PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
1.1 Dạy học văn là một quá trình nhận thức trải qua nhiều công đoạn khác nhau. Mỗi công đoạn có một vai trò, nhiệm vụ riêng. Trong đó, câu hỏi hướng dẫn học bài (CHHDHB) là một công đoạn rất quan trọng, có tác dụng quyết định chất lượng học tập, tạo tâm thế cho học sinh chiếm lĩnh tác phẩm, giúp học sinh hình thành và rèn luyện một phương pháp tự tìm hiểu, tự khám phá và cảm nhận tác phẩm văn học.
1.2 Hệ thống CHHDHB trong tác phẩm văn chương không phải là vấn đề mới mẻ nhưng trong quan niệm cũng như trong cách vận dụng của giáo viên phổ thông còn nhiều lúng túng. Cần phải khẳng định rằng, hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa (SGK) không chỉ quan trọng đối với học sinh mà còn giúp giáo viên xây dựng cho mình một phương án dạy tối ưu, đạt hiệu quả cao. Giáo án của giáo viên không thể không tính đến nội dung và cách thức
xõy dựng của những câu hỏi trong SGK. Câu hỏi mà học sinh chuẩn bị ở nhà theo SGK và câu hỏi trong giáo án của giáo viên tuy có sự khác nhau nhưng cùng hướng đến một mục đích chung là giúp học sinh tự mình tìm hiểu tác phẩm bằng cách tự học, tự suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo. Vì thế chúng có liên quan mật thiết và hỗ trợ cho nhau.
Tuy vậy, nhiều giáo viên trong quá trình soạn bài và lên lớp chưa quan tâm đúng mức tới CHHDHB trong SGK, chưa thể hiện được mối liên hệ giữa những vấn đề mà học sinh chuẩn bị ở nhà với những vấn đề mà thầy cô phát vấn trên lớp. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dạy học văn trong nhà trường phổ thông.
Với đề tài này của luận văn, chúng tôi muốn góp một phần nhỏ việc thay đổi cách nhìn nhận và vận dụng câu hỏi trong SGK đối vói quá trình dạy và học của giáo viên.
13 CHHDHB trong SGK thể hiện được rất rõ tư tưởng đổi mới hay chưa đổi mới phương pháp. Vì vậy việc đi sâu, nghiên cứu, tìm hiểu, để nhận định những đóng góp quan trọng vào quá trình đổi mới phương pháp dạy học văn trong nhà trường phổ thông hiện nay là công việc cần thiết.
1.4 Đổi mới phương phỏp dạy học văn theo định hướng coi học sinh là chủ thể sỏng tạo phải là sự thay đổi toàn diện và đồng bộ, trong đó có sự thay đổi của hệ thống câu hỏi trong SGK. Nhưng để đi đến sự hoàn thiện của công việc đổi mới cần phải có sự cố gắng từ nhiều phía, đặc biệt là những nhà sư phạm và đông đảo giáo viên. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài về hệ thống CHHDHB trước hết là để rút kinh nghiệm, trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất nhằm góp phần tích cực vào quá trình đổi mới phương pháp dạy học văn.\
Trên đây là những lý do để chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài '' Nghiên cứu hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài văn bản văn học lớp 11 qua hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao'' cho luận văn thạc sỹ của mình. Chúng tôi cho rằng, kết quả của việc khảo sát đánh giá, xem xét hệ thống câu hỏi trong hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao sẽ là một yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng dạy học văn ở nhà trường phổ thông.
Trang
MỤC LỤC
Phần 1: Phần mở đầu .1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .2
3. Mục đích nghiên cứu .3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
5. Phương pháp nghiên cứu .3
6. Giả thuyết khoa học .4
7. Lịch sử vấn đề .4
8. Cấu trúc luận văn .7
Phần 2: Nội dung .8
Chương 1: Khảo sát hệ thống CHHDHB (phần thơ hiện đại) trong hai bộ
SGK Ngữ văn chuẩn và nâng cao lớp 11 (NXB giáo dục, 2007) 8
1. Mục đích khảo sát .8
2. Thống kê, phân loại 8
2.1 Thống kê số lượng câu hỏi 8
2.2 Phân loại câu hỏi .9
3. Những ưu điểm và hạn chế của hệ thống câu hỏi (Phần thơ hiện đại) 13
3.1 Ưu điểm .14
3.1.1 Số lượng câu hỏi .14
3.1.2 Câu hỏi sáng tạo .14
3.1.3 Câu hỏi mang tính hệ thống 17
3.1.4 Câu hỏi có tính then chốt 19
3.1.5 Câu hỏi vừa sức 21
3.1.6 Câu hỏi khó 21
3.2 Nhược điểm .22
3.2.1 Câu hỏi còn chưa chú ý đến việc đọc diễn cảm cho học sinh 22
3.2.2 Câu hỏi có dung lượng kiến thức lớn và khó, chưa phù hợp với thời
gian và khả năng nhận thức của học sinh .23
3.2.3 Cách đặt câu hỏi 23
3.3 Kết luận 25
Chương 2: Tiêu chí xây dựng hệ thống CHHDHB tác phẩm văn chương trong SGK Ngữ văn 28
1. Cơ sở lí luận cho việc xây dựng hệ thống câu hỏi .28
1.1 CHHDHB thể hiện tư tưởng đổi mới phương pháp dạy học .28
1.2 Thể hiện rõ chức năng định hướng của CHHDHB .33
1.3 Vận dụng những thành tựu của thi pháp học hiện đại vào hệ thống
CHHDHB .36
1.4 Vận dụng thành tựu của ngành ngôn ngữ học hiện đại vào CHHDHB 39
1.5 Vận dụng những ưu điểm của dạy học nêu vấn đề .42
2. Những tiêu chí xây dựng hệ thống CHHDHB trong SGK Ngữ văn .46
2.1 Câu hỏi phải định hướng cho học sinh khám phá giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm 47
2.2 Câu hỏi thể hiện được đặc trưng thi pháp của tác phẩm .48
2.3 Câu hỏi có tính hệ thống .50
2.4 Câu hỏi khơi gợi tình cảm, cảm xúc, tâm hồn của học sinh 53
2.5 Câu hỏi phải chuẩn bị tâm thế cho học sinh học trên lớp 55
2.6 Câu hỏi cần phù hợp với trình độ và thời gian thực tế của học sinh .56
Chương 3: Thể nghiệm – xây dựng câu hỏi hướng vào một số bài học cụ thể .58
1. Giới thuyết chung 58
2. Xây dựng câu hỏi cho bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử .58
2.1 Bảng đối chiếu hệ thống câu hỏi sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao với câu hỏi luận văn .58
2.2 Thuyết minh cho câu hỏi luận văn 60
3. Xây dựng câu hỏi cho bài “Tôi yêu em” của Puskin .62
3.1 Bảng đối chiếu hệ thống câu hỏi sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao với câu hỏi luận văn 62
3.2 Thuyết minh cho câu hỏi luận văn 64
4. Kết luận rút ra từ câu hỏi thể nghiệm 65
Phần 3: Kết luận chung .67
Phụ lục 70
Tài liệu tham khảo .80 .
87 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2962 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài văn bản văn học lớp 11 qua hai bộ sách ngữ văn chuẩn và nâng cao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tính chất tương đối vì vẫn có sự pha trộn, hoà nhập giữa ba thể loại.
Khi hướng dẫn học sinh đi vào khám phá tác phẩm cần có những câu
hỏi bám sát đặc trưng thi pháp thể loại. Tiến sĩ Nguyễn Viết Chữ trong lời mở
đầu cuốn “Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể” đã nhấn
mạnh:“một cách dạy, cách học phù hợp với thời đại bùng nổ thông tin trên
nhiều lĩnh vực. Nhưng dù thế nào đi nữa thì vấn đề dạy học bám sát loại thể
của tác phẩm văn chương vẫn là điều cần thiết.”
Đây là một nhận định mang tính khoa học, đúng đắn, phù hợp với lối
dạy học hiện đại. Việc nhận ra các giá trị sâu xa của tác phẩm sẽ gặp nhiều
khó khăn nếu không quan tâm khai thác tác phẩm theo đặc trưng thi pháp thể
loại. Đối với tác phẩm tự sự người ta thường chú ý đến sự kiện, nhân vật, cốt
truyện, dòng trần thuật dài hơi hướng đến dòng đời đang trôi chảy...Còn với
tác phẩm trữ tình, đặc biệt là thơ thì cái được chỳ ý nhiều hơn lại là cảm xúc,
tâm trạng, cái tôi trữ tình của nhà thơ thể hiện qua hình ảnh, nhịp điệu thơ, vì
thế nên có những câu hỏi yêu cầu đọc thuộc, đọc diễn cảm, những câu hỏi về
ngôn ngữ, âm thanh, hình ảnh, giọng điệu, lời thơ, kết cấu, thời gian, không
gian nghệ thuật, con người…
Chẳng hạn khi tìm hiểu về Huy Cận thì phải hiểu được thi pháp thơ của
ông là thế giới tư tưởng, tình cảm thông qua quan niệm nghệ thuật về thế giới,
về con người, qua cách cảm thụ và tổ chức không gian, thời gian, kết cấu
ngôn từ và giọng điệu. Bài thơ “Tràng giang” đó thể hiện khá rõ nét thi pháp
thơ của Huy Cận, đó là cảm hứng về không gian nghệ thuật. Không gian trong
bài thơ được trải dài từ mặt sông lên tận chút vút đỉnh trời, được mở ra từ sâu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
thẳm vũ trụ vào tận sâu thẳm tâm linh con người. Không gian vi mô và vĩ mô
được phân hóa trở thành sự tương phản giữa vô hạn và hữu hạn và nhà thơ tự
nhận ra cái cô đơn của mình trong cái hữu hạn ấy. Để phát hiện ra được điều
này thì phải có sự dẫn dắt của CHHDHB.
