MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Địa danh là một bộ phận đặc biệt của từ vựng, có nguồn gốc và ý nghĩa riêng,
nằm trong đối tượng của bộ môn từ vựng học. Bên cạnh việc nhận biết, hiểu rõ
những đặc điểm ngôn ngữ trong các phương thức cấu tạo của hàng loạt tên gọi, địa
danh còn cung cấp nguồn tư liệu quý giá cho nhiều ngành khoa học khác như dân
tộc học, địa lý học, lịch sử học, khảo cổ học, văn hóa học Vì vậy, công việc
nghiên cứu địa danh có ý nghĩa và có giá trị rất lớn.
Giống như một “đài kỷ niệm”, nghiên cứu địa danh có thể giúp phác thảo
được bức tranh toàn cảnh về sự ra đời của một tộc người, một dân tộc; về sự giao
thoa, tiếp xúc, bảo lưu những giá trị lịch sử, văn hóa của một địa bàn trong những
giai đoạn, thời kỳ khác nhau. Không những góp phần phản ánh đời sống ngôn ngữ,
nghiên cứu địa danh còn phản ánh những biểu hiện của sự biến đổi và phát triển
tiếng Việt.
Địa danh ở Đồng Nai cũng mang những đặc điểm chung đó. Trên bước đường
hình thành và phát triển, vùng Đồng Nai đã sản sinh ra những tên đất, tên làng xóm
tạo thành một hệ thống địa danh phản ánh những nét đặc trưng của vùng đất “gian
lao mà anh dũng”. Theo quy luật tất yếu của cuộc sống, nhiều tên gọi vẫn tồn tại
bền vững mặc bao thăng trầm của lịch sử nhưng cũng có những địa danh ít được
nhắc tới hoặc bị trôi vào quên lãng. Quá trình khảo sát, sưu tầm, phân tích, giải
thích địa danh tỉnh Đồng Nai giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về lịch sử, văn hóa, địa
hình, những di tích, thắng cảnh của địa phương. Bên cạnh đó, nghiên cứu địa
danh tỉnh Đồng Nai còn nhằm bổ sung một phần tư liệu cho ngành địa danh học của
Việt Nam - vốn chưa có một công trình nghiên cứu về toàn bộ địa danh cả nước.
Sự phong phú, đa dạng của địa danh tỉnh Đồng Nai đã thu hút sự quan tâm
của khá nhiều người trong và ngoài tỉnh thể hiện qua nhiều công trình, bài viết khác
nhau. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu địa danh ở Đồng
Nai dưới góc độ ngôn ngữ. Dẫu biết rằng đây là một đề tài không đơn giản, còn
nhiều vấn đề lý luận phức tạp, nhiều ý kiến chưa thống nhất, nhưng với mong muốn
được thỏa mãn những thắc mắc bấy lâu nay về những cái tên rất gần gũi với nơi
mình sinh sống, và trên hết là góp một phần nhỏ nhoi về những tiền đề lý luận và
thực tiễn trong việc nghiên cứu địa danh nói chung, nên chúng tôi chọn đối tượng
này để nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Nghiên cứu địa danh ở Việt Nam
Ở nước ta, giai đoạn phôi thai, có một số bộ sách sử, địa chí ghi chép và giải
thích nhiều địa danh, nhưng chủ yếu chỉ giải thích địa danh ở góc độ địa lý - lịch sử
hay dưới một góc độ nào đó. Những tác phẩm nổi bật là Dư địa chí (soạn năm
1435) của Nguyễn Trãi, Đại Việt sử ký toàn thư (thế kỷ XV) của Ngô Sĩ Liên, Ô
châu cận lục (1553) của Dương Văn An, Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn,
Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (1806) của Lê Quang Định, Lịch triều hiến
chương loại chí (soạn trong 10 năm 1809 - 1819) của Phan Huy Chú, Gia Định
thành thông chí (1820) của Trịnh Hoài Đức, Đại Nam nhất thống chí (soạn xong
năm 1882) của Quốc sử quán triều Nguyễn, Nomenclature des communes du Tonkin
(classées par cantons, phu, huyen ou chau et par provinces) (Tự vựng làng xã ở Bắc
Kỳ) (1928) do Ngô Vĩ Liên biên soạn và cuốn Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX
(thuộc các tỉnh từ Nghệ An trở ra) do Dương Thị The và Phạm Thị Thoa dịch và
biên soạn (1981).
Có thể xem giai đoạn hình thành của địa danh học Việt Nam bắt đầu từ những
năm 60, khi mà các vấn đề liên quan đến địa danh và lý luận về địa danh đã được sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau như lịch sử, địa lý,
văn hóa, ngôn ngữ Tác giả Thái Văn Kiểm tiếp cận địa danh ở góc độ lịch sử -
văn hóa trong tác phẩm Đất Việt trời Nam (1960). Đào Duy Anh sử dụng phương
pháp nghiên cứu địa lý học lịch sử trong tác phẩm Đất nước Việt Nam qua các đời
(1964) đã xác lập, phân định lãnh thổ và từng khu vực, bàn về quá trình diên cách,
thay đổi địa danh trong lịch sử Người đầu tiên nghiên cứu địa danh dưới góc độ
ngôn ngữ học là Hoàng Thị Châu với bài Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông
Nam Á qua một vài tên sông (1964). Hai tác giả Trần Thanh Tâm trong bài Thử bàn
về địa danh Việt Nam (1976) và Nguyễn Văn Âu trong Một số vấn đề về địa danh
học ở Việt Nam (2000) đã nêu một số vấn đề cơ bản về địa danh và địa danh học
Việt Nam.
Ngoài những công trình trên, còn có thể kể đến những tác phẩm có liên quan
đến địa danh học như Đinh Văn Nhật với Phương pháp vận dụng địa danh học
trong nghiên cứu địa lý học, lịch sử cổ đại Việt Nam (1984); Sự hình thành và diễn
biến của các tên làng người Việt cho đến năm 1945 (1987) của Bùi Thiết; Nguyễn
Quang Ân với Việt Nam, những thay đổi địa danh và địa giới các đơn vị hành chính
1945-1997 (1997)
Nổi cộm nhất trong giai đoạn hình thành là sự xuất hiện của những luận án
nghiên cứu địa danh học ở Việt Nam xuất phát từ bình diện ngôn ngữ học và sự ra
đời của nhiều từ điển địa danh.
Với luận án Phó Tiến sĩ Những đặc điểm chính của địa danh ở thành phố Hồ
Chí Minh (1990) và sau đó in thành sách Nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu
địa danh (địa danh thành phố Hồ Chí Minh) (1991), tác giả Lê Trung Hoa đã trình
bày khá hệ thống những vấn đề về địa danh mang tính thiết thực bao gồm định
nghĩa địa danh, nguyên tắc, phân loại địa danh, phương thức đặt địa danh, cấu tạo
địa danh, ý nghĩa và nguồn gốc địa danh, giá trị phản ánh hiện thực.
Tác giả Nguyễn Kiên Trường đã vận dụng những lý luận cơ bản của địa danh
học hiện đại để hoàn thành luận án Phó Tiến sĩ Những đặc điểm chính của địa danh
Hải Phòng (sơ bộ so sánh với một số vùng khác) (1996). Luận án đưa ra cách phân
loại địa danh theo chức năng giao tiếp và hệ quy chiếu đồng đại - lịch đại, một nét
mới trong nghiên cứu địa danh.
Ngoài hai luận án trên, Lê Trung Hoa và Nguyễn Kiên Trường còn có hàng
loạt bài viết trình bày cụ thể về địa danh của một số địa phương khác hay những
khía cạnh khác trong nghiên cứu địa danh. Chẳng hạn như Lê Trung Hoa với Tìm
hiểu ý nghĩa và nguồn gốc một số thành tố chung trong địa danh Nam Bộ (1983),
Tìm hiểu ý nghĩa và nguồn gốc chung “Cái” trong địa danh Nam Bộ (1988), Địa
danh bằng chữ và địa danh bằng số (1999), Chung quanh thuật ngữ “địa danh”
(2000), Nghĩ về công việc của người nghiên cứu địa danh và biên soạn từ điển địa
danh (2000), Những nguyên nhân làm thay đổi và sai lệch một số địa danh Việt
Nam trong tiếng dân tộc (2002), Địa danh hành chính ở Việt Nam (2002), Địa danh
học Việt Nam (2006) Một số bài viết của Nguyễn Kiên Trường đó là Vài suy nghĩ
về việc khảo sát hệ thống tên riêng địa lý ở Việt Nam (1993), Tìm hiểu về địa danh
học (1994), Thử tìm hiểu sự bảo lưu tên Nôm làng xã dưới góc độ ngôn ngữ và văn
hóa (1994), Vài vấn đề liên quan đến công tác thống nhất hóa cách ghi địa danh ở
Việt Nam (1995), Địa danh biên giới Tây nam và những dữ liệu cơ bản để nghiên
cứu, hoạch định, xây dựng đường biên (1996)
Gần đây là hai luận án tiến sĩ của Từ Thu Mai Nghiên cứu địa danh Quảng Trị
(2003) và Những đặc điểm chính của địa danh Dak Lăk (2005) của Trần Văn Dũng;
cùng với hai luận văn thạc sĩ: Văn hóa qua địa danh Việt ở tỉnh Đồng Nai (2006)
của Võ Nữ Hạnh Trang, và Những đặc điểm chính của địa danh ở Vĩnh Long (sơ bộ
có so sánh với địa danh một số vùng khác) (2008) của Nguyễn Tấn Anh.
Bên cạnh đó là bốn cuốn từ điển địa danh đáng chú ý: Sổ tay địa danh Việt
Nam (1995) của Đinh Xuân Vịnh, Sổ tay địa danh Việt Nam (1998) của Nguyễn
Dược - Trung Hải, Từ điển bách khoa địa danh Hải Phòng (1998) do Ngô Đăng Lợi
chủ biên và Từ điển địa danh thành phố Sài Gòn - Hồ Chí Minh (2003) do Lê Trung
Hoa chủ biên.
Như vậy, tính đến thời điểm hiện nay, các công trình về địa danh học ở nước
ta đã xác lập được cơ sở lý luận, cũng như đối tượng và phương pháp nghiên cứu
địa danh.
2.2. Nghiên cứu địa danh ở Đồng Nai
Nhìn chung, các công trình viết về những địa danh ở Đồng Nai không nhiều.
Một số công trình thiên về việc giải thích những địa danh như cù lao Phố, Đồng
Nai Những địa danh khác cũng được nhắc đến nhưng còn sơ sài. Có thể kể ra một
số tác phẩm sau đây:
Cuốn sách xưa nhất đề cập đến địa danh ở Đồng Nai là Phủ biên tạp lục
(1776) của Lê Quý Đôn. Tác giả đã đồng nhất đất Đồng Nai với cả vùng Nam Bộ.
Tác phẩm thứ hai là Gia Định thành thông chí (1820) của Trịnh Hoài Đức đã giải
thích nguồn gốc địa danh núi Nữ Tăng (tục danh núi Thị Vãi ở Long Thành) và Đại
phố Châu (tục danh cù lao Phố ở Biên Hòa).
Năm 1875, Trương Vĩnh Ký trong Petit cours de géographie de la Basse
Cochinchine (Tiểu giáo trình địa lý Nam Kỳ) giới thiệu một số khái niệm lịch sử về
Nam Kỳ xưa. Trong đó, tác giả hệ thống hóa địa lý hành chính Nam Kỳ vào thế kỷ
XIX và đưa ra bảng so sánh giữa tục danh và tên chữ Hán của tỉnh Biên Hòa qua
các địa danh về hải khẩu, sông rạch, cù lao và núi non bên cạnh những tỉnh khác.
Đại Nam nhất thống chí (biên soạn xong năm 1882) của Quốc sử quán triều
Nguyễn cũng nhắc đến và giải thích một số địa danh của tỉnh Biên Hòa như tên núi
(núi Đất, núi Đỏ, núi Kí Sơn ), tên sông (sông Phước Long, sông Bối Diệp, sông
Thất Kỳ ), tên chợ (chợ Lộc Dã, chợ Bình Thảo, chợ Thiết Tượng ), tên cầu (cầu
Vạc, cầu Tân Bản, cầu Ván ). Còn Nguyễn Siêu trong Phương Đình dư địa chí
(1960) nêu lý giải mới về Biên Hòa.
