Đây là những nghiên cứu cắt ngang từ việc nắm được tỷ lệ cơ cấu NKT toàn tỉnh đi đến việc phân tích các yếu tố liên quan đến khuyêt tật bẩm sinh. Từ đó tìm hiểu các biện pháp hạn chế sự gia tăng của dạng khuyết tật này thông qua chương trình SLTS và SLSS. Sau khi phân tích các kết quả chúng tôi rút ra được những kết luận và khuyến nghị sau:
Kết luận
- Về tỷ lệ cơ cấu NKT toàn tỉnh
+ Tỷ lệ dạng khuyết tật về vận động chiếm tỷ lệ cao nhất 26,07%, tiếp theo là dạng bất thường thần kinh 22,81% và đa khuyết tật 22,75%.
+ Khuyết tật ở nam giới được nghi nhận nhiều hơn nữ giới với tỷ lệ xuất hiện khuyết tật ở nam giới là 56,1% và ở nữ giới là 43,9% trên tổng số NKT toàn tỉnh.
+ Trong nhóm tuổi lao động tỷ lệ có khuyết tật cao hơn hẳn 78,13%. Tỷ lệ khuyết tật ở trẻ em dưới 15 chỉ chiếm 13,42% và ở nhóm người già trên 60 tuổi là 8,45%. Ở trẻ em thường xuất hiện dạng đa khuyết tật với tỷ lệ 32,2% trên tổng số trẻ có khuyết tật. Ở nhóm tuổi lao động hai dạng khuyết tật chiêm tỷ lệ cao nhất là dạng khó khăn vận động 27,22% và bất thường thần kinh 24,88%. Dạng khuyết tật phổ biến ở người già là vận động khó khăn 28,76%.
- Về phân tích các yếu tố liên quan đến khuyết tật bẩm sinh
+ Có 17.592 NKT toàn tình có nguyên nhân bẩm sinh. Đây là nhóm đối tượng chiếm tỷ lệ cao nhất so với tổng số NKT có các nguyên nhân khác. Các dạng khuyết tật chiếm tỷ lệ lớn trong nhóm NKT bẩm sinh là dạng đa khuyết tật 25,87%, dạng bất thường thần kinh 18,67%, dạng vận động khó khăn 12,31% và khó khăn về học 12,63%.
+ Tỷ lệ NKT bẩm sinh không có khả năng làm các công việc trong sinh hoạt hằng ngày còn rất cao. Tỷ lệ này cao nhất ở nhóm trẻ em dưới 15 chiếm tới 55,41% ngoài ra có tới 65,11% trẻ khuyết tật không giúp được gì cho gia đình.
+ Tỷ lệ mù chữ của NKT bẩm sinh còn rất cao lên tới 60,33% tổng số NKT bẩm sinh. Đặc biệt tỷ lệ không biết chữ của nữ lên tới 64,98% và ở nam là 56,2%. Mặt khác, tỷ lệ không có nghề cũng như không được đào tạo nghề của NKT bẩm sinh lên tới 81,74% và chỉ có 3,76% số NKT bẩm sinh có được công việc phù hợp với mình.
- Nhận thức về khuyết tật bẩm sinh thông qua chương trình SLTS và SLSS
+ Có 91,4% số phụ nữ có chồng có con lần đầu ở dộ tuổi từ 20 đến 34. Tỷ lệ đẻ con cũng khá cao 96,9%, tỷ lệ sẩy thai chiếm 1,0% và thai chết lưu chiếm 1,3%.
+ Số phụ nữ nạo phá thai do nhỡ kế hoạch chiếm tỷ lệ cao nhất 83,87% trên tổng số phụ nữ đã từng di nạo phá. Chỉ có 1,61% phụ nữ phải bỏ thai vì được xác định là thai có di tật.
+ Trên 87% số phụ nữ trong điều tra không được xét nhiệm máu phát hiện bệnh trong lần sinh mới nhất. Chỉ có 9,3% phụ nữ thành thị được xét nhiệm và một tỷ lệ rất thấp 2,3% số phụ nữ nông thôn được xét nhiệm.
+ Mới chỉ có 75,56% phụ nữ thành thị và 67,88% phụ nữ nông thôn được nghe nói về siêu âm phát hiện di tật, bệnh tật ở thai nhi. Vấn đề kinh phí trong siêu âm được nhiều đối tượng trong nghiên cứu quan tâm nhất. Có đến 75,56% phụ nữ ở thành thị và 59,70% phụ nữ ở nông thôn lo lắng về chi phí phải trả để siêu âm.
+ Một tỷ lệ rất cao phụ nữ trong nghiên cứu chưa từng nói đến việc lấy máu gót chân trẻ xét nhiệm xác định các bệnh di truyền ở trẻ sơ sinh.
+ Cuối cùng có tới 72,9% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản có chồng mong muốn nhà nước hỗ trợ toàn bộ kinh phí nếu họ được tham gia vào các chương trình SLTS và SLSS.
102 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2046 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu đặc điểm người khuyết tật và một số yếu tố liên quan đến di tật bẩm sinh ở Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
%, tỷ lệ học hết cấp 2 chiếm 32,6%, học hết cấp 3 chiếm 38,8% và tỷ lệ phụ nữ đạt trình độ từ trung cấp trở lên chiếm 25,7%. Những nghề nghiệp phổ biến của phụ nữ trong độ tuổi sinh sản được điều tra bao gồm làm ruộng (46,4%), cán bộ công chức (19,8%), buôn bán (9,5%) và công nhân (8,3)%. Ngoài ra cũng còn có 8,8% phụ nữ chỉ ở nhà làm công việc nội trợ và 7,1% làm các công việc khác. Về hoàn cảnh kinh tế của đối tượng điều tra, có tới trên 95% có hoàn cảnh trung bình hoặc khá. Trong tổng số 420 phiếu thăm rò chỉ có 2 trường hợp không trả lời đối với câu hỏi hoàn cảnh kinh tế gia đình và chỉ có 14 trường hợp thuộc các hộ gia đình nghèo.
Nhóm tuổi
Lần 1
Lần 2
Lần 3
Lần 4
Lần 5
Lần 6
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
15-19
33
8,1
2
0,7
1
0,8
0
0,0
0
0,0
0
0
20-34
374
91,4
290
97,3
110
88,0
30
88,2
7
87,5
0
0
35-49
2
0,5
6
2,0
14
11,2
4
11,8
1
12,5
1
100
Tổng
409
100
298
100
125
100
34
100
8
100
1
100
Bảng 13. Tỷ lệ tuổi của phụ nữ khi mang thai với các lần mang thai
Trong 420 truờng hợp được điều tra có tới 409 trường hợp đã và đang mang thai lần đâu đồng thời cũng có tới 168 trường hợp đã và đang mang thai từ 3 lần trở lên. Lứa tuổi mang thai lần đầu chiếm tỷ lệ cao nhất 91,4% rơi vào nhóm phụ nữ từ 20 tuổi đến 34 tuổi. Đây là nhóm tuổi có tiềm năng sinh sản rất cao bằng chứng là ở các lần mang thai tiếp theo tỷ lệ của lứa tuổi này đều duy trì trên 88%. Thậm chí, những đối tượng mang thai lần 2 trong độ tuổi này còn chiếm tới 97,3%.
Lần mang thai của các phụ nữ trong điều tra được giải thích là những lần có chu kỳ thai sản, sản phụ có thể sinh đẻ bình thường, hoặc có thể bị sẩy, thai bị chết lưu hay sản phụ chủ động phá thai. Các thông tin này tương đối chính xác do tất cả các dối tượng trong điều tra đều được giải thích kỹ càng về việc giữ an toàn tuyệt đối thông tin cá nhân cũng như thông tin mà họ cung cấp cho điều tra viên.
Điều tra còn cho thấy tỷ lệ phụ nữ mang thai lần đầu tiên ở lứa tuổi từ 15 đến 19 so với các lứa tuổi khác cũng chiếm 8,1%. Cá biệt có 2 trường hợp đã mang thai tới lần thứ 2 khi còn ở lứa tuổi này và 1 trương hợp đã mang thai lần thứ 3. Có 18 trường hợp được nghi nhận có mang thai khi tuổi đã trên 35 trong đó có 2 trường hợp là mang thai lần đầu.
Tỷ lệ sinh con trong lần mang thai thứ nhất đạt khá cao 96,9%. Chỉ có 1,0% trường hợp bị xẩy trong lần mang thai đâu, 0,8% do nạo hút và 1,3% do chết lưu. Bảng số liệu cho thấy chỉ có 382 trường hợp có kết quả mang thai lần đầu trong khi có tới 409 trường hợp trả lời phỏng vấn là đã mang thai lần đầu. Đây không phải là sai sót trong quá trình điều tra mà những trường hợp chưa có kết quả chính là những phụ nữ đang mang thai trong quá trình điều tra. Tương tự như vậy, số lượng các trường hợp có kết quả ở các lần thứ 2 ,thư 3 … luôn thấp hơn số lượng trả lời là đã mang thai.