Tóm lại CHHDHB phản ánh được đặc trưng thi pháp thể loại của tác
phẩm là câu hỏi hướng học sinh đi đúng con đường tiếp nhận văn học. Do đó,
khi xây dựng hệ thống câu hỏi cần chú ý bám sát đặc trung của hình tượng
văn học và những đơn vị nghệ thuật cơ bản đã tạo nên hình tượng ấy dưới ánh
sáng của thi pháp học hiện đại.
2.3 Câu hỏi có tính hệ thống:
Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật, trong đó có sự thống
nhất giữa các hệ thống sự kiện, các mối quan hệ trong nội tại tác phẩm. Khi
phân tích tác phẩm văn học chính là phân tích bản thân tính chỉnh thể không
thể tách rời các mối quan hệ của tác phẩm bởi nếu không sẽ phá vỡ tính chỉnh
thể của tác phẩm. Tính chỉnh thể được hiểu là:
Một tổng thể gồm nhiều yếu tố có mối quan hệ mật thiết nội tại
tương đối bền vững, bảo đảm cho sự hoạt động của nó cũng như mối quan hệ
của nói với môi trường xung quanh. Chỉnh thể không phải là tổng cộng đơn
giản các yếu tố tạo nên nó. Chỉnh thể là sự kết hợp siêu tổng cộng để tạo ra
nội dung mới, chức năng mới vốn không có trong các yếu tố khi tách rời ra
[ 28 ]
Việc phân tích tính chỉnh thể là một nguyên tắc bắt buộc đối với việc
phân tích tác phẩm văn chương, cho dù tác phẩm ấy thuộc thể loại nào. Con
đường nhận thức chung của loài người cũng như hoạt động khoa học thường
là diễn tiến từ thấp đến cao, từ cụ thể đến khái quát, từ bộ phận đến tổng thể.
Trong dạy học văn cũng vậy, không có con đường tiếp nhận tác phẩm văn
chương nào lại không bắt đầu từ những cảm xúc cảm tính ban đầu đến giai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
đoạn cảm xúc hóa. Do vậy hoạt động chiếm lĩnh tác phẩm cũng phải tuân theo
hệ thống, từ tri giác ngôn ngữ đến phân tích đánh giá, từ hình thức đến nội
dung, từ chi tiết bộ phận đến khái quát. Như thế CHHDHB một mặt phải hấp
dẫn, phong phú, kích thích trí tuệ và sự sáng tạo của mỗi học sinh, mặt khác
phải đảm bảo tính hệ thống, nhất quán để tạo nên những kĩ năng cần thiết
trong việc hình thành và rèn luyện khả năng tự tiếp nhận và “năng lực cảm
thụ thẩm mĩ, kĩ năng đánh giá, phân tích văn học ở một chừng mực cần cho
đời sống của con người có văn hóa” [ 31]
Có nằm trong một hệ thống thì câu hỏi mới có khả năng liên kết kiến
thức. Tianh hệ thống thể hiện ở việc trình bày, sắp xếp, lựa chọn các câu hỏi
sao cho chúng không trùng lặp mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung
và làm sáng tỏ cho nhau. Quá trình tìm hiểu tác phẩm là quá trình giải quyết
từng vấn đề trong các câu hỏi. “Mỗi câu hỏi là một cái mốc cho câu hỏi
trước, câu trước chuẩn bị cho câu sau làm thành một chuỗi những liên hệ nối
tiếp nhau trong một hệ thống những vấn đề, phản ánh được bản chất nội dung
và nghệ thuật của tác phẩm” [ 6 ]
Ví dụ khi định hướng cho học sinh tiếp cận với tác phẩm “Chiều tối”
của Hồ Chí Minh, không thể đưa ra cho học sinh câu hỏi tìm ngay vẻ đẹp tâm
hồn của Hồ Chí Minh được mà phải có những câu hỏi dẫn dắt các em từng
bước khám phá. Có thể đưa ra câu hỏi như:
(1) Cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên trong hai câu thơ đầu?
(2) So với thơ ca cổ, bức tranh thiên nhiên trong hai câu đầu có gì
giống và khác? Từ đó em phát được điều gì kín đáo ẩn sâu sau bức họa bằng
ngôn từ kia?
Mục đích của câu hỏi thứ nhất nhằm tạo cho học sinh có sự cảm nhận
chung về nội dung hai câu thơ đầu. Để thực hiện được công việc này trước hết
học sinh phải tái hiện lại một khung cảnh thiên nhiên nơi núi rừng lúc chiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
tối. Có cánh chim chiều mệt mỏi đang bay về tổ. Có chòm mây lẻ loi, lững lờ
trôi giữa tầng không. Đó là một không gian rộng lớn, thinh vắng trong cái thời
khắc cuối cùng của một ngày.
Câu hỏi thứ hai đòi hỏi học sinh phải nắm được các dẫn chứng trong
thơ Bác, từ đó phát hiện ra tâm trạng và vẻ đẹp tâm hồn tác giả. Cũng giống
như trong thơ ca cổ điển phương Đông, khung cảnh thiên nhiên trong hai câu
đầu đó được phác họa bằng những nét chấm phá. Nhà thơ không nghiêng về
tả mà chỉ gợi ra một vài nét, cốt ghi lấy cái linh hồn của tạo vật. Mặc dù vậy
hình tượng cánh chim, chòm mây không chỉ được quan sát ở trạng thái vận
động bên ngoài như trong thơ xưa mà còn được cảm nhận rất sâu ở trạng thái
bên trong. Có thể tìm thấy một sự gần gũi tương đồng giữa cánh chim mệt
mỏi sau một ngày kiếm ăn với người tù đã thấm mệt sau một ngày vất vả lê
bước trên đường. Chòm mây như đang mang tâm trạng lẻ loi, đơn độc và cái
băn khoăn, trăn trở chưa biết tương lai phía trước sẽ đi đến đâu của người tù
nơi đất khách.
Từ bức tranh thiên nhiên ấy, học sinh thấy được một cái nhìn trìu mến
dõi theo từng biểu hiện của tạo vật của nhà thơ. Mệt mỏi, đau đớn và chán
chường vậy mà cảm hứng thơ vẫn đến với Bác. Không có chân dung người tù
khổ ải mà chỉ hiện ra cái dáng vẻ, phong độ của bậc tao nhân mặc khách đang
ung dung, thư thái ngoạn cảnh chiều hôm nơi rừng núi. Những câu thơ mềm
mại nhưnng thực ra lại có “chất thép” bên trong. Nếu không có ý chí và nghị
lực phi thường vượt lên trên hoàn cảnh, nếu không có bản lĩnh kiên cường và
sự tự chủ, tự do hoàn toàn về tinh thần ở Bác thì khó có được những vần thơ
cảm nhận thiên nhiên sâu sắc và tinh tế đến như vậy.
Điều thể hiện rất rõ của câu hỏi thứ hai là sự tiếp nối kiến thức của câu
hỏi thứ nhất. Quá trình vận dụng hiểu biết để giải quyết câu hỏi thứ nhất chính
là quá trình hình thành kiến thức cần thiết, làm cơ sở cho việc giải quyết câu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
hỏi thứ hai. Sự liên kết câu hỏi trước và câu hỏi sau tạo ra tính liên tục và sự
liên kết kiến thức thành một hệ thống khiến học sinh dễ dàng đi từ vấn đề này
sang vấn đề khỏc.
Như vậy có nằm trong một hệ thống thì câu hỏi mới có khả năng liên
kết kiến thức và định hướng hoạt động phân tích, cắt nghĩa để khám phá các
lớp nghĩa tiềm ẩn của tác phẩm.
2.4 Câu hỏi khơi gợi tình cảm, cảm xúc của học sinh:
Văn học là nghệ thuật, nó thuộc phạm trù thẩm mĩ nhưng văn học cũng
là thế giới thanh lọc tâm hồn con người, vì thế nó cũng thuộc phạm trù đạo
đức. Ngoài việc cung cấp kiến thức văn học, rèn luyện tư duy, kĩ năng, kĩ xảo
môn văn còn có vai trò quan trọng hơn là hình thành nhân cách, nuôi dưỡng
tâm hồn tình cảm, cảm xúc cho học sinh.