Lương Văn Lựu qua tác phẩm Biên Hòa sử lược toàn biên (1960 - 1972) gồm
5 tập đã giới thiệu một cách khái quát lịch sử, địa lý, nhân vật ở tỉnh Đồng Nai từ
trước đến nay, trong đó tác giả có đưa ra và giải thích một số địa danh ở Đồng Nai.
Trong Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn - Biên Hòa (Đồng Nai, Sông Bé, Bà
Rịa, Vũng Tàu) (1994), Nguyễn Đình Đầu trình bày những thay đổi về địa danh
hành chính của tỉnh Đồng Nai (khi ấy còn gọi là trấn Biên Hòa, rồi đến tỉnh Biên
Hòa) từ năm 1808 đến năm 1994. Tác giả đã thống kê những địa danh làng bắt đầu
bằng những chữ như An, Bình, Chánh, Hưng, Long và giải thích ý nghĩa của
chúng.
Tại cuộc hội thảo “Biên Hòa 300 năm” (6/1997), hai tác giả Đỗ Quyên với bài
viết Danh xưng Đồng Nai trong Miền Đông Nam Bộ lịch sử và phát triển và Lê
Trung Hoa trong tham luận Nguồn gốc, ý nghĩa và quá trình phát triển của địa danh
Đồng Nai đã giải thích về xuất xứ và nguồn gốc của địa danh Đồng Nai khá thuyết
phục.
Vương Hồng Sển trong Tự vị tiếng Việt miền Nam (1993) nói đến khá nhiều
địa danh xưa ở Đồng Nai như núi Lò Thổi, rạch Nước Lộn, suối Đồng Heo và
giải thích một số tên gọi như rạch Đông, rạch Bà Ký, cù lao Phố
Một số công trình khác đề cập đến những địa danh ở Đồng Nai như Huỳnh
Ngọc Trảng với bài vè Các đường sông lục tỉnh (1998), Bùi Đức Tịnh với Lược
khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ (1999) Gần đây là cuốn Truyện kể về đất nước
và con người Đồng Nai (1996) của Nguyễn Yên Tri, Nhớ Biên Hòa (2005) của
Khôi Vũ, Biên Hòa sử lược diễn ca (2005) của Đinh Quang Dữa
Ngoài những công trình kể trên, còn có một số bài báo, hay sách địa chí cũng
đề cập đến địa danh ở Đồng Nai và một vài địa danh khác.
Như vậy, cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách
hệ thống về khía cạnh ngôn ngữ của địa danh tỉnh Đồng Nai. Hiện tại chỉ có công
trình nghiên cứu địa danh ở Đồng Nai về mặt văn hóa của tác giả Võ Nữ Hạnh
Trang (luận văn Thạc sĩ, 2006). Vì vậy, nghiên cứu địa danh tỉnh Đồng Nai về mặt
ngôn ngữ hiện nay là điều cần thiết phải làm.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là toàn bộ hệ thống địa danh tỉnh Đồng
Nai. Luận văn sẽ tập trung khảo sát tên gọi các đối tượng địa lý tồn tại trên địa bàn.
Cụ thể đó là địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên hay còn gọi là địa danh chỉ địa hình
(núi, đồi, gò, sông, rạch ), địa danh chỉ các công trình xây dựng (cầu, đường, bến
phà, bến đò, chợ ), địa danh hành chính (thành phố, thị trấn, thị xã, phường, xã,
ấp ), địa danh vùng (khu công nghiệp, giáo xứ ).
Về phạm vi nghiên cứu, luận văn chủ yếu mô tả, khảo sát những địa danh về
mặt ngôn ngữ trên diện đồng đại và bước đầu tìm hiểu về một số nguồn gốc và ý
nghĩa của địa danh thuộc vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn Đồng Nai.
4. Mục đích nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi tập trung tìm hiểu về phương thức đặt địa danh,
phương thức cấu tạo, những chuyển biến về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, cũng như một
số nguồn gốc, ý nghĩa của địa danh tỉnh Đồng Nai. Nội dung được trình bày một
mặt mô tả những địa danh thuần Việt, Hán Việt, địa danh dân tộc thiểu số và ngoại
lai nhằm minh họa thêm một số vấn đề có tính chất lý luận về địa danh học; một
mặt làm sáng rõ những giá trị phản ánh hiện thực của địa danh. Qua đó, thấy được
mối quan hệ giữa địa danh học với các ngành khoa học khác như địa lý học, khảo cổ
học, văn hóa học, nhân chủng học, xã hội học, dân tộc học
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thu thập và xử lý tư liệu
Thu thập tư liệu là công việc đầu tiên của người nghiên cứu địa danh. Tư liệu
chúng tôi thu thập được bao gồm nhiều nguồn tư liệu khác nhau.
5.1.1. Tư liệu lưu trữ hành chính từ trước đến nay của các tỉnh, thành phố,
huyện, xã, ấp Tư liệu này tồn tại dưới dạng các công báo, niên giám, tác phẩm,
hoặc có thể là văn bản đánh máy, viết tay của các viên chức địa phương còn lưu trữ
lại. Những tư liệu này có tính pháp lý, tính chính xác cao, có thể cho biết sự ra đời,
biến đổi hoặc mất đi của các địa danh, nhất là địa danh hành chính.
5.1.2. Bản đồ các loại về địa hình, hành chính, kinh tế, quân sự của tỉnh
Đồng Nai và các huyện thị trong tỉnh là tư liệu quý giúp cho việc xác định tọa độ, vị
trí, địa điểm của từng địa danh. Qua việc khảo sát bản đồ, chúng tôi phát hiện được
những loại địa danh nào xuất hiện nhiều ở địa bàn nào, từ đó xác định nguồn gốc, ý
nghĩa của từng nhóm địa danh đó. Việc đối chiếu các bản đồ qua từng thời điểm
khác nhau có thể giúp xác định được sự ra đời, chuyển biến của các địa danh về mặt
ngữ âm hay ngữ nghĩa. Có những địa danh cũ mất đi và có những địa danh mới xuất
hiện.
5.1.3. Các báo địa phương, sách địa phương chí về địa bàn, các bài báo viết về
địa phương, một số tác phẩm văn học viết về địa phương giúp người nghiên cứu
địa danh đỡ mất thì giờ trong việc tìm hiểu địa danh. Đây là những tư liệu do chính
người địa phương viết hay người am hiểu về địa phương thực hiện.
5.1.4. Các sách lý luận về địa danh học và ngôn ngữ học cũng như nguồn tư
liệu từ các loại từ điển khác nhau rất cần thiết cho việc nghiên cứu địa danh. Sách
viết về ngôn ngữ học và địa danh học ở trong và ngoài nước là những nguồn tư liệu
cơ bản, cần thiết để giúp người nghiên cứu xác định đúng hướng và ít tốn thời gian
trong công việc của mình. Còn các từ điển viết về địa danh, từ điển từ cổ, từ điển
phương ngữ giúp xác định được thời điểm và thời gian ra đời của các địa danh.
5.1.5. Tư liệu điền dã được người nghiên cứu quan sát, thu thập, ghi chép và
chọn lọc trong quá trình đi thực tế. Những tư liệu này phục vụ cho việc lập bảng
thống kê, phân loại từng nhóm địa danh và giúp giải thích nguồn gốc, ý nghĩa, thời
điểm ra đời cũng như những biến đổi của địa danh một cách chính xác.
5.2. Phương pháp thống kê, phân loại, miêu tả
Đây là phương pháp bắt buộc phải có khi bắt tay vào nghiên cứu địa danh và
cũng là phương pháp chủ yếu được vận dụng trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Dựa vào nguồn tư liệu đã được thu thập, chúng tôi tiến hành thống kê, phân loại và
miêu tả các địa danh để thấy rõ số lượng từng loại. Từ đó, có thể rút ra đặc điểm
riêng của từng loại và đặc điểm chung của địa danh toàn vùng. Chẳng hạn sau khi
thống kê, phân loại, chúng tôi chia địa danh thành các loại như địa danh chỉ địa
hình, địa danh chỉ công trình xây dựng, địa danh hành chính, địa danh thuần Việt,
địa danh Hán Việt Trên kết quả phân loại, tiếp theo người nghiên cứu sẽ miêu tả
những phương thức định danh, cách cấu tạo địa danh, những chuyển biến của nó.
5.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
5.3.1. So sánh, đối chiếu đồng đại
Phương pháp so sánh đối chiếu đồng đại là phương pháp tìm ra những nét
tương đồng và dị biệt của địa danh vùng này so với địa danh vùng khác. Chẳng hạn,
nếu như ở Vĩnh Long, yếu tố Cái xuất hiện nhiều trong địa danh thì ở Đồng Nai rất
khó tìm thấy địa danh mang yếu tố này (ngoại trừ hai di tích Cái Lăng và Cái Vạn
thuộc huyện Long Thành). Hoặc do sự khác biệt về địa lý mà Hải Phòng có nhiều
Đối tượng địa lý ở vùng biển và ven biển (như biển, bãi biển, cửa biển, đá ngầm,
cát, bán đảo ) nhưng lại có ít từ chỉ sông nước. Còn ở Đồng Nai, sông rạch là chủ
yếu, điển hình là con sông Đồng Nai lớn nhất tỉnh và vì vậy mà cũng có nhiều từ chỉ
sông nước hơn so với Hải Phòng (như sông, rạch, bàu, vàm, lòng tắt, hóc, tắt ).
5.3.2. So sánh, đối chiếu lịch đại
Sử dụng phương pháp này để xác định nguồn gốc và ý nghĩa ban đầu của địa
danh, tức là quan tâm đến mặt ngữ âm của tiếng Việt và quy luật biến đổi của nó
trong lịch sử. Tuy nhiên, ở phương pháp này, chúng tôi chỉ chú ý đối với một số đối
tượng nhất định nếu có cứ liệu cụ thể.
Địa danh vốn mang trong mình nhiều mặt khác nhau về ngôn ngữ, văn hóa,
lịch sử, xã hội vì vậy, nghiên cứu địa danh cần áp dụng phương pháp nghiên cứu
tổng hợp, liên ngành, đa ngành. Có như vậy, kết quả nghiên cứu mới đầy đủ, rõ ràng
và mang tính khoa học hơn.
6. Bố cục của luận văn
Luận văn chia làm ba phần. Ngoài phần dẫn luận và phần kết luận, phần chính
của luận văn có bốn chương:
Chương 1: Những tiền đề lý luận và thực tiễn
Chương 2: Cấu tạo địa danh tỉnh Đồng Nai
Chương 3: Đặc điểm về mặt chuyển biến
Chương 4: Nguồn gốc - ý nghĩa của một số địa danh ở Đồng Nai và giá trị
phản ánh hiện thực
250 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 4749 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu địa danh tỉnh Đồng Nai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Cửu.
Đây là tên một khu đồng trũng, rộng khoảng 3-4 hecta, quanh năm ngập nước,
có nhiều sen mọc chen với cỏ lác.
40. Sông Phố
Địa danh này thuộc thành phố Biên Hòa, do chính nhà văn Lý Văn Sâm đặt
75
Trong tác phẩm Chuyện người thổi sáo ở Bến Xuân, tác giả đã viết: “Khúc
sông Đồng Nai dài bốn cây số chảy ngang qua thành phố Biên Hòa được người địa
phương đặt tên là Sông Phố. Khúc sông khởi đầu từ cái đuôi Cồn Gáo thoai thoải và
chấm dứt ở cái mỏm nhọn Cù Lao Phố…” [124, tr.345]. Lý Văn Sâm đặt tên cho
khúc sông quê hương và sau đó lấy làm tên của nhóm văn chương Bình Trước.
Nay ở Biên Hòa, địa danh này còn lưu lại trong cái tên Câu Lạc Bộ Sông Phố.
41. Suối Tre
Khu du lịch Suối Tre thuộc thị xã Long Khánh.
Suối Tre hình thành từ những năm đầu thế kỷ 20, khi các tư bản người Pháp
sang Việt Nam lập đồn điền cao su. Họ khai thác và lập thành một khu nghỉ ngơi
giải trí. Cả khu vực này rộng trên hàng chục hecta, với nhiều đồi cỏ nhấp nhô bao
bọc con suối quanh co bên những bờ tre xanh ngắt [115, tr.147].
