Luận văn Nghiên cứu lễ hội truyền thống đông đồng bằng sông Cửu Long phục vụ phát triển du lịch

2. Kiến nghị  Đối với UBNDcác tỉnh - Nên quan tâm đầu tư thỏa đáng cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng nhằm phát triển du lịch, đặc biệt là mạng lưới giao thông phục vụ phát triển du lịch. - Đổi mới về cơ chế, cần có chủ trương, chính sách ưu đãi để thu hút, khuyến khích các nhà đầu tư mạnh dạn khai thác tiềm năng du lịch của tỉnh nhà. - Cần có cơ chế thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính, nhanh gọn; việc thanh, kiểm tra nên tế nhị và hết sức tinh tế, giúp cho các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực du lịch được kinh doanh dễ dàng thuận tiện; đem lại sự tin tưởng, hài lòng của du khách.  Đối với Sở VH – TT & DL các tỉnh - Cần tiến hành rà soát, kiểm kê và qui hoạch cụ thể những lễ hội truyền của địa phương có khả năng khai thác du lịch để có kế hoạch đầu tư, nâng cấp bảo tồn và phát triển nhằm phục vụ nhân dân và thu hút du khách. - Cần gắn kết chặt chẽ với các ngành chức năng trong tỉnh trong tổ chức các hoạt động văn hóa lễ hội đặc sắc mang tính đa dạng, phong phú và hấp dẫn.

pdf132 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 1031 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu lễ hội truyền thống đông đồng bằng sông Cửu Long phục vụ phát triển du lịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phát triển, tôn tạo các di tích văn hóa lịch sử cách mạng và phát triển các lễ hội, làng nghề truyền thống phục vụ du lịch. - Đầu tư phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng. - Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và thống kê du lịch và trung tâm cung cấp thông tin du lịch. - Đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch, nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ lao động du lịch và nâng cao nhận thức về du lịch. - Đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật. Theo Ban chỉ đạo Diễn đàn Hợp tác Kinh tế ĐBSCL, hiện ĐBSCL có tất cả 81 dự án đang nằm trong danh mục kêu gọi đầu tư; trong đó có 18 dự án về hạ tầng cơ sở, khách sạn, nhà hàng; 55 dự án về khu nghỉ dưỡng, khu du lịch sinh thái, điểm tham quan; 8 dự án về hạ tầng giao thông, với tổng vốn cần kêu gọi đầu tư gần 19.231 tỷ đồng. 3.2.2. Các chỉ tiêu dự báo phát triển du lịch của vùng  Dự báo thị trường du khách Căn cứ vào các nguồn khách quốc tế và cả nội địa đến vùng, vào khả năng thu hút và cung cấp các dịch vụ du lịch, dự báo khách du lịch quốc tế và nội địa của vùng đến năm 2020 như sau: Bảng 3.1. Dự báo khách du lịch quốc tế đến vùng ĐBSCL đến năm 2020 Năm 2015 2020 Khách quốc tế Lượt khách (ngàn lượt) 2.700 3.900 Ngày lưu trú trung bình (ngày) 2,4 2,6 Tổng số ngày khách (ngàn ngày) 6.500 10.000 Khách nội địa Lượt khách (ngàn lượt) 5.200 6.500 Ngày lưu trú trung bình (ngày) 2,0 2,2 Tổng số ngày khách (ngàn ngày) 10.400 14.300 Nguồn: Dự báo của Viện nghiên cứu phát triển du lịch, 2010  Dự báo về nhu cầu khách sạn Để đáp ứng nhu cầu lưu trú của khách du lịch đến ĐBSCL từ nay đến 2020, vấn đề dự báo và đầu tư xây dựng khách sạn là rất quan trọng. Việc dự báo nhu cầu khách sạn có quan hệ chặt chẽ với số lượng khách, với số ngày lưu trú của khách, với công suất sử dụng trung bình. Dự báo đến 2015 ngày lưu trú trung bình của khách quốc tế là 2,0 ngày, khách nội địa là 1,8 ngày; đến năm 2020 tương ứng là 2,4 và 2,1 ngày. Dự kiến công suất sử dụng phòng khách sạn trung bình cho từng thời kỳ đạt khoảng 60% vào năm 2015 và 65% vào năm 2020. Số giường trung bình một phònghiện nay cũng như xu hướng phát triển của hệ thống khách sạn của vùng là 2 giường/buồng. Và với dự báo các chỉ số như trên, Viện Nghiên cứu phát triển du lịch đã đưa ra dự báo nhu cầu khách sạn toàn vùng vào năm 2015 là 22.650 buồng, đến 2020 là 50.000 buồng.  