Bảng 14. Tỷ lệ kết quả mang thai với các lần mang thai
Nhóm tuổi
Lần 1
Lần 2
Lần 3
Lần 4
Lần 5
Lần 6
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Đẻ
378
96,9
203
81,2
71
66,4
17
54,8
4
50,0
1
100
Sẩy
4
1,0
8
3,2
5
4,7
1
3,2
0
0
0
0
Nạo hút
3
0,8
32
12,8
27
25,2
12
38,7
3
37,5
0
0
Chết lưu
5
1,3
7
2,0
4
3,7
1
3,2
1
12,5
0
0
Tổng
382
100
250
100
107
100
31
100
8
100
1
100
Điểm đặc biệt chú ý là tỷ lệ sẩy thai, thai chết lưu hay nao hút ở các lần mang thai tiếp theo đều tăng lên. Tỷ lệ sẩy thai so với các kết quả khác ở lần mang thai thứ 2 lên tới 3,2%. Tỷ lệ này ở lần mang thai thứ 3 là 4,7% ở lần mang thai thứ 4 là 3,2%. Tỷ lệ nạo phá thai so với các kết quả mang thai khác ở các lần mang thai tiếp theo cũng có sự khác biệt rất lớn so với lần mang thai thứ nhât. Tỷ lệ này ở lần mang thai thứ 2 là 12,8%, ở lần thứ 3 là 25,2%, ở lần thứ 4 là 38,7% và ở lần thứ 5 chiếm tới 37,5%. Số liệu trong nghiên cứu cũng cho thấy số phụ nữ có thai chết lưu so với các kết quả mang thai khác ở lần mang thai thứ 2 là 7 trường hợp ở lần mang thai thứ 3 là 4 trường hợp ở lần mang thai thứ 4 và thứ 5 đều có 1 trường hợp.
Trong quá trình điều tra chúng tôi mới chỉ ghi nhận có 2 trường hợp có dị tật bẩm sinh, 1 ở lần mang thai thứ nhất và 1 ở lần mang thai thứ 2 và cả hai trường hợp này đều rơi vào nhóm phụ nữ trong độ tuổi từ 20 đến 35.
Nguyên nhân lớn nhất dẫn đến tỷ lệ nạo phá thai là do vỡ kế hoạch chiếm tỷ lệ 83,87%. Lý do sức khỏe chỉ chiếm 6,5%, nguyên nhân do mắc bệnh khi mang thai sợ con bị di tật chiếm 4,8%, nguyên nhân do được khám xác định thai có tật, bệnh chiếm 1,6% và những nguyên nhân khác chiếm 3,2%.
Hình 9. Tỷ lệ nguyên nhân nạo phá thai
Không có đối tượng nào trong điều tra có di tật, khuyết tật. Tuy nhiên, khi hỏi về những người thân của các phụ nữ được điều tra chúng tôi cũng đã nghi nhận có 2 trường hợp có chồng là NKT, 7 trường hợp có anh chị em ruột là NKT, 1 trường hợp có bố bị nhiễm chất độc dioxin, 1 trường hợp có mẹ bị nhiễm chất độc dioxin, 1 trường hợp có mẹ chồng bị nhiễm dioxin và 5 trường hợp có bố chồng bị nhiẽm chất độc dioxin.
Toàn tỉnh Hà Tây hiện có 1.160 làng nghề thủ công, trong đó có gần 400 làng sản xuất các ngành nghề chế biến nông sản, thực phẩm, cơ khí, mây tre đan, sơn mài, chế biến lâm sản… đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Một số nơi đã xây dựng hệ thống cống rãnh thoát nước nhưng chưa có biện pháp xử lý nên không phát huy tác dụng.
Theo kết quả khảo sát và xét nghiệm của Sở Tài nguyên- Môi trường Hà Tây về nguồn nước và không khí tại các làng nghề cho thấy: tình trạng ô nhiễm đang ở mức báo động ở tất cả các điểm công nghiệp trong tỉnh và ở tất cả loại hình làng nghề. Nghiệm trọng nhất là các điểm công nghiệp Quảng Phú Cầu (ứng Hoà), Phùng Xá (Thạch Thất), Thanh Thuỳ (Thanh Oai), làng nghề rèn Đa Sĩ (Hà Đông)… với nhiều doanh nghiệp và hộ sản xuất tham gia các ngành nghề nấu thép, gang, nhựa phế liệu đưa vào lò nấu để tạo phôi và sản xuất các loại sản phẩm, đã thải ra lượng khí thải, hoá chất độc hại chứa CO2, SO2, NO2 rất lớn. Đặc biệt, trong quá trình tẩy, rửa và mạ, nước thải tồn dư nhiều hoá chất, các chất lơ long. Riêng hàm lượng khí nặng trong nước ở các làng nghề kim khí vượt tiêu chuẩn cho phép như: Zn vượt 8 lần, Fe vượt 12 lần và Pb vượt 4 lần trở lên…
Các cụm làng nghề chế biến nông sản xã Dương Liễu, Cát Quế, Minh Khai (Hoài Đức), Cộng Hoà, Tần Hoà (Quốc Oai), Bích Hoà, Cự Khê (Thanh Oai)… có trên 7.000 hộ và 5 công ty chuyên chế biến tinh bột sắn, dong riềng thời vụ kéo dài tháng 10 năm trước đến tháng 4 năm sau, mỗi hộ chế biến 500 - 2.000 kg củ/ngày, lượng chất thải bã, củ, chiếm trên 70% trọng lượng… Tính chung, hàng ngày mỗi xã xả ra môi trường 3.000 - 6.000 m3 nước thải và 10 - 90 tấn rác thải. Kết quả xét nghiệm cho thấy, các mẫu nước thải có hàm lượng chất hữu cơ cao, hàm lượng COD, BOD5 vượt tiêu chuẩn 10 - 14 lần và nhiều chất độc hại khác.
Hơn 160 làng nghề với gần 21.500 hộ sản xuất bánh phở, bún, miếm, bánh kẹo, nấu rượu, chế biến da, sản xuất đồ xương, giết mổ gia súc, gia cầm tập trung… chát thải xả thẳng ra cống rãnh, ao hồ gây ứ đọng lâu ngày mùi hôi thối bốc lên nồng nặc, quá trình đun nấu, đốt than khí thải chứa NH3, H2S nồng độ cao. Một số nơi hệ thống cống rãnh chưa được xây dựng, hộ sản xuất lớn tự đào ao để chứa nước thải, hộ sản xuất nhỏ đổ bừa bãi ra cống rãnh rồi chảy ra đồng ruộng. Tại các làng nghề, cụm điểm công nghiệp sản xuất bàng máy móc hoặc lao động thủ công đều gây ô nhiễm môi trường tiếng ồn, khối, bụi, chất thải rắn và nguồn nước độc hại đối với dân cư quanh vùng. Số lượng làng nghề sản xuất hàng dệt, nhuộm vải, lụa tơ tằm, mây tre đan, sơn mài, điêu khắc, đồ gỗ… thải ra môi trường dư lượng hoá chất sơn, dung môi, axit dạng khí và nước rất lớn. Bên cạnh đó, Hà Tây còn có trên 100 làng và 640 trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm qui mô lớn, tập trung toàn bộ nguồn nước đều xả thẳng ra cống rãnh, mương máng đã gây ô nhiễm không khí và nguồn nước mặt cũng như nước ngầm, gây tác hại với cộng đồng, nhiều loại bệnh tật phát sinh
Có rất nhiều phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ được điều tra thường xuyên phải trịu tác động của các yếu tố độc hai. Trong đó, không khí bị ô nhiễm là yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất, có tới 16,7% phụ nữ trả lời là có thường xuyên phải hít thở không khí bị ô nhiễm. Tỷ lệ này cũng lên tới 16,4% đối với chồng của các phụ nữ trong nghiên cứu của chúng tôi. Không khí bị ô nhiễm không chỉ là nguồn gây nguy hại nghiêm trọng ở Hà Tây mà nó cũng đang là yếu tố độc hại ở nhiều địa phương có các làng nghề đang trong giai đoạn công nhiệp hóa, hiện đại hóa như Hà Tây.
Ngoài yếu tố không khí còn có một số yếu tố độc hai khác cũng đang hàng ngày hằng giờ ảnh hưởng đến môi trường sống của con người. Có tới 16,7% phụ nữ trong điều tra phải tiếp xúc với hóa chất độc hại, phần lớn trong những phụ nữ phải thường xuyên tiếp xúc với các hóa chất này đều đang sinh sống ở trong các làng nghề. Ngoài ra, còn có tới 8,3% phụ nữ phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu mặc dù hiện nay có rất nhiều phương pháp canh tác thân thiên với môi trường nhưng vì những tập quán nông nghiệp cũng như sự hạn chế về kiến thức nên có rất nhiều gia đình vẫn sử dụng những loại thuốc trừ sâu bị cấm.
Bảng 15. Tỷ lệ tiếp xúc thường xuyên với yếu tố độc hai của đối tượng điều tra và chồng
STT
Yếu tố độc hại
Có
SL
%
1. Bản thân đối tượng:
1. Thuốc trừ sâu diệt cỏ
35
8,3
2. Nguồn nước ô nhiễm
20
4,8
3. Không khí bị ô nhiễm
70
16,7
4. Hoá chất độc hại
70
16,7
5. Khác: …………..
10
2,4
2. Chồng đối tượng:
1. Thuốc trừ sâu diệt cỏ
30
7,1
2. Nguồn nước ô nhiễm
18
4,3
3. Không khí bị ô nhiễm
69
16,4
4. Hoá chất độc hại
1
0,2
5. Khác: …………..
10
2,4
Một hệ quả do sử dụng hóa chất và thuốc trừ sâu độc hại là sự ô nhiễm nguồn nước, những hóa chất từ các làng nghề thải ra và dư lượng thuốc trừ sâu trong canh tác nông nghiệp không những làm ô nhiễm nguồn nước mặt mà hiện nay nó còn gây ô nhiễm cả nguồn nước ngầm. Có tới 4,8% phụ nữ trong điều tra khẳng định đang phải sử dụng những nguồn nước ô nhiễm này.