42. Tân Lân
Thôn xưa ở huyện Phước Chánh, dinh Trấn Biên. Tân Lân nghĩa là Xóm Mới.
43. Tân Phú
Đây là huyện của tỉnh Đồng Nai, diện tích 773,7km2, dân số 161.300 người
(2006), gồm thị trấn Tân Phú và 17 xã: Dak Lua, Nam Cát Tiên, Núi Tượng, Phú
An, Phú Bình, Phú Điền, Phú Lâm, Phú Lập, Phú Lộc, Phú Sơn, Phú Thanh, Phú
Thịnh, Phú Trung, Phú Xuân, Tà Lài, Thanh Sơn, Trà Cổ.
Tân Phú có nghĩa là giàu có và mới mẻ.
44. Thống Nhất
Huyện Thống Nhất có diện tích 247,2km2, dân số 142.600 người (2006), gồm
10 xã: Bàu Hàm 2, Gia Kiệm, Gia Tân 1, Gia Tân 2, Gia Tân 3, Hưng Lộc, Lộ 25,
Quang Trung, Xuân Thạnh, Xuân Thiện.
Thống Nhất là tên huyện được đặt sau năm 1975 để chỉ việc đất nước đã hợp
lại thành một khối, có chung một cơ cấu tổ chức, có sự điều hành chung.
76
45. Trời
Thác Trời là danh thắng thiên nhiên hùng vĩ của huyện Xuân Lộc. Người dân
nơi đây kể, xưa, có một nhóm người đi lạc trong rừng, nhiều ngày mò mẫm họ vẫn
không tìm thấy lối ra. Khi đến một con sông, họ mới nhìn thấy khoảng trời xanh
lồng lộng, xung quanh cảnh vật nên thơ, thác nước cuồn cuộn. Cái tên thác Trời
cũng bắt nguồn từ đó.
46. Vĩnh Cửu
Huyện Vĩnh Cửu có diện tích 1.092km2, dân số 98.600 người (2006), gồm thị
trấn Vĩnh An và 11 xã: Bình Hòa, Bình Lợi, Hiếu Liêm, Mã Đà, Phú Lý, Tân An,
Tân Bình, Thạnh Phú, Thiện Tân, Trị An, Vĩnh Tân.
Vĩnh Cửu là một từ Hán Việt có nghĩa là lâu dài.
47. Xuân Lộc
Huyện Xuân Lộc có diện tích 726,8km2, dân số 195.000 người (2006), gồm thị
trấn Gia Ray và 14 xã: Bảo Hòa, Lang Minh, Suối Cao, Suối Cát, Xuân Bắc, Xuân
Định, Xuân Hiệp, Xuân Hòa, Xuân Hưng, Xuân Phú, Xuân Tâm, Xuân Thành,
Xuân Thọ, Xuân Trường.
Xuân Lộc là lộc mùa xuân.
B. Địa danh còn đang tranh luận
1. Bằng Lăng
Một địa danh xưa của tỉnh Đồng Nai. Nhiều người đọc và viết chệch thành
Bàn Lân, Bàn Lăng, Bàng Lăng. Cái tên này có hai cách lý giải:
Thứ nhất, nhiều người cho rằng Bằng Lăng là tên một loại cây to, hoa màu tím
hồng, gỗ nâu vàng. Đây là loài cây bản địa, mọc rất nhiều trước đây trong vùng
Đồng Nai và Gia Định.
Thứ hai, Bằng Lăng là tên loại cây blaang (bonrbax malabarium) của người
Mạ - một loại cây gạo, gọi là cây gạo Malaba Ấn Độ. Loại cây này “đốn từ trong
77
rừng đem về trồng ở buôn làng để làm cọc hiến sinh (người ta buộc con trâu để giết
tế lễ vào đó); cây cọc này sẽ đâm rễ xanh tươi trở lại và đây là di tích chỉ báo sự
chiếm ngụ của con người trên vùng đất đã bị bỏ đi. Loại gạo mọc ở núi cao và cao
nguyên thường nhỏ thấp ở mức trung bình; ngược lại, cây gạo mọc ở bờ sông, triền
đất thung lũng phù sa ở miền hạ lại đạt đến kích thước cao lớn, nổi bật trên tầng cây
rừng xanh thẩm quanh nó” [11, tr.121].
2. Dầu Giây
Ngã ba, thuộc huyện Trảng Bom.
Có người cho rằng sỡ dĩ khu vực này có tên là “Dầu Giây” vì trước kia ở đây
có nhiều cây Dầu, trên thân của nó có nhiều dây leo chằng chịt.
Một cách lý giải khác về địa danh này là vào năm 1954 một số giáo dân theo
hai giáo phận Bùi Chu và Phát Diệm di cư vào khu vực miền Nam, đã an cư lạc
nghiệp ở nơi này, họ đem theo mình những tập tục, thói quen trồng cây trầu tại khu
mình sống. Vì thế ở đây xuất hiện rất nhiều cây trầu dây nhưng người Hà Nam Ninh
không nói được âm “tr” nên họ đọc thành “gi,d”, do vậy trầu dây đọc thành Dầu
Giây.
3. Đ
Chiến khu Đ thuộc huyện Vĩnh Cửu trong những năm đầu kháng chiến chống
Pháp (1945-1954).
Tuy chỉ có một chữ cái nhưng cũng chính vì thế mà địa danh này đã được
nhiều người giải thích theo lối phỏng đoán của cá nhân. Có bốn cách lý giải nguồn
gốc địa danh này: 1. Đ là mật danh chỉ vị trí Tổng hành dinh Khu 7 nằm trong hệ
thống các vị trí căn cứ được tính theo thứ tự các chữ cái A, B, C…Dần dần về sau
mật danh được dùng để chỉ cả chiến khu rộng lớn; 2. Đ là chữ viết tắt địa danh Đất
Cuốc; 3. Đ là chữ viết tắt của từ chỉ tổ chức cách mạng của chiến khu (chiến khu
Đỏ, chiến khu Đảng) để phân biệt với căn cứ một số ít lực lượng vũ trang không
78
cách mạng lúc bấy giờ. 4. Đ là chữ viết tắt của chiến khu Đồng Nai, chiến khu Miền
Đông, chiến khu Đầu Tiên.
Trong 4 cách giải thích trên thì theo chúng tôi có lẽ thuyết thứ nhất có tính
thuyết phục hơn cả.
Cuốn Lịch sử chiến khu Đ viết: Ngày 20 tháng 2, khu bộ Khu 7 họp hội nghị
bất thường tại Lạc An. Trong đó hội nghị có thảo luận những biện pháp nhằm xây
dựng địa bàn đứng chân, quy định các khu vực doanh trại, bố trí hệ thống phòng thủ
bảo đảm chiến đấu, ngăn chặn tiêu diệt địch và bảo vệ an toàn căn cứ. Sau hội nghị,
công tác xây dựng căn cứ bắt đấu được triển khai tương đối có hệ thống. Các cơ
quan, đơn vị, công xưởng … phân chia đóng từng khu vực. Mỗi khu vực đều có
nhiều phương án di chuyển địa điểm và mang một mật danh A, B, C, D. Khu bộ lập
một trung đội “bộ đội danh dự gương mẫu” làm nhiệm vụ nghi thức và lưu động tác
chiến bảo vệ các cơ quan trong khu. Từ đây, căn cứ Tổng hành dinh Khu 7 thường
được gọi là chiến khu Đ [33, tr.25-27].
Thật ra, chiến khu D được hình thành khởi đầu từ căn cứ của 5 xã: Tân Hòa,
Mỹ Lộc, Tân Tịch, Thường Lang, Lạc An (thuộc quận Tân Uyên, tỉnh Bình Dương)
trong những ngày cuối tháng 2 năm 1946, khi thực dân Pháp chiếm được quận lỵ
Tân Uyên, thành lập chi khu. Tổng hành dinh khu 7 và lực lượng vũ trang Biên
Hòa, Thủ Dầu Một rút sâu vào rừng. Công tác xây dựng căn cứ đã được đặt ra rất
cấp thiết, cụ thể. Được hội nghị chấp thuận, việc xây dựng căn cứ được triển khai có
hệ thống, các cơ quan, đơn vị, công xưởng… phân chia đóng từng khu vực. Mỗi
khu vực đều có nhiều phương án di chuyển địa điểm tránh sự đột kích của quân
Pháp và mang mật danh A, B, C, D (A là căn cứ giao thông liên lạc đóng ở Giáp
Lạc, B là căn cứ hậu cần đóng ở Thường Lang, C là khu bộ đội thường trực đóng ở
sở Ông Đội, D là khu Tổng hành dinh khu 7 đóng ở hố Ngãi Hoang). Từ đấy, chiến
khu D đã trở thành căn cứ địa của chiến khu 7 - một tổ chức hành chánh - quân sự
của các tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn, Bà Rịa và
79
thành phố Sài Gòn, do Trung tướng Nguyễn Bình được chỉ định làm khu trưởng và
Trần Xuân Độ làm chính trị ủy viên khu.
Như vậy, từ chữ D là mật danh, người ta đọc thành Đ theo cách đọc tiếng Pháp
và vì nghe thuận tai hơn. Chiến khu Đ còn gọi là chiến khu Đất Cuốc hay chiến khu
Lạc An bởi vì chiến khu được hình thành khởi đầu từ căn cứ của 5 xã thuộc quận
Tân Uyên trong đó có xã Lạc An. Đất Cuốc là cái nôi của chiến khu Đ, nơi bộ đội
Huỳnh Văn Nghệ khởi cứ đầu tiên, tập hợp lực lượng, mở trại huấn luyện ngay
trong ngày đầu kháng chiến. Tại đây có nhiều tên tuổi một thời gây chấn động đối
với giặc Pháp như Trần Văn Quỳ, Lê Văn Tôn, Huỳnh Luyễn... và nhiều tên tuổi
khác được phân ra hoạt động trên khắp chiến trường chiến khu Đ. Còn những cách
giải thích khác về chữ Đ như Đỏ, Đảng, Miền Đông, Đầu Tiên, Đồng Nai… nghe
cũng có lý nhưng không có tính thuyết phục cao.
Nói tóm lại, theo chúng tôi, Đ (đúng ra là D) là một mật danh chỉ vị trí Tổng
hành dinh khu 7 nằm trong hệ thống các vị trí căn cứ khác là A, B, C.
4. Định Quán
Huyện, có diện tích 966,5km2, dân số 199.600 người (2006), gồm thị trấn
Định Quán và 13 xã: Gia Canh, La Ngà, Ngọc Định, Phú Cường, Phú Hoà, Phú Lợi,
Phú Ngọc, Phú Tân, Phú Túc, Phú Vinh, Suối Nho, Thanh Sơn, Túc Trưng.
Định Quán vốn là tuần, còn gọi thủ Ba Can, được lập dưới thời Gia Long
(1802 - 1820) để thu thuế thủy trình.
Có giả thuyết cho rằng khi chúa Nguyễn đem quân vào Nam đã từng đóng
quân ở đây, nên gọi là “Định Quân”, về sau đọc trại ra “Định Quán”.
5. Đồng Nai
Địa danh Đồng Nai chỉ bốn đối tượng:
- Vùng đất ở miền Đông Nam Bộ. Tên này đã xuất hiện từ thế kỷ XVII.
80
- Sông dài 635km, bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên, chảy qua vùng Đồng
Nai, đổ ra cửa Soài Rạp. Người Kơ Ho gọi khúc đầu sông này là Đạ Đờng, nghĩa là
“sông lớn”. Đạ Đờng còn được phiên thành Dã Dương, Đa Dâng.
- Cầu, bắc qua sông Đồng Nai trên quốc lộ 1A.
- Tỉnh vốn là 3 tỉnh Biên Hoà, Long Khánh, Phước Tuy nhập lại năm 1976,
gồm thành phố Biên Hoà, thị xã Long Khánh và 9 huyện: Cẩm Mỹ, Định Quán,
Long Thành, Nhơn Trạch, Tân Phú, Thống Nhất, Trảng Bom, Vĩnh Cửu, Xuân Lộc.
