Luận văn Nghiên cứu đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động doanh nghiệp bất động sản Việt Nam

CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU 1.1 BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU 1.1.1 Bối cảnh thực tiễn Trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2008, bất động sản (BĐS) là một trong những ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao qua hầu hết các chỉ tiêu thể hiện quy mô cũng như hiệu quả. Theo Tổng cục Thống kê (2010a), trong giai này tốc độ tăng trưởng bình quân về số lượng doanh nghiệp là 41,4%/năm, vốn kinh doanh là 36%/năm. Hầu hết các chỉ tiêu căn bản thể hiện quy mô và hiệu quả của doanh nghiệp ngành BĐS đều tăng với tốc độ cao hơn mức trung bình của các ngành kinh tế khác, chẳng hạn như tốc độ phát triển bình quân giai đoạn 2000*2008 của ngành BĐS cao hơn mức trung bình của các ngành kinh tế trong cả nước về số lượng doanh nghiệp là 20%, số lao động là 11%, nguồn vốn đầu tư là 15%, tài sản cố định là 6%, doanh thu thuần là 14%, lợi nhuận trước thuế là 182%, thuế và các khoản nộp ngân sách là 29% (Tổng cục Thống kê, 2010a). Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngành BĐS có tốc độ tăng trưởng cao hơn so với mức trung bình của cả nước, đặc biệt là chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh và tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cao hơn mức chung của cả nước lần lượt là 150% và 82% (Tổng cục Thống kê, 2010a). Tốc độ tăng trưởng cao là động lực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành lớn nhất cả nước, theo Tổng cục Thống kê (2010b) ngành BĐS thu hút 33,8% tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam trong năm 2009. Cũng giống như các ngành kinh tế khác ở Việt Nam, các giai đoạn phát triển của ngành BĐS phụ thuộc nhiều vào các giai đoạn cải cách thể chế của quốc gia. Xem xét các văn bản pháp luật hướng dẫn có liên quan, Đào Anh Kiệt (2010) chia quá trình phát triển thị trường BĐS Việt Nam làm ba giai đoạn là trước năm 1993, từ 1993*2003, và từ năm 2003 đến nay. Các đặc điểm và bối cảnh nền kinh tế của các giai đoạn trong quá trình phát triển thị trường BĐS Việt Nam được tóm tắt ở Bảng 1.1.Trải qua các giai đoạn hình thành và phát triển, đến nay ngành BĐS Việt Nam hình thành các sản phẩm kinh doanh đa dạng và thị trường đã hình thành nhiều dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động của ngành như dịch vụ tư vấn pháp lý, quỹ đầu tư, thẩm định giá trị BĐS. Tuy nhiên, ngành BĐS Việt Nam còn một số tồn tại xuất phát từ chính sách điều tiết của Chính phủ và hành vi của doanh nghiệp BĐS như sau: Đối với chính sách điều tiết thị trường BĐS của Chính phủ: Bảng 1.1 cho thấy các chính sách điều tiết của Chính phủ có tác động rất lớn đối với đặc trưng và sự phát triển của thị trường BĐS Việt Nam. Với tốc độ phát triển nhanh của thị trường BĐS đòi hỏi Chính phủ phải ban hành nhiều chính sách để điều tiết thị trường. Từ năm 2008 đến 2010, Chính phủ Việt Nam đã ban hành tổng số 49 văn bản luật và dưới luật để điều tiết thị trường BĐS Tuy nhiên, các chính sách ban hành (nói chung cho cả nền kinh tế, trong đó có ngành BĐS) ít dựa trên cơ sở liên kết giữa các chủ thể tham gia thị trường như doanh nghiệp, người tiêu dùng, các định chế tài chính và các cơ quan quản lý nhà nước lẫn nhau (Ohno, 2009; Porter & các cộng sự, 2010). Điều này hàm ý Chính phủ chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của các mạng lưới liên kết trong vấn đề hoạch định chính sách. Hệ quả là nhiều văn bản pháp luật ban hành còn rườm rà và chồng chéo (Porter & các cộng sự, 2010) . . . Đối với hành vi của doanh nghiệp bất động sản: Thứ nhất, trong công tác tìm kiếm quỹ đất phát triển dự án ưu thế nghiêng về các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước (Porter & các cộng sự, 2010). Điều này được nhiều chuyên gia (danh sách đính kèm phụ lục 2) giải thích một phần là do yếu tố lịch sử để lại vì nguồn gốc đất đai trong nền kinh tế phần lớn thuộc sở hữu quốc dân trước đây, hoặc là do các doanh nghiệp nhà nước được sự hỗ trợ từ các cơ quan quản lý nhà nước. Mặt khác, tính minh bạch của các thông tin trên các loại thị trường (trong đó có thị trường BĐS) ở Việt Nam hiện nay còn rất kém (Porter & các cộng sự, 2010), trong khi đó quỹ đất phát triển dự án chủ yếu được thực hiện theo quyết định giao đất của cơ quan quản lý nhà nước được phân công (Đào Anh Kiệt, 2010). Do vậy, việc lựa chọn doanh nghiệp để giao đất phát triển dự án phụ thuộc rất nhiều vào các mối quan hệ cá nhân của chủ doanh nghiệp với cá nhân lãnh đạo của cơ quan quản lý nhà nước. . . .

pdf139 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2125 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động doanh nghiệp bất động sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hư đối với  khách hàng, nhà  phân  phối,  nhà  cung  cấp,  đơn  vị  tư  vấn,  chính  quyền  các  cấp,  các  công  ty  trong  cùng tập đoàn có khả năng chuyển hóa các mối quan hệ này thành lợi ích cho doanh  nghiệp. Mục  tiêu  cụ  thể  và  tiêu  chí  đo  lường bao gồm:  (1) Lòng  trung  thành  của  khách hàng  cũ và phát  triển  thêm khách hàng mới  thông qua kênh khách hàng  cũ  giới  thiệu,  được đo  lường bằng  các  tiêu  chí  số  lần khách hàng  cũ mua  hàng bình  quân,  số  khách  hàng mới  mua  hàng  do  khách  hàng  cũ  giới  thiệu  bình  quân;  (2)  Lòng trung thành của nhà phân phối cũ và phát triển thêm nhà phân phối mới, được  cụ thể bằng các chỉ tiêu đo lường là số sản phẩm đuợc nhà phân phối cũ bán, số nhà  phân phối mới, số lượng chính sách ban hành duy  trì hệ  thống phân phối; (3) Nhà  cung cấp chấp nhận bán chịu và giao hàng đạt chất lượng và đúng tiến độ, được cụ  thể bằng các tiêu chí đo lường là thời gian bán chịu bình quân, tỷ lệ giao hàng chậm  tiến độ, tỷ lệ giao hàng không đạt chất lượng; (4) Chất  lượng của tư vấn, được cụ  thể bằng  các  tiêu  chí  đo  lường  là  số đề  xuất  tư vấn  có giá  trị  được  sử  dụng bình  quân;  (5) Nhận được  sự  giúp đỡ và ưu  tiên  từ  chính quyền  các  cấp,  được  cụ  thể  bằng các chỉ tiêu đo lường là số thông tin có giá trị được thông báo kịp thời, số lần  ưu đãi  từ chính quyền bình quân;  (6) Nhận được sự giúp đỡ  từ các  công  ty  trong 115  cùng  tập đoàn, được cụ thể bằng các tiêu chí đo lường là số lần nhận được sự  trợ  giúp bình quân.  Bảng 6.2: Mục tiêu, đo lường vốn xã hội của doanh nghiệp bất động sản  Các khía  cạnh  Mục tiêu  tổng quát  Mục tiêu cụ thể  Đo lường  Mạng  lưới  của  lãnh đạo  Liên  tục  duy  trì  và  tăng  chất  lượng  các mối  quan  hệ  của  lãnh  đạo để hỗ trợ  cho công việc  điều  hành  doanh nghiệp  Thông  tin  được  chia  sẻ  và  sự giúp đỡ từ dòng họ.  Số thông tin và số lần nhận được sự  giúp đỡ từ dòng họ bình quân.  Thông  tin  được  chia  sẻ  và  sự giúp đỡ từ bạn bè.  Số thông tin và số lần nhận được sự  giúp đỡ từ bạn bè bình quân.  