tin về khả năng chế tạo của các nhà khoa học trong nước, thiếu sự tin cậy đối với các sản phẩm còn mang tính "nghiên cứu", chưa được thử nghiệm nên chưa mạnh dạn tìm mua những thiết bị, công nghệ được sản xuất trong nước, mà thường chọn phương án nhập khẩu thiết bị, công nghệ nước ngoài, tuy giá cao nhưng có vẻ bảo đảm, ít mạo hiểm và rủi ro hơn. Về phía nhà khoa học, do thiếu điều kiện để triển khai các ý tưởng khoa học, triển khai thực nghiệm, hoàn thiện công nghệ từ các đề tài nghiên cứu và thiếu kinh phí để triển khai, thiếu thông tin về nhu cầu của doanh nghiệp, nên hoạt động nghiên cứu chưa sát với nhu cầu của thực tế sản xuất, chưa tạo được lòng tin đối với các doanh nghiệp. Vì vậy, những kết quả nghiên cứu chưa được thương mại hóa. Về phía nhà quản lý, do trong khâu tuyển chọn đầu vào còn mang nặng tính hành chính cơ chế xin - cho, nên phần lớn đề tài, dự án chưa xuất phát từ những đòi hỏi của thực tế sản xuất hay từ những vấn đề của doanh nghiệp. Bởi vậy, những thiết bị, công nghệ được tạo ra từ các đề tài, dự án trên không được các doanh nghiệp sử dụng mua bán. Hơn nữa, chúng ta chưa có được một chính sách hay một chiến lược cụ thể hỗ trợ các nhà khoa học cũng như doanh nghiệp để các kết quả nghiên cứu đến với thực tế sản xuất, qua đó thương mại hóa chúng. Thực tế cho thấy, chúng ta mới chỉ quan tâm làm sao để các đề tài, dự án cho ra được kết quả, còn việc kết quả đó đến với thực tế sản xuất như thế nào thì mới chỉ dừng lại ở những giải pháp mang tính tuyên truyền, khuyến khích một cách hình thức...
Khi chuyển đổi, Viện vẫn có hoạt động nghiên cứu cơ bản mà vẫn chưa có chính sách cụ thể hỗ trợ cho việc này.
Như vậy, vẫn còn có những khó khăn, vướng mắc trong quá trình chuyển đổi. Nhưng không vì thế mà không thể thực hiện bởi đó là điều tất yếu trong nền kinh tế thị trường, do đó cần có sự quan tâm hỗ trợ của Nhà nước bằng các công cụ chính sách hướng dẫn cụ thể.
Tóm lại, việc chuyển đổi sẽ mang lại nhiều lợi ích cho hoạt động của Viện, Viện được tự do phát triển, khai thác tiềm năng sẵn có của mình, tạo được thế cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường mà trước đây với cơ chế cũ đã bị hạn chế rất nhiều. Với những quyền lợi được hưởng và ưu thế trong việc hoạt động đa lĩnh vực Viện cần có những biện pháp, chiến lược cụ thế để nâng cao hiệu quả hoạt động sau khi chuyển đổi.
3.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
Trong bước chuẩn bị để chuyển đổi hình thức hoạt động, Viện cần dần dần tạo dựng thế mạnh vững chắc để có thể đứng vững trên thị trường. Như ở đề án đã giới thiệu, Viện đã xác định phương hướng hoạt động, xác định ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh sau khi chuyển đổi, tuy nhiên làm thể nào để hoạt động có hiệu quả thì cần phải có những giải pháp cụ thể. Từ tiềm năng về đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất máy móc, thiết bị, uy tín và kinh nghiệm của Viện trong lĩnh vực KHCN Xây dựng và triển vọng phát triển của Viện sau khi chuyển đổi luận văn xin đưa ra một số biện pháp sau:
3.3.1. Giải pháp về nhân lực KHCN
Con người là vốn quý nhất, sự phát triển xã hội quy tới cùng là phải hướng vào mục tiêu phát triển con người. Trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, yếu tố con người được đặt vào vị trí trung tâm, với tư cách vừa là mục tiêu phát triển vừa là phương tiện có tính chất quyết định để thực hiện mục tiêu.