Học sinh trong giờ học tác phẩm văn chương vừa cảm được cái hay, cái
đẹp của câu chữ, vừa có thể phát triển toàn diện trí tuệ, tâm hồn. Cái khó của
việc dạy văn thơ là làm sao cảm nhận được nội tâm của tác giả và chuyển
được tiếng nói nội tâm đó sang đời sống nội tâm người đọc. Nghĩa là khám
phá một tác phẩm văn học, học sinh không thể chỉ dừng lại ở mức tìm hiểu
thế giới nghệ thuật của tác giả mà con đường phải đi đến là phải có một sự
vận động cảm xúc nội tâm, bộc lộ được những rung động trước thế giới nghệ
thuật của nhà văn. Từ những giờ học văn các em có được những biến đổi
trong tâm hồn để từ đó tự hoàn thiện nhân cách, tâm hồn, nuôi lớn ước mơ tới
chân giá trị của Chân-Thiện-Mĩ. Những cảm xúc mãnh liệt - cảm xúc thẩm mĩ
sẽ làm cho học sinh thực sự có sự chuyển hóa bên trong của nhận thức và tình
cảm, khi đó “Tác phẩm văn chương từ chỗ là một đối tượng thẩm mĩ đã trở
thành một nguồn sống khởi động quá trình chuyển biến và chuyển hóa tâm
hồn, tư tưởng, tình cảm của người đọc học sinh” [ 12 ]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
Giáo sư phan Trọng Luận khẳng định “Sức mạnh của tác phẩm văn
học là sức mạnh của tình cảm. Tác phẩm văn học đánh thức, khêu gợi tâm
hồn rung động của người đọc.” [ 18 ]
Belinskij cũng đã nói:
Nghệ thuật không thừa nhận những triết lí trừu tượng, càng không
thừa nhận những khái niệm lí tính. Nghệ thuật chỉ thừa nhận những ý niệm có
chất thơ mà ý niệm có chất thơ không phải là tam đoạn luận, không phải là
giáo điều, không phải là quy tắc; đó là nhiệt tình sôi nổi, đó là sự đam mê
Ví dụ với bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, việc xây dựng câu
hỏi khơi gợi tình cảm, cảm xúc sẽ tạo ra sự giao cảm tâm hồn và sự cộng
hưởng cảm xúc của học sinh với tác giả thông qua tác phẩm. Có thể đưa ra
câu hỏi như:
Theo em nội dung bao trùm của bài thơ là gì? Tâm trạng của em sau
khi học xong bài thơ?
Câu hỏi này vừa giúp học sinh thấy được cái hay, cái đẹp của bài thơ,
vừa khơi dậy trong các em lòng cảm thông, trân trọng vẻ đẹp tâm hồn, khát
vọng của một con người tài hoa đó vượt qua nỗi bất hạnh tột cùng để hướng
về cuộc sống, hướng về con người. Từ nguồn cảm xúc đó, học sinh biết yêu
cuộc sống, biết quý trọng cuộc sống xung quanh mình. Đồng thời có một thái
độ sống tích cực lành mạnh, có ý nghĩa.
Đối với bài thơ “Tôi yêu em” của Puskin, có thể đưa ra câu hỏi:
Vẻ đẹp tâm hồn của Puskin trong bài thơ gợi cho em những suy nghĩ
gì?
Từ việc cảm nhận một Puskin giàu tình cảm và rất chân thành, một trái
tim nồng nàn say đắm, một tâm hồn cao cả vị tha, học sinh sẽ rút ra được
những quan niệm đúng đắn về tình yêu và có thái độ ứng xử có văn hóa trong
tình yêu nói riêng và trong cuộc sống núi chung. Tâm hồn các em cũng vì thế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
mà thêm trong sáng và phong phú. Nghĩa là các em biết sống dào dạt trong
tâm hồn mình những tình cảm lành mạnh, trong sáng.
Những điều trình bày ở trên đã cho thấy việc định hướng cho học sinh
tìm hiểu tác phẩm văn chương ở nhà nhất thiết phải có câu hỏi khơi gợi được
tình cảm, cảm xúc, tâm hồn của học sinh. Hệ thống câu hỏi cảm xúc phải đi
sâu vào cảm xúc thẩm mĩ, tạo ra đựơc những giao cảm tâm hồn, những rung
động, những hứng thú sâu sắc của học sinh để từ đó các em có những phát
hiện, cảm nhận độc đáo, tinh tế, nhạy cảm về cái hay, cái đẹp của tác phẩm và
khi đú bạn đọc học sinh gửi gắm “Thế giới nội tâm của mình bằng tất cả sức
mạnh của sự từng trải và thể nghiệm, không phải vay mượn của một ai khác
mà đích thực của chính riêng mình” [ 11 ]
2.5 Câu hỏi phải chuẩn bị tâm thế cho học sinh học trên lớp:
Một giờ dạy học tác phẩm văn chương có chất lượng tốt là giờ dạy mà
ở đó học sinh có sự chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Có thể nói đây là một
khâu không thể thiếu nếu muốn đạt kết quả cao trong tiếp nhận tác phẩm văn
chương. Hệ thống câu hỏi trong SGK như những công cụ và những định
hướng ban đầu rất cần thiết để giúp học sinh hiểu đỳng, cảm nhận đỳng đắn
tỏc phẩm văn học. Nghĩa là thông qua những câu hỏi này, học sinh lựa chọn
phương hướng chuẩn bị để tự mình bước đầu cảm nhận được, hiểu được cái
hay, cái đẹp của tác phẩm cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật, tránh được
những liên tưởng tùy tiện hoặc phi văn bản. Trước khi tới lớp học sinh đã có
những trăn trở, suy nghĩ về vấn đề được đặt ra trong tác phẩm và trên cơ sở
những kiến thức đã thu nhận được ở nhà, khi học sinh đến lớp kiến thức đó sẽ
được mở rộng, đào sâu hơn. Như vậy CHHDHB phải là những gợi mở, những
định hướng tạo cho học sinh một chỗ dựa, một tâm thế để các em tiếp tục khai
thác, phân tích tác phẩm khi đến lớp. Việc trả lời tốt câu hỏi trong SGK sẽ là
yếu tố quan trọng góp phần vào sự thành công của tiết học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
2.6 Câu hỏi cần phù hợp với trình độ và thời gian thực tế của học
sinh:
Chương trình trung học phổ thông ngày càng được nâng cao, đáp ứng
được yêu cầu đi lên của khoa học kĩ thuật. Trình độ của học sinh nói riêng và
trình độ tri thức, văn hoá của người Việt Nam nói chung cũng được nâng cao.
Nhưng cái không phù hợp cũng vẫn còn. Chương trình yêu cầu cao mâu thuẫn
với trỡnh độ và thời gian thực tế của học sinh. Bạn đọc học sinh trong nhà
trường THPT là đối tượng bạn đọc đặc biệt. Với khả năng tập trung tư duy
chưa cao, với trải nghiệm đời sống và kinh nghiệm hiểu biết văn chuơng nghệ
thuật còn hạn chế, với “tầm đón” không ngang nhau, có em có khả năng phân
tích tổng hợp, nhận thức tốt, phát hiện được những vấn đề cơ bản nhưng cũng
có em lại không có khả năng đó, nên đứng trước văn bản ngôn từ của những
bài thơ hay, tiêu biểu được lựa chọn trong SGK không phải dễ dàng mà học
sinh khám phá được vẻ đẹp và tiếp cận những giá trị nhân văn, thẩm mĩ đích
thực của tác phẩm. Bên cạnh đó, môi trường, điều kiện xã hội học tập văn
háa, đời sống cụ thể của các em khác nhau, vì thế khi đặt câu hỏi, người biên
soạn cần chú ý đến mặt bằng tiếp nhận sao cho phù hợp với trình độ chung
của các em. Nếu dung lượng câu hỏi quá giản đơn, quá dễ dàng sẽ gây cho
học sinh tâm lí chủ quan, coi thường, không cần suy nghĩ, làm giảm bớt khả
năng tư duy về trí tuệ, nhưng nếu dung lượng câu hỏi nặng, quá sức, khiến
học sinh không giải đáp hết được vấn đề sẽ gây tâm trạng chán nản hoặc hiểu
câu hỏi một cách mơ hồ, không có lợi cho quá trình tự tìm hiểu tác phẩm.
Đồng thời với dung lượng là số lượng câu hỏi cần phải bố trí sao cho
hợp lí. Câu hỏi ở mỗi bài học không nên nhiều quá, cũng không nên ít quá.
Theo chúng tôi, mỗi bài học chỉ nên có từ 4 đến 5 câu hỏi là hợp lí bởi không
phải em nào cũng có nhiều thời gian cho việc tự học, nhất là ở nông thôn và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
miền núi. Các em không chỉ đi học mà còn phải lao động kiếm sống, đầu tư
cho các hoạt động khác như vui chơi, giải trí…
Một yêu cầu đặt ra đối với CHHDHB là số lượng câu hỏi, nội dung
câu hỏi, yêu cầu hoạt động của câu hỏi phải phù hợp với trình độ và thời gian
thực tế của học sinh. Sự phù hợp ấy làm cho học sinh không chỉ học được,
chuẩn bị được một môn mà còn nhiều môn khác. Không chỉ học được bài cũ
mà còn chuẩn bị được bài mới, không những chuẩn bị đủ mà còn được sâu
hơn với tất cả các câu hỏi. Điều này sẽ tạo cho học sinh hứng thú học tập,
tránh được sự nhàm chán không nên có.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
Chƣơng 3
THỂ NGHIỆM - XÂY DỰNG CÂU HỎI
HƢỚNG VÀO MỘT SỐ BÀI HỌC CỤ THỂ
1. Giới thuyết chung:
Dựa trên cơ sở lí luận và thực tiễn đã trình bày ở các chương trên,
chúng tôi thể nghiệm câu hỏi vào một số bài học cụ thể ở lớp 11 Trung học
phổ thông.