Dự báo nhu cầu nguồn nhân lực Căn cứ và tình hình phát triển, tăng trưởng du lịch của vùng cả về cơ sở lưu trú, dịch vụ du lịch, Viện nghiên cứu phát triển du lịch cũng đã đưa ra những dự báo về nhu cầu lao động du lịch của vùng. Bảng 3.2. Dự báo nhu cầu lao động du lịch ĐBSCL đến năm 2020 (*) Đơn vị: người TT Tỉnh, thành 2015 2020 1 Long An 5.000 7.600 2 Tiền Giang 25.500 37.500 3 Trà Vinh 3.400 5.900 4 Bến Tre 11.800 18.200 5 Sóc Trăng 3.900 6.700 6 Bạc Liêu 6.700 12.600 7 Cà Mau 12.600 17.100 8 Kiên Giang 23.100 38.400 9 Cần Thơ 25.800 36.600 10 An Giang 10.600 17.100 11 Vĩnh Long 16.800 23.200 12 Đồng Tháp 6.700 11.200 13 Hậu Giang 2.800 4.500 Toàn vùng 154.700 326.600 Nguồn: Dự báo của Viện nghiên cứu phát triển du lịch, 2010 (*) Bao gồm lao động trực tiếp trong du lịch và lao động gián tiếp ngoài xã hội Bảng 3.3. Nhu cầu nguồn nhân lực du lịch của ĐBSCL đến 2020 Đơn vị: người Trình độ 2015 2020 Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Trên ĐH 0,5 271 0,5 414 ĐH, cao đẳng 14,0 7.574 20,0 16.540 Trung cấp 15,0 8.115 25,0 20.675 Sơ cấp 20,5 11.091 20,0 16.540 Ngắn hạn 50,0 27.050 34,5 28.532 Tổng số 100 54.100 100,0 82.700 Nguồn: Dự báo của Viện nghiên cứu phát triển du lịch, 2010  Dự báo thu nhập du lịch Hiện nay ở các tình thành của vùng ĐBSCL trung bình mỗi ngày, một khách du lịch chi tiêu với những mức khác nhau giữa các địa phương. Ở những nơi du lịch phát triển mạnh như Cần Thơ và Phú Quốc (Kiên Giang), khách du lịch chi tiêu nhiều hơn so với các địa bàn còn lại (năm 2008, ở các trung tâm du lịch lớn khách quốc tế chi tiêu mỗi ngày 70 USD, khách nội địa là 25 USD so với các địa bàn còn lại tương ứng là 62 USD và 21 USD). Như vậy, trong thời gian tới, khi chất chượng sản phẩm du lịch được nâng cao, phong phú, đa dạng thì chi tiêu của khách du lịch cũng sẽ tăng theo. Bảng 3.4. Dự báo thu nhập du lịch vùng ĐBSCL đến 2020 Đơn vị: triệu USD TT Tỉnh, thành 2015 2020 1 Long An 12.100 24.600 2 Tiền Giang 168.750 296.000 3 Trà Vinh 10.400 24.200 4 Bến Tre 72.050 130.500 5 Sóc Trăng 11.350 28.200 6 Bạc Liêu 21.850 50.900 7 Cà Mau 42.700 72.000 8 Kiên Giang 96.300 198.500 9 Cần Thơ 130.500 227.500 10 An Giang 43.800 90.500 11 Vĩnh Long 84.400 140.500 12 Đồng Tháp 22.400 49.500 13 Hậu Giang 6.500 16.600 Toàn vùng 723,100 1.349,500 Nguồn: Dự báo của Viện nghiên cứu phát triển du lịch, 2010  Dự báo vốn đầu tư Để đạt được các chỉ tiêu cơ bản trong định hướng phát triển du lịch của ĐBSCL, vấn đè đầu tư vào hệ thống cơ vật hạ tầng, vật chất kỹ thuật du lịch, các cơ sở vui chơi giải trí, phương tiện vận chuyển, các cơ sở đào tạo, giữ vai trò hết sức quan trọng. Vấn đề đặt là phải tính toán nhu cầu đầu tư, các nguồn đầu tư hợp lý, hiệu quả. Viện nghiên cứu phát triển du lịch đã đưa ra các dự kiến về nguồn vốn đầu tư ở bảng 3.5. Bảng 3.5. Dự kiến các nguồn vốn đầu tư du lịch vùng ĐBSCL đến 2020 Đơn vị tính: triệu USD TT Nguồn vốn Đến 2015 2016 – 2020 1 Vốn ngân sách (10%) 95,960 96,370 2 Vốn tích lũy từ GDP của các doanh nghiệp du lịch trong vùng (10%) 95,960 96,370 