Thông  tin  được  chia  sẻ  và  sự giúp đỡ từ đối tác.  Số thông tin và số lần nhận được sự  giúp đỡ từ đối tác bình quân.  Thông  tin  được  chia  sẻ  và  sự giúp đỡ từ chính quyền.  Số thông tin và số lần nhận được sự  giúp đỡ từ chính quyền bình quân.  Thông  tin  được  chia  sẻ  và  sự giúp đỡ từ đồng nghiệp.  Số thông tin và số lần nhận được sự  giúp đỡ bình quân từ chính quyền.  Mạng  lưới  bên  ngoài  Liên  tục  duy  trì  và  tăng  chất  lượng  các mối  quan  hệ  bên  ngoài  doanh nghiệp  Lòng trung thành của khách  hàng cũ và phát  triển  thêm  khách  hàng mới  thông  qua  kênh  khách  hàng  cũ  giới  thiệu.  Số  lần  khách  hàng  cũ  mua  hàng  bình quân;  Số  khách  hàng  mới  mua  hàng  do  khách hàng cũ giới thiệu bình quân.  Lòng  trung  thành  của  nhà  phân  phối  cũ  và  phát  triển  thêm  nhà  phân  phối  mới  thông  qua  kênh  nhà  phân  phối cũ giới thiệu.  Số sản phẩm đuợc nhà phân phối cũ  bán;  Số  nhà  phân  phối  mới  đăng  ký  do  nhà phân phối cũ giới thiệu;  Số  lượng  chính  sách ban hành duy  trì hệ thống phân phối.  Nhà  cung  cấp  chấp  nhận  bán  chịu  và  giao  hàng  đạt  chất lượng và đúng tiến độ.  Thời gian bán chịu bình quân;  Tỷ lệ giao hàng chậm tiến độ;  Tỷ  lệ  giao  hàng  không  đạt  chất  lượng.  Chất lượng của tư vấn.  Số đề xuất tư vấn có giá trị được sử  dụng bình quân.  Nhận  được  sự  giúp  đỡ,  ưu  tiên từ chính quyền các cấp.  Số  thông  tin  có  giá  trị  được  thông  báo kịp thời; Số lần ưu đãi từ chính  quyền bình quân.  Nhận  được  sự  giúp  đỡ  từ  các  công  ty  trong  cùng  tập  đoàn.  Số  lần  nhận  được  sự  trợ  giúp  bình  quân.  Sự  hợp  tác  bên  trong  Liên  tục  tạo  ra cơ chế hợp  tác  hiệu  quả  và  gia  tăng  giá  trị  từ  sự  hợp  tác  bên  trong.  Cơ  chế  tạo  ra  và  giám  sát  hợp tác cá  nhân hiệu quả.  Số  kiến  thức  mới  bình  quân  được  cập nhật mới trong tổ chức;  Mức  độ  tin  tưởng  và  chia  sẻ  giữa  các cá nhân;  Số lần xung đột giữa cá nhân.  Cơ  chế  tạo  ra  và  giám  sát  hợp tác cá  nhân hiệu quả.  Thời  gian  thực  hiện  bình  quân  của  từng quy trình.  Nguồn: Đề xuất của tác giả từ kết quả nghiên cứu. 116  Nhóm thứ ba là đối với mục tiêu chiến lược của sự hợp tác bên trong doanh  nghiệp. Mục tiêu tổng quát của nhóm này là liên tục tạo ra cơ chế hợp tác hiệu quả  và gia tăng giá trị từ sự hợp tác giữa các cá nhân, các bộ phận chức năng lẫn nhau  trong một tổ chức. Mục tiêu cụ thể và tiêu chí đo lường bao gồm: (1) Cơ chế tạo ra  và giám sát hợp tác cá nhân hiệu quả, được cụ thể bằng các chỉ tiêu đo lường là số  kiến thức mới bình quân được cập nhật mới trong tổ chức, mức độ tin tưởng và chia  sẻ giữa các cá nhân, số lần xung đột giữa cá nhân trong tổ chức; (2) Cơ chế tạo ra và  giám sát hợp tác cá nhân hiệu quả, được cụ thể bằng  các  tiêu chí đo  lường  là thời  gian thực hiện bình quân của từng quy trình công việc  Để chiến  lược phát  triển vốn xã hội phục vụ cho  các hoạt động  của  doanh  nghiệp BĐS được  thành  công,  cần phải  nuôi  dưỡng  và phát  triển  vốn xã  hội  của  doanh nghiệp. Để làm được điều này, luận án đề nghị nhóm gợi ý thứ tư, thứ năm  và thứ sáu như sau:  Nhóm gợi  ý  thứ tư: Tạo  lập,  duy  trì, phát  triển và sử dụng vốn xã hội của  lãnh đạo doanh nghiệp.  Như phân tích ở trên vốn xã hội của lãnh đạo là thành phần đạt giá trị hội tụ  để đo lường khái niệm vốn xã hội của doanh nghiệp, mà vốn xã hội thì ảnh hưởng  có ý nghĩa đến các họat động kinh doanh. Nghĩa là vốn xã hội của lãnh đạo cũng có  ảnh hưởng đến hầu hết hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra doanh nghiệp BĐS.  Vốn  xã  hội  lãnh đạo  bao  gồm  chất  lượng  các  mối  quan  hệ  của  lãnh đạo  với  các  mạng lưới cá nhân như dòng họ, bạn bè, đối tác kinh doanh, chính quyền và đồng  nghiệp. Điều này hàm ý rằng muốn nuôi dưỡng và phát triển vốn xã hội lãnh đạo thì  phải nuôi dưỡng và phát  triển chất  lượng quan hệ của  lãnh đạo với các mạng lưới  này, theo các gợi ý như sau:  Thứ nhất, cần phải tạo lập và duy trì các mối quan hệ với những người thân  trong dòng họ và bạn bè. Để làm được điều này trước hết cá nhân lãnh đạo phải biết  thực hiện cân bằng trong cuộc sống, giành thời gian thăm viếng, tin tưởng và nhiệt  tình giúp đỡ người trong dòng họ và bạn bè. Các mối quan hệ cá nhân là nơi bày tỏ  những căng thẳng trong công việc, điều này góp phần làm tăng chất lượng cho cuộc 117  sống, qua đó sẽ khởi nguồn cho các ý tưởng kinh doanh, cũng như vượt qua và giải  quyết các vấn đề khó khăn trong công việc. Hơn nữa các mối liên hệ cá nhân có thể  nhận được  sự  giúp đỡ vật  chất  hoặc  tinh  thần để  lãnh đạo  thực hiện  tốt  các  hoạt  động của doanh nghiệp.  Thứ hai, tạo lập và duy trì mối quan hệ cá nhân giữa lãnh đạo với các đối tác  kinh doanh và chính quyền các cấp. Để làm được điều này, lãnh đạo doanh nghiệp  phải xem đối tác và cá nhân ở các tổ chức chính quyền như những người bạn, phải  thường xuyên liên lạc, thăm hỏi, gặp gỡ và giúp đỡ với tư cách cá nhân để tạo dựng  lòng  tin. Bởi vì thiết lập mối quan hệ với  chủ thể này sẽ giúp giải quyết các công  việc thuận lợi, cũng như tạo cơ hội tiếp cận dự án tốt và thiết lập hệ thống bán hàng  hiệu quả.  Thứ ba, tạo lập và duy trì các mối quan hệ với các cá nhân là cấp dưới trong  công  ty  cũng như các  cá nhân  trong cùng  tập đoàn. Thiết  lập mối quan hệ  tốt  với  cấp dưới để tạo uy  tín, lòng tin và động lực để phát huy  tối đa năng suất lao động  của nguồn nhân  lực  trong  công  ty;  thiết  lập mối quan hệ với  cá nhân  của  công  ty  khác trong cùng tập đoàn để tranh thủ sự ủng hộ. Để tạo lập và duy trì các mối quan  hệ này, cần phải hành xử đúng các quy định và văn hóa của công ty, nhiệt tình hợp  tác với các cá nhân, bộ phận chức năng và các doanh nghiệp trong cùng tập đoàn để  kỳ vọng nhận được sự hỗ trợ ngược lại. Thêm vào đó,  lãnh đạo doanh nghiệp nên  thiết  lập và tham gia  các mạng lưới sinh hoạt mang  tính chất cá nhân (ngoài công  việc) với các đồng nghiệp để tạo ra sự linh hoạt trong giải quyết công việc.  Nhóm gợi ý thứ năm: Tạo lập, duy trì, phát triển và sử dụng vốn xã hội bên  ngoài doanh nghiệp.  Vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp là thành phần đạt giá trị hội tụ trong việc  đo lường vốn xã hội có ảnh hưởng đến hầu hết các nhóm hoạt động doanh nghiệp  BĐS. Vốn xã hội bên ngoài bao gồm chất lượng các mối quan hệ của doanh nghiệp  với các mạng lưới bán hàng (nhà phân phối, khách hàng), nhà cung cấp, đơn vị tư  vấn,  công  ty  trong  cùng  tập đoàn  và  chính quyền. Nghĩa  là muốn nuôi  dưỡng  và  Comment [u11]: Nên bỏ  Comment [u12]: Xem lại 118  phát triển vốn xã hội bên ngoài thì phải nuôi dưỡng và phát triển các mạng lưới này,  với các gợi ý như sau:  Thứ nhất, doanh nghiệp phải có bộ phận hoặc nhóm chuyên trách thực hiện  hoạt động quan hệ với các chủ thể bên ngoài. Bộ phận này có chức năng xác định  các  chủ  thể doanh nghiệp  cần  tạo  lập và duy trì mối quan hệ  cũng như xây dựng  hình ảnh doanh nghiệp đối với nhận thức của họ về doanh nghiệp. Kết quả nghiên  cứu ở các doanh nghiệp BĐS tại thành phố Hồ Chí Minh chỉ ra các chủ thể đó bao  gồm  khách  hàng,  nhà phân phối,  nhà  cung  cấp,  đơn vị  tư  vấn,  các  công  ty  trong  cùng tập đoàn và chính quyền các cấp.  