Chúng tôi tiến hành xây dựng câu hỏi cho hai bài học “Đây thôn Vĩ
Dạ” của Hàn Mặc Tử, và “Tôi yêu em” của Puskin.
Câu hỏi thể nghiệm được nêu bên cạnh những câu hỏi trong SGK Ngữ
văn chuẩn và nâng cao lớp 11 hiện hành.
2. Xây dựng câu hỏi cho bài “đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.
2.1 Bảng đối chiếu hệ thống câu hỏi sách Ngữ văn chuẩn và nâng
cao với câu hỏi luận văn.
Câu hỏi của sách chuẩn
và sách nâng cao
Câu hỏi của luận văn
Sách chuẩn:
Câu 1: Phân tích nét đẹp của phong
cảnh và tâm trạng của tác giả trong
khổ thơ đầu.
Câu 2: Hình ảnh gió, mây, sông ,
trăng trong khổ thơ thứ hai gợi cảm
xúc gì?
Câu 3: ở khổ thơ thứ ba, nhà thơ bộc
Câu 1: Đọc diễn cảm và cho biết
thiên nhiên thôn Vĩ trong tưởng
tượng của nhà thơ hiện lên như thế
nào ở khổ thơ đầu? Qua bức tranh
thiên nhiên đó, em thử hình dung tâm
trạng của nhà thơ.
Câu 2: Ở khổ thơ thứ hai cảnh vật,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
58
lộ tâm sự của mình như thế nào? Chút
hoài nghi trong câu thơ “Ai biết tình
ai có đậm đà” có biểu hiện niềm tha
thiết với cuộc đời không? Vì sao?
Câu 4: Có gì đáng chú ý trong tứ thơ
và bút pháp của bài thơ?
Sách nâng cao:
Câu 1: Bài thơ có ba khổ, mỗi khổ
nghiêng về một cảnh sắc, một tâm
tình. Hãy nêu nhận xét về sắc thái
khác nhau ở mỗi khổ thơ và mạch liên
kết giữa các khổ.
Câu 2: Mỗi khổ thơ trong bài đều
chứa đựng câu hỏi. Các câu hỏi ấy đã
góp phần tạo nên âm điệu riêng của
bài thơ. Âm điệu ấy đã thể hiện mạch
tâm trạng gì của tác giả?
Câu 3: Hình ảnh “Nắng hàng cau
nắng mới lên” thật giản dị, cũng thật
giàu sức gợi. Hãy dùng những hiểu
biết và trí tưởng tượng của mình để
cảm nhận và tái tạo vẻ đẹp của hình
ảnh ấy.
Câu 4: Anh (chị) có cảm nhận gì về ý
nghĩa của hai câu thơ “Gió theo lối
gió mây đường mây- Dòng nước buồn
không gian, thời gian, màu sắc, điểm
nhìn của tác giả có sự vận động như
thế nào từ khổ một sang khổ hai?
Theo em, ấn tượng nhất trong bức
tranh thiên nhiên thứ hai của Vĩ Dạ là
hình ảnh nào?
Câu 3: Cảnh vật được miêu tả trong
bức tranh thiên nhiên thứ ba có gì
khác với cảnh vật ở khổ thơ thứ nhất
và thứ hai? Tứ thơ vận động có tuân
theo mạch lô gíc kết cấu không? Vì
sao?
Câu 4: Mỗi khổ thơ có một câu hỏi,
những câu hỏi đó có tác dụng gì trong
việc liên kết cấu trúc nội tại của bài
thơ? Nhà thơ muốn nói gì qua câu hỏi
cuối bài thơ? Qua đó giúp em hiểu gì
về hồn thơ và con người Hàn Mặc
Tử?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
59
thiu hoa bắp lay”?
Câu 5: Khổ thơ thứ hai có câu
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó-
Có chở trăng về kịp tối nay.” Chữ
“kịp” gợi lên điều gì về mối tâm tư
đầy uẩn khúc của tác giả?
Câu 6: Câu thơ “Ai biết Tình ai có
đậm đà” có chút hoài nghi. Theo anh
(chị) đó là nỗi hoài nghi của sự chán
đời hay của niềm tha thiết với cuộc
đời? Tại sao?
Câu 7: Học thuộc lòng bài thơ.
Câu hỏi 1: Câu hỏi này đòi hỏi học sinh đọc bài thơ nhiều lần và phải
huy động trí tưởng tượng của mình để thực sự tham gia vào thế giới của tác
phẩm, được sống cùng tác phẩm. Từ đó mới thấy được bức tranh thôn Vĩ đẹp,
tươi sáng, trong trẻo, gợi cảm và đầy sức sống. Qua bức tranh thôn Vĩ ở khổ
một, học sinh còn hình dung ra tâm trạng hân hoan, phấn chấn, niềm vui khi
nhận được tín hiệu tình cảm của người trong mộng (dù chỉ là trong cảm nhận
của nhà thơ), niềm hi vọng lóe sáng về tình yêu, hạnh phúc.
Câu hỏi 2: Đây là câu hỏi so sánh, gợi mở để dẫn dắt học sinh phân
tích sự vận động của tứ thơ từ khổ một sang khổ hai, từ niềm hân hoan trước
cảnh đẹp và tình người thôn Vĩ, thi tứ Hàn Mặc Tử vụt bay đến một cõi miền
đau thương đối lập, gợi sự chia lìa, tan tác. Với câu hỏi này, học sinh còn tìm
ra được một sáng tạo thẩm mĩ mới mẻ, độc đáo của hình tượng thơ Hàn Mặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
60
Tử là hình ảnh “sông trăng”. Hình ảnh này như một nét vẽ thơ mộng, chất
chứa cái thần thái, “linh hồn” của cảnh sắc thiên nhiên xứ sở.
Câu hỏi 3: Câu hỏi cho học sinh tiếp tục so sánh, phát hiện, tìm ra sự
vận động khác nhau của ba khổ thơ. Mỗi khổ là một sự bứt phá của thi tứ,
không tuân theo mạch lô gíc thông thường nhưng vẫn có chỗ liền nhau, đó là
trạng thái xúc cảm. Mỗi khổ là một bức tranh riêng về Vĩ Dạ, tưởng như
không ăn khớp với nhau nhưng thực ra nó vẫn nằm trong mạch cảm xúc
chung của cả bài: Cảnh thôn Vĩ đẹp, người thôn Vĩ duyên dáng đang vẫy gọi
thi nhân nhưng thi nhân không thể trở về vì mặc cảm số phận. Bởi thế đằng
sau câu chữ kia ẩn chứa nỗi buồn, nỗi đau đời và niềm khát khao sự đồng cảm
của người đời.
Câu hỏi 4: Câu hỏi đã hướng dẫn học sinh nhận diện và phân tích được
giá trị thẩm mĩ của câu hỏi tu từ. Hồn thơ Hàn Mặc Tử là sự tuôn trào mãnh
liệt cảm xúc và câu hỏi tu từ được nhà thơ sử dụng như một thứ nghệ thuật
riêng của mình để bộc lộ thế giới tâm hồn, tình cảm. Dòng chảy của chuỗi
phát ngôn trữ tình được tạo thành bởi ba câu hỏi nghi vấn cuối mỗi khổ thơ và
mối quan hệ giữa các bức tranh phong cảnh chỉ là dòng chảy của một quá
trình tâm trạng chứa đựng bên trong hai mặt sáng và tối giống như hai đối cực
của một thể thống nhất thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau.
Ý thứ nhất của câu hỏi mở ra hướng giải quyết vấn đề ở ý hai và ý ba.
Câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải vận dụng năng lực văn chương kết hợp với
tư duy tổng hợp khái quát để phát huy khả năng sáng tạo, tình cảm thẩm mĩ.
Cảm nhận được lòng yêu đời, ham sống mãnh liệt, khát khao tình yêu, khát
khao giao cảm với đời của hồn thơ Hàn Mặc Tử nghĩa là các em đã nắm bắt
được chiều sâu của tác phẩm
Tóm lại: Theo chúng tôi, bốn câu hỏi trên phù hợp với con đường nhận
thức, khám phá tác phẩm của học sinh. Có những câu hỏi là sự kết hợp giữa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
61
hai yếu tố tái hiện và sáng tạo, có những câu hỏi khơi gợi trí liên tuởng, tưởng
tượng cao. Tất cả đều nhằm mục đích phát huy tính tích cực, chủ động học tập
của học sinh.
3. Xây dựng câu hỏi cho bài “Tôi yêu em” của Puskin.
2.1 Bảng đối chiếu hệ thống câu hỏi sách Ngữ văn chuẩn và nâng
cao với câu hỏi luận văn.