3 Vốn vay ngân hàng và các nguồn khác (25%) 239,900 240,925 4 Vốn đầu tư tư nhân (10%) 95,960 96,370 5 Vốn liên doanh, liên kết trong nước (25%) 239,900 240,925 6 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI hoặc liên doanh với nước ngoài (20%) 191,920 192,740 Tổng cộng (100%) 959,600 963,700 Nguồn: Dự báo của Viện nghiên cứu phát triển du lịch, 2010 3.2.3. Định hướng phát triển du lịch lễ hội truyền thống 3.2.3.1. Quan điểm xây dựng định hướng Quan điểm chủ đạo xuyên suốt đối với phát triển du lịch lễ hội truyền thống ĐBSCL là nhằm đưa du lịch trở thành ngành kinh tế có đóng góp thực sự quan trọng vào công cuộc phát triển đất nước, góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, vào nỗ lực xóa đói giảm nghèo cho người dân, đảm bảo an ninh quốc phòng và góp phần đa dạng hóa sản phẩm du lịch của vùng, của cả nước, nâng cao vị thế ngành du lịch trên cơ sở khai thác có hiệu quả và bền vững những lợi thế về vị trí, tài nguyên du lịch lễ hội của vùng. Căn cứ vào tiềm năng, nguồn lực phát triển du lịch của lễ hội truyền thống của ĐBSCL cũng như thực trạng các sản phẩm du lịch khác của vùng, du lịch lễ hội truyền thống ĐBSCL có thể được phát triển dựa trên 4 định hướng chủ yếu là: - Định hướng phát triển thị trường khách du lịch - Định hướng sản phẩm du lịch - Định hướng tổ chức không gian du lịch - Định hướng đầu tư 3.2.3.2. Định hướng phát triển thị trường khách du lịch lễ hội  Định hướng về thị trường khách du lịch quốc tế ĐBSCL, khách du lịch lễ hội vẫn thuộc các nhóm thị trường Đông Bắc Á, Tây Âu, Bắc Mỹ, đây là nhóm khách có tỉ trọng lớn trong cơ cấu khách quốc tế. Đối với nhóm thị trường này, những đối tượng cần hướng tới là nhóm khách du lịch chất lượng cao, có trình độ học vấn cao, có thời gian lưu trú dài, có khả năng chi tiêu cao, với mục tiêu tham quan nghiên cứu, tìm hiểu văn hóa, lễ hội,... đến từ các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Australia, các nước Tây Âu. Thị trường Hoa Kỳ, Canada, Tây Âu, Australia, Nhật Bản và Hàn Quốc thì đây là thị trường có khả năng chi trả cao, có yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm du lịch và dịch vụ, đặc biệt quan tâm nhiều đến nghiên cứu văn hóa các lễ hội truyền thống. Khách du lịch từ những thị trường này thường tự nguyện đóng góp cho việc bảo tồn lễ hội, giá trị văn hóa (ngoài chi phí cho tour du lịch và những chi phí phát sinh khác). Cho nên, tập trung khai thác những thị trường này rất quan trọng để có phát triển cả hai lĩnh vực: kinh doanh du lịch và đóng góp cho việc bảo tồn và phát triển lễ hội truyền thống. Nhưng đây cũng đồng thời là những thị trường khó tính, nên cần có những sản phẩm du lịch lễ hội truyền thống đích thực, hấp dẫn cũng nhu việc đầu tư thỏa đáng cho hoạt động xúc tiến quảng bá tại những thị trường này.  Định hướng thị trường khách du lịch nội địa Trong thời gian gần đây, khách du lịch lễ hội truyền thống phát triển nhanh, chiếm tỷ trọng đáng kể, đối tượng chính của loại hình du lịch này là những người lớn tuổi, những người buôn bán kinh doanh, thường tổ chức đi theo từng nhóm lẻ, hoặc theo gia đình. Khách du lịch đến đây tham gia vào các lễ hội để cầu may, cầu phúc, cầu lộc. Đối tượng khách quan tâm đến loại hình du lịch này ngoài người dân ở khu vực ĐBSCL, thì các lễ hội truyền thống cũng thu hút một lượng lớn khách du lịch từ TPHCM, một số tỉnh Đông Nam Bộ. Ưu tiên những khách đi theo nhóm tự tổ chức, là những người