Thứ hai, cần xây dựng các chính sách cụ thể trong mối quan hệ với từng chủ  thể trong mạng lưới bên ngoài doanh nghiệp. Đối với khách hàng và nhà phân phối  thì  chính sách  thông qua duy  trì  sản phẩm chất  lượng,  tạo giá  trị  khi sử dụng  sản  phẩm (giá trị tạo ra trong khâu phân phối), chăm sóc khách hàng, hỗ trợ nhà phân  phối  trong  hoạt  động  bán  hàng  (như  động  viên,  khuyến  khích,  chiết  khấu,  hoa  hồng). Đối  với  nhà  cung  cấp  thì  đảm bảo  uy  tín  trong  thanh  toán  và  sự  chặt  chẽ  trong các hợp đồng  thu mua. Đối với nhà tư vấn cần xây dựng kênh  lựa chọn, tôn  trọng  và  cam  kết  thực  hiện  trong  khi  sử  dụng  tư  vấn. Đối  với  chính  quyền  phải  thường  xuyên  tham  gia  các  chương  trình  do  chính quyền phát động. Đối  với  các  công ty trong cùng tập đoàn thì phải cam kết trong các thỏa thuận hợp tác và hỗ trợ  nhiệt tình.  Thứ ba,  trong  hầu  hết  các  hoạt  động  quan  hệ  cộng đồng  cần  xác định  đối  tượng trực tiếp và đối tượng gián tiếp thực hiện phát triển mối quan hệ với từng chủ  thể trong mạng lưới bên ngoài. Chẳng hạn như đối với khách hàng thì nhân viên bán  hàng là đối tượng trực tiếp, các bộ phận còn lại là gián tiếp; đối với nhà phân phối  thì nhân viên liên hệ với đại lý là trực tiếp, các bộ phận còn lại là gián tiếp; đối với  đơn vị tư vấn thì lãnh đạo là trực tiếp, các bộ phận còn lại là gián tiếp; đối với các  công  ty  trong  cùng  tập đoàn,  chính quyền  thì  lãnh đạo  và bộ phận quan hệ  cộng  đồng  là  trực  tiếp,  các  bộ  phận  còn  lại  là  gián  tiếp… Khi  xác  định  được  các  đối 119  tượng này  thì cần chú trọng đến khâu  lựa chọn nhân sự phù hợp và đào tạo chính  sách quan hệ cộng đồng cho các đối tượng thực hiện.  Nhóm gợi ý thứ sáu: Tạo lập, nuôi dưỡng, phát triển và sử dụng vốn xã hội  bên trong doanh nghiệp.  Vốn xã hội bên trong doanh nghiệp cũng là thành phần đạt giá trị hội tụ trong  việc đo lường vốn xã hội của doanh nghiệp, có tác động đến hầu hết các hoạt động  của doanh nghiệp; chúng tác động đến hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra. Vốn  xã hội bên  trong bao gồm chất  lượng các mối quan hệ  theo chiều ngang và  chiều  dọc giữa cá nhân/ bộ phận chức năng lẫn nhau, vì vậy để nuôi dưỡng và phát triển  vốn xã hội bên trong cần trú trọng đến hai mạng lưới này theo các gợi ý như sau:  Thứ nhất, doanh nghiệp xây dựng hệ thống quản lý cần chú trọng đến sự hợp  tác giữa các cá nhân/ bộ phận chức năng lẫn nhau theo các mối quan hệ kể cả chiều  dọc và chiều ngang. Cần xác định quan điểm cho rằng sức mạnh của tổ chức không  phải  dựa vào sự xuất sắc đơn lẻ  từng  cá nhân mà phải  dựa  trên hệ  thống quản  lý  được thiết lập dựa trên sự hợp tác của cá nhân/bộ phận chức năng. Xây dựng được  hệ  thống, cải tiến hệ  thống và  cam kết thực hiện đúng quy  trình của hệ thống hợp  tác trong  công việc chẳng những tạo ra được giá trị vô hình  cho doanh nghiệp mà  còn giúp doanh nghiệp bảo vệ được các bí quyết công nghệ nói chung.  Thứ  hai,  khi  xây dựng  hệ  thống  quản  lý  cần  đưa  vào  các  giá  trị  văn  hóa  doanh  nghiệp  và  mô  tả  phẩm  chất  nhân  sự  có  liên  quan  đến mỗi  quy  trình  hoạt  động. Cần chú ý đến cơ chế nội hoá kiến thức của cá nhân vào trong tổ chức thông  qua các biện pháp khuyến khích sự chia sẻ, nhân rộng những kiến thức  chia sẻ có  giá trị để phát huy, bảo tồn và sử dụng chúng phục vụ cho các mục tiêu của doanh  nghiệp.  6.2.3  Gợi ý  chính sách vĩ mô hỗ trợ doanh nghiệp phát triển vốn xã hội  tạo  hiệu ứng  tích  cực, đồng  thời hạn  chế  các hình  thức  liên kết xã hội  tạo  hiệu ứng tiêu cực trên thị trường bất động sản  Kết quả nghiên cứu cho thấy vốn xã hội của doanh nghiệp đóng góp tích cực  vào các hoạt động của doanh nghiệp, qua đó tạo ra hiệu ứng tích cực và tiêu cực cho 120  thị trường BĐS. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất gợi ý thứ bảy và thứ tám nhằm hỗ  trợ doanh nghiệp phát  triển các hình thức liên kết xã hội tạo hiệu ứng  tích cực và  hạn chế các hình thức liên kết xã hội tạo hiệu ứng tiêu cực.  Nhóm gợi  ý  thứ bảy: Gợi ý chính sách vĩ mô  tạo điều kiện  cho  các doanh  nghiệp  phát  triển  vốn  xã  hội  dưới  hình  thức  liên  kết  tạo hiệu ứng tích cực cho thị trường BĐS.  Kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy  vốn  xã  hội  tạo  hiệu  ứng  tích  cực  cho  thị  trường BĐS biểu hiện qua việc tạo điều kiện huy động vốn cho thị trường; giảm chi  phí giao dịch, tạo thuận lợi cho sự hợp tác giữa các chủ thể tham gia thị trường; góp  phần  lan  tỏa  thông  tin và  chuyển giao tri  thức  cho  thị  trường BĐS. Nhiều nghiên  cứu  cho  rằng  các hình  thức  liên  kết  tạo  hiệu  ứng  tích cực  của vốn  xã  hội  thường  thấy ở các quốc gia có môi trường thể chế tốt, đặc biệt là sự hiện diện của các kênh  tương tác do Chính phủ tạo ra (Fukyyama, 1995; De soto, 2000; Thornburn, 2006).  Trong các khía cạnh vốn xã hội của doanh nghiệp thì vốn xã hội bên ngoài rất cần  sự hỗ trợ từ Chính phủ trong việc tạo lập các kênh tương tác giữa doanh nghiệp với  các chủ thể như khách hàng, nhà phân phối, nhà cung  cấp, đơn vị  tư vấn và chính  quyền. Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phát triển vốn xã hội bên ngoài nên tập  trung vào các nội dung sau:  Thứ nhất là Chính phủ nên xây dựng hành  lang pháp  lý  tạo điều kiện cho  sự hình  thành và phát triển đa dạng các công cụ  tài chính dựa trên sự liên kết của  các chủ thể tham gia thị trường như quỹ tín thác BĐS (quỹ này ở Việt Nam chưa có  và nó được  lồng ghép vào quỹ phát triển và  tiết kiệm nhà ở đã được triển khai về  mặt pháp lý) mà các quốc gia phát triển đang áp dụng và mang lại kết quả huy động  vốn rất tốt cho các chủ thể trên thị trường. Chính sách này sẽ góp phần tạo ra vốn xã  hội cho thị trường BĐS, thông qua đó cũng tạo thêm cung tín dụng cho thị trường  này.  Thứ hai là sử dụng các công cụ liên kết xã hội giữa các chủ thể tham gia thị  trường để giúp các khách hàng, nhà cung, doanh nghiệp nắm bắt thông tin lẫn nhau  để dễ dàng trong các giao dịch giữa họ, qua đó làm giảm chi phí và thời gian giao 121  dịch trên trị  trường BĐS. Để làm được điều này, Chính phủ cần ban hành các quy  định  về  xếp  hạng  uy  tín  của  doanh  nghiệp,  chế  độ minh  bạch  thông  tin  của  các  doanh nghiệp tham gia thị trường.  