Nhân lực KHCN là nguồn tài sản lớn nhất tạo nên sự giàu có của quốc gia. Ngày nay quá trình CNH và hội nhập quốc tế diễn ra một cách nhanh chóng, tài nguyên khoáng sản, đất đai trở nên cạn kiệt, chỉ có tri thức con người là một nguồn lực ngày càng phát sinh, phát triển. Quá trình phát triển của xã hội nhìn từ góc độ của từng quốc gia và toàn cầu đang được sắp xếp lại dựa trên trí tuệ con người. Nhờ tiến bộ KH&CN do chính con người tạo ra, phần lao động chân tay trong sản phẩm ngày một giảm đáng kể. Trong các nhân tố nội lực thì nguồn lực con người được coi là có ý nghĩa hàng đầu.
Nhân lực KHCN là cốt lõi của KH&CN, là nhân tố quan trọng hàng đầu tạo thị trường cung về sản phẩm KHCN, đồng thời cũng là một thành phần của công nghệ, đòi hỏi phải có những biện pháp tác động phù hợp sẽ huy động được tối đa tiềm lực KHCN. Những con người hoạt động trong lĩnh vực KHCN là đối tượng trực tiếp tạo ra sản phẩm cho KHCN, đối tượng này có những trạng thái tâm lý, sở thích, thói quen, khát vọng,.. khác nhau. Nhưng nếu có những chính sách cơ chế đúng sẽ tạo sức mạnh cho sự phát triển KHCN, và ngược lại cũng vẫn đội ngũ cán bộ ấy nhưng chính sách không phù hợp thì sẽ tạo ra một đội ngũ cán bộ bảo thủ trì trệ làm việc kém hiệu quả hoặc sẽ bị “chảy máu chất xám” ra nước ngoài.
Khi chuyển đổi hoạt động, một trong những yêu cầu đòi hỏi đối với đơn vị là phải năng động và nâng cao hơn nữa trách nhiệm của mình, không được phép ỷ lại hoặc trì trệ như đã quen với cơ chế cũ. Chính vì vậy, việc trước hết là phải quán triệt tinh thần và ý thức tăng cường trách nhiệm, nâng cao tính tích cực, chủ động, năng động, sáng tạo của toàn thể cán bộ công nhân viên.
Để có được những tác động tốt của đội ngũ cán bộ KHCN cho sự phát triển của Viện cần chú ý một số nội dung:
Về cơ chế tạo nguồn nhân lực, phải có sự đầu tư đào tạo nâng cao trình độ tay nghề. Xây dựng chiến lược và tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ đầu đàn, quản trị doanh nghiệp, quản lý dự án đạt trình độ ngang tầm khu vực và thế giới. Những cán bộ này phải được trang bị ngoại ngữ và am hiểu sâu về công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý, các tiêu chuẩn kỹ thuật, quy chuẩn xây dựng và luật pháp quốc tế. Đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn để ổn định đội ngũ thợ có tay nghề bậc cao, tăng năng suất lao động, sản phẩm làm ra có uy tín về chất lượng và được công nhận trình độ quốc tế. Có biện pháp khuyến khích cán bộ đi học ở nước ngoài về phục vụ.
Thực hiện chế độ thi tuyển vào các vị trí làm việc gắn với chế độ ký hợp đồng làm việc, trong đó quy định rõ trách nhiệm, các yêu cầu về trình độ, năng lực, chế độ đãi ngộ,... Liên kết với các trường đại học trong và ngoài nước để đào tạo nguồn nhân lực, có thể đầu tư vào nguồn cán bộ trẻ tương lai ngay cả khi họ chưa tốt nghiệp.
Tạo môi trường thuận lợi để cho các nguồn nhân lực KHCN có trình độ cao (tầm khu vực và quốc tế) ở nước ngoài vào làm việc, trao đổi kinh nghiệm để cho nhân lực KHCN trong nước mở rộng tậm hiểu biết, cọ sát và có hướng vươn lên.
Về cơ chế sử dụng nguồn nhân lực, có chế độ chính sách, đãi ngộ đúng đắn đối với nhân lực KHCN.
Có chính sách về lương thỏa đáng cho cán bộ và mức thưởng cho các sản phẩm khoa học mà họ tạo ra sao cho thu nhập của họ phải ở mức khá của xã hội nhờ hoạt động chất xám của mình thì các nhà khoa học mới yên tâm trong khi làm việc. Nếu việc trả tiền lương trước đây căn cứ theo thang bậc lương và thù lao ngoài lương tối đa không quá 2 lần lương cơ bản thì việc này nay được điều chỉnh lại theo cách, tổ chức KH&CN được quyền chi trả lương theo năng lực của cán bộ, không hạn chế mức tối đa.