Các yếu tố độc hại không chỉ tác động lên sức khỏe của chị em phụ nữ mà nó còn tác động lên những người chồng của họ. Các khuyết tật bẩm sinh của những đứa trẻ trong gia đình chỉ có một nửa nguyên nhân có thể từ mẹ còn nứa kia có thể đến từ những người cha. Có tới 7,1% chị em cho rằng chồng mình phải trịu tác động của các chất hóa học và 4,3% cho rằng chồng mình đang phải sử dụng nguồn nước ô nhiễm. Quá trình thực địa chúng tôi thấy rằng, nhiều gia đình sống trong làng nghề có cả vợ và chồng vẫn phải hằng ngày tiếp xúc với hóa chất, không khí và nguồn nước độc hai. Họ có ý thức về sự ô nhiễm của môi trường, nhưng vì cuộc sống họ vẫn phải chấp nhận thức tế đó.
3.3.2. Kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản
Bảng 16. Tỷ lệ hiểu biết thông tin và hướng dẫn về nội dung chăm sóc SKSS
Nội dung
Thành thị
Nông thôn
Tổng số
SL
%
SL
%
Các nội dung chăm sóc thai sản và trẻ sau sinh
88
97,8
307
93,0
395
Dấu hiệu mang thai
90
100
278
84,2
368
Kiến thức về những nguy cơ cho mẹ, cho trẻ đối với những PN có nguy cơ cao
88
97,8
228
69,1
316
Các biểu hiện nguy cơ cho PN khi mang thai
89
98,9
268
81,2
357
Biết nơi và người có thể giúp đỡ cho người PN mang thai và cho trẻ khi cần thiết
89
98,9
272
82,4
331
Khác
0
0,0
0
0,0
0
Tổng
90
100
330
100
420
Khu vực nông thôn luôn có mặt bằng dân trí thấp hơn khu vực thành thì đồng thời khả năng được hưởng thụ các dịch vụ chăm sóc y tế cũng ít hơn khu vực thành thị. Số liệu khi điều tra về hiểu biết của phụ nữ về những thông tin và hướng dẫn trong nội dung SKSS của chúng tôi chỉ ra rằng tỷ lệ phụ nữ có chồng ở khu vực thành thị có hiểu biết chung về kiến thức chăm sóc sinh sản và trẻ sau sinh chiếm 97,8%. Tỷ lệ này có sự khác biệt khá lớn đối với nhóm ở nông thôn chỉ chiếm 93,0%. Đặc biệt tỷ lệ phụ nữ ở khu vực thành thị có hiểu biết về dấu hiệu mang thai đạt 100% trong khi ở khu vực nông thôn chỉ có 84,2%.
Kiến thức về những nguy cơ cho mẹ, cho trẻ đối với những phụ nữ có nguy cơ của phụ nữ khu vực thành thị cũng khác biệt rất lớn so với khu vực nông thôn theo đó tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 97,8% còn ở khu vực nông thôn chỉ có 69,1%. Tỷ lệ phụ nữ ở khu vực thành thị có các hiểu biết nguy cơ cho phụ nữ khi mang thai đạt 98,9%, trong khi đó ở khu vực nông thôn chỉ đạt 81,2%. Có rất nhiều phụ nữ ở khu vực thành thị biết nơi và người có thể giúp đỡ cho người phụ nữ mang thai và cho trẻ khi cần thiết, tỷ lệ ở thành thị là 98,9% còn ở nông thôn chỉ mới có 82,4%.
Bảng 17. Tỷ lệ hiểu biết về yếu tố nguy cơ dẫn đến bệnh tật ở thai nhi
Nội dung
Thành thị
Nông thôn
Tổng số
SL
%
SL
%
Mang thai khi tuổi trên 35
63
70,0
240
72,7
303
Tiền sử sảy thai liên tiếp
84
93,3
237
71,8
321
Tiền sử có thai chết lưu
81
90,0
228
69,1
309
Tiền sử nạo phá thai nhiều lần
82
91,1
247
74,8
329
Gia đình, dòng họ có người bị các tật, bệnh bẩm sinh
80
88,9
257
77,9
337
Bản thân hoặc chồng bị nhiễm chất độc màu da cam
88
97,8
297
90,0
385
Tiếp xúc với hoá chất hoặc môi trường sống độc hại
86
95,6
284
86,1
370
Mẹ bị mắc các bệnh vi rút ở những tháng đầu mang thai.
87
96,7
290
87,9
377
Khác
1
11
2
0,6
3
Tổng
90
100
330
100
420
Không phải bất kỳ phụ nữ trong độ tuổi sinh sản nào cũng có hiểu biết đầy đủ và chính xác về các yếu tố nguy cơ dẫn đến khuyết tật ở trẻ sơ sinh. Điều tra của chúng tôi cho thấy chỉ có 70% phụ nữ ở thành thị cho rằng mang thai ở tuổi trên 35 sẽ có nguy cơ cao sinh ra trẻ khuyết tật. Tỷ lệ này ở nông thôn cũng chỉ có 72,7%. Có 93,3% phụ nữ ở thành thị cho rằng nếu người phụ nữ có tiền sử sảy thai nhiều lần sẽ có nguy cơ sinh con di tật và chỉ có 71,8% số phụ nữ ở khu vực nông thôn có kiến thức tương tư.
Tỷ lệ phụ nữ ở khu vực thành thị có kiến thức về nguy cơ do tiền sử có thai chết lưu chiếm 90,0% và có sự khác biệt lớn với nhóm phụ nữ ở khu vực nông thôn chỉ đạt tỷ lệ 39,1%. Về nguy cơ do nạo phá thai nhiều lần cũng có sự khác biệt lớn giữa khu vực thành thị và nông thôn. Trong khi tỷ lệ này ở khu vực thành thị chiếm 91,1% thì ở khu vực nông thôn chỉ chiếm 74,8%. Có 88,9% số phụ nữ ở khu vực thành thị hiểu rằng nếu trong gia đình, dòng họ có người bị di tật bẩm sinh thì các con mà họ sinh ra sẽ có nguy cơ mang di tật cao hơn và ở nhóm phụ nữ khu vực nông thôn chỉ tỷ lệ hiểu biết này chỉ đạt 77,9%.
Mặc dù hiện nay việc tuyên truyền về ảnh hưởng của chất độc dioxin diễn ra rất mạnh mẽ nhưng chỉ có 97,8% phụ nữ ở khu vực thành thị hiểu rằng nều mình hoặc chồng được xác định bị nhiễm dioxin thì nguy cơ sinh ra những đứa trẻ di tật sẽ rất cao. Trong khi đó tỷ lệ này ở khu vực nông thôn cũng chỉ đạt 90,0%. Hiều biết về yếu tố nguy cơ do tiếp xúc với hóa chất hoặc môi trường sống độc hai ở nhóm phụ nữ thành thị chiếm 95,6% còn ở nhóm phụ nữ nông thôn thấp hơn và chỉ chiếm 86,1%. Có 96,7% số phụ nữ sống ở khu vực thành thị biết rằng nếu người mẹ bị nhiễm virus ở những tháng đầu mang thai thì đứa con sinh ra cũng có nguy cơ cao hơn. Tỷ lệ này cũng có sự khác biệt với nhóm phụ nữ sống ở khu vực nông thôn 87,9%.
Hình 10. Tỷ lệ hiểu biết những dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai
Những dấu hiệu đơn giản mà các đối tượng trong điều tra đều cho rằng có ảnh hưởng lớn trong thời kỳ mang thai là ra máu âm đạo, sốt kéo dài, phù, đau bụng. 100% phụ nữ ở khu vực thành thị hiểu rằng hiện tuợng ra máu âm đạo trong giai đoạn thai kỳ là nguy hiểm nhưng chỉ có 98,5% phụ nữ ở khu vực nông thôn biết được điều đó. Có sự khác biệt về hiểu biết các dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai giữa phụ nữ ở khu vực thành thì và phụ nữ ở khu vực nông thôn. Nếu tỷ lệ phụ nữ ở khu vực thành thị cho rằng các yếu tố ra máu âm đạo, đau bụng cao hơn tỷ lệ phụ nữ ở khu vực nông thôn thì tỷ lệ phụ nữ ở khu vực nông thôn cho rằng rằng các yếu tố sốt kéo dài, phù, đau đầu thường xuyên lại cao hơn phụ nữ ở khu vực thành thị. Tỷ lệ đó ở phụ nữ khu vực nông thôn lần lượt là 97,0%, 91,5% và 60,3% và tỷ lệ tương ứng thấp hơn của phụ nữ khu vực thành thị là 86,7%, 86,7% và 53,3%.