Thứ ba là Chính phủ nên hỗ trợ doanh nghiệp phát triển các mối quan hệ  bán hàng bằng  các  chính  sách  khuyến  khích  và  hỗ  trợ  thành  lập  các  tổ  chức  tiêu  dùng như hội chợ, triển lãm sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển mạng lưới  xã  hội  với  khách hàng,  nhà  cung  cấp và phân phối. Để  thông qua đó giúp doanh  nghiệp tiếp cận được thông  tin để ra các quyết định kinh doanh hợp lý, đồng  thời  các tổ chức đó cũng là nơi trao đổi công nghệ giữa các doanh nghiệp với nhau.  Thứ ba là Chính phủ nên có những chương trình đầu tư phát triển các kênh  tương tác xã hội giữa các doanh nghiệp trong ngành BĐS, giữa doanh nghiệp ngành  BĐS với ngành  có  liên quan,  giữa doanh nghiệp BĐS với các nhà làm chính sách  điều  tiết  thị  trường. Các  kênh  tương  tác  này  nên được  sự  hỗ  trợ  của  các  công  cụ  mạng lưới công nghệ thông tin, đảm bảo sự thuận tiện trong việc trao đổi thông tin  giữa các chủ thể trong mạng lưới.  Cuối cùng là cần có những chính sách tạo điều kiện thúc đẩy sự liên kết phát  triển giữa các doanh nghiệp có vốn nước ngoài và doanh nghiệp trong nước đối với  ngành BĐS. Thông qua đó, các doanh nghiệp trong nước tiếp thu công nghệ quản lý  và cải tiến công nghệ, tránh được sự cạnh tranh trực diện. Bởi vì kết quả nghiên cứu  cho  thấy  vốn  xã  hội  bên  ngoài  của  doanh  nghiệp  nước  ngoài  cao  hơn  các  doanh  nghiệp nhà nước và  ngoài  nhà nước. Điều  này hàm ý doanh  nghiệp  có vốn  nước  ngoài có nhiều cơ hội phát triển dự án và phân phối sản phẩm thành công hơn hai  loại hình doanh nghiệp còn lại. Việc doanh nghiệp khu vực nhà nước và ngoài nhà  nước  liên  kết  với  doanh  nghiệp  nước  ngoài  là một  cách  thức  tiếp  cận mạng  lưới  kinh doanh toàn cầu.  Nhóm gợi ý thứ tám là xây dựng các chính sách hạn chế các hình thức liên  kết xã hội tạo hiệu ứng tiêu cực cho thị trường BĐS.  Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy vốn xã hội cũng tạo ra hiệu ứng tiêu cực  được biểu hiện qua sự bất cập trong chính sách tiết vĩ mô của Chính phủ trong vai 122  trò tạo “luật chơi” bình đẳng giữa các doanh nghiệp tham gia thị trường BĐS, đây là  nguyên nhân dẫn đến sự lựa  chọn bất lợi  trong các chính sách giao đất cho doanh  nghiệp của Chính phủ, và tạo tâm lý ỷ lại cho các doanh nghiệp vào các mối quan  hệ với  chính quyền để giành quyền  tiếp cận quỹ đất nhằm chuyển nhượng dự án.  Các gợi ý chính sách sau đây nhằm hạn chế các hình  thức liên kết xã hội  tạo hiệu  ứng tiêu cực cho thị trường BĐS:  ­ Xây dựng hệ thống các văn bản hướng dẫn quy trình xin cấp phép dự án rõ  ràng, minh bạch tạo điều kiện tiếp cận quỹ đất và giải quyết các thủ tục đất đai công  bằng đối với tất cả các doanh nghiệp. Cần xây dựng các tiêu chí sàng lọc, lựa chọn  doanh nghiệp có đủ năng  lực về  công nghệ, kinh nghiệm và tài chính để  cấp phép  đầu tư các dự án BĐS. Bởi vì kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ của doanh  nghiệp với chính quyền địa phương tác động có ý nghĩa đối với hoạt động đầu vào  (có biến quan sát về khả năng tiếp cận quỹ đất).  ­ Ngăn  cấm các  hành  vi  chuyển nhượng  dự  án đã  được  cấp phép mà  chưa  qua xây dựng. Biện pháp này với mục đích là ngăn chặn tình trạng có nhiều doanh  nghiệp lợi dụng các mối quan hệ với chính quyền các cấp để được cấp phép dự án  sau đó chuyển nhượng lại. Thông qua đó sẽ góp phần giảm chi phí đầu tư và hạ giá  thành cho ngành BĐS.  6.3  NHỮNG ĐÓNG GÓP CHÍNH CỦA LUẬN ÁN  6.3.1  Đóng góp về mặt khoa học  Nhiều nhà nghiên cứu đã hoài nghi việc sử dụng khái niệm vốn xã hội trong  các nghiên cứu kinh tế và quản trị bởi tính khó đo lường của nó. Đã có nhiều nghiên  cứu nỗ lực trong việc đo lường vốn xã hội  trên  từng khía cạnh riêng lẻ như mạng  lưới bên ngoài hoặc bên trong hoặc lãnh đạo doanh nghiệp nên các thang đo vốn xã  hội  của doanh  nghiệp bị  khiếm  khuyết. Hơn  nữa,  các  nghiên  cứu  trước đây được  thực hiện không phải thuộc ngành BĐS nên vẫn chưa chỉ ra được đóng góp của vốn  xã hội  vào  các hoạt động  của doanh nghiệp BĐS. Luận án này góp phần hạn  chế  những khiếm khuyết trên với những đóng góp như sau: 123  Thứ nhất  các nghiên  cứu  trước đây  chỉ đề  cập đến  từng khía  cạnh riêng  lẻ  của  vốn  xã  hội  nên  việc  nhận  diện  vốn  xã  hội  của  doanh  nghiệp  còn  bị  khiếm  khuyết. Luận án đã xây dựng được thang đo vốn xã hội hoàn thiện hơn, đề cập đến  ba khía cạnh của mạng lưới bên trong, bên ngoài và lãnh đạo doanh nghiệp. Thang  đo vốn xã hội được xây dựng dựa trên liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính nên  đảm bảo đạt được giá nội dung. Đồng thời các thang đo được kiểm định tại trường  hợp thành phố Hồ Chí Minh đảm bảo được tính đơn nguyên, giá trị phân biệt, độ tin  cậy tổng hợp và phương sai trích. Như vậy, đóng góp trước hết của luận án về mặt  khoa học  là xây dựng được  thang đo vốn xã hội đầy đủ hơn các nghiên cứu trước  đó, đảm bảo giá trị kế thừa cho các nghiên cứu tiếp theo có liên quan đến vốn xã hội  trong doanh nghiệp.  Thứ  hai,  nghiên  cứu  đã  nhận  dạng  được  các  nhóm  hoạt  động  của  doanh  nghiệp BĐS  là  hoạt động đầu  vào,  sản  xuất  và đầu  ra. Việc  nhận  diện  các  nhóm  hoạt động của doanh nghiệp dựa trên lý thuyết chuỗi giá trị của Porter (1985) và các  luận điểm Krumm (2001), Nelen  (2008) và kết  hợp với  nghiên  cứu định  tính nên  các thang đo phù hợp cho điều kiện Việt Nam và đảm bảo đạt được giá trị nội dung.  Các thang đo đã được kiểm định độ tin cậy cho trường hợp các doanh nghiệp BĐS  thành phố Hồ Chí Minh. Việc  xây  dựng được  thang đo  các  hoạt động  của  doanh  nghiệp BĐS đảm bảo giá  trị nội dung và độ  tin  cậy nên có giá trị kế  thừa cho  các  nghiên cứu có liên quan tại Việt Nam.  Thứ ba, kết quả nghiên cứu đã chỉ  ra được những đóng góp trực tiếp, gián  tiếp  của vốn  xã  hội  vào  các  nhóm  hoạt động  của doanh  nghiệp  là bằng  chứng để  khẳng định vốn xã hội là một trong những nguồn lực cần được bổ sung trong công  tác  hoạch  định  và  thực  hiện  chiến  lược  kinh  doanh  của  doanh  nghiệp BĐS. Hơn  nữa, kết quả nghiên cứu này sẽ góp phần kích thích những nghiên cứu tiếp theo về  mối liên hệ giữa vốn xã hội và các hoạt động trong quá trình kinh doanh không chỉ  ở ngành BĐS mà còn đối với các ngành kinh tế khác. 124  6.3.2  Đóng góp về mặt thực tiễn  Nghiên cứu này đã có những đóng góp thực tiễn cho các doanh nghiệp BĐS  và  các  cơ  quan  quản  lý  nhà  nước  đối  với  ngành BĐS  của  Việt  Nam  nói  chung,  thành phố Hồ Chí Minh nói riêng như sau:  Thứ nhất, nghiên cứu đã xây dựng và kiểm định thang đo vốn xã hội là căn  cứ để luận án gợi ý các mục tiêu và tiêu chí đo lường vốn xã hội với ba khía cạnh là  chất  lượng mạng  lưới bên  trong, bên ngoài và  lãnh đạo doanh nghiệp. Việc gợi  ý  này  góp  phần  giúp  doanh  nghiệp  nhận  diện  và  đánh  giá  được  vốn  xã  hội  trong  doanh nghiệp. Việc đánh giá này  là việc  làm thường xuyên để doanh nghiệp  thay  đổi chiến lược kinh doanh cho phù hợp với những biến đổi của thị trường BĐS. Qua  đó giúp doanh nghiệp BĐS nhận dạng được khuôn khổ tạo lập, sử dụng, duy trì và  phát triển vốn xã hội  trong doanh nghiệp BĐS. Từ đó, doanh nghiệp có  thể hoạch  định các chương trình nhằm phát triển và sử dụng vốn xã hội để nâng cao kết quả  các hoạt động.  