Bảo đảm cho lao động KHCN có điều kiện lựa chọn công việc đúng với ngành nghề đào tạo, phù hợp với sở trường và nguyện vọng cá nhân và được dễ dàng chuyển đổi ngành nghề khi có nhu cầu.
Bảo đảm cho phát huy tính độc lập sáng tạo của mỗi cá nhân trong quá trình tìm tòi phát kiến, khuyến khích tranh luận và tạo bầu không khí dân chủ, cởi mở trong tranh luận, tránh định kiến, lấy đa số áp đặt đối với cá nhân hoặc thiểu số, làm giảm nhiệt tình sáng tạo của người lao động KHCN.
Thực hiện chế độ đánh giá định kỳ hàng năm đối với hoạt động của cán bộ khoa học, biểu dương, khích lệ và đãi ngộ xứng đáng đối với những người có công và thay thế những người không đảm nhiệm được công việc được giao.
Tóm lại, nếu có một nguồn lực KHCN hùng mạnh cùng với cơ chế sử dụng hợp lý sẽ tạo sức mạnh cho hoạt động KHCN.
3.3.2. Giải pháp trong hoạt động kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường, tài chính tác động đến mọi lĩnh vực của hoạt động xã hội. Do vậy các giải pháp về tài chính tác động rất mạnh đến kết quả hoạt động của đơn vị.
Đẩy mạnh việc thực hiện các giải pháp để lành mạnh hoá tài chính, chủ động kiểm soát dòng tiền; đối chiếu, rà soát và phân loại các khoản nợ phải thu, tập trung xử lý các khoản nợ không có khả năng thu hồi, các sản phẩm, vật tư bị tồn kho, ứ đọng; xây dựng và tổ chức triển khai các phương án cơ cấu lại tài chính doanh nghiệp, các phương án huy động vốn hợp lý, có hiệu quả nhất phục vụ sản xuất kinh doanh, nhất là đảm bảo vốn cho các dự án đầu tư. Đây phải được coi là nhiệm vụ quan trọng của Viện cũng như của tất cả các đơn vị trong viện.
Có thể huy động vốn từ cán bộ nhân viên trong Viện để đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị; Công tác hoàn thiện hồ sơ kỹ thuật, hồ sơ phục vụ yêu cầu thanh quyết toán, thu hồi công nợ để tăng vòng quay vốn là giải pháp phải được ưu tiên hàng đầu; Tận dụng chính sách tín dụng ưu đãi và lãi suất ưu đãi của Nhà nước đối với hoạt động KHCN để tạo vốn cho các công trình nghiên cứu hoặc để mua các sản phẩm nghiên cứu cần thiết ; hoặc có thể liên doanh với doanh nghiệp ngoài trong và ngoài nước để đầu tư vào sản phẩm nghiên cứu khoa học, công nghệ mới.
Công tác quản lý tài chính, kế toán phải được thực hiện nghiêm túc theo pháp lệnh kế toán thống kê. Các đơn vị phải chấp hành đầy đủ và đúng hạn chế độ báo cáo tài chính theo quy định của Nhà nước và hướng dẫn của Viện.
Với chức năng nhiệm vụ vừa nghiên cứu vừa ứng dụng để sản xuất, Viện phải gắn nghiên cứu khoa học với sản xuất kinh doanh. Sự kết hợp này mang lại rất nhiều lợi thế, vừa có điều kiện sản xuất thử, vừa áp dụng được công nghệ của mình vào sản xuất tiết kiệm chi phí mua công nghệ, sản xuất kinh doanh phát triển lại mang lại nguồn kinh phí để nghiên cứu công nghệ mới, đồng thời các nghiên cứu khoa học cũng là sản phẩm của thị trường KHCN.
Về lĩnh vực nghiên cứu khoa học, phải xác định rõ hướng đi là nghiên cứu KHCN phải gắn liền với nhu cầu của thị trường, do đó cần phải tiếp cận thị trường, tìm hiểu cái thị trường đang cần, từ đó đi vào nghiên cứu tạo ra sản phẩm có ý nghĩa thực tế, có hàm lượng công nghệ cao, có giá trị trên thị trường, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, mang sản phẩm của mình tham gia vào thị trường KHCN. Tập trung khả năng nghiên cứu ứng dụng các giải pháp khoa học - công nghệ để nâng cao chất lượng, hạ giá thành, nâng cao hiệu quả kinh tế. Chỉ đạo triển khai ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học có chất lượng vào thực tiễn sản xuất của các đơn vị, chuyển giao nhanh kết quả nghiên cứu thành hàng hóa phục vụ nhu cầu thị trường, góp phần tham gia xây dựng thị trường KHCN.