Có nhiều ý kiến khác nhau về cách giải thích địa danh Đồng Nai.
* Đồng Nai có liên quan đến Đạ Đờng.
Đồng trong từ Đồng Nai là cách gọi biến âm từ chữ Đờng trong Đạ Đờng
(Sông Cái) của người Mạ; bởi vì rất nhiều tên gọi khác bắt nguồn từ chữ Đồng
(Đờng) mà không phải là cánh đồng: Đồng Tranh, Đồng Môn, Đồng Lách, Đồng
Tràm, Đồng Bơ... Và vùng này có nhiều nai nên người Việt mới gọi là Đồng Nai.
* Đồng Nai có liên quan đến Lộc Dã, Lộc Động.
Chợ Lộc Dã ở phía nam hạ lưu sông Phước Long (nay là sông Đồng Nai)
huyện Phước Chánh, vì trước kia là đồng nội lắm hươu nai nên gọi tên thế, hoặc gọi
là Lộc Động, tục gọi chợ Đồng Nai. Xét sáu tỉnh Gia Định mà gọi chung là Đồng
Nai, vì lúc mới khai thác, bắt đầu từ Đồng Nai nên lấy chỗ gốc mà bao trùm [89,
tr.67].
* Đồng Nai có liên quan đến danh từ Nông Nại.
Đồng Nai phiên âm thành Nông Nại mà người Hoa ở Cù Lao Phố phát âm từ
Giản Phố Trại dùng để chỉ Kambuja (trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài
Đức dùng âm Kambuja dịch thành Giản Phố Trại).
Thái Văn Kiểm cũng cho rằng: “Danh từ Nông Nại hoặc Đồng Nai là phần đất
trên đó đã thiết lập phủ Gia Định, nhưng theo nghĩa rộng thì danh từ ấy bao gồm
một xứ còn gọi là Lộc Dã hoặc là Lộc Đồng, có nghĩa là “cánh đồng có nhiều nai”
81
tức là vùng Biên Hòa bây giờ. Huyện Phước Long đã đặt tên cho con sông Phước
Long Giang, tức là tên chữ của sông Đồng Nai. Theo tôi, danh từ Nông Nại có lẽ
xưa hơn danh từ Đồng Nai. Rất có thể Nông Nại là một danh từ Chân Lạp, được
Việt âm hóa thành Đồng Nai, mặc dầu có người ước đoán rằng chữ Nông Nại có lẽ
do người Trung Hoa đọc sái hai chữ Đồng Nai mà ra. Ngày xưa, khi ta mới đặt chân
lên đất Nam Bộ, ta đã thoảng nghe những địa danh thổ âm rồi, cũng như Bà Rịa là
do chữ Bariya (theo nhà cổ học E.Aymonier), chữ Saigon hay Sài Côn là do chữ
Prei Kor (rừng gòn) của người Chân Lạp mà ra vậy” [65, tr.450-451].
Một cuốn sách khác viết: Vì sao có tên là Ðồng Nai? Sử sách ghi lại: Ðồng
Nai thoát thai từ hai tiếng Nông Nại - tức Chu Nại - nghĩa là đất Nai, là cánh đồng
có nhiều nai vàng. Ðó là một loài vật mảnh mai, thanh cao, luôn luôn ưỡn ngực
ngẩng cao đầu, luôn luôn bay lên phía trước với dáng vóc rực lửa, với cặp sừng tua
tủa như giáo, như gươm, như bút vẽ và đôi mắt lúc hiền dịu, mơ màng, êm ái như
nhung, khi rực rỡ như đuốc, như sao, lung linh, sắc sảo… Yên bình biết mấy xứ
Ðồng Nai xa xôi xưa - từng đàn nai vàng nhởn nhơ trên đồng cỏ xanh, xanh tận
chân trời… Có lẽ vẻ đẹp của nai vàng bên sông đã khiến cho những tên khác của
dòng sông này tuy cũng rất ấm cúng, gợi cảm như Lộc Giả, Phước Long, Hòa Quí,
Sa Hà nhưng qua sàng lọc của tháng năm, chỉ duy nhất hai tiếng Ðồng Nai còn sót
lại sau bao thế kỷ bão bùng” [129, tr.164].
* Đồng Nai là một từ thuần Việt, nghĩa là cánh đồng có nhiều nai sinh sống.
Cuốn Thơ văn Huỳnh Văn Nghệ ghi: “Hồi xưa…Ông bà mình từ ngoài Huế đi
vào khai phá rừng này. Lúc ấy chưa có đường xá gì đâu, chỉ có đồng hoang rừng
rậm. Họ đi lần theo chiều nước ròng của con sông này. Đi đến đâu thì phá rừng, lập
làng lập ấp đến đó. Sanh cư lập nghiệp mãi mới thành tỉnh Biên Hoà của mình đây
cũng như các tỉnh khác của xứ Nam Kỳ. Từ ngoài Huế vào đây có lẽ vì thấy vùng
này đồng rộng mà nhiều nai nhất nên ông bà mình đặt tên cho con sông này là sông
Đồng Nai. Biên Hoà ngày xưa còn có tên là Biên Hùng gồm luôn cả hai tỉnh Bà Rịa
và Thủ Dầu Một” [97, tr.16-17].
82
Mặc dầu có nhiều cách lý giải khác nhau về nguồn gốc của địa danh Đồng
Nai, tuy nhiên, chúng tôi đồng ý với quan điểm của hai tác giả Đỗ Quyên và Lê
Trung Hoa cho rằng Đồng Nai là cánh đồng có nhiều nai.
Hai tác giả Đỗ Quyên và Lê Trung Hoa khi nhận định về Đồng Nai, đã nhắc
tới Hang Nai, Nhà Nai, Hố Nai và Đồng Nai nhằm nhắc tới hình ảnh con Nai như là
một thứ TOTEM xuất phát từ những người đi khai phá, vì mãi cuối thế kỉ XVIII khi
các điền chủ, các quan Kinh lượt phụng mệnh chúa Nguyễn vào Nam kinh lượt mới
có danh từ Lộc Dã, Lộc Động.
Trong Những cánh đồng mộ chum ở Long Khánh, H.Fontaine đã dẫn lời của
giám mục Labbé trong bức thư gửi phái bộ thừa sai nước ngoài (10-1970 ):
"Khoảng năm 1670 đã có dân Cochinchine (người Bắc Việt, Giao Chỉ ghi chú của
tác giả) đến sinh cơ lập nghiệp ở một phần đất nào đó mà người ta gọi là Donnai
giáp ranh với các Vương quốc Khmer và Chămpa".
Ngoài ra tên Đồng Nai xuất hiện bằng chữ Quốc ngữ (Dou Nai) lần đầu tiên
trong một báo cáo của giáo hội Thiên Chúa giáo về tình hình giáo dân ở Nam Bộ
năm 1747. Sau đó địa danh Đồng Nai xuất hiện vừa bằng chữ Nôm, vừa bằng chữ
Quốc ngữ trong cuốn từ điển An Nam- Latinh của Pigneau de Béhaine năm 1772.
Về sau, Lê Quý Đôn (1776) Trịnh Hoài Đức (1820), Huỳnh Tịnh Của (1895 -
1896)... đều dùng tên gọi Đồng Nai trong tác phẩm (chữ Hán) của mình.
Như vậy danh từ Đồng Nai đã có trước khi Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh
lý đất Đồng Nai. Đồng Nai vốn có nghĩa là “cánh đồng có những con nai”, nên
Génibrel (trong Dictionnaire Annamite - Francais, 1898) dịch sang tiếng Pháp là
“Plaine aux Cerfs”. Khi dịch nghĩa địa danh này sang chữ Hán, các cụ dùng hai từ
Hán là Lộc Dã. Còn Nông Nại là phiên âm từ Đồng Nai mà theo Trịnh Hoài Đức
khi đi xứ sang Trung Hoa, thấy người Hoa dùng chữ Nông Nại Đại Phố để gọi Cù
Lao Phố. Khi vừa phiên âm vừa dịch nghĩa, người ta dùng hai chữ Lộc Động [54,
tr.85-86].
83
6. Ông Che
Hóc (góc núi) ở xã Hóa An, thành phố Biên Hòa.
Về cái tên Ông Che, theo truyền thuyết ông vốn tên Tươi, con ông Bùi Văn
Sầm, pháp danh Huệ Lâm, có công trừ yêu ma, sống trong một cái chòi che mưa
nắng nên gọi Ông Che.
Cuốn Đồng Nai di tích lịch sử văn hóa lại có đoạn: chùa Hóc Ông Che về sau
có tên là Hiển Lâm Sơn tự, cả tên gọi dân gian lẫn tên chữ Hán đều hàm chỉ là một
ngôi chùa ở chốn rừng sâu. Chùa do thiền sư Huệ Lâm (tục danh là Bùi Văn Tươi)
khai sơn tạo tự khoảng năm 1920. Thiền sư Huệ Lâm (1887 -1945) là con một pháp
sư danh tiếng ở vùng Hoá An - Biên Hoà, khi lớn lên thiền sư xuất gia làm đệ tử
hòa thượng Khánh Long ở chùa núi Châu Thới (nay thuộc tỉnh Bình Dương). Tục
truyền sau một thời gian tu học, Huệ Lâm được thầy rất quí mến truyền hết những
bí pháp và bảo Huệ Lâm đi về hóc rừng nọ lập chùa để hoằng hóa chúng sanh.
Thoạt đầu, ông che một cái chòi nhỏ để trú nắng mưa, có lẽ vì thế người ta gọi nơi
ấy là hóc có ông che chòi. Lại có người cho rằng, do đêm đêm người ta nghe tiếng
rừng thiêng lảnh lót như tiếng che ép mía nên gọi nơi đó là hóc Ông Che [111,
tr.211-212].
C. Địa danh là truyền thuyết, sự tích
1. Bạch Hổ
Hang, thuộc Định Quán, nằm dưới cụm núi Đá Voi
Tích truyền rằng, xưa kia, khi rừng rậm còn nhiều, có một cặp hổ trắng về ẩn
tại núi Đá Voi. Điều kỳ lạ là cặp chúa sơn lâm này không bắt người ăn thịt mà
thường xuống nghe kinh Phật ở chùa Thiện Chơn. Sau này rừng bị phá dần, lại thêm
chiến tranh, cặp hổ bỏ đi. Nhân dân cho là Hổ thần nên đặt tên hang là Bạch Hổ [8,
tr.326].
84
2. Bàu Phụng
Tương truyền đây nguyên là một Phượng Trì (xã Chánh Hưng), vì vùng ao to
rộng này, xưa có chim phượng tới tắm nước, rỉa lông (Phượng hoàng ẩm thủy). Vì
vậy, nhân dân đặt là Bàu Phụng (không phải là bà Phụng).
3. Chàng - Nàng
Thác Chàng và thác Nàng (còn gọi là thác Đôi) là hai dòng thác nằm trong khu
du lịch Giang Điền thuộc huyện Trảng Bom.
Theo các già làng trong vùng kể lại thì vùng đất này ngày xưa là nơi dân tộc
Mạ sinh sống. Ngày ấy có một đôi yêu nhau say đắm. Sau đó người con trai đi tòng
quân, người con gái ở nhà chờ đợi. Chờ quá lâu nhưng chàng mãi không trở về,
nàng đã khóc rất nhiều. Một ngày trời giông bão, người ta nghe thấy một tiếng sét
rất to. Sau đó, người ta thấy ngay chỗ cô gái ngồi xuất hiện hai dòng thác. Một dòng
thì chảy rất dữ dội và mạnh mẽ như tính cách người con trai nên đặt là thác Chàng,
một dòng thác thì chảy hiền lành và hiền hòa như tính cách của người con gái nên
người ta đặt tên là thác Nàng. Hai dòng thác này nằm cạnh nhau như mối tình thắm
thiết của đôi tình nhân.
4. Hòa Bình
Thác Hòa Bình (xã Phú Sơn - TP) gắn với huyền thoại của một tình yêu đẹp.
Tương truyền nơi rừng cây này xưa kia là nơi gặp gỡ của đôi trai gái yêu nhau,
nhưng vì do sự mâu thuẫn và do chiến tranh giữa hai bộ tộc, họ không thể đến với
nhau. Và mỗi lần gặp gỡ tại đây họ đã khóc, nước mắt của đôi trai gái này đã chảy
thành thác.