Câu hỏi của sách chuẩn
và sách nâng cao
Câu hỏi của luận văn
Sách chuẩn:
Câu 1: Điệp khúc nào làm nổi bật
cảm xúc chủ đạo của bài thơ? Bài thơ
dường như là lời từ giã cho một mối
tình không thành. Lời từ giã của
Puskin có gì đặc biệt.
Câu 2: Giọng điệu trữ tình chuyển
biến như thế nào từ hai câu 1-2 sang
hai câu 3-4 và từ hai câu 5-6 sang hai
câu 7-8? Diễn biến tâm trạng phức
tạp của nhân vật trữ tình được thể
hiện tinh tế ra sao?
Câu 3: Tại sao có thể nói hai câu kết
là bất ngờ, hàm chứa nhiều ý vị?
Câu 4: Bài thơ gợi cho anh (chị)
những cảm nghĩ gì về tâm hồn Puskin
và về tình yêu?
Câu 1: Đọc bài thơ nhiều lần và em
hãy cho biết cụm từ mở đầu “tôi yêu
em”so với câu dịch nghĩa trong phần
chú thích thì bản dịch thơ cụm từ này
đã chuyển dịch hết nghĩa chưa? Vì
sao?
Câu 2: Giọng điệu trữ tình chuyển
biến từ câu 1 đến câu 8 như thế nào?
Sự chuyển biến đó đã phơi mở đáy
sâu tâm hồn nhân vật trữ tình những
lớp sóng tình cảm phức tạp nhưng lại
rất tế nhị ra sao?
Câu 3: Điệp khúc thứ ba gắn liền với
hai câu cuối. Theo em hai câu kết có
bất ngờ và hàm chứa nhiều ý vị
không? Vì sao? Từ đó nêu những cảm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
62
Sách nâng cao:
Câu 1: Đọc diễn cảm bài thơ, lưu ý
cụm từ “tôi yêu em” và vị trí của cụm
từ này trong bài, hãy tìm hiểu kết cấu
bài thơ và diễn biến tâm trạng của
nhân vật trữ tình.
Câu 2: Tình cảm phức tạp, tế nhị của
nhân vật trữ tình trong bài thơ được
Puskin diễn tả tinh tế như thế nào qua
bốn câu thơ đầu?
Câu 3: Cảm xúc trong hai câu thơ
“tôi yêu em âm thầm không hy vọng-
Lúc rụt rè khi hậm hực lòng ghen”có
gì đặc biệt? Nó hé mở trạng thái tình
cảm gì trong nhân vật trữ tình?
Câu 4: Xu hướng vươn tới sự cao cả
trong tư tưởng, tình cảm là đặc trưng
cơ bản của thơ Puskin. Phân tích hai
câu thơ cuối để chứng minh.
nhận của em về nhân vật trữ tình.
Câu 4: Bài thơ trong sáng giản dị đến
mức gần như không cần một chú giải
nào, hình ảnh thơ không mĩ lệ, không
sử dụng các biện pháp tu từ nhưng
vẫn cuốn hút người đọc. Theo em sức
hấp dẫn của bài thơ ở đâu? Qua bài
thơ hãy rút ra những quan niệm đúng
đắn về tình yêu và thái độ ứng xử văn
hóa trong tình yêu.
Câu 5: Học thuộc bài thơ.
3.2 Thuyết minh cho câu hỏi luận văn.
Câu hỏi 1: Câu hỏi này sẽ giúp cho học sinh tìm ra được tận cùng ý
nghĩa giá trị của tác phẩm, tránh được những sai lầm chỉ quan tâm phân tích
câu chữ trong bài thơ dịch mà bỏ sót những ý nghĩa giá trị ẩn sâu trong bề mặt
câu chữ. “yêu” trong bản dịch thơ khác với “đã yêu” trong bản dịch nghĩa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
63
“Đã yêu” nghĩa là có khoảng cách quá khứ - hiện tại. Tình yêu đẩy về quá
khứ và thoạt nghe không mãnh liệt bằng “tôi yêu em” nhưng không phải vì
thế mà bản dịch nghĩa làm cho bài thơ giảm giá trị. Lí trí của nhân vật trữ tình
cương quyết bao nhiêu thì tình cảm lại mãnh liệt hơn bấy nhiêu, nó trào dâng,
nhấn chìm lí trí xuống để trái tim tự cất tiếng hát. Và như vậy vô hình chung
bản dịch thơ không thể hiện được hết điều này. Câu hỏi 1 là phương tiện cho
học sinh đi vào khám phá bài thơ.
Câu hỏi 2: Đây là câu hỏi mang tính gợi mở nhằm phát huy khả năng
sáng tạo, giúp cho học sinh khám phá nội tâm nhân vật trữ tình, hướng các em
tìm ra sự chuyển biến giọng điệu trữ tình: Từ phân vân, ngập ngừng tới kiên
quyết dứt khoát rồi day dứt, dằn vặt và cuối cùng là thiết tha, điềm tĩnh.
Khi đã tìm ra được sự chuyển biến giọng điệu, các em sẽ thấy được
những lớp sóng tình cảm: yêu đương cháy bỏng trong âm thầm, cuồng nhiệt
trong vô vọng, đắm đuối đến bối rối. Âu lo, thắc thỏm, trăn trở, day dứt, và
rồi sôi nổi mạnh mẽ, tràn đầy sinh lực của một trái tim yêu.
Trả lời được câu hỏi này là các em đã đi được vào chiều sâu của tác
phẩm.
Câu hỏi 3: Với câu hỏi nêu vấn đề này sẽ khích lệ học sinh tìm tòi, phát
hiện, lí giải để đưa ra ý kiến của riêng mình. Quá trình lí giải, đưa ra ý kiến
cũng là quá trình tư duy sáng tạo, giúp các em tìm ra được sự bất ngờ của hai
câu kết, đó là nhân vật trữ tình quên đi cái tôi của mình để vươn tới cái cao cả
của tình yêu chân thành, cao thượng.
Từ ý thứ nhất của câu hỏi, học sinh sẽ tìm ra câu trả lời cho ý thứ hai.
Câu hỏi này không chỉ giúp cho các em dừng lại ở việc chiếm lĩnh giá trị của
một tác phẩm mà quan trọng hơn là các em cảm nhận và hiểu được vẻ đẹp của
tình yêu và tâm hồn Puskin: chân thành, say đắm, nhân hậu và cao cả.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
64
Câu hỏi 4: Câu hỏi nhằm yêu cầu học sinh tìm hiểu giá trị nghệ thuật
của bài thơ. Đó là ngôn ngữ trong sáng, giản dị, giàu nhạc điệu. Vẻ ngọc của
bài thơ sáng lên chủ yếu ở xu hướng vươn tới sự cao cả trong tâm hồn và tư
tưởng. bên cạnh đó, câu hỏi này còn chú trọng đến chức năng tác động của
văn bản đối với bạn đọc học sinh. Câu hỏi rèn cho các em kĩ năng đánh giá
bằng quan điểm và suy nghĩ sâu sắc của mình, kích thích các em bộc lộ cảm
xúc, suy nghĩ bên trong, tạo bước chuyển trong tình cảm và nhận thức.
Khi đã trả lời được ba câu hỏi trên, đến câu hỏi này học sinh sẽ rút ra
được những quan niệm đúng đắn về tình yêu như: tình yêu phải xuất phát từ
hai phía, phải xuất phát từ những tình cảm chân thành, say đắm, mãnh liệt, vị
tha...Từ quan niệm đúng đắn đó mới có được thái độ ứng xử văn hóa trong
tình yêu.
Câu hỏi 5: Câu hỏi này không mang tính bắt buộc nhưng khích lệ học
sinh học thuộc để khi đến lớp, dưới sự định hướng của thầy cô các em sẽ lĩnh
hội bài học tốt hơn.
Tóm lại nếu học sinh giải quyết được 5 câu hỏi trên thì về cơ bản dã
đáp ứng được yêu cầu kiến thức mà bài học đặt ra. Các câu hỏi được sắp xếp
theo hệ thống lô gíc, câu trước là bước đệm cho câu sau, thiên về tính sáng tạo
nhằm tác động vào tính tích cực, chủ động của các em.
4. Kết luận rút ra từ câu hỏi thể nghiệm:
Từ những câu hỏi thể nghiệm của hai bài “Đây thôn Vĩ Dạ” và “Tôi
yêu em”, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
Câu hỏi đưa ra cho mỗi bài học đều nằm trong một thể thống nhất,
mang tính gợi mở, định hướng cho học sinh nắm bắt sơ bộ được giá trị nội
dung và nghệ thuật của văn bản văn chương.
Chúng tôi chú trọng đến những câu hỏi sáng tạo khiến học sinh phải
cân nhắc kĩ trước khi trả lời, gợi ra những liên tưởng, tưởng tượng, tạo hứng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
65
thú cho học sinh. Với những loại câu hỏi như vậy, học sinh không chỉ dừng
lại ở việc phát hiện mà còn được định hướng vào chiều sâu những chi tiết và
các nút then chốt của bài học. Do vậy câu hỏi có khả năng kích lệ các em tìm
tòi, giải đáp và kết quả là các em không chỉ khắc sâu được kiến thức mà còn
được rèn luyện khả năng tư duy sáng tạo.