Về sản xuất kinh doanh, chủ động nắm bắt và vận dụng các quy luật của kinh tế thị trường trong quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh, chú trọng chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, sản phẩm thực hiện phương châm: đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ; đa phương hoá quan hệ và đa dạng hoá sở hữu. Đánh giá lại năng lực thực tế, sức cạnh tranh và khả năng phát triển của đơn vị mình, có tính đến thị trường khu vực và thế giới, xây dựng chiến lược đầu tư công nghệ mới, hoàn thiện hệ thống quản lý phù hợp cho từng giai đoạn từ nay đến năm 2010 và 2020.
Tăng cường công tác tiếp thị, thông tin thị trường cả về đầu tư, xây lắp, sản xuất vật liệu xây dựng cấu kiện và các lĩnh vực liên quan đến Viện, phấn đấu tăng tỷ trọng nhận tổng thầu, thầu chính cũng như các hình thức BT, EPC; nâng cao năng lực cạnh tranh, trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng, quảng bá thương hiệu sản phẩm như tích cực tham gia các hội chợ triển lãm giới thiệu sản phẩm, tăng cường sự hợp tác, liên kết giữa các đơn vị sản xuất với các hộ tiêu thụ lớn…
Chủ động hội nhập tham gia vào thị trường trong nước và hướng ra thị trường thế giới. Mở thêm chi nhánh ở một số tỉnh, thành phố hoặc vùng trọng điểm quốc gia; thành lập công ty cổ phần trong Viện. Chú trọng tới khả năng liên doanh, liên kết với các nhà thầu nước ngoài để tiếp cận, mở rộng thị trường tại các nước trong khu vực và trên thế giới, tiếp thu các kỹ thuật, công nghệ mới và các nguồn tài chính quốc tế.
Một trong những biện pháp tích cực để đứng vững trên thị trường là tăng đầu tư, đổi mới công nghệ, hướng vào xuất nhập khẩu, có thể tham gia vào thị trường bất động sản, thị trường tài chính phù hợp với chiến lược phát triển Viện. Tận dụng tối đa lợi thế kinh doanh về vị trí địa lý, đất đai, thương hiệu để mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh khác.
Tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả các lĩnh vực đang hoạt động, đặc biệt là lĩnh vực tư vấn thiết kế, tư vấn quản lý dự án và tư vấn giám sát thi công theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp có kỹ năng chuyên môn và kỹ năng thực hành cao, có trình độ làm chủ công nghệ, có đội ngũ chuyên gia giỏi, để có thể đảm nhận vai trò tổng thầu thiết kế, quản lý, giám sát hầu hết các công trình có yêu cầu đặc biệt, công trình có địa chất phức tạp, công trình cao tầng, khẩu độ lớn, công trình ngầm,...với mọi quy mô; nâng cao khả năng nhận thầu thiết kế các công trình nước ngoài; làm chủ, tự thiết kế các dây chuyền công nghệ cho các nhà máy xi măng và VLXD khác...
3.3.3. Giải pháp về cơ sở vật chất
Là một đơn vị vừa nghiên cứu khoa học vừa sản xuất kinh doanh dịch vụ tạo dựng cơ sở vật chất là một yếu tố quan trọng đối với hoạt động của đơn vị.
Cơ sở vật chất cho KHCN là những phương tiện nghiên cứu và điều kiện vật chất hỗ trợ cho quá trình nghiên cứu, như: phòng thí nghiệm với các trang thiết bị cần thiết; nơi làm việc và các tư liệu để nhận biết thông tin; các vật tư kỹ thuật phục vụ cho mục đích nghiên cứu... Nếu thiếu một trong các phương tiện này đều không thể có cơ hội tạo sản phẩm KHCN tốt. Vì vậy, đầu tư phải đồng bộ và tập trung để tạo ra những trung tâm nghiên cứu có đầy đủ các điều kiện cần thiết cho một hoạt động nghiên cứu KHCN, nhanh chóng chuyển ý tưởng của nhà nghiên cứu thành sản phẩm KHCN phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay Viện cũng đã có 11 phòng thí nghiệm về các lĩnh vực khác nhau được cấp giấy chứng nhận. Các phòng thí nghiệm của Viện đều được đầu tư với quy mô khá lớn và hiện đại. Song cần phải biết sử dụng các trang thiết bị nghiên cứu một cách có hiệu quả.