Thứ hai, nghiên cứu đã xây dựng được các thang đo cho các nhóm hoạt động  của doanh nghiệp đảm bảo được giá trị nội dung và độ tin cậy. Đồng thời cũng đã  chỉ ra được mối liên hệ giữa các hoạt động về mặt lý thuyết cũng như kiểm chứng  thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu là cơ sở để gợi ý các chỉ  tiêu đo lường kết quả hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra cho doanh nghiệp BĐS.  Đóng góp này  sẽ giúp doanh nghiệp BĐS đánh giá được kết quả hoạt động  trong  doanh nghiệp của họ được toàn diện hơn.  Thứ ba, nghiên cứu cũng  chỉ ra được  tác động tiêu cực và tích cực của  các  hình thức liên kết xã hội của doanh nghiệp ngành BĐS của Việt Nam. Đó là luận cứ  khoa học giúp cho các cơ quan  lập pháp, quản lý nhà nước cấp  trung ương và địa  phương liên quan đến thị trường BĐS nhận diện sự vận động của nguồn lực vốn xã  hội trên  thị  trường. Để từ đó kịp  thời có những chính sách phát huy các hình thức  liên kết vốn xã hội tích cực, đồng thời hạn chế các hình thức liên kết vốn xã hội tiêu  cực trong thị trường BĐS quốc gia. 125  Cuối cùng, kết quả nghiên cứu sẽ phục vụ cho các hiệp hội BĐS Việt Nam,  hiệp hội BĐS thành phố Hồ Chí Minh nhận diện được sự quan  tâm của các thành  viên khi tham gia hiệp hội, để ban chấp hành các hiệp hội tạo ra được các giá trị từ  mạng lưới liên kết phục vụ lợi ích của các thành viên tham gia.  6.4  HẠN CHẾ CỦA LUẬN ÁN VÀ GỢI Ý NGHIÊN CỨU TIẾP THEO  6.4.1  Hạn chế của luận án  Bên cạnh những đóng góp trên, luận án còn những hạn chế sau:  Thứ nhất,  các  thang đo được xây  dựng  và  kiểm định  trong môi  trường  thể  chế  của Việt Nam  nhưng  chỉ  được  kiểm  định  cho  trường  hợp  thành  phố Hồ Chí  Minh nên kết quả nghiên cứu không đạt tính đại diện và chưa chắc là sẽ đúng tại các  tỉnh /thành khác trong cả nước.  Thứ hai, các  thang đo được kiểm định với  kích  thước mẫu  trung bình,  nên  không đủ bậc tự do để ước lượng mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) với tất cả các  biến quan  sát,  thay  vào  đó  là  chỉ  ước  lượng  đối  với  các  biến  trung bình  của  các  thang đo. Việc ước lượng như trên không thể hiện giá trị của từng biến quan sát cá  biệt trong mô hình nghiên cứu.  Thứ ba, thang đo vốn xã hội và hoạt động trong doanh nghiệp được xây dựng  cho ngành BĐS gắn với đặc thù của ngành nên không thể áp dụng cho doanh nghiệp  các ngành khác. Hơn nữa,  ngành BĐS tại Việt Nam mới được hình  thành gần 20  năm nên hành lang pháp lý chưa hoàn thiện, nên các thang đo xây dựng trong điều  kiện này có thể sẽ không còn phù hợp cho thị  trường ở các nước khác đã có hành  lang  pháp  lý  hoàn  thiện  hơn,  cũng  như  đối  với  thị  trường BĐS Việt  Nam  trong  tương lai. Thứ  tư,  bối  cảnh  xây  dựng  thang  đo,  mô  hình  lý  thuyết  và  kiểm  định  cho  trường hợp thành phố Hồ Chí Minh vào cuối năm 2010 và đầu năm 2011 là khoảng  thời gian nền kinh tế Việt Nam đang trong bối cảnh lạm phát nên hoạt động của các  doanh nghiệp BĐS không ở trong trạng thái bình thường. Do vậy, tính ổn định của  kết quả nghiên cứu có thể không được đảm bảo lâu dài. 126  6.4.2  Gợi ý hướng nghiên cứu tiếp theo  Từ những hạn  chế nêu  trên, cần  có các nghiên  cứu  tiếp  theo về vốn xã hội  trong doanh nghiệp khắc phục những hạn  chế,  cũng như  tìm thêm bằng  chứng để  đánh giá việc sử dụng vốn xã hội như là nguồn lực của doanh nghiệp như sau:  Thứ nhất, thang đo và mô hình nghiên cứu chỉ mới kiểm định tại thành phố  Hồ Chí Minh  nên  chưa  thể  khẳng định được  sự phù hợp đối  với  các địa phương  khác. Điều này hàm ý rằng các gợi ý từ nghiên cứu có thể không phù hợp cho tất cả  các địa phương ở Việt Nam. Do vậy, cần có các nghiên cứu tiếp theo để kiểm định  thang đo và mô hình lý thuyết cho ngành BĐS ở địa phương khác.  Thứ  hai,  nghiên  cứu  sử  dụng  phương  pháp  phân  tích  nhân  tố  khẳng  định  (CFA) và mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) là các phương pháp dựa trên cỡ mẫu  lớn. Mặc dù cỡ mẫu nghiên cứu  có  thể chấp nhận được nhưng không  lớn  lắm, do  vậy cần có các nghiên cứu tiếp theo thực hiện trên kích thước mẫu lớn hơn.  Thứ ba,  do nghiên  cứu này được  thực hiện  trong bối  cảnh nền kinh  tế  lạm  phát nên đe dọa tính ổn định của kết quả nghiên cứu. Cần có những nghiên cứu tiếp  theo thực hiện trong trạng thái nền kinh tế bình thường (không có lạm phát, khủng  hoảng kinh tế) để kiểm chứng lại kết quả nghiên cứu.  Thứ  tư,  vốn  xã  hội  được  khẳng định  là  nguồn  lực  cần  thiết  đối  với  doanh  nghiệp ngành BĐS. Nhưng với  nghiên  cứu này  chưa  thể khẳng  là  chúng phù hợp  cho các ngành kinh tế khác. Do vậy, cần thiết có những nghiên cứu tiếp theo để xem  xét vốn xã hội trong các ngành kinh tế khác. 127  KẾT LUẬN  Luận án nghiên  cứu đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh  nghiệp BĐS Việt Nam được  thực hiện  với mục  tiêu  nghiên  cứu  là  khám phá  cấu  trúc của vốn xã hội và các hoạt động của doanh nghiệp ngành Bất động sản (BĐS).  Đồng thời phân tích đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp  BĐS. Qua đó gợi ý các chính sách giúp doanh nghiệp BĐS sử dụng vốn xã hội để  nâng cao kết quả hoạt động, đồng thời gợi ý chính sách vĩ mô giúp Chính phủ hạn  chế các hình thức liên kết xã hội tiêu cực và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển các hình  thức liên kết xã hội tích cực.  Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu  trên, luận án được  thực hiện qua hai  giai đoạn: giai đoạn một là xây dựng thang đo và mô hình nghiên cứu với đối tượng  là các doanh nghiệp bất động sản Việt Nam (doanh nghiệp có hai chức năng tạo sản  phẩm và phân phối sản phẩm), với phương pháp nghiên cứu định tính bằng kỹ thuật  phỏng vấn chuyên gia (thảo luận tay đôi); và giai đoạn hai là kiểm định thang đo và  mô hình nghiên cứu cho trường hợp điển hình với đối tượng là các doanh nghiệp bất  động sản thành phố Hồ Chí Minh, bằng các phương pháp hệ số tin cậy (Cronbach’s  alpha), phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA), mô  hình cấu trúc tuyến tính (SEM).  Kết quả nghiên cứu đã xây dựng được thang đo đảm bảo giá trị nội dung và  độ tin cậy, bao gồm: thang đo vốn xã hội là thang đo đa hướng bậc ba với các thành  phần bậc hai là vốn xã hội của lãnh đạo, vốn xã hội bên ngoài, vốn xã hội bên trong  doanh nghiệp; Các hoạt động của doanh nghiệp là các thang đo đơn hướng, bao gồm  hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra. Kết quả nghiên cứu đã khẳng định được vốn  xã  hội  đóng  góp  tích  cực  vào  các  hoạt  động  kinh  doanh  của  doanh  nghiệp BĐS.  