Chúng tôi còn quan tâm đến cách đặt câu hỏi nhằm tác động vào cảm
xúc, tâm hồn và tình cảm của học sinh. Điều này có nghĩa là câu hỏi phải có
tác dụng nuôi dưỡng cảm xúc, nhân cách và tâm hồn cho học sinh.
Khi đưa ra câu hỏi cho mỗi bài học, chúng tôi chú trọng đến tính vừa
sức của câu hỏi. Tức là câu hỏi phù hợp với trình độ tiếp nhận tác phẩm văn
chương của học sinh. Nếu chịu khó tìm hiểu và nắm vững yêu cầu về kiến
thức đặt ra trong bài học thì đa số các em sẽ giải quyết đúng hướng những câu
hỏi đưa ra. Bên cạnh đó, những câu hỏi này buộc học sinh phải hoàn toàn độc
lập suy nghĩ, tìm hiểu ở nhà. Nghĩa là sau khi chuẩn bị bài ở nhà thì các em đã
có thể tự mình thâm nhập và nắm bắt tác phẩm một cách cơ bản (dĩ nhiên là
theo cách tiếp nhận của các em). Quá trình học ở trên lớp chỉ là sự điều chỉnh,
uốn nắn, bổ sung qua trao đổi với thầy, với bạn để khẳng định và củng cố cho
cách hiểu, cách cảm của chính bản thân các em.
Mục đích mà chúng tôi đặt ra trong các câu hỏi thể nghiệm tất cả không
nằm ngoài việc hướng vào đối tượng học sinh, chủ thể tiếp nhận của quá trình
dạy học. Tất cả hướng đến phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo,
đem lại niềm hứng thú trong học tập cho học sinh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
66
PhÇn 3: KÕt luËn chung
CHHDHB là một khâu cực kỳ quan trọng, quyết định hiệu quả dạy và
học tác phẩm văn chương, đồng thời cũng thể hiện sự nghiên cứu công phu
trên cơ sở những hiểu biết khoa học của các ngành khoa học liên quan như:
ngôn ngữ, thi pháp, sư phạm hiện đại...
CHHDHB còn là một vấn đời sự khoa học vì cho đến nay chưa được
nghiên cứu công phu và chưa được quan tâm thỏa đáng. Lịch sử nghiên cứu
vấn đề về câu hỏi còn có phần mờ nhạt, những công trình nghiên cứu về câu
hỏi trong SGK mới chỉ ở mức độ khiêm tốn. Vì thế việc đưa ra những giải
pháp để xây dựng một tiêu chí thống nhất cho hệ thống CHHDHB là việc làm
cần thiết, thường xuyên và phải được chú trọng hơn.
Hệ thống câu hỏi trong hai bộ sách giáo khoa Ngữ văn chuẩn và nâng
cao đã bộc lộ rõ ý đồ đổi mới của người biên soạn, ®ó là chú trọng đến tính
sáng tạo của người học qua những câu hỏi có tính sáng tạo cao. Tuy nhiên do
chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của CHHDHB nên nhiều giáo viên vẫn còn
tình trạng tùy tiện, thiếu đầu tư chính đáng trong dạy và học. Số lượng câu hỏi
được giáo viên vận dụng để khai thác và làm sáng tỏ bài giảng còn ít. Mối
quan hệ giữa câu hỏi trong SGK văn học và câu hỏi trên lớp trong giờ giảng
văn của giáo viên còn lỏng lẻo, ít hỗ trợ cho nhau. Điều quan trọng đặt ra là
nếu như không có sự cố gắng nỗ lực từ phía giáo viên thì không những không
đổi mới được phương pháp dạy học văn mà vô hình chung chúng ta lại dễ trở
về với lối mòn dạy học cũ. Với đề tài này của luận văn, chúng tôi hy vọng góp
một phần nhỏ vào việc thay đổi cách nhìn nhận và vận dụng CHHDHB trong
SGK đối với quá trình dạy và học của giáo viên.
CHHDHB theo chúng tôi là một khâu then chốt liên quan đến quá trình
học tác phẩm văn chương của học sinh. Hệ thống câu hỏi phong phú, toàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
67
diện, đồng bộ, thống nhất và có cơ sở khoa học thì sẽ hình thành và rèn luyện
cho học sinh kĩ năng bình giá, phân tích và năng lực tự tiếp nhận tác phẩm
văn học tốt hơn. Khi đặt ra câu hỏi tức là đã đặt học sinh vào một vấn đề nào
đó cần giải quyết, buộc các em phải động não, suy nghĩ tìm ra lời giải đáp, từ
đó chủ động tiếp thu kiến thức. Điều này gây được tâm thế hứng thú học tập
văn bản, tạo được hiệu quả cao trong việc học ở nhà cũng như ở trên lớp của
học sinh.
Bên cạnh đó hệ thống CHHDHB còn là khâu then chốt liên quan đến
hiệu quả giảng dạy của giáo viên. Một giáo án tốt, có tính chất khoa học, hiện
đại thì không thể thiếu hệ thống câu hỏi hướng vào học sinh, giúp học sinh tự
chiếm lĩnh tri thức, phải có sự đắn đo, cân nhắc tới từng đối tượng học sinh và
không thể không dựa vào hệ thống CHHDHB. Giáo viên có thể vận dụng
sáng tạo để xây dựng cho mình một hệ thống câu hỏi chuẩn xác và thiết thực,
có tác dụng rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh, từ đó góp phần mang đến
một giờ dạy học tác phẩm văn chương có chất lượng tốt.
Chúng ta chỉ có thể có một hệ thống câu hỏi cho giờ dạy học văn tốt
khi CHHDHB trong SGK được biên soạn công phu và chuẩn xác, kết hợp với
sự tích cực, chủ động và sáng tạô trong suy nghĩ của mỗi giáo viên đứng lớp.
Mặc dù vậy, chúng ta có thể khẳng định hệ thống CHHDHB trong
SGK hiện hành chưa phải đã hoàn thiện. Bên cạnh những mặt đã đạt được thì
vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định. Đây cũng là điều dễ hiểu, vì đổi mới
phương pháp dạy học văn nói chung và đổi mới hệ thống câu hỏi trong SGK
nói riêng cần phải có thời gian lâu dài và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác.
Bởi vậy chúng ta chỉ có thể nhìn nhận, đánh giá nó trong sự vận động và phát
triển mà thôi.
Nâng cao hiệu quả và chất lượng dạy học Ngữ văn luôn luôn là mục
tiêu hướng đến của ngành giáo dục nói chung và của các thầy cô giáo trực tiếp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
68
làm công tác giảng dạy văn học nói riêng. Thực hiện đề tài này, cùng với lòng
nhiệt huyết nghề nghiệp, chúng tôi mong muốn góp mét phần nhá vào việc
nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học văn chương trong nhà trường phổ
thông, đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới.
Người viết mong được sự góp ý của các nhà khoa học, các nhà sư
phạm, các anh, chị, em đồng nghiệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
69
PHô lôc
Câu hỏi phần thơ hiện đại trong hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao.
Bài: Xuất dƣơng lƣu biệt (Phan Bội Châu)
Sách chuẩn (Trang 5, tập 2)
1. Đọc tiểu dẫn, chú ý bối cảnh lịch
sử đất nước và những ảnh hưởng từ
nước ngoài để hiểu bài thơ.
2. Tư duy mới mẻ, táo bạo và khát
vọng hành động của nhà chí sĩ cách
mạng trong buổi ra đi tìm đường cứu
nước được biểu lộ như thế nào? Dựa
trên cảm xúc của tác giả và những
hình ảnh nghệ thuật trong bài thơ, chú
ý tìm hiểu các vấn đề sau:
- Quan niệm mới về chí làm trai và tư
thế, tầm vóc của con người trong vũ
trụ.
- Ý thức trách nhiệm cá nhân trước
thời cuộc.
- Thái độ quyết liệt trước tình cảnh
đất nước và những tín điều xưa cũ.
- Khát vọng hành động và tư thế buổi
lên đường.
3. Anh (chị) có nhận xét gì về hai câu
Sách nâng cao (Trang 5, tập 2)
1. Giải nghĩa bốn câu đầu của bài thơ
và làm rõ ý thức về hoài bão, sứ mệnh
của nhân vật trữ tình - người thanh
niên trước thời cuộc.
2. Tìm trong hai câu 5-6 những từ
ngữ thể hiện thái độ quyết liệt và tình
cảm đau đớn của nhà thơ trước thực
trạng đất nước. Riêng trong câu 6,
nhà thơ đã bày tỏ thái độ như thế nào
đối với nền tư tưởng, học vấn cũ của
nước nhà?
3. Hai câu 7-8 thể hiện mong muốn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
70
6 và 8 của bản dịch thơ so với nguyên
tác (đối chiếu với phần dịch nghĩa).
4. Theo anh (chị) những yếu tố nào đã
tạo nên sức lôi cuốn mạnh mẽ của bài
thơ này?
gì của tác giả? Dựa theo bản dịch
nghĩa hãy phân tích vẻ đẹp hào hùng
của hình tượng “muôn lớp sóng bạc
cùng bay theo”.