Cơ sở vật chất cho sản xuất kinh doanh là những máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến. Nhanh chóng tiếp cận, đổi mới và làm chủ các công nghệ xây dựng hiện đại trong thi công xây lắp các công trình lớn và phức tạp như thuỷ điện, nhiệt điện, nhà cao tầng, công trình có khẩu độ hoặc chiều cao lớn, cầu, hầm, công trình ngầm, công trình dầu khí...., trang bị thêm nhiều thiết bị hiện đại, tự động hóa, từng bước đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý, tư vấn, thi công xây dựng những công trình quy mô lớn, hiện đại.
3.3.4. Giải pháp trong tổ chức quản lý
Viện nhanh chóng thực hiện sự phân cấp cho các đơn vị thuộc viện để tăng cường tính tích cực và chủ động.
Đổi mới công tác giao và kiểm tra kế hoạch trên nguyên tắc Viện chỉ giao và kiểm soát các chỉ tiêu chủ yếu phù hợp với năng lực của các đơn vị. Các đơn vị phải căn cứ vào các chỉ tiêu chủ yếu được giao để xây dựng kế hoạch và giải pháp cụ thể cho đơn vị mình.
Sắp xếp và kiện toàn các phòng, ban từ Viện đến các phân viện, viện chuyên ngành, các trung tâm; phân định rõ trách nhiệm của từng bộ phận trong từng lĩnh vực, bảo đảm nâng cao hiệu lực điều hành, phối hợp giữa Viện với các đơn vị thành viên.
Các đơn vị thuộc Viện và Viện thực hiện có hiệu lực và hiệu quả chế độ phân công phân cấp trên cơ sở hoàn thiện quy chế hoạt động và các quy định nội bộ.
Thực hiện nghiêm các quy định về báo cáo của Nhà nước, của Viện. Đưa hoạt động trang WEB Viện KHCNXD thực sự đóng góp cho công tác quản lý điều hành, cũng như khai thác thông tin có chất lượng và hiệu quả.
Trên đây chỉ là một số giải pháp cho các nhân tố ảnh hưởng đến nghiên cứu khoa học và sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên để nâng cao hiệu quả hoạt động thì cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các nhân tố.
KẾT LUẬN
Khoa học và công nghệ là lực lượng sản xuất trực tiếp của mọi quốc gia trong giai đoạn hiện nay, là động lực quan trọng để đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và phát triển mạnh mẽ. Đổi mới cơ chế hoạt động khoa học và công nghệ ở Việt Nam diễn ra đã hai thập kỷ, chặng đường 20 năm với các chủ trương và chính sách đổi mới của Nhà nước đã có những bước chuyển, đã thu được những kết quả đáng khích lệ nhưng cũng bộc lộ những thiếu sót, tồn tại, vướng mắc cần phải tháo gỡ. Tiềm lực KHCN của nước ta đã được tăng cường, đội ngũ cán bộ KHCN, số lượng các viện, các cơ quan nghiên cứu – phát triển đã được tăng nhanh nhưng chưa đáp ứng được các đòi hỏi mới của xã hội. Để tiếp tục sự nghiệp đổi mới hoạt động KHCN, thực sự làm cho KH&CN gắn với cuộc sống, gắn với thị trường vấn đề hàng đầu phải quan tâm là đổi mới về tổ chức và cơ chế quản lý KHCN. Đổi mới tổ chức các cơ quan nghiên cứu KHCN phải có quan điểm đúng đắn, phải hướng vào các vấn đề trọng tâm, các hướng mũi nhọn để xây dựng cho được tiềm lực KHCN quốc gia, kiên quyết xóa bỏ bao cấp khoa học, gắn nghiên cứu phát triển, sản xuất với thị trường. Đó là tính tất yếu dẫn đến việc các tổ chức KHCN phải chuyển đổi hình thức hoạt động theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm với cơ sở pháp lý là nghị định 115/2005/NĐ-CP ngày 05/09/2005 của Chính Phủ v/v Quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
Ngay sau khi cơ chế mở ra với các tổ chức KHCN, Viện KHCNXD đã tiến hành chuyển đổi hình thức hoạt động thành tổ chức KHCN tự trang trải kinh phí. Sau khi chuyển đổi, đơn vị vừa được Nhà nước đặt hàng, vừa có thể lập dự án để duyệt kinh phí; được chủ động đấu thầu, hợp tác với đối tác để nghiên cứu, sản xuất; đặc biệt, được chủ động chi tiêu mà hoàn toàn thoát ly khỏi cơ chế hành chính, tài chính hiện hành như mô hình doanh nghiệp. Những điều này giúp Viện phát huy được năng lực sẵn có của mình. Chuyển đổi mô hình hoạt động có nghĩa là đơn vị không chỉ làm đủ nuôi sống mình mà còn phải biết làm giàu nếu không muốn tụt hậu, chính điều này càng thúc đẩy tính năng động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ KHCN.