Nhân dân sau đó đã đặt tên thác là Hòa Bình với mong muốn là không còn
tình trạng chiến tranh xảy ra ở đây nữa.
5. Tham Mạng
Vàm (ngã ba sông) trên sông Đồng Nai, thuộc phường Tân Vạn, thành phố
Biên Hòa.
85
Theo Lương Văn Lựu [71, tr.293-297], quyển 2 thì Tham Mạng là “ham muốn
mạng người”, vì theo truyền thuyết, đây là nơi ba người chết oan, thường nổi sóng
lật ghe thuyền, làm nhiều người chết đuối.
6. Thủ Huồng
Rạch, và cầu Thủ Huồng thuộc thành phố Biên Hòa. Thủ Huồng tên thật là Võ
Thủ Hoằng, có công nạo vét con rạch và xây cầu. Dưới đây là sự tích về nhân vật
này được trích từ cuốn [129, tr.113-116].
Ngày xưa ở Gia Ðịnh có một người tên là Võ Thủ Hoằng dân chúng thường
gọi là Thủ Huồng, xuất thân làm thơ lại. Trong hai mươi năm luồn lọt trong các
nha, các ti, hắn đã làm cho bao nhiêu gia đình tan nát, bao nhiêu người bị oan uổng.
Nhờ đó, hắn đã vơ vét biết bao là tiền của. Vợ chết sớm, lại không có con cho nên
tiền bạc của hắn không biết tiêu đâu cho hết. Ngoài số chôn cất, hắn còn đem tiền
tậu ruộng làm nhà và cho vay lãi. Ruộng của hắn cò bay thẳng cánh, mỗi mùa thu
hoạch kể hàng ngàn dạ lúa. Khi thấy cuộc sống quá thừa thãi, hắn bèn thôi việc về
nhà, sống cuộc đời trưởng giả.
Một hôm có người mách cho Thủ Huồng biết chợ Mãnh Ma ở Quảng Yên là
chỗ người sống và người chết có thể gặp nhau vào nửa đêm ngày một tháng sáu
hàng năm. Thủ Huồng là người rất yêu vợ. Tuy vợ đã chết ngoài mười năm, nhưng
hắn vẫn không lúc nào quên. Hắn quyết đi tìm vợ nên giao nhà cửa lại cho người bà
con, rồi lên đường tìm ra Quảng Yên.
Khi gặp vợ, Thủ Huồng không dám hỏi vì thấy vợ ăn mặc rất đài các. Sau
cùng người đàn bà ấy cũng nhận ra được chồng. Vợ Thủ Huồng làm vú nuôi trong
cung vua, có một gian nhà riêng ở trong cung, cái ăn, cái mặc được cấp đủ. Thủ
Huồng muốn theo vợ xuống âm phủ chơi. Vợ đồng ý.
Qua mấy dặm đường tối mịt, chả mấy chốc đã đến cõi âm. Hắn rùng mình khi
lọt qua bao nhiêu cổng trước lúc vào trong Diêm đình. Ở mỗi cổng đều có một tên
qủi gác cổng, mặt mày gớm ghiếc, dữ tợn. Nhờ có vợ nên chỗ nào cũng lọt qua
được. Ðến một gian nhà thấp, vợ bảo chồng:
86
- Ðây là nhà bếp, đằng kia là nhà ngục, trước mặt là cung hoàng hậu chỗ tôi
túc trực ban ngày. Qua khỏi chỗ đấy là cung vua. Cứ ẩn tạm trong buồng vắng này
vì không thể lên buồng tôi trên kia được.
Chiều hôm đó, người vợ đi hầu hoàng hậu về, trao cho Thủ Huồng một tờ lịch
được phép đi xem mọi nơi trừ cung vua và hoàng hậu.
Hắn dạo quanh đây đó, rồi đến nhà ngục. Tiếng kêu khóc, tiếng thét la ở trong
ngục vang dội làm cho hắn bồn chồn. Qua mấy nơi quỷ sứ mổ bụng, móc mắt, cắt
tay, hắn thấy quả nơi đây là nơi trả báo những tội lỗi của con người ở trần thế, đúng
như lời đồn của người đời.
Sau cái bàn xẻo thịt là cả một kho gông. Trong đó có cái gông đặc biệt: nó vừa
to vừa dài làm bằng những thanh gỗ lớn. Thủ Huồng lân la hỏi người cai ngục thì
được biết những cái gông này dành cho những người làm điều ác ở trần gian. Hắn
hỏi tiếp:
- Thế cái gông to đó là của ai vậy?
Cai ngục giở cuốn sổ dày tra tên, và chỉ vào hàng chữ đọc: Võ Thủ Hoằng, tục
danh là Thủ Huồng, nguyên quán Ðại Nam Quốc, Gia Ðịnh tỉnh, Phúc Chánh
huyện.
Nghe nói đến tên mình, Thủ Huồng giật mình, mặt xám ngắt. Lát sau hắn lấy
được bình tình. Hắn hỏi tiếp:
- Hắn ở trần gian có tội gì?
Cai ngục nhìn vào trang sổ, và nói:
- Khi làm thơ lại, hắn bẻ mặt ra trái làm bao nhiêu việc oan nghiệt đến nỗi tội
ác hắn chép kín cả mấy trang giấy đây. Này nghe tôi đọc này: Năm Ất Sửu hắn sửa
hai chữ ngộ sát thành cố sát làm cho hai mẹ con Thị Nhàn bị chết để cho anh họ
chiếm đoạn gia tài. Việc này Thủ Huồng được mười nén vàng, mười nén bạc và một
trăm quan tiền. Cũng năm đó, hắn làm cho ông Ngô Lại ở thôn Bình Ca bị hai năm
87
tội đồ chỉ vì trong nhà có cái áo vàng để đoạt không của ông ta mười hai mẫu ruộng.
Năm…
Thủ Huồng sợ tái mặt, không ngờ nhứt nhứt mỗi việc từ nhỏ đến lớn của mình
trên trần gian, dưới này đều rõ mồn một. Thủ Huồng ngắt lời, hỏi lảng sang chuyện khác:
- Thế vợ hắn có đeo gông không hở ông?
- Ồ! Ai làm người nấy chịu chứ! Vợ hắn nghe đâu là người tốt, đã xuống đây rồi.
Thủ Huồng lại hỏi gặng:
- Ví như hắn muốn hối cải được không?
Cai ngục đáp:
- Ðã vay thì phải trả! Nếu hắn muốn thì phải đem những thứ của cải đã cướp
được đó bố thí cho hết đi.
Từ biệt cai ngục, với những nơi tra khảo tội nhân khủng khiếp, Thủ Huồng
không còn bụng dạ nào để đi xem nơi khác nữa. Vợ nghe chồng đòi về, lại đưa
chồng ra khỏi Diêm đình, và tiễn chồng đến cuối đoạn đường tối tăm mù mịt. Lúc
sắp chia tay hắn bảo vợ:
- Tôi về trang trải công nợ, có lẽ ba năm nữa tôi lại xuống. Mình nhớ lên đón
tôi nghe.
Về đến Gia Ðịnh, Thủ Huồng mạnh tay bố thí. Hắn tập hợp người nghèo khó
trong vùng lại, phát cho họ tiền, lúa. Hắn đem ruộng đất của mình cúng cho làng,
cho chùa, chia cho họ hàng thôn xóm. Hắn mời hết sư sãi các chùa quanh vùng tới
nhà mình cúng cơm, tốn kém kể tiền vạn.
Cứ như thế ba năm, Thủ Huồng tính ra đã phá tán được ba phần tư cơ nghiệp.
Nhớ lại lời hẹn, hắn lại khăn gói lên đường tìm đến chợ Mãnh Ma. Ở đây, hắn lại
nhờ vợ đưa xuống cõi âm một lần nữa.
Lần này, mục đích chính của Thủ Huồng là đến chỗ cũ xem lại các gông. Trở
lại nhà ngục, Thủ Huồng thấy quang cảnh vẫn như cũ. Lão cai ngục vẫn là lão cai
88
ngục ba năm về trước. Duy chỗ kho để gông thì có ít nhiều thay đổi. Bên cạnh
những cái còn nguyên hình như xưa, lại có những cái trước nhỏ nay lớn lên. Ðặc
biệt cái gông dành cho chính mình thì bây giờ teo lại nhiều, tuy còn to hơn cái gông
thường một tí. Thủ Huồng lân la hỏi cai ngục:
- Cái gông to để nơi này trước kia tôi nhớ hình như to lắm thì phải?
- Ðúng đấy, có lẽ gần đây trên dương thế, thằng cha ấy biết chuộc lỗi, nên nó
đã nhỏ lại. Nếu hắn gắng nữa, thì rồi sẽ có phúc lớn.
Thủ Huồng trở lại trần gian, và trở về Gia Ðịnh. Hắn lại tiếp tục bố thí. Lần
này, hắn bán tất cả những gì còn sót lại, kể cả ngôi nhà để ở. Hắn đến Biên Hòa
dựng một ngôi chùa lớn để cúng Phật. Rồi hắn xuôi sông Ðồng Nai để làm việc
nghĩa cuối cùng. Hồi đó, từ Ðồng Nai về Gia Ðịnh phải đi đường sông. Ngã ba sông
Ðồng Nai và sông Sài Gòn, lúc đó còn hoang vu, chưa có ai đến ở. Do vậy ghe
thuyền qua lại lỡ con nước phải dừng lại, nhưng ở đây không có quán xá, chợ búa
nên rất bất tiện.
Thủ Huồng quyết định ở lại đây. Hắn kết một cái bè lớn trên bè có dựng nhà,
có đủ chỗ nghỉ, có sẵn nồi niêu, đồ dùng, gạo củi và mắm muối. Những thứ ấy hắn
dùng để tiếp rước người qua lại, nhất là những người khốn khó lỡ đường. Hắn cho
họ trú tại bè của mình năm ba ngày, mà không nhận của ai một cắc bạc. Hắn làm
công việc đó mãi cho đến ngày hắn chết.
Ngày nay ở cù lao Phố (tỉnh Ðồng Nai) còn có một ngôi chùa tương truyền do
Thủ Huồng lập, mang tên là chùa Thủ Huồng. Con rạch chảy ngang qua đường Tân
Vạn vòng lên quốc lộ 1 do chính Thủ Huồng vét, nên gọi là rạch Thủ Huồng, chiếc
cầu đá trên đường gần sông Ðồng Nai - Tân An cũng được gọi là Thủ Huồng vì cầu
được chính ông ta bắc, và chỗ ngã ba sông Ðồng Nai và sông Sài Gòn được gọi là
sông Nhà Bè để ghi nhớ lòng tốt của Thủ Huồng đối với khách qua lại trên sông đó
(Nguyễn Hữu Hiếu sưu tầm).
89
7. Trị An
- Thác trên s. Đồng Nai, thuộc huyện Vĩnh Cửu. Tại đây có nhà máy thủy điện
công suất 360. 000kw, xây dựng trong các năm 1984 - 1988.
- Thị trấn của huyện Vĩnh Cửu.
Trị An là giữ gìn an ninh trật tự xã hội. Đây là ước vọng của nhà cầm quyền
và nhân dân vì thác này có tới bảy bậc rất nguy hiểm, có thể gây chết người. Bên
cạnh ý nghĩa đích thực này, còn có bốn truyền thuyết kể về những mối tình ngang
trái của các cặp tình nhân một cách hoang đường. Dưới đây, chúng tôi xin trích
đăng một trong bốn truyền thuyết trên.
Ngày xưa, ở vùng Ðồng Nai, có một bộ tộc du mục thuộc dân tộc Châu Mạ,
chuyên sống bằng nghề nương rẫy và săn bắt thú rừng. Ðứng đầu bộ tộc này là tù
trưởng Xora Ðin, tuy râu tóc đã bạc phơ, nhưng ông còn rất khỏe mạnh.
Xora Ðina là con trai lớn của tù trưởng Xora Ðin, được cha truyền nghề cung
ná từ nhỏ nên sớm trở thành tay thiện xạ. Trong một ngày, Xora Ðina có thể dễ
dàng hạ hai con hổ. Chàng còn có thể hạ được cả loài cá sấu hung dữ đã một thời
gây khủng khiếp ở vùng giáp Sông Bé và sông Ðồng Nai.