Bảng 18. Tỷ lệ thực hành xử trí khi gặp dấu hiệu nguy hiểm trong thời kỳ mang thai
Nội dung
Thành thị
Nông thôn
Tổng số
SL
%
SL
%
Không cần xử lý gì, nghỉ ngơi rồi sẽ hết
0
0,0
1
0,3
1
Mời thầy lang, mụ vườn giúp đỡ
0
0,0
329
99,7
329
Tự mua thuốc điều trị
0
0,0
11
3,3
11
Mời cán bộ y tế đến nhà
5
5,6
18
5,5
23
Đến các cơ sở y tế
88
97,8
321
97,3
409
Khác
1
1,1
2
0,6
3
Tổng
90
100
330
100
420
Có một tỷ lệ rất cao phụ nữ cho biết sẽ đến các cơ sở y tế để khám khi gặp dấu hiệu nguy hiểm trong thời kỳ mang thai. Trung bình cho cả nhóm phụ nữ nông thôn cũng như thành thị là 97,8%. Nhưng điều đáng chú ý trong nghiên cứu này là có một tỷ lệ gần như tuyệt đối phụ nữ sinh sống ở vùng nông thôn có thói quen nhờ sự giúp đỡ của các thầy lang, mụ vườn gầy nhà khi gặp dấu hiệu nguy hiểm trong thời kỳ mang thai 99,7% trong khi điều tra không nghi nhận bất kỳ trường hợp phụ nữ sống ở khu vực thành thị nào có câu trả lời như thế. Thực tế thấy rằng, có rất nhiều người hành nghề khám chữa bệnh ở vùng nông thôn không có bằng cấp hành nghề thậm chí không có chuyên môn trong lĩnh vực chăm sóc SKSS. Họ chỉ sử dụng những kinh nhiệm cơ bản trong quá trình hành nghề, không được đào tạo tập huấn thường xuyên để có chuyên môn tốt hơn. Đây là một vấn đề đáng để quan tâm, bởi vì việc khám chứa bệnh tại các cơ sở không có giấy phép cũng như chuyên môn cao sẽ gây ra rất nhiều nguy hiểm cho chị em phụ nữ trong giai đoạn thai kỳ.
Bảng 19. Tỷ lệ hiểu biết của đối tượng về các yếu tố nguy cơ đối với trẻ sơ sinh
Nội dung
Thành thị
Nông thôn
Tổng số
SL
%
SL
%
Đẻ non dưới 37 tuần
76
84,4
286
86,7
364
Cân nặng khi sinh dưới 2,5 kg
81
90,0
267
80,9
348
Khi sinh phải can thiệp như dùng kẹp lấy thai, giác hút thai, mổ đẻ
75
83,3
256
77,6
331
Trẻ bị vàng da sớm
84
93,3
218
66,1
302
Trẻ có các khiếm khuyết hoặc dị tật các cơ quan trên cơ thể
81
90,0
296
89,7
377
Khác
1
1,1
2
0,6
3
Tổng
90
100
330
100
420
Hiện nay, đa phần các chi em phụ nữ đều đến các cơ sở y tế như nhà hộ sinh, trạm y tế, bệnh viện để đăng ký khám và sinh con. Nhiều người cũng biết về các dấu hiệu nguy hiển ở trẻ sơ sinh. Có 93,3% đối tượng phụ nữ ở khu vực thành thị hiểu rằng trẻ bị vàng da sớm là một trong những dấu hiệu nguy hiểm. Tuy nhiên, điều đáng nói là tỷ lệ này có sự khác biệt rất lớn giữa 2 nhóm thành thị và nông thôn, tỷ lệ ở nông thôn chỉ đạt 66,1%. Chỉ có câu hỏi về dấu hiệu đẻ non dưới 37 tuần thì tỷ lệ phụ nữ ở khu vực nông thôn trả lời là biết chiếm 86,7% cao hơn tỷ lệ phụ nữ ở khu vực thành thị 84,4%. Hiểu biết của nhóm phụ nữ khu vực thành thị về các dấu hiệu nguy hiểm ở trẻ sơ sinh thường cao hơn nhóm phụ nữ ở khu vực nông thôn. Tỷ lệ phụ nữ ở khu vực thành thị có hiểu biết về các dấu hiệu cân nặng khi sinh dưới 2,5 kg, khi sinh phải can thiệp như dùng kẹp lấy thai, giác hút thai, mổ đẻ, trẻ có các khiếm khuyết hoặc di tật các cơ quan trên cơ thể đạt các tỷ lệ lần lượt là 90,0%, 83,3%, 90,0%. Tương ứng với nhóm phụ nữ ở khu vực nông thôn có các tỷ lệ lần lượt là 80,9%, 77,6%, 89,7%.
3.3.3. Nhận thức và ứng xử về SLTS và SLSS trong phòng ngừa bệnh, tật di truyền
Bảng 20. Tỷ lệ thực hành các biện pháp chăm sóc khi có thai
Nội dung
Thành thị
Nông thôn
Tổng số
SL
%
SL
%
Khám thai tại các cơ sở y tế
86
95,6
315
95,5
401
Tiêm phòng uốn ván
85
94,4
309
93,6
394
Uống viên sắt phòng chống thiếu máu
70
77,8
282
85,5
352
Siêu âm chẩn đoán tình trạng thai nhi
84
93,3
273
82,7
357
Khác
84
933
2
0,6
86
Tổng
90
100
330
100
420
Việc thực hành các biện pháp khi mang thai của chị em phụ nữ trong điều tra là rất tốt. Việc đi khám định kỳ ở các cơ sơ y tế của phụ nữ khi mang thai đều đạt trên 95%. Tuy nhiên việc tiêm ngừa uốn ván có sự khác biệt giữa nhóm phụ nữ ở khu vực nông thôn 93,6% và phụ nữ ở khu vực thành thì 94,4%. Ngược lại, tỷ lệ thực hành uống viên sắt phòng chống thiếu màu của chị em phụ nữ ở khu vực nông thôn lại cao hơn hẳn khu vực thành thị. 85,5% so với 77,8%. Thực tế cho thấy rằng nhiều phụ nữ sinh sống ở khu vực thành thị biết rằng phải bổ xung sắt trong thời kỳ mang thai nhưng thay vì uống viên sắt họ sử dụng nhiều thực phẩm có hạm lượng sắt cao hơn. Đây là một biện pháp rât tốt và tự nhiên.
Tỷ lệ được siêu âm chuẩn đoán hình ảnh phát hiện di tật trong những giai đoạn sớm của phụ nữ nhóm thành thì đạt tỷ lệ khá cao 93,3%. Trong khi tỷ lệ này ở nhóm phụ nữ nông thôn mới chỉ đạt 82,7%. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy rằng nhóm phụ nữ khu vực thành thị không những có cơ hội tiệp cận với các dịch vụ chăm sóc sản phụ tiên tiến mà hiểu biết của họ về chăm sóc SKSS cũng cao hơn nhiều. Có tới 93,3% chị em phụ nữ ở khu vực thành thị có thể kể thêm các phương pháp chăm sóc sản phụ như ăn uống đầy đủ, chánh dùng các chất kích thích, không làm việc nặng, hạn chế quan hệ … Tỷ lệ này có sự khác biệt rất lớn với nhóm phụ nữ ở khu vực nông thôn 0,6%.
Hình 11. Tỷ lệ được xét nghiệm máu, phát hiện bệnh trong lần sinh mới nhất
Chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ chỉ em phụ nữ được xét nghiệm máu, phát hiện bệnh trong lần sinh mới nhất. Việt xét nhiệm máu của sản phụ nhằm xác định lượng sắt trong máu, xác định nhóm máu và yếu tố Rherus, giảm thiểu nguy cơ mắc các bệnh như bệnh sỏi (Rubella), viêm gan siêu vi B, giang mai, HIV, bệnh Toxoplasma.
Trong đó có sự khác biệt lớn giữa 2 nhóm phụ nữ khu vực nông thôn và khu vực thành thị. Chỉ có 9,3% phụ nữ ở khu vực thành thị so với 2,3% ở khu vực nông thôn có di xét nghiệm máu. Tỷ lệ không đi xét nhiệm màu là khá cao đều trên 87%. Ngoài ra cũng còn có tới 3,5% phụ nữ ở khu vực thành thị và 9,9% phụ nữ ở khu vực nông thôn không biết đến việc phải đi xét nhiệm máu khi mang thai.
Mặc dù có tới hơn 90% đối tượng trong điều tra cho rằng việc khám để xác định tình trạng phát triển bình thường hay bất thường của đứa trẻ ngay từ khi mang thai là cần thiết nhưng vẫn còn 9,3% phụ nữ vẫn chưa có hiểu biết về khám sàng lọc tiền sinh. Tỷ lệ phụ nữ trong độ tuổi sinh sản được biết về siêu âm phát hiện dị tật, bệnh tật ở thai thi còn thấp chỉ đạt 69,5%. Trong đó có sự khác biệt giữa nhóm phụ nữ ở khu vực nông thôn và thành thị. Tỷ lệ phụ nữ ở khu vực thành thị đẫ nghe nói về việc sàng lọc di tật bằng siêu âm chiếm 75,65% còn ở nhóm phụ nữ khu vực nông thôn chỉ có 67,88%.