có thu nhập trung bình, thuộc lứa tuổi trung niên và về hưu, tầng lớp lao động, kinh doanh, buôn bán, 3.2.3.3. Định hướng phát triển sản phẩm du lịch lễ hội ĐBSCL có nhiều lễ hội truyền thống độc đáo, tuy nhiên không phải lễ hội nào cũng có thể khai thác để phục vụ khách du lịch, nhất là khách nước ngoài. Vì vậy cần tìm hiểu nhu cầu đa dạng của khách du lịch, sản phẩm lễ hội nào là phù hợp để có thể nghiên cứu, khai thác tiềm năng du lịch và xúc tiến quảng bá, giới thiệu với khách du lịch trong và ngoài nước. Tạo sản phẩm du lịch liên kết vì nếu chỉ tập trung vào một số lễ hội tiêu biểu của vùng mục đích là tham quan thôi mà không liên kết với sản phẩm du lịch khách thì khó giữ chân khách du lịch lưu trú lại vùng. Nên muốn du lễ hội có sức hút thì cần phải kết hợp với du lịch nghiên cứu tìm hiểu văn hóa các dân tộc: chương trình du lịch có thể kết hợp tham quan nghiên cứu văn hóa vùng sông nước của người Việt với văn hóa người Khmer, người Chăm và người Hoa ở các địa điểm đặc trưng nhất cho từng nền văn hóa. Qua đó, khách được tiếp cận với các nền văn hóa, với văn hóa nghệ thuật, với phong tục tập quán, di tích lịch sử, của các dân tộc nơi đây bằng việc tổ chức các tour homestay. 3.2.3.4. Định hướng tổ chức không gian du lịch lễ hội Tổ chức không gian phát triển du lịch ĐBSCL dựa trên các trục không gian chính là trục đường bộ Quốc lộ 1A nối với Quốc lộ 91 kéo tới Rạch Giá, trục đường thủy dọc sông Tiền và sông Hậu và trục hàng không TP Hồ Chí Minh - Cần Thơ - Phú Quốc. Bên cạnh đó các trục nhánh lớn quan trọng là trục Quốc lộ 60 ven biến phía Đông, trục Quốc lộ 80 ven biển phía Tây và trục N1 dọc biên giới với Campuchia. Các cửa khẩu quốc tế quan trọng của vùng là: cảng hàng không (Cần Thơ, Phú Quốc), đường sông - Vĩnh Xương (An Giang), đường biển - Phú Quốc và các cửa khẩu đường bộ: Hà Tiên, Tịnh Biên, Thường Phước và Dinh Bà.  Về cụm du lịch Nhằm phát huy thế mạnh từng khu vực, xây dựng sản phẩm đặc thù trên cơ sở phân vùng sinh thái, văn hóa, tạo điều kiện phát triển các sản phẩm liên kết, khai thác lợi thế về cơ sở vật chất của từng địa phương, phân vùng lãnh thổ du lịch lễ hội ĐBSCL được chia thành cụm du lịch: - Cụm 1: gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh Hậu Giang, An Giang, Kiên Giang nổi bật với các lễ hội Đình Bình Thủy, Bà chúa Xứ núi Sam, lễ hội đua bò Bảy Núi, lễ hội Nguyễn Trung Trực, kết hợp với là du lịch tham quan sông nước, du lịch với mục đích thương mại và du lịch nghỉ dưỡng biển cao cấp. - Cụm 2: gồm các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu và Sóc Trăng với các sản phẩm du lịch lễ hội quan trọng là lễ hội Nghinh Ông sông Đốc, lễ hội Mẹ Nam Hải, lễ hội Nghinh Ông Gành Hào, lễ hội gắn với văn hóa dân tộc Khmer tại Sóc Trăng như: đua ghe Ngo, lễ hội Thác Côn, kết hợp tham quan điểm cực Nam của Tổ quốc, du lịch sinh thái tại các khu rừng ngập mặn và du lịch văn hóa. - Cụm 3: gồm các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long và Trà Vinh với các sản phẩm du lịch lễ hội chủ đạo là lễ hội Nghinh Ông Vàm Láng, lễ hội Tứ Kiệt, lễ hội Nghinh Ông ở Bình Đại, lễ hội Lăng Ông Trà Ôn, lễ hội cúng biển Mỹ Long, lễ hội của dân tộc Khmer ở Trà Vinh kết hợp với du lịch sông nước, miệt vườn, nghỉ tại nhà dân, tham quan làng nghề, di tích lịch sử cách mạng. - Cụm 4: gồm 2 tỉnh Long An và Đồng Tháp nổi bật với lễ hội Gò Tháp, lễ hội làm chay Tầm Vu, kết hợp du lịch sinh thái tại các khu rừng đặc dụng ngập nước nội địa Đồng Tháp Mười.  