Lúc bấy giờ ở thượng nguồn sông Ðồng Nai có nàng Ðiểu Du là trưởng nữ của
tù trưởng Ðiểu Lôi, người Châu Ro. Ðiểu Du say mê tập tành phóng lao với chí
hướng nối nghiệp cha. Chính cô đã trừ được con voi một ngà hung dữ ở vùng Ðạt
Bo. Tiếng thơm bay xa. Tài thiện xạ của Xora Ðina gây được sự cảm mến trong
lòng Ðiểu Du. Và Xora Ðina cũng muốn được gặp mặt người con gái nổi tiếng về
tài phóng lao ở miền thượng lưu con sông.
Năm nọ, trời hạn hán. Các con suối lớn nhỏ đều khô cạn. Cả người lẫn thú đổ
xô ra sông tìm nước uống. Một hôm trời chuyển dông, mây đen chao đảo trên vòm
trời. Một chiếc xuồng độc mộc chở một thiếu nữ tất tả xuôi mau vào bờ. Bỗng một
con cá sấu từ dưới nước nổi lên và đuổi theo chiếc xuồng. Lập tức hai mũi lao từ tay
Ðiểu Du phóng nhanh về phía con cá sấu. Nó bị thương nên càng vùng vẫy lồng
90
lộn, há miệng định nuốt chửng cả chiếc xuồng và người con gái. Trong cơn nguy
hiểm, may sao thuyền của Xora Ðina vừa kịp xuất hiện. Nhanh như chớp, chàng
bắn liền hai phát tên. Cá sấu trúng tên chạy được một đoạn thì chìm nghỉm.
Xora Ðina và Ðiểu Du quen nhau từ đó. Họ trở thành đôi bạn xuôi ngược dòng
sông. Dần dần họ yêu nhau. Mối tình của hai người được Xora Ðina và Ðiểu Lôi
chấp thuận. Theo phong tục hồi đó, trước ngày cưới, Xora Ðina phải về ở rể bên
đàng gái. Xora Ðin cho con trai mình chiếc tù và căn dặn:
- Gặp trắc trở thì thổi tù và, sẽ có người đến giúp.
Xora Ðina lên con ngựa trắng tiến về miền thượng lưu. Ði một đoạn đường,
gặp con suối cạn, Xora Ðina phải dìu ngựa qua các gộp đá lổm chổm. Ðột nhiên từ
trên cây cổ thụ một con hổ xám phóng xuống ôm choàng lấy Xora Ðina.
Ðó là một gã đàn ông đội lốt hổ. Nó vừa đánh nhau với Xora Ðina vừa hăm
dọa:
- Thần Hổ đây! Tao sẽ giết mày vì mày có tội
Xora Ðina nào phải tay vừa… Thần hổ bị đánh gã, bèn xông tới toan cướp
ngựa. Con ngựa trắng hí lanh lảnh chồm lên dữ dội, thần hổ bị ngựa đá, phóng
nhanh vào rừng.
Ði thêm được một đồi ngắn, Xora Ðina đã thấy Ðiểu Du ra đón chàng ở bìa
rừng. Ðàng xa Ðiểu Lôi cũng vừa tới.
Nhân lúc ngồi nghỉ, Xora Ðina hỏi Ðiểu Du:
- Vùng này có hổ không em?
Ðiểu Du cười đáp:
- Thằng thầy mo Sang Mô đó. Nó bày trò hù dọa dân làng. Nó oán em lắm, vì
em không ưng nó.
Thấy bóng Sang Mô loáng thoáng gần đó, Xora Ðina lên tiếng:
- Mời anh Sang Mô đến uống rượu với chúng tôi.
91
Sang Mô đến, hắn trừng mắt nói với Xora Ðina:
- Anh là kẻ xa lạ, đến đây để làm gì?
Một lát, hắn nhìn Xora Ðina cười nham hiểm:
- Nghe nói anh nổi tiếng về tài thiện xạ. Vậy ta thách anh: nếu anh bắn trúng
cái lá trót trên cành cây ta đang cầm trong tay thì ta sẽ nhường Ðiểu Du cho anh.
Hắn bẻ một nhánh quýt rừng và giơ lên. Hắn vừa thách vừa lắc lắc bàn tay
khiến nhánh quýt run rẩy như gặp gió.
- Nào bắn đi!
Dừng một phút, Xora Ðina quát lớn:
- Thần hổ coi đây!
Sang Mô giật mình, ngừng tay. Xora Ðina bắn mũi tên xuyên qua chiếc lá
chót. Mọi người reo hò hoan hỉ.
Lễ cưới diễn ra trọng thể. Ðâm trâu, mời rượu, múa hát… Dân làng ca ngợi
đôi trai gái bằng tiếng hát và tiếng cồng chiêng vang dậy. Riêng Sang Mô tức tối,
kiếm cách trả thù.
Năm sau, Ðiểu Du sanh được một con trai. Ngày đứa bé ra đời, trời mưa tầm
tã, Sang Mô nhân đó tung tin: “Ðiểu Du sanh ra ma qủi, rồi sẽ có nạn mất mùa đói
kém!”
Do đồn nhảm, Sang Mô bị Ðiểu Du gọi đến quở phạt. Hắn càng oán giận.
Năm sau nữa, trong một chuyến đi săn chung với Ðiểu Lôi, Sang Mô đã sát hại viên
tù trưởng bằng một mũi tên bắn lén sau lưng. Rồi hắn cùng mươi tên phản loạn khác
kéo về suối Ðạt Bo để giết luôn vợ chồng Xora Ðina.
Canh hai đêm đó, ngôi nhà của vợ chồng Xora Ðina bỗng dưng bốc cháy.
Xora Ðina chỉ kịp thét lớn: “Có kẻ đốt nhà!”. Rồi ẵm con cùng Ðiểu Du thoát khỏi
vùng lửa.
92
Cuộc xô xát diễn ra ác liệt. Mãi lo che chở cho con, Xora Ðina bị thất thế. Còn
Ðiểu Du sau một lúc chống cự cũng bị bọn Sang Mô bắt. Xora Ðina xông tới cứu
vợ. Ðứa con tuột khỏi tay chàng văng xuống đất.
Bỗng một cánh bóng mảnh mai lao nhanh đến và ôm lấy thằng bé chạy thoát
vào rừng. Sang Mô gào lên:
- Ðuổi theo, trừ cho tiệt nòi!
Nhưng bóng con ngựa trắng của Xora Ðina chở Sang My trên lưng đã biến
mất trong rừng.
Cho dù em gái ta, cũng cứ bắn, tên bay vun vút. Sang Mô còn đốt cháy rừng
hòng ngăn cản em gái mình chạy thoát. Tức giận, Sang Mô nghiến răng trói chặt vợ
chồng Xora Ðina quăng xuống một chiếc xuồng có chất sẵn một thứ nhựa cây dễ
cháy, rồi thả xuồng trôi theo dòng nước chảy xiết. Sang Mô cho chèo xuồng rượt
theo và cứ nhắm vào xuồng của Xora Ðina mà buông những phát tên lửa. Ðến một
bậc đá, xuồng bị cản lại. Xora Ðina đã kịp tháo dây trói tay và rút tù ra thổi một hồi
dài.
Hàng trăm người ở miền hạ lưu nghe tiếng tù và liền đổ xô ra bờ sông, nhảy
qua những gộp đá, tiến tới chiếc xuồng đang bốc cháy ngùn ngụt. Mọi người ngậm
ngùi trước cái chết đau đớn của Xora Ðina và Ðiểu Du. Vừa lúc ấy con ngựa trắng
chở Sang My và đứa bé cũng chạy tới. Trên lưng Sang My có hai mũi tên cắm sâu.
nàng chỉ kịp trao đứa bé cho ông già Xora Ðin rồi ngã gục xuống ngựa. Xora Ðin
vuốt mắt cho Sang My.
- Ngàn đời ta tri ân nàng đã cứu cháu ta.
Còn con ngựa trắng thì ngước đầu nhìn ra phía ngọn lửa đang bốc cháy.
Không thấy chủ, nó hí lên một hồi dài buồn thảm rồi phóng mình xuống dòng thác
xoáy.
Trong khi đó bà con đã bắt trói Sang Mô và mười tên phản loạn đem nạp cho
Xora Ðin. Những tên nghe lời dụ dỗ mua chuộc của Sang Mô được Xora Ðin xóa
93
tội. Còn Sang Mô bị trói chặt vào chỗ nó gây ra tội ác. Tù trưởng Xora Ðin giương
ná và lắp một mũi tên ngắm vào Sang Mô. Mọi người hồi hộp chờ đợt. Bỗng ông hạ
ná và hô một tiếng “Pa” ngắn gọn, rồi quẳng ná xuống dòng thác.
Ông muốn cho đời sau hiểu rằng: Hố hận thù phải được lấp bằng. Mọi người
nên sống với nhau trong tình thương lớn. Vì lòng tri ân đối với Sang My, ông tha
chết cho Sang Mô. Sang Mô dập đầu lạy Xora Ðin rồi ôm xác Sang My bước xuống
xuồng, nước mắt lã chã.
Từ đó, người trong vùng gọi thác này là thác Tri Ân, sau đọc trại thành Trị An
[100, tr.314-320].
D. Nguồn gốc - ý nghĩa một số địa danh phân theo nhóm từ ngữ
1. Nhóm từ ngữ chỉ địa hình thiên nhiên
* Danh từ chung
Dốc: Chỗ đất lên cao. Dốc ở chỗ đỉnh cao của nó cũng là một vị trí để dánh
dấu trên một trục lộ [110, tr.25]. Ví dụ: dốc 47 (LT), dốc Ngô Quyền (BH), dốc
Kim Liên (VC)…
Đảo: Khoảng đất lớn có nước bao quanh, khoảng cách với đất liền tương đối
khá xa, ở sông, hồ, biển hoặc đại dương. Ví dụ: đảo Đồng Trường (VC), đảo Bà
Hào (VC)…
Đèo: Chỗ thấp, dễ vượt qua nhất trên đường giao thông đi qua các đỉnh núi
[85, tr.306]. Ví dụ: đèo Mẹ Bồng Con (TXLK), đèo Con Rắn (TXLK)…
Gò: Chỗ đất cao, hẹp hơn giồng về mặt diện tích nhưng có độ cao cao hơn. Ở
Nam Bộ, khoảng đất cao nổi lên giữa vùng đất ruộng, chỉ dùng làm mộ địa, được
gọi là gò. Một vùng đất cao hơn các chỗ khác trong cùng một giồng cũng gọi là gò
[110, tr.19]. Ví dụ: gò Dầu (LT), gò Ông Sảnh (BH), gò Dê (VC).
Hang: Khoảng trống sâu tự nhiên hay được đào vào trong lòng đất. Ví dụ:
hang Nai (NT), hang Dơi (TXLK), hang Bạch Hổ (ĐQ)…
94
Hòn: Chỉ đảo ở gần bờ biển hoặc một chỗ đất cao trong đất liền nhưng gần bờ
biển [110, tr.19]. Ví dụ: hòn Dĩa (ĐQ), hòn Sư Tử (ĐQ)…
Rừng: Vùng đất rộng có nhiều cây cối mọc lâu năm. Ví dụ: rừng Mã Đà
(VC), rừng Sác (NT), rừng Lá (XL)…
Vườn: Khu đất trồng trọt ổn định, thường có rào giậu, trồng các loại rau, quả,
cây cảnh, cây làm thuốc... cho nhu cầu gia đình, hay để bán sản phẩm hoặc cho nhu
cầu kinh tế văn hóa của một tập thể của cộng đồng quốc gia [140]. Ví dụ: vườn Ngô
(TB).