Bảng 21. Tỷ lệ hiểu biết của đối tượng về siêu âm phát hiện di tật, bệnh tật ở thai nhi
Nội dung
Thành thị
Nông thôn
Tổng số
SL
%
SL
%
Đã nghe nói
68
75,56
224
67,88
292
Đã biết một vài trường hợp
9
10,00
31
9,39
40
Chưa nghe nói đến bao giờ
13
14,44
75
22,73
88
Tổng
90
100
330
100
420
Hiện nay, với kỹ thuật siêu âm tiên tiến các sản phụ chỉ cần làm siêu âm chuẩn đoán 3 lần là có thể phát hiện hầu hết các khuyết tật bẩm sinh cả trong nội tạng và bên ngoài như tim bẩm sinh, đảo ngược phủ tạng, thoát vị cơ hoành, não úng thủy, thoát vị rốn, thoát vị bàng quan, sứt môi, tay chân khoèo, chi báo biển (do thalidomit). Làm siêu âm với tuổi thai 13 tuần trở đi, nếu thấy lớp da vùng gáy dày hơn bình thường có thể nghĩ đến thai nhi bị hội chứng Down (tất nhiên các xét nhiệm về sinh hóa và nhiễm sắc đồ mới có thể khẳng định chắc chắn).
Khảo sát siêu âm cho thấy bản chất của siêu âm là nguồn năng lượng cơ học do sự dao động và truyền đi trong môi trường, sóng siêu âm có chu kỳ hình sin. Siêu âm ứng dụng trong y học có tần số 700KHz - 50MHz, trong đó siêu âm chẩn đoán sử dụng các tần số từ 2MHz - 50MHz. Sóng siêu âm tối ưu trong môi trường nước. Có rất nhiều khảo sát đánh giá ảnh hưởng của siêu âm đối với tế bào non, bào thai, cơ quan sinh dục… của động vật đều không ghi nhận bất cứ ảnh hưởng nào. Trên con người, ghi nhận với cường độ của nguồn siêu âm chẩn đoán F = 1 MHz – 10 MHz cường độ 0,002 W/cm2 không gây ra tác hại nào cho mẹ và con trong quá trình thai nghén ngay cả khi khảo sát siêu âm chẩn đoán ở tuần lễ đầu.
Tuy nhiên, vào năm 1993 nghiên cứu của Campbell và cộng sự chỉ ra rằng các bà mẹ siêu âm quá nhiều trong thai kỳ có nguy cơ cho trẻ chậm nói hơn các bà mẹ không siêu âm. Và Marinac Dabic (1994) thấy rằng nguy cơ sinh con nhẹ cân tăng gấp hai lần ở các bà mẹ siêu âm nhiều hơn bốn lần trong thai kỳ. Do đó, siêu âm phải được thực hiện theo chỉ định của bác sĩ. Theo các nghiên cứu phân tích gộp đã cho thấy vai trò rất quan trong của siêu âm trong 24 tuần đầu của thai kỳ bao gồm: chẩn đoán sớm thai bất thường vào ba tháng đầu (thai ngoài tử cung, thai trứng…), chẩn đoán dị dạng của thai. Vì siêu âm chẩn đoán dựa trên các mặt cắt nên kinh nghiệm của người bác sĩ siêu âm rất quan trọng. Đặc biệt khi siêu âm xác định dị tật thai thì cần có một sự đánh giá lại của nhiều bác sĩ có kinh nghiệm cả trong lĩnh vực siêu âm, lâm sàng và di truyền để có quyết định bước xử trí và theo dõi thích hợp.
Bảng 22. Tỷ lệ ý kiến về các ảnh hưởng của siêu âm tới sự phát triển của trẻ
Nội dung
Thành thị
Nông thôn
Tổng số
SL
%
SL
%
Không ảnh hưởng
76
84,44
241
73,03
317
Nếu nhiều lần sẽ có ảnh hưởng không tốt
13
14,44
78
23,64
91
Có ảnh hưởng không tốt dù chỉ một lần
1
1,11
7
2,12
8
Khác ( ghi rõ)
0
0,00
4
1,21
4
Tổng
90
100
330
100
420
Trong khảo sát chúng tôi nhận thấy rằng chỉ có 84,44% phụ nữ thành thị cho rằng xiêu âm không ảnh hưởng đến thai nhi, tỷ lệ này ở nhóm phụ nữ nông thôn là 73,03%. Tỷ lệ phụ nữ nông thôn cho rằng siêu âm nhiều lần sẽ ảnh hưởng không tốt tới thai nhi chiếm 23,64%. Tỷ lệ này có sự khác biệt lớn với nhóm phụ nữ thành thị chỉ đạt 14,44%. Chúng tôi cũng ghi nhận có 8 trườnghợp (1 ở thành thị và 7 ở nông thôn) cho rằng siêu âm là không tốt cho sự phát triển bình thường của trẻ.
Có rất nhiều ý kiến của các phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ được điều tra về việc siêu âm xác định di tật bẩm sinh sớm như phong tục không cho phép, ảnh hưởng tới sức khỏe mẹ, ảnh hưởng tới thai nhi, gây sảy thai, sợ phải chi phí nhiều … Trong đó đáng chú ý là có một tỷ lệ lớn phụ nữ gặp phải vấn đề kinh tế khi đi siêu âm. Tỷ lệ này ở nhóm phụ nữ nông thôn là 59,7% và điều đáng ngạc nhiên là tỷ lệ ở nhóm phụ nữ thành thị lại cao hơn 75,56%. Qua tìm hiểu thấy rằng những phụ nữ sống ở khu vực thành thị có cơ hội tiếp xúc với các dịch vụ y tế nhiều hơn, phần lớn trong số họ đã đăng ký khám và đẻ ở các trung tâm y tế uy tín và họ thường khám thai mỗi tháng một lần và lần nào cũng phải trả chi phí siêu âm. Thâm chí, họ còn đến các trung tâm siêu âm ngoài để xác định lại hoặc xác định cả giới tính.
Hình 12. Tỷ lệ ý kiến lo ngại khi siêu âm
Trong khi đó ý kiến về sự ảnh hưởng của siêu âm đến sức khỏe của mẹ và của thai nhi ở nhóm phụ nữ nông thôn lại cao hơn 29,7% và 2,42% so với nhóm thành thị là 16,67% và 0,0%.
Sử dụng biện pháp xiêu âm là một trong những kỹ thuật đơn giản, dễ áp dụng và có khả năng phổ cập để xác định sớm các khuyết tật bẩm sinh theo chương trình SLTS. Bên cạnh đó cũng còn nhiều di tật khác chưa thể xác định được trong giai đoạn thai kỳ. Những dị tật này thường là các rối loạn chuyển hóa bẩm sinh. Một kỹ thuật đang được ứng dụng rộng rãi nhằm phát hiện sớm các khuyết tật sơ sinh là phương pháp lấy máu chót chân trẻ sơ sinh.
Lấy máu ở gót chân của trẻ sơ sinh để xác định một số bệnh cần điều trị sớm là kỹ thuật lấy hai giọt máu từ gót chân trẻ sơ sinh sau khi chào đời 48 giờ. Máu được nhỏ lên giấy thấm, để khô rồi chuyển đi làm xét nhiệm nhằm phát hiện 3 loại bệnh: Thiếu nem G6PD, suy giáp bẩm sinh và tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh.
Thông qua xét nghiệm, bác sĩ chẩn đoán trẻ có thể bị dị tật do thiếu men G6PD. Là bệnh di truyền do thừa hưởng từ cha mẹ. Khi bị mắc bệnh này, cơ thể trẻ không thể tổng hợp men G6PD như những đứa trẻ bình thường khác. Men G6PD nằm trong tế bào hồng cầu, khi thiếu men tế bào không biến đổi các sản phẩm có hại thành sản phẩm không hại, do đó các sản phẩm có hại sẽ tích tụ trong hồng cầu làm cho hồng cầu dễ vỡ. Việc phát hiện bệnh sớm và tham vấn tránh dùng thuốc ảnh hưởng sẽ giúp trẻ thiếu men không bị các đợt tán huyết cấp.
Dạng bệnh thứ hai là suy giáp bẩm sinh, khiến tuyến giáp của trẻ không tự sản xuất hoặc sản xuất hormone giáp ít hơn bình thường. Hormone giáp là chất cần thiết cho não bộ và cơ thể phát triển từ lúc mới sinh cho tới khi trưởng thành. Nếu bị thiếu, não và cơ thể không phát triển đưa đến trẻ bị ngu đần và lùn không lớn lên được. Việc phát hiện bệnh sớm và điều trị bổ sung đủ lượng hormone giáp trong vòng hai tuần đầu sau sinh sẽ giúp trẻ phát triển bình thường.
Bệnh tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh cũng đáng lưu tâm, là bệnh lý rối loạn tổng hợp nội tiết tuyến thượng thận ở trẻ sơ sinh. Trẻ mắc bệnh này rất nguy hiểm, nếu để mất nước, mất muối nặng có thể dẫn đến tử vong. Các bé gái bị mắc bệnh này có biểu hiện bất thường cơ quan sinh dục ngoài. Bé sẽ phì đại âm vật (trông giống dương vật), nét mặt và thân hình thô, còn gọi là "nam hóa". Vì vậy đa số bé gái mắc bệnh được bác sĩ phát hiện sớm khi vừa sinh tại bệnh viện, còn bé trai do không có biểu hiện bất thường ở cơ quan sinh dục nên thường được phát hiện muộn hơn.