Về tuyến điểm du lịch Tuyến trục quan trọng nhất hiện nay của du lịch vùng ĐBSCL là trục từ TP.HCM – Cần Thơ, hầu hết mọi tuyến du lịch của vùng đều xuất phát hoặc đầu nối với trục này. Trong định hướng phát triển tuyến du lịch lễ hội truyền thống của vùng, nổi bật là các tuyến: - TPHCM – Cần Thơ – Sóc Trăng – Bạc Liêu – Cà Mau - TPHCM – Cần Thơ – Châu Đốc – Hà Tiên - TPHCM – Cần Thơ – Rạch Giá – Hà Tiên - TPHCM – Cần Thơ – Long Xuyên – Châu Đốc – Tịnh Biên - TPHCM – Đồng Tháp – Long Xuyên - TPHCM – Long An – Đồng Tháp - TPHCM - Tiền Giang – Bến Tre – Trà Vinh - TPHCM – Vĩnh Long – Trà Vinh - Ngoài ra, hình thành chuỗi điểm đến trong toàn vùng, gắn với TPHCM và các trung tâm du lịch trong nước, mở rộng sang Phnom Penh, Siem Reap (Campuchia) và một số điểm du lịch của Thái Lan trên cả 3 đường hàng không, biển và đường bộ... 3.2.3.5. Định hướng đầu tư du lịch lễ hội Trong “Đề án phát triển du lịch ĐBSCL đến năm 2020”, một trong những vấn đề cần được ưu tiên đầu tư phát triển được Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch (2010) đưa ra là: “Đầu tư phục hồi, phát triển các lễ hội nhằm đa dạng hóa sản phẩm du lịch và nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của lễ hội”. Trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2020, ở vùng ĐBSCL có tất cả 23 dự án được ưu tiên đầu tư với tổng kinh phí dự kiến là 1.758,9 triệu USD và được chia làm hai giai đoạn thực hiện. Trong đó, dự kiến kinh phí đầu tư cho lễ Sen Dolta và hội đua bò bảy Núi là 10 triệu USD thực hiện giai đoạn 2011 – 2015; lễ Ok Om Bok với hội Đua ghe ngo cũng có nguồn kinh phí đầu tư và thời gian thực hiện tương tự (Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch, 2010). Những định hướng đầu tư cơ bản của du lịch ở ĐBSCL phục vụ phát triển du lịch lễ hội truyền thống là: - Phát triển hệ thống các cơ sở lưu trú và công trình phục vụ du lịch lễ hội. - Phát triển tôn tạo các di tích gắn liền với lễ hội cũng như bảo tồn và phát triển các lễ hội truyền thống phục vụ du lịch nhằm đa dạng hóa sản phẩm du lịch và nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của lễ hội. - Đào tạo nguồn nhân lực du lịch, nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ lao động du lịch và nhận thức về du lịch lễ hội. - Đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật. 3.3. Giải pháp phát triển du lịch lễ hội truyền thống ĐBSCL 3.3.1. Huy động nguồn vốn đầu tư phát triển du lịch lễ hội Đầu tư phát triển du lịch phải kết hợp tốt việc sử dụng ngân sách nhà nước với việc khai thác, sử dụng nguồn vốn nước ngoài và huy động nguồn lực trong dân theo phương châm xã hội hoá phát triển du lịch. - Trước hết tập trung nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước (cả Trung ương và địa phương) theo hướng đồng bộ, có trọng tâm trọng điểm là cơ sở để thu hút các nguồn vốn đầu tư khác. Với nguồn vốn này, chủ yếu đầu tư cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng (giao thông, điện, nước,), cho công tác bảo tồn và phát triển các lễ hội truyền thống, các di tích gắn liền với lễ hội, có giá trị thu hút khách du lịch), hỗ trợ cho công tác quảng bá và đào tạo nguồn nhân lực. Đối với các lễ hội mang tầm quốc gia, cấp vùng như lễ hội Bà Chúa Xứ, lễ hội Ok Om Bok đua ghe Ngo, thì ưu tiên phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng bằng nguồn vốn Trung ương, còn các lễ hội cấp địa phương thì