Tuy nhiên, khi chuyển đổi ngoài yếu tố sắp xếp lại cơ cấu tổ chức còn là vấn đề xác định hướng đi cho những giai đoạn tiếp sau, đặc biệt là khi phải tự mình hoạt động vào thời điểm ngành KHCN cũng đòi hỏi phải có được sự cạnh tranh bình đẳng. Trong đề án chuyển đổi Viện cũng đã xác định ngành nghề và lĩnh vực sẽ đăng ký kinh doanh theo năng lực của mình và để việc hoạt động có hiệu quả cũng cần có những giải pháp cụ thể, luận văn đã trình bày một số giải pháp về nguồn nhân lực, về hoạt động kinh doanh, cơ sở vật chất và giải pháp về tổ chức quản lý.
Việc đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý hoạt động KHCN nhằm gắn KHCN với kinh tế - xã hội trong nền kinh tế thị trường là một sự nghiệp không đơn giản, đòi hỏi phải có tri thức, quyết tâm và thời gian, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quyết tâm của đội ngũ cán bộ KHCN trong nước, nhất định chúng ta sẽ đạt được kết quả tốt đẹp.
KIẾN NGHỊ
Để cho việc chuyển đổi được thuận lợi và mang lại hiệu quả, tác giả xin đưa ra một số kiến nghị sau:
Chúng ta ở trong cơ chế bao cấp quá lâu, gây một tâm lý trì trệ ỷ lại trong người lao động do vậy cần phải tuyên truyền, phổ biến để thay đổi suy nghĩ của họ, làm cho họ thấy được tính tích cực của việc chuyển đổi.
Cần phải có những chính sách và hướng dẫn cụ thể để giải quyết vấn đề lao động dôi dư, xác định giá trị, phân loại tài sản sau khi chuyển đổi. Có chính sách hỗ trợ cụ thể đối với đơn vị vẫn có hoạt động nghiên cứu cơ bản.
Phải đồng bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn, quy định rõ các nội dung liên doanh, liên kết, huy động vốn, góp vốn, vay vốn, thế chấp, sử dụng cơ sở vật chất, tài sản.
Nhà nước cần phải có chính sách để từng bước thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, hình thành thị trường khoa học công nghệ đồng bộ, đầy đủ khung pháp lý, cạnh tranh lành mạnh. Thị trường KHCN chính là nơi để trao đổi thông tin giữa các nhà nghiên cứu và doanh nghiệp. Trang bị và cung cấp thông tin rộng rãi cho các doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc.
Các chính sách, thủ tục về đăng ký kinh doanh, định mức chi tiêu và quản lý chi phí trong NCKH cần đơn giản, tạo sự chủ động tối đa cho các cơ sở nghiên cứu và cần phải được giúp đỡ phối hợp từ các cơ quan liên quan.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban tư tưởng văn hóa trung ương (1994), Một số quan điểm và giải pháp chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
Bộ KHCN, Bộ Tài chính, Bộ nội vụ (2006), Thông tư liên tịch số 12/2006/TTLT/BKHCN-BTC-BNV, ngày 05/6/2006 hướng dẫn sử dụng Nghị định 115/2005/NĐ-CP.
Bộ Xây dựng (2005), Quyết định số 630/QĐ-BXD ngày 12 tháng 4 năm 2005 của Bộ Xây dựng quy định chức năng, nhiệm vụ của Viện KHCNXD.