Bảng 23. Tỷ lệ hiểu biết của phụ nữ về lấy máu gót chân trẻ sơ sinh để xét nhiệm xác định bệnh
Nội dung
Thành thị
Nông thôn
Tổng số
SL
%
SL
%
Đã nghe nói
35
38,89
115
34,85
150
Đã biết một vài trường hợp
6
6,67
6
1,82
12
Chưa nghe nói đến bao giờ
49
54,44
209
63,33
258
Tổng
90
100
330
100
420
Do thiếu kiến thức nên nhiều sản phụ chưa biến đến hiệu quả của xét nhiệm này thậm chí nhiều phụ nữ đã được giải thích nhưng vẫn không hợp tác với các bác sỹ chuyên khoa để thực hiện xét nhiệm. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng tỷ lệ hiểu biết của phụ nữ về lấy máu gót chân trẻ sơ sinh để xét nhiệm xác định các bệnh nêu trên là rất thấp. Tỷ lệ ở nhóm phụ nữ nông thôn chỉ đạt 34,85% còn ở nhóm phụ nữ thành thị cũng chỉ có 38,89%. Đồng thời cũng có đến 54,44% phụ nữ thành thị và 63,33% phụ nữ nông thôn chưa biết đến xét nhiệm này.
Qua tìm hiểu của chúng tôi thấy rằng nhiều trung tâm y tế có chức năng đỡ đẻ cho sản phụ cũng chưa thực hiện được kỹ thuật này. Mặc dù theo chương trình SLSS 100% trẻ sơ sinh sẽ được sàng lọc. Thậm chí, theo TS. BS Trần Danh Cường, Phó Giám đốc Trung tâm Chuẩn đoán trước sinh, BV phụ sản TW với tình trạng quá tải số lượng sản phụ sinh tại các cơ sở tuyến trên như hiện này thì có tới hơn 50% số trẻ sơ sinh không được lấy máu gót chân để xét nhiệm. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy rằng có thể thông qua các công tác viên dân số hoặc công tác viên y tế để tiền hành kỹ thuật lấy máu máu gót chân cho trẻ tại gia đình. Đây là những người có được số liệu chính xác về số trẻ mới sinh ra trên địa bàn cơ sơ. Mặt khác kỹ thuật lấy máu gót chất trẻ cũng rất đơn giản, chỉ cần hướng dẫn các cộng tác viên trong thời gian gắn là họ có thể thực hành tốt mà vẫn đảm bảo an toàn. Các cộng tác viên khi đi lấy máu tại gia đình có thể chỉ cần trang bị 1 phong bì chứa phiếu lấy mẫu máu cùng với các công cụ đơn giản như kim chọc, băng dính, bông, cồn.
Bảng 24. Tỷ lệ ý kiến về ảnh hưởng của việc lấy máu gót chân đến sự phát triển của trẻ
Nội dung
Thành thị
Nông thôn
Tổng số
SL
%
SL
%
Không ảnh hưởng
65
72,22
216
65,45
281
Có ảnh hưởng nhưng không nhiều
16
17,78
76
23,03
92
Có ảnh hưởng không tốt
5
5,56
22
6,67
27
Có ảnh hưởng rất xấu
0
0,00
6
1,82
6
Khác
4
444
10
3,03
14
Tổng
90
100
330
100
420
Có sự khác biệt giữa ý kiến về ảnh hưởng của việc lấy máu gót chân đến sự phát triển của trẻ ở nhóm phụ nữ thành thị và nông thôn. Trong khi có đến 72,22% phụ nữ thành thị cho rằng việc lấy máu không ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ thì chỉ có 65,45% phụ nữ nông thôn có cùng ý kiết. Nhưng ngược lại có đến 23,03% phụ nữ nông thôn cho rằng có ảnh hưởng tới trẻ nhưng không phải là nghiêm trọng và ở nhóm phụ nữ thành thị thì tỷ lệ này chỉ có 17,78%.
Mặc dù nhiều phụ nữ trong nghiên cứu hiểu rằng việc lấy máu gót chân là cần thiết trong việc chữa trị sớm các bệnh tật di truyền. Họ cũng được các điều tra viên giải thích về kỹ thuật này và phần đông đều hiểu rẳng việc thực hiện lấy máu không gây nguy hiểm gì cho trẻ về sau này. Tuy nhiên có rất nhiều người không đồng ý để các bác sỹ tiến hành lấy máu cho con minh.
Hình 13. Tỷ lệ ý kiến lo ngại khi lấy máu gót chân trẻ
Qua phần câu hỏi về những lo lắng của phụ nữ độ tuổi sinh đẻ về việc lấy máu ở gót chân trẻ sơ sinh thấy rằng có đến 71,5% sợ rằng con mình bị đau. Đây cũng là lý do dễ hiểu bởi vì họ chưa có được những kiến thức thật đầy đủ để hiểu được ý nghĩa của chương trình SLSS. Bên cạnh đó còn có tời 8,8% đối tượng được hỏi lo lắng về chi phí cao, 5,5% lo sợ nhiễm trùng, 10,5% sợ ảnh hưởng tới vận đông sau này của trẻ và chỉ có 2,6% cho rằng kỹ thuật lấy máu ở gót chân không phù hợp với phong tục, tập quán.
Hiện nay, nhà nước đã có chương trình hỗ trợ miễn phí 100% tiền khám chữa bệnh cho tất cả trẻ em dưới 6 tuổi. Chương trình SLSS cũng đang phấn đấu mở rộng trên địa bàn cả nước bằng việc thành lập các trung tâm chuẩn đoán, mở nhiều lớp đào tạo , tập huấn các kỹ thuật đơn giản cho tất các hộ lý ở trung tâm y tế chăm sóc SKSS.
Bảng 25. Tỷ lệ ý kiến về việc hỗ trợ của nhà nước cho chương trình SLTS và SLSS
STT
Nội dung
Có
SL
%
1
Nhà nước hỗ trợ toàn bộ, người dân được miễn phí
306
72,9
2
Nhà nước hỗ trợ một phần và người dân chi trả một phần
102
24,3
3
Người dân trả toàn bộ để nhận được dịch vụ tốt hơn
6
1,4
4
Không biết, không trả lời
6
1,4
Tổng
420
100
Để trả lời cho nhưng lo ngại về chi phí của những xét nhiệm trong chương trình SLTS và SLSS. Chúng tôi đã giải thích rằng hiện này các chương trình này đang được nhà nước hỗ trợ. Đây cũng là một nguyện vọng thiết thực với những đối tượng trong nghiên cứu của chúng tôi. Có tới 72,9% phụ nữ được hỏi mong muốn nhà nước hỗ trợ toàn bộ, 24,3% mong muôn được hỗ trợ một phần và chỉ có 1,4% nghĩ rằng nếu cần thiết họ sẵn sàng bỏ tiền để làm các xét nhiệm.
Các xét nhiệm SLSS hiện nay đã được miễn phí hoàn toàn. 100% số trẻ nếu được xác định cố bệnh sẽ được quản lý, tư vấn, chăm sóc và điều trị. Việc phát hiện trẻ mắc bệnh qua SLSS rất tốt nếu được can thiệp sớm. Vì các bệnh này không có thuốc điều trị đặc hiệu, phụ huynh trẻ bị bệnh sẽ được tư vấn không nên dùng một số thuốc như: Nhóm hạ sốt, giảm đau (acetanilide, amidopyrine, aspirin, pyramidone...), nhóm thuốc thuốc điều trị sốt rét (chloroquine, mepacrine, pamaquine, quinine...), nhóm thuốc tim mạch (aipha-methyldopa...), thuốc kháng sinh (cloraphenicol, co-trimoxazole, nalidixic acid...). Ngoài ra, đối với những gia đình có trẻ bị bệnh sẽ được tư vấn di truyền trước hôn nhân nhằm mục đích phòng bệnh một cách chủ động.
Kết luận và khuyến nghị
Đây là những nghiên cứu cắt ngang từ việc nắm được tỷ lệ cơ cấu NKT toàn tỉnh đi đến việc phân tích các yếu tố liên quan đến khuyêt tật bẩm sinh. Từ đó tìm hiểu các biện pháp hạn chế sự gia tăng của dạng khuyết tật này thông qua chương trình SLTS và SLSS. Sau khi phân tích các kết quả chúng tôi rút ra được những kết luận và khuyến nghị sau:
Kết luận
- Về tỷ lệ cơ cấu NKT toàn tỉnh
+ Tỷ lệ dạng khuyết tật về vận động chiếm tỷ lệ cao nhất 26,07%, tiếp theo là dạng bất thường thần kinh 22,81% và đa khuyết tật 22,75%.
+ Khuyết tật ở nam giới được nghi nhận nhiều hơn nữ giới với tỷ lệ xuất hiện khuyết tật ở nam giới là 56,1% và ở nữ giới là 43,9% trên tổng số NKT toàn tỉnh.
+ Trong nhóm tuổi lao động tỷ lệ có khuyết tật cao hơn hẳn 78,13%. Tỷ lệ khuyết tật ở trẻ em dưới 15 chỉ chiếm 13,42% và ở nhóm người già trên 60 tuổi là 8,45%. ở trẻ em thường xuất hiện dạng đa khuyết tật với tỷ lệ 32,2% trên tổng số trẻ có khuyết tật. ở nhóm tuổi lao động hai dạng khuyết tật chiêm tỷ lệ cao nhất là dạng khó khăn vận động 27,22% và bất thường thần kinh 24,88%. Dạng khuyết tật phổ biến ở người già là vận động khó khăn 28,76%.