4. Theo anh (chị) vì sao bài thơ có
được sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với
thế hệ thanh niên yêu nước đầu thế kỷ
XX?
Bài: Hầu trời (Tản Đà)
Sách chuẩn (Trang 17, tập 2)
1. Anh (chị) hãy phân tích khổ thơ
đầu. Cách vào đề của bài thơ gợi cho
người đọc cảm giác như thế nào về
câu chuyện mà tác giả sắp kể?
2. Tác giả kể lại chuyện mình đọc thơ
cho Trời và Chư tiên nghe như thế
nào? (Thái độ của tác giả, của chư
tiên và những lời khen của Trời).
Qua đoạn thơ đó , anh (chị) cảm nhận
những điều gì về cá tính nhà thơ và
niềm khao khát chân thành của thi sĩ?
Nhận xét về giọng kể của tác giả.
Sách nâng cao (Trang 12, tập 2)
1. Thuật lại câu chuyện “Hầu Trời”
của Tản Đà trong bài thơ và làm rõ tài
hư cấu của tác giả (Chú ý cách phân
tích, cách tạo tình hưống, chọn chi
tiết, dựng đối thoại, bố trí các cảnh,
miêu tả tâm lí đa dạng của nhân vật.
2. Chuyến “Hầu Trời” bằng tưởng
tượng đã giúp nhà thơ nói được gì về
bản thân cùng quan niệm mới của ông
về văn và nghề văn?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
71
3. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là
cảm hứng lãng mạn, nhưng trong bài
lại có một đoạn rất hiện thực. Đó là
đoạn thơ nào? Tìm hiểu ý nghĩa đoạn
thơ đó. Theo anh (chị) hai nguồn cảm
hứng này ở thi sĩ Tản Đà có mối liên
hệ với nhau như thế nào?
4. Về mặt nghệ thuật, bài thơ này có
gì mới và hay? (Chú ý các mặt: thể
loại, ngôn từ, cách biểu hiện cảm xúc,
hư cấu nghệ thuật...)
3. Tìm các chi tiết thể hiện ý thức cá
nhân của tác giả.
4. Chỉ ra nét cách tân của bài thơ ở
giọng điệu và cách dùng các yếu tố
thuộc khẩu ngữ.
5. Nhận xét chung về giá trị tư tưởng
và nghệ thuật của bài thơ.
Bài: Vội vàng (Xuân Diệu)
Sách chuẩn (Trang 22, tập 2)
1. Bài thơ có thể chia làm mấy đoạn?
Nêu ý chính của từng đoạn.
2. Xuân Diệu cảm nhận về thời gian
như thế nào? Vì sao nhà thơ có tâm
trạng vội vàng, cuống quýt trước sự
tôi qua nhanh chóng của thời gian?
Sách nâng cao (Trang 29, tập 2)
1. Bài thơ được viết như một dòng
cảm xúc hối hả tuôn trào, nhưng vẫn
tuân theo một bố cục khá rõ ràng, thể
hiện mạch triếtl lí sâu sắc và chặt chẽ.
Hãy tìm bố cục ấy.
2. Đọc toàn bài, anh (chị) có cảm
nhận thế nào về nhạc điệu của bài
thơ? Nhạc điệu ấy được tạo ra bằng
những thủ pháp gì?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
72
3. Hình ảnh thiên nhiên, sự sống quen
thuộc được tác giả cảm nhận và diễn
tả như thế nào? Hãy chỉ ra những nét
mới trong quan niệm của Xuân Diệu
về cuộc sông, tuổi trẻ và hạnh phúc.
4. Hãy nhận xét về đặc điểm của hình
ảnh, ngôn từ, nhịp điệu trong đoạn
thơ cuối của bài thơ. Nhà thơ đã sáng
tạo được hình ảnh nào mà anh (chị)
cho là mới mẻ, độc đáo nhất?
3. Tác giả cảm nhận về thời gian như
thế nào? Phân tích đoạn từ câu 14 đến
câu 24 để làm nổi bật cảm nhận đó.
4. Hình ảnh thiên nhiên, sự sống quen
thuộc quanh ta được tác giả cảm nhận
và diễn tả một cách hấp dẫn như thế
nào? Điều ấy thể hiện quan niệm gì
của Xuân Diệu về cuộc sống, tuổi trẻ
và hạnh phúc?
5. Phân tích nghệ thuật sử dụng ngôn
từ (điệp từ, tính từ...) trong đoạn thơ
từ câu 31 đến câu 39, qua đó làm nổi
bật tuyên ngôn về lẽ sống của Xuân
Diệu.
6. Qua bài thơ có thể hình dung cái
tôi của Xuân Diệu như thế nào?
7. Học thuộc lòng bài thơ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
73
Bài: Tràng giang (Huy Cận)
Sách chuẩn (Trang 30, tập 2)
1. Anh (chị) hiểu thế nào về câu thơ
đề từ “Bâng khuâng trời rộng sông
dài”? Đề từ đó có mối liên hệ gì với
bức tranh thiên nhiên và tâm trạng
của tác giả trong bài thơ?
2. Nêu cảm nghĩ về âm điệu chung
của toàn bài thơ.
3. Vì sao nói bức tranh thiên nhiên
trong bài thơ đậm màu sắc cổ điển mà
vẫn gần gũi, thân thuộc?
4. Tình yêu thiên nhiên ở đây có thấm
đượm lòng yêu nước thầm kín
không? Tại sao?
Sách nâng cao (Trang 50, tập 2)
1. Anh (chị) có cảm nhận như thế nào
về âm điệu chung của toàn bài thơ?
Âm điệu ấy đã góp phần thể hiện tâm
trạng gì của tác giả trước thiên nhiên?
2. Hãy nêu cảm nhận của anh (chị) về
bức tranh thiên nhiên được thể hiện
trong bài thơ. Câu đề từ “Bâng
khuâng trời rộng nhớ sông dài” có
mối liên hệ gì đối với hình ảnh tạo vật
thiên nhiên và tâm trạng của tác giả
được thể hiện trong bài?
3. Hãy phát biểu nhận xét về hình
thức tổ chức câu thơ và việc sử dụng
lời thơ trong các cặp câu sau:
- Sóng gợn tràng giang buồn điệp
điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
- Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
4. Hình ảnh “Củi một cành khô lạc
mấy dòng” và hình ảnh “Chim
nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” gợi
cho anh (chị) những cảm nghĩ gì?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
74
5. Phân tích những đặc sắc nghệ thuật
của thơ (thể thơ thất ngôn, thủ pháp
tương phản, các từ láy, các biện pháp
tư từ...)
5. Tại sao có thể nói tình yêu thiên
nhiên ở đây cũng chứa đựng lòng yêu
nước thầm kín?
6. Học thuộc lòng bài thơ
Bài: Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử)
Sách chuẩn (Trang 39, tập 2)
1. Phân tích nét đẹp của phong cảnh
và tâm trạng của tác giả trong khổ thơ
đầu.
2. Hình ảnh gió, mây, sông ,trăng
trong khổ thơ thứ hai gợi cảm xúc gì?
3. Ở khổ thơ thứ ba, nhà thơ bộc lộ
tâm sự của mình như thế nào? Chút
hoài nghi trong câu thơ “Ai biết tình
ai có đậm đà” có biểu hiện niềm tha
thiết với cuộc đời không? Vì sao?
4. Có gì đáng chú ý trong tứ thơ và
Sách nâng cao (Trang 47, tập 2)
1. Bài thơ có ba khổ, mỗi khổ
nghiêng về một cảnh sắc, một tâm
tình. Hãy nêu nhận xét về sắc thái
khác nhau ở mỗi khổ thơ và mạch
liên kết giữa các khổ.
2. Mỗi khổ thơ trong bài đều chứa
đựng câu hỏi. Các câu hỏi ấy đã góp
phần tạo nên âm điệu riêng của bài
thơ.
Âm điệu ấy đã thể hiện mạch tâm
trạng gì của tác giả?
3. Hình ảnh „”nắng hàng cau mới lên”
thật giản dị cũng thật giàu sức gợi.
Hãy dùng những hiểu biết và trí
tưởng tượng của mình để cảm nhận
và tái tạo vẻ đẹp của hình ảnh ấy.
4. Anh (chị) có cảm nhận gì về ý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
75
bút pháp của bài thơ nghĩa của hai câu thơ “Gió theo lối
gió mây đường mây – Dòng nước
buồn thiu hoa bắp lay”
5. Khổ thơ thú hai có câu “Thuyền ai
đậu bến sông trăng đó – Có chở trăng
về kịp tối nay” chữ “kịp” gợi lên điều
gì về mối tâm tư đầy uẩn khúc của tác
giả?
6. Câu thơ “Ai biết tình ai có đậm
đà” có chút hoài nghi. Theo anh
(chị), đó là nỗi hoài nghi của sự chán
đời hay của niềm tha thiết với cuộc
đời? Tại sao?
7. Học thuộc lòng bài thơ.
Bài: Chiều tối (Hồ Chí Minh)
Sách chuẩn (Trang 42, tập 2)
1. So sánh bản dịch thơ với bản dịch
nghĩa, tìm những chỗ chưa sát với
nguyên tác (chú ý câu 2 và câu 3)
2. Phân tích bức tranh thiên nhiên và
cảm xúc của nhà thơ trong hai câu thơ
đầu.