* Thành tố chung
Đồi: Dạng địa hình lồi, có sườn thoải, độ cao không cao quá 200 mét. Ví dụ:
ấp Đồi Rìu (TXLK), ấp Đồi Hai (XL), ấp Đồi Phước Khả (LT)…
Núi: Địa hình lồi, sườn dốc, nổi cao lên trên mặt đất, thường cao trên 200 mét
[85, tr.742]. Ví dụ: hồ Núi Le (XL), ấp Núi Đỏ (TXLK), ấp Núi Tung (TXLK), xã
Núi Tượng (TP)…
2. Nhóm từ ngữ có liên quan đến sông nước
* Danh từ chung
Hồ: nơi đất trũng chứa nước, thường là nước ngọt, tương đối rộng và sâu, nằm
trong đất liền. Ví dụ: hồ Long Ẩn (BH), hồ Phú Cường (ĐQ), hồ Trị An (VC)…
Thác: Chỗ dòng nước chảy vượt qua một vách đá cao nằm chắn ngang lòng
sông, suối rồi đổ mạnh xuống [85, tr.908]. Ví dụ: thác Đá Hàn (TN), thác Hòa Bình
(TB), thác Trời (TXLK)…
* Thành tố chung
Rạch: Do tiếng Khmer prêk chuyển thành, là nhánh tương đối lớn của một con
sông. Nói chung rạch nhỏ hơn sông và lớn hơn mương, xẻo. Đây là nơi ghe thuyền
có thể đi lại được. Theo Lê Trung Hoa, xét về ngữ âm, prêk có thể chuyển thành
rạch là vì tổ hợp phụ âm có âm lỏng r bị rụng phụ âm đầu chỉ còn r đã khá phổ
95
biến: drap - (tấm) ra, grève - (làm) reo… và vần êk có thể chuyển thành thành ach,
tương tự méc - mác, (cù) léc - nách, vêk mục (tiếng Khmer) - vạch mặt [50, tr.120].
Ví dụ: cầu Rạch Chiếc (LT), suối Rạch Đông (VC), chợ Rạch Đông (VC), ấp Rạch
Bảy (NT), …
Sông: Dòng nước tự nhiên có kích thước tương đối lớn, chảy thường xuyên
trên mặt đất, thuyền bè thường đi lại được, có nguồn cung cấp là nước từ khí quyển
trong phạm vi lưu vực của sông và chảy trong lòng sông. Ví dụ: hồ Sông Mây (TB),
xã Sông Thao (TB), xã Sông Trầu (TB), cầu sông Buông (LT)…
Suối: Dòng nước tự nhiên ở miền đồi núi, chảy thường xuyên hoặc theo mùa,
do nước mưa hoặc nước ngầm chảy ra ngoài mặt đất tạo nên [85, tr.874]. Ví dụ:
rạch Suối Cả (LT), hồ Suối Bí (TN), hồ Suối Vác (ĐQ), chợ Suối Son (ĐQ)…
3. Nhóm từ chỉ tên các công trình xây dựng
* Danh từ chung
Bến đò: Nơi tàu thuyền, xe cộ dừng lại để hành khách lên xuống, xếp dỡ hàng
hóa. Ví dụ: bến đò An Hảo (BH), bến đò Mỹ Quới (VC), bến đò Trạm (BH)…
Bến phà: Điểm bố trí ở bờ sông, nơi chưa có cầu vượt sông trên tuyến đường
bộ, dùng phà chở hành khách và phương tiện vận tải qua sông [127, tr.192]. Ví dụ:
bến phà 107 (ĐQ).
Bến xe: Nơi ở các điểm đầu mối và đầu tuyến xe khách liên tỉnh, có các công
trình phục vụ hành khách [85, tr.58]. Ví dụ: bến xe Biên Hòa (BH), bến xe Long
Thành (LT)…
Bùng binh: Nơi có nhiều ngả đường tỏa đi khắp hướng. Bùng binh bị nói
chệch thành bồn binh. Ban đầu, bùng binh được hiểu là khúc sông rộng lớn mà tròn,
ở đó ghe thuyền thường trở đầu lại. Từ “bùng binh” này sau chuyển thành từ chỉ
công trình xây dựng giữa giao lộ trong thành phố [50, tr.70]. Ví dụ: bùng binh Biên
Hùng (BH), bùng binh Tam Hiệp (BH), bùng binh Tân Phong (BH)…
96
Cảng: Nơi có những công trình xây dựng và trang thiết bị phục vụ cho tàu
thuyền cập bến, bốc dỡ hàng hóa, hành khách lên xuống, sửa chữa phương tiện vận
tải thủy, bảo quản hàng hóa và thực hiện các công việc khác phục vụ quá trình vận
chuyển đường thủy [127, tr.352]. Ví dụ: cảng Long Thành (LT), cảng Đồng Nai
(BH), cảng Phước Thái (LT)…
Chiến khu: căn cứ địa cách mạng, khu vực tác chiến rộng lớn có ý nghĩa
chiến lược trong thời kỳ chống ngoại xâm. Ví dụ: chiến khu Đ (VC), chiến khu
Bình Đa (BH)…
Chợ: Vị trí tập hợp nhiều người do nhu cầu mua và bán, nơi đó những người
mua bán tụ tập vào những thời gian nhất định, có một nhà chợ thường không đủ
rộng cho tất cả những người mua bán sử dụng và có những cửa hàng hoạt động
thường xuyên trong những căn nhà nhất định [110, tr.27-28]. Ví dụ: chợ Lò Bò
(BH), chợ Sặt (BH), chợ Tân Phong (BH), chợ Cây Me (TN)…
Công viên: Vườn chung, rộng lớn, trồng nhiều cây xanh và hoa, là nơi mọi
người có thể nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí. Ví dụ: công viên Biên Hùng (BH), công
viên Giồng Sắn (NT), công viên Hòa Bình (TXLK)…
Cống: Công trình ngầm hoặc lộ thiên để nước tự chảy qua, dùng vào việc lấy
nước, tháo nước hoặc điều tiết nước [85, tr.212]. Ví dụ: cống Chợ (TN), cống Lớn
(LT), cống Hộp (XL)…
Cư xá: Khu nhà tập thể, nhiều tầng. Ví dụ: cư xá 5 Tầng (BH), cư xá Phúc
Hải (BH)…
Chung cư: Nhà cao tầng để ở, được thiết kế theo kiểu có từng căn hộ riêng
biệt khép kín [85, tr.183]. Ví dụ: chung cư Thanh Bình…
Đập: Công trình thủy công bằng đất đá hoặc bê tông chắn ngang sông, suối
tạo ra độ chênh lệch mực nước trước và sau công trình để dâng cao mực nước. Ví
dụ: đập Bình Hòa (XL), đập Cây Chanh (LT), đập Cây Da (TN)…
97
Địa đạo: Hệ thống công trình phòng thủ được đào sâu trong lòng đất, gồm
một số đường hầm, nối liền các trận địa ở những hướng khác nhau, để trú ẩn và cơ
động chiến đấu. Trong địa đạo có dự trữ nước, lương thực, vũ khí và có nơi ăn ở,
sinh hoạt [127, tr.780]. Ví dụ: địa đạo Nhơn Trạch (NT), địa đạo Suối Linh (TB)…
Đường thủy: Đường đi trên mặt nước sông, biển, kênh, hồ, dùng cho tàu
thuyền (nói khái quát) [85, tr.359]. Ví dụ: đường thủy Đồng Nai, đường thủy Lô
Gia, đường thủy Lòng Tàu…
Ga: Gốc Pháp là gare. Đây là công trình kiến trúc làm nơi để hành khách lên
xuống các phương tiện giao thông và làm những thủ tục cần thiết. Tùy theo loại
phương tiện giao thông có ga đường sắt, ga hàng không… Ví dụ: ga Hố Nai (BH),
ga Trảng Táo (XL), ga Dầu Giây (TN)…
Hương Lộ: Đường nối các xã trong tỉnh. Ví dụ: hương lộ 2 (LT), hương lộ 19
(NT)…
Kênh (kinh): Công trình dẫn nước đào đắp hay xây trên mặt đất bằng phương
tiện cơ giới hoặc thủ công, phục vụ thủy lợi, giao thông: đào kênh dẫn nước vào
đồng [54, tr.184 - 185] (tập 1). Ví dụ: kênh Phước Hưng (LT), kênh Bửu Hòa (BH),
kênh Tập Đoàn 1+2 (LT)…
Lâm trường: Cơ sở sản xuất chuyên về nghề rừng [85, tr.551]. Ví dụ: lâm
trường Hiếu Liêm (VC), lâm trường Vĩnh An (VC), lâm trường Xuân Lộc (XL)…
Nông trường: Cơ sở sản xuất nông nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân, do
nhà nước tổ chức và trực tiếp quản lý [85, tr.740]. Ví dụ: nông trường Cẩm Mỹ
(CM), nông trường Cao Su Bình Sơn (LT), nông trường Tân Lộc (TN)…
Quốc lộ: Đường lớn liên tỉnh do chính phủ quản lý. Ví dụ: quốc lộ 20, quốc lộ
51, quố lộ 1A…
Sân bay: Khoảng đất rộng có tổ hợp các công trình, thiết bị chuyên dùng để
đảm bảo cho máy bay đỗ và lên xuống, bảo dưỡng… Ví dụ: sân bay Biên Hòa
(BH).
98
Sân vận động: Sân rộng xây dựng theo quy cách nhất định để tập luyện và thi
đấu, biểu diễn các hoạt động thể dục, thể thao. Ví dụ: sân vận động Đồng Nai (BH).
Thành cổ: Công trình xây đắp kiên cố bằng đất, đá, gạch và hào nước bố cục
theo nhiều kiểu dáng khác nhau phục vụ mục đích quân sự của các quốc gia hay các
địa phương thời cổ, thường bao quanh một khu vực dân cư trọng yếu (thủ đô, thành
phố lớn…) để phòng thủ. Ví dụ: thành Biên Hòa (BH).
Tỉnh lộ: Đường nối các huyện trong tỉnh do địa phương quản lý, phân biệt với
quốc lộ [85, tr.998]. Ví dụ: tỉnh lộ 16, tỉnh lộ 762, tỉnh lộ 769, tỉnh lộ Hiếu Liêm…
Trại giam: Nơi tập trung nhiều người đến ở trong một thời gian theo một yêu
cầu nhất định. Ví dụ: trại giam B5 (BH), trại giam K4 (TXLK)…
Trạm bơm: Tập hợp các công trình và các thiết bị bơm tạo thành. Trạm bơm
thông thường bố trí một số thiết bị bơm với khả năng đóng mở theo yêu cầu về lưu
lượng nước cần bơm. Trạm bơm cũng có thể gồm chỉ một thiết bị bơm đơn lẻ đặt
trên giá đỡ di động hoặc đặt trên phao có kèm theo thiết bị khởi động và điều chỉnh
chế độ công tác của tổ máy bơm.
Xa lộ: Đường hai chiều thật rộng, có tráng nhựa. Ví dụ: xa lộ Hà Nội (BH).
* Thành tố chung
Cầu: Công trình xây dựng bằng tre, bằng cây, bằng gạch hay bằng cốt sắt bắc
từ bên này qua bên kia ngang qua một con sông hay dòng suối hay một chỗ đất
trũng… để tiện đi lại. Ví dụ: suối Cầu Ba (XL), suối Cầu Vạc (LT), suối Cầu Mới
(LT), rạch Cầu Mít (LT)…
Lộ: Đường lớn. Tên lộ chủ yếu do dân gian đặt, còn tên đường được tạo ra bởi
nhà cầm quyền. Ví dụ: xã Lộ 25 (TN), ấp Lộ 25 (TN), ấp Lộ Đức (TB)…
99
4. Nhóm từ ngữ chỉ tên các đơn vị hành chính
* Danh từ chung
Ấp: Làng, xóm nhỏ được lập nên ở nơi mới khai khẩn [85, tr.19]. Ví dụ: ấp Ba
Buông (XL), ấp Bảo Vệ (TB), ấp Cầu Xéo (LT)…
Huyện: Đơn vị hành chính dưới tỉnh, gồm nhiều xã. Ví dụ: huyện Định Quán,
huyện Vĩnh Cửu, huyện Tân Phú…
Khu phố: Đơn vị hành chính tương đương cấp huyện, thành lập trong các
thành phố lớn, đông dân. Ví dụ: khu phố Bình Dương (BH), khu phố Phú Bình 1
(TXLK), khu phố Thái Hòa (BH)…
Phường: Đơn vị quản lý hành chính cấp cơ sở ở các thành phố, thị xã Việt
Nam hiện nay. Cấp phường có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Ví dụ:
phường Bửu Hòa (BH), phường Bình Đa (BH), phường Quang Vinh (BH)…
Thành phố: Khu vực tập trung dân cư với quy mô lớn, là trung tâm công
nghiệp, thương mại, dịch vụ, văn hóa, khoa học - công nghệ của một vùng, một địa
phương. Ví dụ: thành phố Biên Hòa.