- Về phân tích các yếu tố liên quan đến khuyết tật bẩm sinh
+ Có 17.592 NKT toàn tình có nguyên nhân bẩm sinh. Đây là nhóm đối tượng chiếm tỷ lệ cao nhất so với tổng số NKT có các nguyên nhân khác. Các dạng khuyết tật chiếm tỷ lệ lớn trong nhóm NKT bẩm sinh là dạng đa khuyết tật 25,87%, dạng bất thường thần kinh 18,67%, dạng vận động khó khăn 12,31% và khó khăn về học 12,63%.
+ Tỷ lệ NKT bẩm sinh không có khả năng làm các công việc trong sinh hoạt hằng ngày còn rất cao. Tỷ lệ này cao nhất ở nhóm trẻ em dưới 15 chiếm tới 55,41% ngoài ra có tới 65,11% trẻ khuyết tật không giúp được gì cho gia đình.
+ Tỷ lệ mù chữ của NKT bẩm sinh còn rất cao lên tới 60,33% tổng số NKT bẩm sinh. Đặc biệt tỷ lệ không biết chữ của nữ lên tới 64,98% và ở nam là 56,2%. Mặt khác, tỷ lệ không có nghề cũng như không được đào tạo nghề của NKT bẩm sinh lên tới 81,74% và chỉ có 3,76% số NKT bẩm sinh có được công việc phù hợp với mình.
- Nhận thức về khuyết tật bẩm sinh thông qua chương trình SLTS và SLSS
+ Có 91,4% số phụ nữ có chồng có con lần đầu ở dộ tuổi từ 20 đến 34. Tỷ lệ đẻ con cũng khá cao 96,9%, tỷ lệ sẩy thai chiếm 1,0% và thai chết lưu chiếm 1,3%.
+ Số phụ nữ nạo phá thai do nhỡ kế hoạch chiếm tỷ lệ cao nhất 83,87% trên tổng số phụ nữ đã từng di nạo phá. Chỉ có 1,61% phụ nữ phải bỏ thai vì được xác định là thai có di tật.
+ Trên 87% số phụ nữ trong điều tra không được xét nhiệm máu phát hiện bệnh trong lần sinh mới nhất. Chỉ có 9,3% phụ nữ thành thị được xét nhiệm và một tỷ lệ rất thấp 2,3% số phụ nữ nông thôn được xét nhiệm.
+ Mới chỉ có 75,56% phụ nữ thành thị và 67,88% phụ nữ nông thôn được nghe nói về siêu âm phát hiện di tật, bệnh tật ở thai nhi. Vấn đề kinh phí trong siêu âm được nhiều đối tượng trong nghiên cứu quan tâm nhất. Có đến 75,56% phụ nữ ở thành thị và 59,70% phụ nữ ở nông thôn lo lắng về chi phí phải trả để siêu âm.
+ Một tỷ lệ rất cao phụ nữ trong nghiên cứu chưa từng nói đến việc lấy máu gót chân trẻ xét nhiệm xác định các bệnh di truyền ở trẻ sơ sinh.
+ Cuối cùng có tới 72,9% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản có chồng mong muốn nhà nước hỗ trợ toàn bộ kinh phí nếu họ được tham gia vào các chương trình SLTS và SLSS.
Khuyến nghị
- NKT là đối tượng chịu nhiều thiết thòi trong xã hội, là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nhất. Bản thân họ luôn thấy măc cảm vì những gánh nặng mà mình mang lại cho gia đình và xã hội. Đồng thời họ cũng luôn có tinh thần lạc quan, luôn mong muốn được giúp đỡ gia đình và những người xung quanh. Bằng những phân tích về tình trạng NKT Hà Tây thấy rằng không chỉ chính quyền mà còn cần rất nhiều nguồn lực xã hội nữa cùng chung tay giúp đỡ, tạo điều kiện để NKT hòa nhập một cách tốt nhất với cộng đồng.
- Song song với việc giảm thiểu tình trạng khuyết tật bằng các biện pháp làm giảm tỷ lệ khuyết tật do tai nạn và bệnh tật thì việc đẩy mạnh thực hiện chương trình SLTS và SLSS cũng cần đặc biệt quan tâm. Bước đi cụ thể trước mắt là tăng cường sự hiệu biết của phụ nữ về hiểu quả thiết thực mà chương trình SLTS và SLSS mang lại.
- Thực tế cho thấy rằng việc mở rộng thực hiện các chương trình SLTS và SLSS không chỉ đòi hỏi các đầu từ phát triển về kỹ thuật chuẩn đoán do ngành y tế thực hiện mà còn đòi hỏi có một hệ thống tuyên truyền vận động quản lý đối tượng. Việc kết hợp giữa tuyên truyền vận động đối tượng thông qua mạng lưới ủy ban DSGĐTE phối hợp với các dịch vụ kỹ thuật chuyên ngành của y tế là yếu tố đặc biệt quan trọng đảm bảo thành công của các chương trình sàng lọc bệnh tật trong cộng đồng.
Tài liệu tham khảo
Tiếng việt
1. Lương Thị Lan Anh (2003), “Nghiên cứu tần suất và bất thường nhiễm sắc thể của trẻ chậm phát triển tâm thần có tính gia đình tại một số vùng dân cư”, Luận văn Thạc sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
2. Trịnh Văn Bảo, Trần Thị Thanh Hương, Phan Thị Hoan, Nguyễn Văn Rực, Hoàng Thị Ngọc Lan, Hoàng Thu Lan, Nguyễn Thị Quỳnh Thơ (2007), Tư vấn di truyền – sàng lọc chẩn đoán trước sinh tại Bộ môn Y sinh học – Di truyền Đại học Y Hà Nội (2002 – 2007), Đại học Y Hà Nội.
3. Pearl S. Buck, USAID, KHGD (2004), Kỷ yếu hội nghị tổng kết dự án giáo dục hòa nhập trẻ khiếm thính, Hà Nội.
4. Bệnh viện Phụ sản Trung ương (2007), Đề án xây dựng và mở rộng hệ thống sàng lọc trước sinh và sàng lọc sơ sinh tại 12 tỉnh/thành phố phía bắc đến năm 2010, Bộ Y tế, Hà Nội.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Kỷ yếu mười năm thực hiện giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật việt nam, Hà Nội 5 - 2005.
6. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2006), Đề án trợ giúp người tàn tật giai đoạn 2006 - 2010, Hà Nội.
7. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Unicef (2000), Khảo sát khuyết tật trẻ em Việt Nam năm 1998, báo cáo cuối cùng, Hà Nội, tháng 1 năm 2000.
8. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Hội trợ giúp người tàn tật Việt Nam VNAH (2007), Tài liệu hướng dẫn xây dựng và triển khai đề án trợ giúp người tàn tật giai đoạn 2006-2010, Hà Nội 4 – 2007.
9. Bộ Y tế, Uỷ ban y tế Hà Lan – Việt Nam (2004), Nghiên cứu về hoạt động phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng tại Việt Nam từ 1987 đến 2004, Hà Nội.
10. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, USAID (2005), Hội thảo Xây dựng đề án quốc gia về vấn đề người tàn tật của Việt Nam, Hà Nội 4 – 2005.
11. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2003), Báo cáo điều tra đánh giá sơ bộ 5 năm thực hiện pháp lệnh về người tàn tật, Hà Nội.
12. Bộ Y Tế (2001), Chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khoẻ sinh sản trong giai đoạn 2001-2010, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
13. Bộ Y tế, Vụ khoa học và đào tạo (2008), “Di truyền y học”, Nxb Y học, Hà Nội.
14. Hoàng Đình Cầu và cs (1998), “Một số đặc điểm của các dị tật bẩm sinh do Dioxin AO gây nên trên trẻ em”, Tạp chí y học Việt Nam, số 3/1998, số chuyên đề.
15. Trần Danh Cường (2002), “Tổng kết tình hình dị dạng trên siêu âm 3D tại Viện BVBMTSS”, Báo cáo hội nghị điều trị Viện BVBMTSS, Đại học Y Hà Nội.
16. Đào Văn Dũng (2004), Thiết kế nghiên cứu hệ thống y tế, Nxb Y học, Hà Nội.
17. Đặng Lê Dung Hạnh (2003), Bài dịch “Tầm soát hội chứng 3 nhiễm sắc thể 21 bằng các chỉ điểm huyết thanh”, Tạp chí Phụ sản, Hội Phụ sản Việt Nam, số 2, tr 109 – 115.
18. Đặng Lê Dung Hạnh (2003), Tổng quan về chẩn đoán tiền sản, Tạp chí Phụ sản - Hội Phụ sản Việt Nam, số 2, tr 124 – 132.
19. Nguyễn Bảo Hồng (2007), Tập quán sử dụng y học cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe của người dao và người mường ở Hà Tây, Luận văn thạc sỹ khoa học, Trường Đại học Khoa học Tự Nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội.
20. Hội phục hồi chức năng Việt Nam (2001), Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học số 7, Nxb Y học, Hà Nội.
21. Hôi liên minh Na Uy (2004), Việt Nam báo cáo thường niên 2004.
22. Hội Nhi khoa Việt Nam (2005), “Báo cáo thực hiện chương trình sàng lọc sơ sinh ở Việt Nam”, Tổng Hội Y học Việt Nam.
23. Phạm Mạnh Hùng, Nguyễn Văn Tường (1998), Phương pháp nghiên cứu khoa học Y học, Trường Đại học Y Hà Nội, Nxb Y học, Hà Nội.