Sách nâng cao (Trang 76, tập 2)
1. Dựa vào cảnh ngộ của tác giả (xem
phần tiểu dẫn) hãy nhận xét nghệ
thuật miêu tả thiên nhiên trong hai
câu đầu của bài thơ.
2. Anh (chị) hãy nêu nhận xét về thủ
pháp nghệ thuật mà tác giả dùng để tả
màn đêm đã buông xuống ở câu cuối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
76
3. Bức tranh đời sống được cảm nhận
trong hai câu sau như thế nào?
4. Nhận xét về nghệ thuật tả cảnh và
sử dụng ngôn ngữ trong bài thơ.
bài thơ.
3. Hình ảnh lò than rực hồng ở cuối
bài thơ có ý nghĩa như thế nào trong
bức tranh chiều tối của tác giả? Điều
này thể hiện đặc điểm gì của tâm hồn
Hồ chí Minh?
4. Màu sắc cổ điển của bài thơ thể
hiện ở đâu và như thế nào? Vì sao
người ta thường nói thơ nghệ thuật
của Hồ Chí Minh tuy rất cổ điển
nhưng vẫn là thơ hiện đại? Hãy phân
tích bài “Chiều tối” để giải thích và
chứng minh.
5. Học thuộc lòng bản phiên âm và
bản dịch bài thơ.
Bài: Từ ấy (Tố Hữu)
Sách chuẩn (Trang 44, tập 2)
1. Tố Hữu đã dùng những hình ảnh
nào để chỉ lí tưởng và biểu hiện niềm
vui sướng, say mê khi bắt gặp lí
tưởng?
Sách nâng cao (Trang 88, tập 2)
1. Tìm hiểu tâm trạng của Tố Hữu
trong giây phút bắt gặp lí tưởng cộng
sản. qua hình ảnh “Mặt trời chân lí
chói qua tim”, có thể hiểu quan niệm
của nhà thơ về lí tưởng cộng sản như
thế nào?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
77
2. Khi được ánh sáng của lí tưởng soi
rọi, nhà thơ đã có những nhận thức
mới về lẽ sống như thế nào?
3. Sự chuyển biến sâu sắc trong tình
cảm của nhà thơ được thể hiện ra
sao?
4. Nhận xét về các biện pháp tu từ
dùng trong bài thơ. Có gì đáng chú ý
trong nhịp điệu của các câu thơ?
2. Nhận xét đặc điểm chung về giá trị
biểu cảm của các từ ngữ: bừng (nắng
hạ), chói (qua tim), rất đậm (hương),
rộn (tiếng chim).
3. Lí tưởng cộng sản đã đem đến cho
Tố Hữu sự thức tỉnh về mối quan hệ
tình cảm mới như thế nào? vì sao sự
thức tỉnh về quan hệ tình cảm ấy lại
đem đến cho Tố Hữu sức mạnh và
niềm vui?
4. Nhận xét về giọng điệu chung của
bài thơ.
5. Qua những từ lặp lại ở đầu câu: Để
(câu 6-7), là (câu 10-11), anh (chị)
hãy nêu cảm nhận của mình về nhịp
thơ và tác dụng biểu cảm của nó.
6. Học thuộc lòng bài thơ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
78
Bài: Tôi yêu em (Puskin)
Sách chuẩn (Trang 60, tập 2)
1. Điệp khúc nào làm nổi bật cảm xúc
chủ đạo của bài thơ? Bài thơ dường
như là lời từ giã cho một mối tình
không thành. Lời từ giã của Puskin có
gì đặc biệt?
2. Giọng điệu trữ tình chuyển biến
như thế nào từ câu hai câu 1-2 sang
hai câu 3-4 và từ câu 5-6 sang hai câu
7-8? diễn biến tâm trạng phức tạp của
nhân vật trữ tình được thể hiện tinh tế
ra sao?
3. Tại sao có thể nói hai câu kết là bất
ngờ, hàm chứa nhiều ý vị?
4. Bài thơ gợi cho anh (chị) những
cảm nghĩ gì về tâm hồn Puskin và về
tình yêu?
Sách nâng cao (Trang 167, tập 2)
1. Đọc diễn cảm bài thơ, lưu ý cụm từ
“tôi yêu em” và vị trí của cụm từ này
trong bài, hãy tìm hiểu kết cấu bài thơ
và diễn biến tâm trạng nhân vật trữ
tình.
2. Tình cảm phức tạp, tế nhị của
nhân vật trữ tình trong bài thơ được
Puskin diễn tả tinh tế như thế nào qua
bốn câu thơ đầu?
3. Cảm xúc trong hai câu thơ “Tôi
yêu em âm thầm không hy vọng- Lúc
rụt rè khi hậm hực lòng ghen” có gi
fđặc biệt? Nó hé mở trạng thái tình
cảm gì trong nhân vật trữ tình?
4. Xu hướng vươn tới sự cao cả trong
tư tưởng, tình cảm là đặc trưng cơ
bản của thơ Puskin. Phân tích hai câu
thơ cuối để chứng minh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
79
Tài liệu tham khảo
1. Đinh Quang Báo (11/2003), Bản chất của phương pháp dạy học mới,
Dạy và học ngày nay, số 13.
2. Nguyễn Quang Cương (2000), Hệ thống câu hỏi trong SGK văn học,
Luận án tiến sĩ, trường Đại học sư phạm Hà Nội.
3. Phạm Văn Đồng, Dạy văn là quá trình rèn luyện toàn diện, Tạp chí
NCGD, số 28.
4. Phạm Văn Đồng (12/1992), Phương pháp dạy học phát huy tính tích
cực- một phương pháp vô cùng quý báu, NCGD.
5. Lê Bá Hán -Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ
văn học, trang 202-203.
6. Nguyễn Trọng Hoàn (2003), Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học
tác phẩm văn chương, Nxb Giáo dục Hà Nội.
7. Trần Bá Hoành (2003), Lí luận cơ bản về dạy và học tích cực, Dự án
giáo viên trung học cơ sở, Bộ GD&ĐT.
8. Nguyễn Thanh Hùng (23/9/1989), Bản chất văn học và vấn đề đổi
mới trong dạy học văn, Báo văn nghệ số 38.
9. Nguyễn Thanh Hương (2001), Dạy học văn ở trường phổ thông, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội.
10. Nguyễn Xuân Lạc, bài 18, Ôn tập phương pháp đọc hiểu và kiểm
tra, Sách Ngữ văn 11 bộ 2 tập II, Ban KHXH&NV.
11. Nguyễn Lai (1991), Ngôn ngữ và sáng tạo văn học, Khoa học xã
hội, Hà Nội.
12. Nguyễn Lai (1990), Tiếp nhận văn học, một số vấn đề thời sự, Báo
văn nghệ số 28.
13. Lê-nin (1976), Bút kí triết học, Sự thật, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
80
14. Nguyễn Lộc (1990), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lí
giáo dục PTTH phục vụ cải cách giáo dục, môn văn lớp 10, Hà Nội.
15. Phan Trọng Luận (1983), Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học, Nxb
Giáo dục.
16. Phan Trọng Luận (1999), Đổi mới giờ học tác phẩm văn chương ở
trường THPT (sách bồi dưỡng giáo viên), Giáo dục Hà Nội.
17. Phan Trọng Luận (2005), Phan Trọng Luận tuyển tập, Nxb Giáo
dục.
18. Phan Trọng Luận (1977), Phân tích tác phẩm văn chương trong nhà
trường, Nxb Giáo dục.
19. Phan Trọng Luận (2003), Văn chương bạn đọc sáng tạo, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
20. Nhikônxki (1978), Phương pháp giảng dạy văn học ở nhà trường
phổ thông, Nxb Giáo dục.
21. A.V.Petrovski (1982), Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư ph¹m tập
I, Nxb Giáo dục.
22. Trần Hồng Quân (1995), Cách mạng về phương pháp sẽ đem lại sức
sống mới, bộ mặt mới cho giáo dục, NCGD số 1.
23. Dương Thị Quy (1996), Câu hỏi hướng dẫn chuẩn bị bài trong SGK
văn THPT, luận văn thạc sĩ, Trường ĐHSP Hà Nội.
24. I.A.Rez (1983), Phương pháp luận dạy văn học, Nxb Giáo dục.
25. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục.
26. Trần Đình Sử (12/2/1998), Môn văn thực trạng và giải pháp, Báo
văn nghệ số 7.
27. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu, Tác phẩm mới, Hà Nội.
28. Trần Đình Sử - Phương Lựu - Nguyễn Xuân Nam (1987), Lí luận
văn học tập II, Nxb Giáo dục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
81
29. Đỗ Ngọc Thống (4/2003), Chương trình Ngữ văn THPT có gì mới?
Tạp chí văn học tuổi trẻ số 4.
30. Lê Trí Viễn (5/1975), Giáo dục văn hóa thẩm mĩ, NCGD.
31. Viện khoa học giáo dục (1993), Mục tiêu chung của chương trình
môn văn-tiếng Việt ở trườngPTTH chuyên ban, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV_08_SP_VH_DTH.pdf