Đóng  góp  này  tạo  ra  hiệu  ứng  tích  cực  và  tiêu  cực  đối  với  thị  trường BĐS Việt  Nam: Hiệu ứng tích cực là vốn xã hội góp phần tạo vốn cho thị trường, giảm chi phí  giao  dịch,  thúc  đẩy  hợp  tác  hiệu  quả,  thông  tin  và  chuyển  giao  tri  thức  trên  thị  trường BĐS; Hiệu ứng  tiêu  cực  của vốn xã hội  là  tạo ra những bất  cập của  chính  sách điều  tiết  vĩ mô của Chính phủ trong việc không đảm đương được vai  trò  tạo 128  “luật  chơi” bình đẳng  giữa  các  doanh  nghiệp  tham  gia  thị  trường,  dẫn đến  sự  lựa  chọn bất lợi của Chính phủ và tâm lý ỷ lại của doanh nghiệp trong một số hoạt động  của ngành BĐS.  Kết quả nghiên cứu là cơ sở để gợi ý các chính sách giúp doanh nghiệp đánh  giá kết quả các hoạt động (gợi ý thứ nhất), nhận diện và đo lường vốn xã hội (gợi ý  thứ hai và thứ ba), sử dụng vốn xã hội phục vụ cho các hoạt động của doanh nghiệp  (gợi  ý  thứ  tư,  thứ  năm  và  thứ  sáu). Đồng  thời  cũng  gợi  ý  chính sách  vĩ mô  giúp  Chính phủ  hạn  chế  các  hình  thức  liên kết  xã hội  tiêu  cực  và  hỗ  trợ  doanh nghiệp  phát triển các hình thức liên kết xã hội tích cực (gợi ý thứ bảy và thứ tám).  Kết quả  nghiên  cứu đã  góp phần đáp ứng được  yêu  cầu  từ  thực  tiễn  là bổ  sung luận cứ khoa học giúp cho doanh nghiệp BĐS sử dụng vốn xã hội phục vụ cho  hoạt động kinh doanh, cũng như giúp Chính phủ quan tâm đến vốn xã hội trong việc  ban hành  các  chính sách điều  tiết  thị  trường. Đồng  thời, kết quả nghiên  cứu  cũng  đóng góp về mặt lý thuyết là bổ sung vào sự khiếm khuyết trong việc đo lường vốn  xã hội trong các nghiên cứu trước đó. 129  DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ  Tiếng việt:  Nguyễn Trọng Hoài & Huỳnh Thanh Điền (2011), “Đóng góp của vốn xã hội vào  các  hoạt  động  của  doanh  nghiệp  bất  động  sản  Việt  Nam:  Kiểm  định  cho  trường hợp điển hình tại thành phố Hồ Chí Minh”, Kỹ yếu hội thảo khoa học  Ổn định Kinh  tế Vĩ mô và Phát  triển Kinh  tế,  tháng 10 năm 2011, Trường  Đại học Kinh tế TP.HCM, trang 412­432.  Nguyễn Trọng Hoài & Huỳnh Thanh Điền  (2011),  “Tái  cấu  trúc khu  vực  kinh  tế  nhà nước: tiếp cận khả năng điều tiết vĩ mô và tác động hỗ trợ”, Tạp chí Phát  triển Kinh tế, số 252, trang 22­30.  Huỳnh Thanh Điền (2011), “Ảnh hưởng vốn xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp đến  việc tiếp cận quỹ đất phát triển dự án bất động sản”, Tạp chí Phát triển Kinh  tế, số 251, trang 29­36.  Nguyễn  Trọng  Hoài  &  Huỳnh  Thanh  Điền  (2011),  “Áp  lực  cạnh  tranh  đối  với  doanh nghiệp vừa và nhỏ trong bối cảnh hội nhập và lạm phát: Phân tích tình  huống  ngành bất  động  sản Việt Nam”,  Tạp  chí Phát  triển Kinh  tế,  số 246,  trang 2­9.  Nguyễn Trọng Hoài & Huỳnh Thanh Điền (2011), “Phát  triển khu vực kinh  tế  tư  nhân: tiếp cận các giải pháp giảm thiểu tác động lấn át và nâng cao tác động  hỗ trợ”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 245, trang 2­7.  Nguyễn Trọng Hoài & Huỳnh Thanh Điền  (2011),  “Vốn  xã  hội  và  sự  năng động  trong phát triển kinh tế địa phương tại Việt Nam”. Trong sách Những vấn đề  kinh tế xã hội trong cương lĩnh (Bổ sung và phát triển năm 2011), chủ biên  Trương Giang Long và Trần Hòang Ngân. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,  năm 2011, trang 207 – 223.  Huỳnh  Thanh  Điền  (2008),  “Đóng  góp  của  Vốn  xã  hội  vào  sự  cải  tiến  doanh  nghiệp”, Tạp chí phát triển Kinh tế, số 214, trang 48­53.  Tiếng Anh:  Nguyen  Trong  Hoai  &  Huynh  Thanh  Dien  (2010),  “Framework  for  Analyzing  Social  Capital  in  Vietnamese  Companies:  An  Overview  of  Literature  and  Empirical  Researches”,  The  Economic  Development  Review,  No.  191,  pp.  14­19. 130  DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO  Tiếng việt:  Vũ Đình Ánh (2010), Nhận dạng nguồn vốn “nóng” cho thị trường bất động sản,  trình bày tại Hội thảo do Hiệp hội Bất động sản thành phố Hồ Chí Minh  tổ  chức ngày 14/5/2010.  Bộ Xây Dựng (2011), “Chiến lược phát triển nhà ở Việt Nam”, Báo cáo tại Hội thảo  do Hiệp hội Bất động sản thành phố Hồ Chí Minh tổ chức ngày 11/3/2011.  Trần Kim Chung  (2010), Lựa chọn kênh huy động vốn nào cho doanh nghiệp bất  động sản,  trình bày tại hội thảo “những giải pháp về vốn cho thị trường bất  động sản năm 2010”,  do hiệp hội bất  động sản  thành phố Hồ Chí Minh  tổ  chức ngày 14/05/2010.  Nguyễn  Trọng  Hoài  &  Huỳnh  Thanh  Điền  (2011),  “Áp  lực  cạnh  tranh  đối  với  doanh nghiệp vừa và nhỏ trong bối cảnh hội nhập và lạm phát: Phân tích tình  huống  ngành bất  động  sản Việt Nam”,  Tạp  chí Phát  triển Kinh  tế,  số 246,  trang 2­9.  Đào Anh Kiệt (2010), Thị trường Bất động sản thành phố Hồ Chí Minh: Cơ hội và  Thách  thức,  trình bày  tại Hội  thảo do Hiệp hội Bất động  sản  tổ  chức ngày  12/05/2010, thành phố Hồ Chí Minh.  Porter & Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2010), “Báo cáo đánh giá  năng  lực  cạnh  tranh  của  quốc  gia  của  Việt  Nam”,  Viện  Kinh  tế  Quản  lý  Trung ương, Hà Nội.  Nguyễn Đình Thọ (2010), Phương pháp nghiên cứu định tính, Bài giảng số 3, môn  phương pháp nghiên  cứu khoa học,  lớp nghiên  cứu sinh khóa 2009,  trường  ĐH Kinh tế TP.HCM.  Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang (2009), Nghiên cứu khoa học quản trị  kinh doanh,  NXB Thống kê, thành phố Hồ Chí Minh. 131  Nguyễn  Đình  Thọ  &  Nguyễn  Thị  Mai  Trang  (2008),  Nghiên  cứu  Khoa  học  Marketing: Ứng dụng Mô hình Cấu trúc Tuyến tính SEM, NXB ĐH Quốc gia  TPHCM, thành phồ Hồ Chí Minh  Thornburn (2006), “An toàn  tài sản và đảm bảo tăng trưởng kinh tế”, trình bày tại  hội  thảo  do  Hiệp  hội  Bất  động  sản  thành  phố  Hồ  Chí Minh  tổ  chức,  ngày  25/09/2006.  Townsend (2011), “Dự báo táo bạo”, Hội thảo Dự báo táo bạo 2011 tại Hà Nội vào  ngày 12/01/2011.  Tổng cục Thống kê (2010a), “Doanh nghiệp Việt Nam 9 năm đầu của  thế kỷ 21”,  NXB Thống Kê, Hà Nội.  Tổng cục Thống kê (2010b), “Niên giám thống kê Việt Nam năm 2009”, Nhà xuất  bản Thống kê. 132  Tiếng Anh:  ABS  (2004), Measuring  Social  Capital: An  Australian  Framework  and  Indicators  45CA256E360077D526/$File/13780_2004.pdf (truy cập ngày 10/5/2009).  Acquaah  M.  (2007),  “Business  Strategy  and  Competitive  Advantage  in  Family  Businesses  in  Ghana:  The  Role  of  Social  Networking  Relationships”.  A  Presentation  at  “Entrepreneurship  in  Africa”  conference,  Syracuse,  NY,  April 1­2, 2010.  Barney J. B. (1991), “Firm resources and sustained competitive advantage”. Journal  of Management, 17(1), 99­120.  Bueno  E.,  Salmador  M.P.,  Rodríguez  O.  (2004),  "The  role  of  social  capital  in  today's  economy:  Empirical  evidence  and  proposal  of  a  new  model  of  intellectual  capital",  Journal of  Intellectual Capital, Vol. 5  Iss: 4, pp.556 –  574.  Bollen K.A.  (1989),  Structural  Equation  with  Latent  Variables,  New York:  John  Wiley & Sons.  Bourdieu P.  (1986). The Form of Capital,  in Richardson,  J. E.  (ed.)  Handbook of  Theory  of  Research  for  the  Sociology  of  Education,  241­258,  New  York:Greenwood.  Brookes N.J., Morton S.C., Dainty, A.R.J. & Burns, N.D. (2006). “Social processes,  patterns  and  practices  and  project  knowledge  management:  A  theoretical  framework and an empirical investigation”. International Journal of Project  Management, Volume 24, Issue 6, August 2006, Pages 474­482  Carey  S., Lawson B.  (2011),  "Governance  and  social  capital  formation  in  buyer­  supplier  relationships", Journal of Manufacturing Technology Management,  Vol. 22 Iss: 2, pp.152 ­ 170  Cheng  C.N.,  Tzeng  L.C.,  Ou  W­M.,  &  TiChang  K.  (2006),  “The  Relationship  among Social Capital, Entrepreneurial Orientation, Organizational Resources  and  Entrepreneurial  Performance  for  New  Ventures” 133    (truy  cập  ngày  03/03/2010).  Chou Y.K.  (2003), “Modelling  the Impact of Network Social Capital  on Business  and Technological Innovations”  90.pdf (truy cập ngày 20/01/2009).  Cialdini  R.  B.,  Wosinska  W.,  Barrett  D.  W.,  Butner  J.,  &  Gornik­Durose,  M.  (2001),  “The  differential  impact  of  two  social  influence  principles  on  individualists  and  collectivists  in  Poland  and  the  United  States”.  Website  %20site%20material/Personality%20and%20Individual%20Differences%20­  %20Final.pdf  Cohen S.S. & Fields G. (1999), “Social capital and capital gains in Silicon Valley”,  California Management Review, 41 (2): 108­130.  Coleman  J.  (1988),  “Social  capital  in  the  creation  of  human  capital”,  American  Journal of Sociology, 94: s95­s120.  Coleman J. (1990), Foundations of Social Theory, Cambridge: Harvard University  Press.  Daut S. (2006),  “Social capital Macedonia and its impact on the economic growth”,  Center  for  Economic  Analyses  (CEA),    Documents/LGU_Project/Third_USAID_report_social_capita.pdf  (truy  cập  ngày 12/21/2009).  De Soto H. (2000), The Mystery of Capital: Why Capitalism Triumphs in the West  and Fails Everywhere Else, Bantam Press – Black Swan edition, London.  Emmerik H.V., Jawahar I.M, Schreurs B & Cuyper N. D,  (2011), "Social  capital,  team  efficacy  and  team  potency:  The  mediating  role  of  team  learning  behaviors", Career Development International, Vol. 16 Iss: 1, pp.82 – 99.  Fernández O.M. (2011), The moderating role of trust in contractual choice, British  Food Journal, Vol. 113 Iss: 3, pp.374 – 390. 134  Fukuyama  F.  (1995),  Trust:  The  Social  Virtues  and  the  Creation  of  Prosperity,  London: Penguin Books.  Fukuyama  F.  (1997),  The  End  of  Order,    London:  Centre  for  Post­collectivist  Studies.  Gerbing W.D. & Anderson J.C. (1988), “An update paradigm for scale development  incorporating  unidimensionality  and  its  assessment”,  Journal  of  Marketing  Research, 25(2): 186­192  Goyal.  A.  &  Akhilesh  K.B.  (2007),  "Interplay  among  innovativeness,  cognitive  intelligence, emotional  intelligence and social capital of work teams", Team  Performance Management, Vol. 13 Iss: 7/8, pp.206 – 226  Glosiene  A.  (2006),  Social  Capital  and  Information  Technology,  Journal  of  Documentation, Vol. 62 Iss: 5, pp.640 ­ 642  Grant  R.  (2002),  Contemporary  Strategy  Analysis:  Conepts,  Techniques  Applications, Oxford, Backwell.  Hammervoll T. (2011), "Honeymoons in Supply Chain Relationships: the effects of  financial capital, social capital and psychological commitment", International  Journal of Logistics Management, The, Vol. 22 Iss: 2  Hans W. & Bolton, R.  (2003),  ‘Local Social Capital  and Entrepreneurship’.  Small  Business Economics, Vol. 21.  Hair, Anderson, Tatham & Black (1998). Multivariate Data Analysis, Prentical­Hall  International, Inc.  Harper R. & Kelly M. (2003), “Measuring Social Capital in the United Kingdom”.  www.statistics.gov.uk/socialcapital (truy cập ngày 10/10/2008).  Ireland L.R. (2006), Project Management. McGraw­Hill Professional, 2006.  Jansen  R  J.G.,  Curseu  D.P.L.,    Vermeulen  P.A.M,  Geurts  J.L.A.,  &  Gibcus  P.  (2011),  "Social  capital  as  a  decision  aid  in  strategic  decision­making  in  service organizations", Management Decision, Vol. 49 Iss: 5.  Joroff M.L., Porter W.L., Feinberg B. & Kukla C.  (2003), "The agile workplace",  Journal of Corporate Real Estate, Vol. 5 Iss: 4, pp.293 ­ 311  Kaplan R. & Norton D. (1996), The Balanced Scorecard. Harvard Business School 135  Kline, R.B. (2010), Principles and Practice of Structural Equation Modeling, The  Guilford Press, Third Edition.  Konstantinos J., Manolis S. C. & Harris G. P., (2011), A new evaluation procedure  in real estate projects, Journal of Property Investment & Finance, Vol. 29  Iss: 3, pp.280 – 296.  Koonmee  K,  Singhapakdi  A,  Virakul  B.  &  Lee  D.J.  (2010),  “Ethics  institutionalization,  quality  of  work  life,  and  employee  job  –  related  outcomes  : A survey of human resource managers  in Thailand”; Journal of  Business Research; 63 : 20­26.  Krumm  P.J.M.M.  (2001),  "History  of  real  estate  management  from  a  corporate  perspective", Facilities, Vol. 19 Iss: 7/8, pp.276 – 286.  Kurt A. (2000),  "Social Capital within the Urban Small­Firm­Sector in Developing  Countries:  A  Form  of  Modern  Organization  or  a  Reason  for  Economic  Backwardness?"  Presented  at  "Constituting  the  Commons:  Crafting  Sustainable  Commons  in  the New Millennium,"  the  Eighth  Conference  of  the  International  Association  for  the  Study  of  Common  Property,  Bloomington,  Indiana,  USA,  May  31­June  4,  2000.    (truy  cập  ngày 22/04/2009).  Landry  R.,  Lamari  M.  &  Amara  N.  (2000),  “Does  Social  Capital  Determine  Innovation?  To  What  Extent?”    (truy  cập  ngày 02/02/2008).  Lee C., Lee K. & Pennings  J. M.(2001),  “Internal  capabilities,  external  networks,  and  performance:  a  study  on  technology­based  ventures”.  Strategic  Management Journal, vol 22,  pp 615­640.  Lisakka  L.  (2006),  “Social  Capital  in  Finland”,  Statistical  Review,  ­download.pdf  (truy  cập  ngày  10/7/2010). 136  Luthans  F.  &  Youssef  C.  M.  (2007a),  “Positive  organizational  behavior  in  the  workplace:  The  impact  of  hope,  optimism,  and  resiliency”,  Journal  of  Management, Vol 33, pp 774–800.  Luthans F. & Youssef C. M. (2007b), “Emerging positive organizational behavior.  Journal of Management, Vol 33, pp 321–349.  Luthans F., Norman S.M., Avolio B.J. & Avey J.B. (2008), “The Mediating Role of  Psychological  Capital  in  the  Supportive Organization  Climate  –  Employee  Performance Relationship”, Journal of Organizational Behavior; Vol 29, pp  219­238.  Martha  A.M.,  Howard  E.  A.  (2011),  Networking  strategies  for  entrepreneurs:  balancing  cohesion  and  diversity,  International  Journal  of  Entrepreneurial  Behaviour & Research, Vol. 17 Iss: 1, pp.7 ­ 38  McCallum S. & O'Connell D.  (2009), "Social capital and leadership development:  Building stronger leadership through enhanced relational skills", Leadership  & Organization Development Journal, Vol. 30, pp.152 – 166  Nahapiet  J.  &  Ghoshal  S.  (1998),  “Social  capital,  intellectual  capital,  and  organizational  advantage”,  The  Academy  of  Management  Review,  23  (2):  242­266.  Nelen H. (2008), "Real estate and serious forms of crime", International Journal of  Social Economics, Vol. 35, pp.751 – 762  Nisbet P. (2007), "Human capital vs social capital: Employment security and self­  employment  in  the  UK  construction  industry",  International  Journal  of  Social Economics, Vol. 34, pp.525 – 537  Ohno K. (2009), “Avoiding the Middle – income Trap: Renovating Industrial Policy  Formulation in Vietnam”, ASEAN Economic Bulletin, Vol 26, No1, pp25­43.  Ou W.M., Abratt R., & Dion P.(2006), “The influence of retailer reputation on store  patronage”, Journal of Retailing and Consumer Services, Vol 13(3), pp 221­  230.  Paré S., Menzies T. V., Filion L.J., & Brenner, G.A. (2008), "Social capital and co­  leadership  in  ethnic  enterprises  in  Canada",  Journal  of  Enterprising 137  Communities: People and Places  in  the Global Economy”, Vol. 2, pp.52 –  72  Putnam R.D. (1993), “The Prosperous Community. Social Capital and Public Life”,  The American Prospect,  Vol. 13, pp. 35­42.  Putnam R.D. (1995), “Bowling alone: America’s declining social  capital”, Journal  of Democracy, Vol. 6 No. 1, pp. 65­78.  Putnam  R.D.,  (2000).  Bowling  Alone.  The  Collapse  and  Revival  of  American  Community, New York. NY: Simon & Schuster.  Porter M. E. (1985), Competitive Advantage, Free Press, New York.  Porter M.E. (1990), The Competitive Advantage of Nations, Free Press, New York.  Ramström  J.  (2008),  “Inter­organizational  meets  inter­personal:  An  exploratory  study of social capital processes in relationships between Northern European  and  ethnic Chinese  firms”.  Industrial  Marketing  Management,  Volume  37,  Issue 5, July 2008, Pages 502­512  Ray G., Barney J. B. & Muhanna W. A.(2004),  “Capabilities, business processes,  and  competitive  advantage:  Choosing  the  dependent  variable  in  empirical  tests of the resource­based view”. Strategic Management Journal, vol 25(1).  Roberts L. M. (2006), “Shifting the lens on organizational life: The added value of  positive scholarship”, Academy of Management Review, Vol 31, pp 292–305.  Roberts  P.  W.,  &  Dowling,  G.  R.(2002),  “Corporate  reputation  and  sustained  superior financial performance”, Strategic Management Journal, vol 23(12),  pp 1077­1093.  Ross A. (2011), Supply chain management in an uncertain economic climate: a UK  perspective,  Construction  Innovation:  Information,  Process,  Management,  Vol. 11 Iss: 1, pp.5 – 13.  Sabatini F.  (2005), “Meauring Social Capoital in Italy: An Exploratory Analysis”,  Working  Paper  n.  12  Aprile  2005.  website:  www.ecofo.unibo.it  (truy  cập  25/9/2010)  Schaufeli  W.  B.  &  Salanova  M.  (2007),  “Work  engagement:  An  emerging  psychological  concept  and  its  implications  for  organizations”,  In  S.  W. 138  Gilliland, D. D. Steiner, & D. P. Skarlicki (Eds.), Research in social issues in  management: Managing social and ethical issues in organizations (Vol. 5, pp.  135–177). Greenwich, CT: Information Age Publishers.  Schenkel M.T., &  Garrison G.  (2009),  "Exploring  the  roles  of  social  capital  and  team­efficacy  in  virtual  entrepreneurial  team  performance",  Management  Research News, Vol. 32 Iss: 6, pp.525 – 538  Scupola. A., López­Nicolás. C., & Steinfield. C.  (2009), “Social Capital,  ICT Use  and  Company  Performance:  Findings  from  the  Medicon  Valley  Biotech  Cluster,  For presentation  at  the  International Conference on Organizational  Learning,  Knowledge  and  Capabilities  (OLKC)”,  Amsterdam,  The  Netherlands,  April  26­28,  2009.  https://www.msu.edu/~steinfie/OLKCpaper2009.pdf  (truy  cập  ngày  12/11/2010).  Stevens  M.  (2002),  Project  Management  Pathways.  Association  for  Project  Management. APM Publishing Limited.  Tansley C. & Newell S. (2007), "Project social capital, leadership and trust: A study  of  human  resource  information  systems  development",  Journal  of  Managerial Psychology, Vol. 22, pp.350 – 368  Tushman & O’Reilly III C. (1997),  Winning through innovation, Havard Business  Shool Press.  Truss C. & Gill  J.  (2009),  "Managing  the HR  function:  the  role of social capital",  Personnel Review, Vol. 38, pp.674 – 695  Waheduzzaman  (2010),  "Value  of  people's  participation  for  good  governance  in  developing  countries",  Transforming  Government:  People,  Process  and  Policy, Vol. 4 Iss: 4, pp.386 – 402.  Woolcock M. & Narayan. D. (2000), “Social Capital: Implications for Development  Theory, Research,  and Policy”. Final  version  submitted  to  the World Bank  Research  Observer.  To  be  published  in  Vol.  15(2),  pp.225­249.    (truy cập ngày 25/5/2009) 139  Wallis J., Killerby, P., & Dollery B. (2004), "Social economics and social capital",  International Journal of Social Economics, Vol. 31 Iss: 3, pp.239 – 258.  Webb C.  (2008),  "Measuring  social  capital  and  knowledge  networks",  Journal  of  Knowledge Management, Vol. 12, pp.65 – 78.  Wharton R.F. & BrunettoY.  (2009),  "Female  entrepreneurs as managers: The role  of  social  capital  in  facilitating  a  learning  culture, Gender  in Management”,  An International Journal, Vol. 24, pp.14 – 31.  Wiklund  J.  &  Shepherd  D.(2003),  “Knowledge­based  resources,  entrepreneurial  orientation,  and  the  performance  of  small  and  medium­sized  business”,  Strategic Management Journal, Vol 24, pp 1307­1314.  Wilson  P.N.  (2000),  “Social  capitap,  Trust,  and  the  agribusiness  of  economics”,  Journal of Agricultural and Resource Economics, Vol 35, pp 1­13.  Yang  J.,  Alejandro  T.G.B.,  &  Boles  J.S.  (2011),  "The  role  of  social  capital  and  knowledge  transfer  in  selling  center  performance",  Journal  of  Business  &  Industrial Marketing, Vol. 26, pp.152 – 161.  Yli­Renko  H.,  Autio  E.  &  Sapienza  H.  J.(2001),  “Social  capital,  knowledge  acquisition,  and  knowledge  exploitation  in  young  technology­based  firms”,  Strategic Management Journal, vol 22, pp 587­613.  Zhang Q. & Fung  H.G. (2006), China's social capital and financial performance of  private  enterprises, Journal of Small Business and Enterprise Development,  Vol. 13 Iss: 2, pp.198 – 207.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam.pdf
Tài liệu liên quan