Thị trấn: Khu vực tập trung dân cư, sinh hoạt chủ yếu là sản xuất thủ công
nghiệp, thương nghiệp, quy mô nhỏ hơn thị xã [85, tr.938]. Ví dụ: thị trấn Long
Giao (CM), thị trấn Vĩnh An (VC), thị trấn Trảng Bom (TB)…
Thị xã: Khu vực tập trung đông dân cư, sinh hoạt chủ yếu là sản xuất thủ công
nghiệp, thương nghiệp, quy mô nhỏ hơn thành phố nhưng lớn hơn thị trấn [85,
tr.939]. Ví dụ: thị xã Long Khánh.
Thôn: Điểm tụ cư của người dân ở vùng nông thôn, gồm nhiều xóm và là một
phần của làng hoặc xã. Ví dụ: thôn Ba (LT), thôn Hai (LT), thôn Mười Một (LT)…
Tiểu khu: Đơn vị hành chính cơ sở ở thành phố, dưới khu phố (quận); phường
[85, tr.992]. Ví dụ: tiểu khu Ba Mươi (ĐQ), tiểu khu Ba Mươi Sáu (ĐQ)…
100
Xã: Đơn vị hành chính cấp cơ sở ở nông thôn, gồm nhiều thôn, ấp, xóm. Ví
dụ: xã Phú Điền (TP), xã Hiệp Hòa (BH), xã Cẩm Đường (LT)…
5. Nhóm từ ngữ chỉ vùng
Giáo xứ: Đơn vị cơ sở của giáo hội Công giáo, dưới giáo hạt, do một linh mục
chánh xứ trông coi [85, tr.395]. Ví dụ: giáo xứ Đại An (VC), giáo xứ Tân Xuân
(TXLK), giáo xứ Vườn Ngô (TB)…
Khu công nghiệp: Nơi tập hợp các nhà máy chế biến tài nguyên và các sản
phẩm nông nghiệp thành tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Ví dụ: khu công
nghiệp Amata (BH), khu công nghiệp An Phước (LT), khu công nghiệp Hố Nai
(TB)…
6. Nhóm từ ngữ chỉ tên cây cỏ
Bàng: Tức cói, loại cỏ cao bộng ruột, mọc nhiều ở đồng ruộng, được giã dập
đan bao cà ròn, đệm, nóp. Ví dụ: cầu Rạch Bàng (NT).
Bom: Còn gọi là cây chùm bao, là loại dây leo mọc nhiều ở Nam Bộ. Ví dụ:
huyện Trảng Bom.
Bù cạp: Thứ cây tạp có bông giống như bông điệp, trái tròn dài, người ta dùng
nó để ăn trầu, vỏ nó dùng làm thuốc chống rét. Ví dụ: dốc Bù Cạp (LT).
Chà là: Cây thuộc loại cau, dừa, quả to bằng quả nhót, vị ngọt, ăn được. Ví
dụ: cầu Chà Là (NT).
Gáo: Có tên khoa học là sarcocephalus cordatus, cây thân gỗ hay mọc hoang
ở khe suối, chân đồi. Hoa màu vàng hoặc trắng vàng, phiến lá có dạng hình trái
xoan, cành tập trung ở phần ngọn, quả có vị chua. Ví dụ: xã Cây Gáo (TB), chợ Cây
Gáo (TB).
Lát: Cây gỗ to cùng họ với xoan, gốc có bành lớn, lá kép lông chim, hoa màu
vàng nhạt, gỗ có vân đẹp, thuộc loại gỗ quý [85, tr.547]. Ví dụ: bàu Lát (VC).
101
Le: Cây thuộc họ lúa, mọc ở rừng, thân nhỏ và cứng, có hình dạng giống cây
trúc [85, tr.557]. Ví dụ: núi Le (XL).
Môn: Cây cùng họ với ráy, lá to hình mũi tên, củ chứa nhiều tinh bột, dùng để
ăn [85, tr.504]. Ví dụ: núi Môn (XL).
Muồng: Tên khoa học là Cassia chi cây họ Vang (Caesalpiniacene) gồm 400
loài, chủ yếu là cây gỗ và cây bụi, một số là loài cây thân thảo. Hoa có nhiều màu
sắc khác nhau, từ trắng vàng đến đỏ… Ví dụ: suối Muồng (VC).
Trịnh Hoài Đức viết rằng: “Cây thiết tuyền (tục danh là muồng), lá nhỏ màu
xanh, sắc gỗ đỏ, bền cứng, có thể làm rường nhà, cột nhà. Trong lõi có lỗ hổng nhỏ,
trong lỗ có phấn vàng. Người Mọi dùng để bôi vết thương hay nhọt rất hay” [41,
tr.164].
Su: Có tên khoa học là carapa obovata. Cây rừng sác, giống cây ổi, xuống đất
lâu mục, gỗ mịn, vân gỗ đẹp như vân cẩm lai, có màu đỏ như gỗ đỏ và cây bên,
người ta hay dùng làm nọc, cừ [50, tr.60]. Ví dụ: suối Su (XL).
Cao su: Gốc Pháp là caoutchouc. Đây là loại cây công nghiệp nhiệt đới lâu
năm, họ thầu dầu, thân thẳng đứng, có nhiều mạch mủ trong lớp vỏ lụa, lá kép lông
chim có 3 lá chét. Cây có nguồn gốc ở lưu vực sông Amazon, từ cuối thế kỷ XIX,
được phát triển mạnh sang Đông Nam Á và Châu Phi nhiệt đới, trở thành cây công
nghiệp quan trọng, trồng nhiều nơi để lấy mủ chế biến cao su [127, tr.362-363]. Ví
dụ: nông trường Cao Su Cẩm Mỹ (CM), nông trường Cao Su Ông Quế (CM)…
Ngoài ra còn có các loại cây sau xuất hiện trong địa danh ở Đồng Nai, đó là:
cầy (ấp Cây Cầy - VC), dầu (chợ Cọ Dầu - CM), cam xe (khu Cam Xe - LT), trà my
(suối Trà My - ĐQ), mù u (cầu Mù U - NT), xoài (núi Xoài - ĐQ, ấp Cây Xoài -
VC), sung (kênh Cây Sung - LT), tre (rạch Suối Tre - LT, sông Tre - TB, ấp Bàu
Tre - LT), tràm (rạch Tràm - NT, cầu Đồng Tràm - BH), me (chợ Cây Me - TN, chợ
Láng Me - CM), trầu (sông Trầu - TB, xã suối Trầu - LT), đa (suối Cây Đa - CM,
ấp Cây Đa - XL), sung (suối Cây Sung - VC), quýt (suối Quýt - CM, chợ Suối Quýt
- LT), nho (suối Nho - TN, xã Suối Nho - ĐQ), sen (ấp Bàu Sen - XL), táo (ấp
102
Trảng Táo - XL), gòn (xã Hàng Gòn - TXLK, khu Hàng Gòn - LT), mít (ngã ba
Vườn Mít - BH, cầu Mít - NT), mít nài (ấp Mít Nài - ĐQ), dừa (cầu Rạch Dừa -
LT), bí (cầu Suối Bí - TN), chôm chôm (cầu Chôm Chôm - TB), trâm (ấp Bàu Trâm
- TXLK), sắn (ấp Bến Sắn - NT), dầu (ấp Cây Dầu - TP), điệp (ấp Cây Điệp - TB,
chợ Cây Điệp - TB), điều (ấp Cây Điều - TB).
7. Nhóm từ ngữ chỉ tên các động vật và bộ phận của động vật
Cá: Lớp động vật có xương sống ở nước, thân phủ nhiều vảy, hô hấp bằng
mang, bơi bằng vây. Cá ở trong địa danh Bến Cá là ở miền Tây, có hai loại nổi
tiếng là cá bay và cá linh. Ngoài ra còn có hàng chục loại cá nước ngọt sinh sống ở
miền sông này. Ví dụ: làng cổ Bến Cá (VC), ấp Bàu Cá (XL), rạch Cá (NT)…
Chồn: Thú ăn thịt sống ở rừng, hình dạng giống cầy nhưng mõm ngắn hơn,
mắt to, lông mềm, rậm, màu xám giống thân cây, sống ở vùng trung du, miền núi và
trong rừng. Ví dụ: suối Chồn (TXLK)
Cò: Chim có chân cao, cổ dài, mỏ nhọn, sống gần nước và ăn các động vật ở
dưới nước. Ví dụ: ấp Bến Cò (NT).
Cọp: Thú dữ lớn, lông màu vàng có vằn đen. Ví dụ: suối Cọp (VC).
Cựa gà: Nhánh sông trông như cựa con gà. Ví dụ: sông Cựa Gà Lầy (NT).
Le le: Chim sống ở nước, hình dạng giống vịt nhưng nhỏ hơn, mỏ nhọn [85,
tr.558]. Ví dụ: tắt Le Le (NT)
Nai: Thú lớn cùng họ với hươu, lông màu nâu sẫm, lông thưa ngắn, có 2 sừng,
mỗi sừng có 3 nhánh. Ở Việt Nam nai sống ở rừng rậm, có thể kiếm ăn ở ven làng
bản, chúng ăn lá non, chồi mềm, cây bụi, cỏ non, quả rừng rụng… Ví dụ: hố Nai
(BH), hang Nai (NT), sông Đồng Nai…
Ó: Chim thuộc loại diều hâu, thường gặp về mùa đông ở các sông hay ao hồ.
Ví dụ: đảo Ó (VC).
103
Sấu: Nói tắt từ “cá sấu”, là loài bò sát lớn ở nước. Đầu dẹt, bằng, mõm dài,
đuôi rất khỏe dẹt bên, hình bơi chèo, phủ các phiến sừng, da dày, mắt nằm cao. Cá
sấu là loài bò sát hung dữ, hoạt động về đêm, phân bố chủ yếu ở nhiệt đới, sống ở
sông hồ, ao đầm, số ít sống ở ven biển [140]. Ví dụ: bàu Sấu (TP), đập Suối Sấu
(TXLK)…
Vạc: Chim có chân cao, thuộc loại cò, thường đi ăn đêm, kêu rất to. Ví dụ: cầu
Vạc (LT), suối Cầu Vạc (LT).
Ngoài ra còn có những động vật sau: ngực (bàu Ngựa - ĐQ), vịt (cù lao Vịt -
VC), rắn (núi Con Rắn - CM), dơi (đồi Hang Dơi - TP), dê (đập Suối Dê Chạy -
VC), kênh kênh (hóc Kênh Kênh - TP), sư tử (hòn Sư Tử - ĐQ), voi (hòn Voi Phục
- ĐQ), le le (tắt Le Le - NT), rết (sông Rết - TB), cua (lòng tắt Cua - NT), nhạn
(sông Nhạn - LT), khỉ (cầu Khỉ - TN), heo (ngã ba Cua Heo - LK)…
104
PHỤ LỤC 3
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ ĐỊA DANH Ở ĐỒNG NAI
1. BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH ĐỒNG NAI
105
2. Đá Ba Chồng (Định Quán)
3. Cầu La Ngà (Định Quán) và rừng Nam Cát Tiên (Tân Phú)
106
4. Núi Chứa Chan (Xuân Lộc)
5. Khu du lịch Suối Tre (Long Khánh)
107
6. Thác Giang Điền (Trảng Bom)
7. Cảng Gò Dầu B (Long Thành)
108
8. Địa đạo Nhơn Trạch (Nhơn Trạch)
9. Khu du lịch Đồi Sơn Thủy (Cẩm Mỹ)
109
10. Bến đò Kho (Biên Hòa)
11. Giáo xứ Lộc Lâm (Biên Hòa)
110
12. Khu du lịch Làng Bưởi Tân Triều (Vĩnh Cửu)
13. Khu du lịch Cao Minh (Vĩnh Cửu)
111
14. Nông trường Cao Su Dầu Giây (Thống Nhất)
15. Giáo xứ Dốc Mơ (Thống Nhất)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVNNH010.pdf