Bùi Văn Long, Vấn đề phát triển và quản lý các tổ chức khoa học và công nghệ trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam, Luận án PTS Kinh tế.
Chính phủ (2004), Quyết định số 171/2004/QĐ-TTg ngày 28/09/2004 của Chính phủ phê duyệt đề án Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ.
Chính phủ (2003), Quyết định số 272/2003/QĐ-TTg ngày 32/12/2003 của Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010.
Chính phủ (2005), Nghị định 115/2005/NĐ-CP ngày 05/09/2005 của Chính Phủ v/v Quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
Chính phủ (1996), Quyết định 782/TTg ngày 24/10/1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc sắp xếp các cơ quan nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ.
Chính phủ (1998), Quyết định số 68/QĐ-TTg ngày 27/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ ban hành về thí điểm thành lập doanh nghiệp nhà nước trong các Trường đại học và Viện nghiên cứu.
Chính phủ (2007), Nghị định 80/2007/NĐ-CP ngày 19/05/2007 của Chính Phủ về doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
Đặng Hữu (1989), Khoa học và công nghệ với sự phát triển kinh tế xã hội, Nhà xuất bản sự thật, Hà Nội.
Đỗ Minh Cương, Vai trò của quản lý nhà nước đối với sự phát triển khoa học và công nghệ ở nước ta, Luận án PTS KH Triết học.
Hội đồng bộ trưởng (1988), Chỉ thị 199-CT ngày 25/6/1988 của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (HĐBT, nay là Thủ tướng Chính phủ) về việc sắp xếp và kiện toàn mạng lưới các cơ quan nghiên cứu và phát triển.
Hội đồng bộ trưởng (1992), Nghị định 35- HĐBT ngày 28/01/1992 của HĐBT về công tác quản lý khoa học và công nghệ.
Hội đồng bộ trưởng (1992), Quyết định 324-CT ngày 11/9/1992 của Chủ tịch HĐBT về việc tổ chức lại mạng lưới cho cơ quan nghiên cứu và phát triển.
Hồ Mỹ Duệ (1994), “Đổi mới quản lý nhà nước là một đòi hỏi tất yếu của đổi mới kinh tế ở nước ta”, Tạp chí hoạt động khoa học số 6/1994.
Nguyễn Đức Quý (1991), “Để khoa học thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam”, Tạp chí hoạt động khoa học số 6/1991.
Nguyễn Chí Hải, Một số vấn đề về việc phát triển KHCN trong quá trình CNH, HĐH nền kinh tế ở Việt Nam, Luận án TS kinh tế.
Phạm Viết Vượng (1997), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội.
Phan Thanh Phố (1991), “Đôi điều về những tiền đề cần thiết cho bước chuyển sang kinh tế thị trường”, Tạp chí tài chính số tháng 3/1991.
Phạm Văn Quý, Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án TS kinh tế.
Phạm Khôi Nguyên, Đổi mới cơ chế tổ chức và cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ trong điều kiện nền kinh tế thị trường, Luận án PTS kinh tế.
Quốc hội (2000), Luật KH&CN số 21/2000/QH10 ngày 09/06/2000.
TS. Hoàng Xuân Long, Hai thập kỷ đổi mới cơ chế hoạt động KH&CN – nhìn lại và suy ngẫm, Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách KH&CN – Bộ KH, CN & MT.
Tạp chí hoạt động khoa học số 1-2005, “Khoa học và Công nghệ trong thời kỳ đổi mới”.
Tạp chí hoạt động khoa học số 8-2003, “Về một phương án đổi mới mạng lưới các tổ chức NC&PT ở nước ta”.
Tạp chí hoạt động khoa học số 7-2003, “Nhìn lại một số phương án đổi mới mạng lưới các tổ chức NC&PT ở nước ta”.
Tạp chí hoạt động khoa học số 11-2001, “Pháp luật Việt Nam với vấn đề xã hội hoá hoạt động khoa học và công nghệ”.
Viện KHCNXD (2006), Đề án chuyển đổi Viện KHCNXD từ tổ chức KHCN sự nghiệp có thu thành tổ chức KHCN tự trang trải kinh phí.
Viện KHCNXD (2007), Báo cáo tình hình thực hiện nghị định 115/2005/NĐ-CP của Viện KHCNXD.
Vũ Cao Đàm (1995), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lvan_thao.doc