24. Trần Thị Thanh Hương và cs (2006), “Định lượng AFP, βhCG, uE3 trong huyết thanh mẹ để sàng lọc trước sinh những thai nhi dị tật bẩm sinh”, Tạp chí Nghiên cứu Y Học, Bộ Y tế, Hà Nội, số 40 (1), tr 31 – 35.
25. Nguyễn Kim Nga (2002), Mô hình bênh tật và tử vong sơ sinh tại Viện Nhi TW, Hội thảo “Nâng cao chất lượng chăm sóc sơ sinh”, Bộ Y tế, Hà Nội.
26. Nguyễn Thu Nhạn (2002), Sàng lọc sơ sinh – biện pháp để phát hiện sớm bệnh lý rối loạn nội tiết, chuyển hóa và di truyền, Tạp chí Nhi khoa, tập 10, Viện Nhi Quốc gia, Hà Nội, tr 35 – 42.
27. Nguyễn Thu Nhạn, Phạm Bá Nhất ( 2004), Đánh giá kết quả sàng lọc bệnh suy giáp trạng bẩm sinh ngay sau đẻ tại Hà Nội từ năm 2000 – 2003, Bệnh viện Nhi Trung ương, Hà Nội.
28. Lê Thanh Ni (1995), Hướng dẫn sử dụng phần mềm vi tính Epi Info Version 5.0, Nxb Trẻ, Hà Nội.
29. Nxb Chính trị Quốc gia (2001), Thập kỷ người khuyết tật khu vực Châu á - Thái Bình Dương 1993 – 2002, Hà Nội.
30. Nguyễn Nam Thắng (2004), “Tình hình sảy thai, thai chết lưu ở một số xã của tỉnh Thái Bình và đặc điểm nhiễm sắc thể của một số cặp vợ chồng sảy thai, thai chết lưu”, Luận văn Thạc sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
31. Nguyễn Thị Quỳnh Thơ (2004), “Nghiên cứu tình hình dị tật bẩm sinh và đặc điểm nhiễm sắc thể của người bị dị tật bẩm sinh ở một số địa điểm thuộc tỉnh Thái Bình”, Luận văn Thạc sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
32. Tổng cục thống kê (1999), Niên giám thống kê 1998, Nxb Thống kê, Hà Nội.
33. Tổng cục thống kê (2000), Niên giám thống kê 1999, Nxb Thống kê, Hà Nội.
34. Trung tâm Thông tin – Thống kê lao động và xã hội (2000), Số liệu thống kê lao động – thương binh và xã hội ở Việt Nam 1996 – 2000, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội.
35. Trung tâm chẩn đoán trước sinh (2007), Tài liệu hướng dẫn tuyên truyền, vận động trong chương trình sàng lọc trước sinh và sàng lọc sơ sinh, Bệnh viện Phụ sản Trung ương, Hà Nội.
36. Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em (2007), Tổng quan các kết quả nghiên cứu về chất lượng dân số Việt Nam đến năm 2006, Hà Nội.
37. Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em tỉnh Hà Tây (2007), Đề án nâng cao chất lượng dân số thông qua tuyên truyền vận động phát hiện, can thiệp sớm tật, bệnh ở thai nhi và sơ sinh giai đoạn 2007 – 2010, UBND tỉnh Hà Tây, Hà Tây.
38. Văn phòng Điều phối các hoạt động trợ giúp người tàn tật, Uỷ ban y tế Hà Lan – Việt Nam (2005), Chương trình hội thảo khái niệm tàn tật và phương pháp phân loại tàn tật quốc tế, Hà Nội 6 - 2005.
39. Nguyễn Thị Cẩm Vân, Nguyễn Phước Bảo Quân (2006), Chẩn đoán thai dị dạng qua siêu âm 3 – 4 chiều, Bệnh viện Trung ương Huế, TP. Huế.
40. Nguyễn Thị Diễm Vân, Lê Văn Điển (1996), “Tổng quan chọc rút nước ối”, Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, số đặc biệt, tr 2 – 8.
41. Viện nghiên cứu phát triển xã hội (2006), “Báo cáo về người khuyết tật Việt Nam”.
42. Nguyễn Đức Vy (2005), Mô hình dị tật bẩm sinh và giá trị chẩn đoán sớm thai dị dạng bằng siêu âm tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương trong ba năm 2001 – 2003, Tạp chí Nghiên cứu Y học, số 38 (5), Bộ Y tế, Hà Nội, tr 6 – 11.
Tiếng anh
43. Annablle Chan, Evelyn Roberston (1995), “The sensitivity of ultrasound and serum alpha-fetoprotein in population antenatal screening for neural tube defects”, South Australia 1986 – 1991, American journal of epidemiology, USA, vol. 158, pp. 69 - 75.
44. Aronson, R., Earich, R., Bailey (1990), Growth in children with congenital hypothyroidism detected by neonatal screening, Journal of Pediatric health care, Amsterdam, vol. 116, pp. 33 - 37.
45. Behrens O. et al (1999), “Efficacy of ultrasound screening in pregnancy”, Zentralbl Gynakol journal articles, New York, vol. 121(5), pp. 228 – 332.
46. Boyd P.A. et al (2000), “Evaluation of the prenatal diagnosis of neural tube defects by fetal ultrasonographic examination in different centers across Europe”, Journal of medical screening, vol. 7(4), pp.169 - 174.
47. M. Brault, S. Stern, D. Raglin (2006), Evaluation report covering disability, American community survey content test report P.4, pp. 2-124.
48. Clonn E.Palomaki et al, Maternal Serum Screening for DS in the US: a 1995 survey (1997), Am J Obstet Gynecol, vol. 176, pp. 1046 – 1051.
49. Dyson RL, Pretorius DH, Budorick NE, Johnson DD, Sklansky MS, Cantrell CJ, et al (2000), Threedimensional ultrasound in the evaluation of fetal anomalies, Ultrasound Obstet Gynecol, vol. 2000 Sep 16(4), pp.321 - 8.
50. ESCAP, Prospects for Persons with Disabilities in the Asia and the Pacific into the twenty – first Century, 1999, Bangkok, pp. 65 - 103.
51. FM Lai et al, Birth Prevalence of DS in Singapore from 1993 to 1998 (2002), Singapore Med J, vol. 43(2), pp. 70 – 76.
52. Gaxiola Castro R et al (1995), “Polyhydramnios and its relationship with congenital malformations: ultrasonographic diagnosis”, Gynecol Obstet Med, vol. 63, pp. 505 – 508.
53. Household Welfare and Vietnam’s Transition (1999), The World Bank, Washington DC.
54. IAEA (2005), Screening of newborns for Congenital hypothyroidism. Guidance for developing programmers, Vienna, Austria.
55. Japan Society for Rehabilitation of Persons with Disease (2003), The Asian and Pacific Decade of Disabled Persons, 2003 Mar, pp. 55 - 92.
56. Kane, Thomas T., Ph.D., Disability in Viet Nam in 1999: A Meta-Analysis of the Data, USAID, 1999 Oct.
57. Lindskog, Eva and Nguyen Xuan Hai (2002), On the Road to Education for All, Save the Children Sweden – Lessons Learnt from Inclusive Education in Viet Nam 1991-2002, National Political Publisher, pp. 3 - 46.
58. MOLISA, UNICEF (2004), Situational analysis on children with disabilities in Viet Nam, Labour and social publishing house, Ha Noi, pp. 12 - 81.
59. National coordinating council on disability (NCCD), Ministry of Labour – Invalids and Social affairs (MOLISA), Asia – Pacific Development center on disability (APCD) (2004), Country Report India, 2004 Dec, Ha Noi pp, 6 - 22.
60. National coordinating council on disability (NCCD), Ministry of Labour – Invalids and Social affairs (MOLISA), Asia – Pacific Development center on disability (APCD) (2004), Country Report China, 2004 Dec, Ha Noi, pp. 5 -30.
61. National coordinating council on disability (NCCD), Ministry of Labor – Invalids and Social affairs (MOLISA), Asia – Pacific Development center on disability (APCD) (2004), Country Report Australia, 2004 Dec, Ha Noi, pp. 3 – 21.
62. Peter M., Sergi T., Wolfgang H. (2002), Development in laboratory technique for prenatal diagnosis”, Prenat. Diagn., pp. 161 – 167.
63. Population and Development Review, The Population Council, Washington DC, 1998, 1999, 2000.
64. Review of Population and Social Policy (1998), No. 7, Tokyo, Japan.
65. Robert L.N., Roderick R.M., Huntington F.W. (2004), Genetic counseling and risk assessment, Genetic in medicine, pp. 375 – 389.
66. Smith, Anne (2001), Inclusion in Viet Nam: A decade of Implementation: a manuscript for the Journal of the association for Persons with Severe Handicaps, 2001 Dec, pp. 215 – 268.
67. United nations economic and social council (2002), Report of High Level Inter governmental Meeting to Conclude the Asia Pacific Decade of Disabled Persons, 2002 Oct, pp. 114 - 121.
68. Virtanen, M. (1988), Manifestion of congenital hypothyroidism during the first were of life, Journal of Pediatric health care, Amsterdam, vol. 147, pp. 270 - 274.
69. Wong SF et al (2002), “Routine ultrasound screening in diabetic pregnancies”, Ultrasound Obstet Gynecol, vol. 2002 Feb 19(2), pp. 171- 176.
70. WHO (1998), International Classification of Impairments, Disabilities and Handicap, pp. 11 - 16.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26484.doc