sử dụng nguồn vốn của địa phương. - Các tỉnh thành của vùng phải xây dựng các cơ chế chính sách thông thoáng, phù hợp để thu hút và tạo ra các nguồn vốn đầu tư phát triển hoạt động kinh doanh du lịch. Thu hút vốn từ các doanh nghiệp, vốn đầu tư trong nước, vốn đầu tư trực tiếp ngước ngoài, vốn ODA. - Đẩy mạnh công tác xã hội hoá du lịch nhằm huy động mọi nguồn lực trong cộng đồng dân cư, các doanh nghiệp, thương nhân, các tổ chức. Nguồn vốn dự kiến cho các dự án phát triển du lịch lễ hội ở ĐBSCL giai đoạn 2011 – 2015 là lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam là 30 triệu USD, lễ hội đua ghe Ngo và đua bò Bảy núi mỗi nơi 10 triệu USD. 3.3.2. Đầu tư xây dựng cơ hạ tầng, vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch lễ hội Mặc dù hiện nay ở ĐBSCL có hệ thống cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật du lịch tương đối phát triển, nhưng với tộc độ phát triển du lịch của vùng thì vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đặc biệt là trong cao điểm mùa du lịch nói chung và mùa vào lễ hội nói riêng. Chính vì vậy việc đầu tư nâng cấp và xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật cho du lịch đang được quan tâm đầu tư. Để công tác đầu tư thực hiện có hiệu quả, tác giải xin đưa ra một số giải pháp: - Đầu tư cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật trước hết ở các địa phương có lễ hội tầm quốc gia và vùng như: lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam, lễ hội Ok Om Bok đua ghe Ngo, lễ hội Nguyễn Trung Trực, bằng nguồn vốn từ TW. Các lễ hội cấp tỉnh như đua Bò Bảy Núi, cúng biển Mỹ Long, Quán Âm Nam Hải, Gò Tháp, sử dụng nguồn vốn địa phương, từ đóng góp của các mạnh thường quân. - Xây dựng thêm hệ thống khách sạn với đầy đủ các công trình dịch vụ bổ trợ (tổ hợp thể thao, khu thể thao, khu hội chợ, nhà hàng, cơ sở vui chơi giải trí,...) ở lễ hội lớn như là lễ hội Bà Chúa Xứ, lễ Ok Om Bok hội đua ghe Ngo, lễ hội Nguyễn Trung Trực là hết sức quan trọng và cần thiết vì các lễ hội này địa điểm diễn ra ngay trung tâm các đô thị, nên vấn đề sử dụng, khai thác các công trình này có hiệu quả hơn. Các lễ hội còn lại nên đẩy mạnh việc xây dựng khách sạn, nhà nghỉ tiêu chuẩn kết hợp với hệ thống lưu trú trong nhà dân, đẩy mạnh phát triển các sản phẩm đặc trưng của địa phương. - Những đầu tư cần thiết mà Nhà nước cần nên xem xét nữa là điều kiện giao thông thủy, bộ thuận lợi đến những địa phương có lễ hội muốn khai thác để phát triển du lịch lễ hội. Phải tiếp tục xây dựng, mở rộng mạng lưới đường giao thông để tiện cho việc tiếp cận điểm đến của du khách và việc tổ chức lễ hội được tiện lợi. Ngoài ra, đầu tư cần quan tâm chú ý đến phương tiện vận chuyển khách du lịch kể cả đường sông hay đường bộ. Như tuyến đường đến lễ hội Gò Tháp, đến lễ hội cúng biển Mỹ Long, hội đua bò Bảy Núi, nhỏ hẹp và xuống cấp nghiêm trọng. - Đầu tư xây dựng hệ cấp nước, cấp năng lượng, thông tin liên lạc, xử lý chất thải bảo vệ môi trường, vì vào mùa cao điểm du lịch thì đây là những vấn đề rất bức bối. - Đầu tư bảo tồn, tôn tạo và phát triển các lễ hội truyền thống, các di tích gắn với lễ hội. Việc đầu tư này trước hết có ý nghĩa giáo dục ý thức cho thế trẻ, mặt khác lại có ý nghĩa để khai thác du lịch. - Một vấn đề nữa là đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho vấn đề phát triển du lịch nói chung và du lịch lễ hội nói riêng. 3.3.3. Xúc tiến quảng bá, tiếp thị mở rộng thị trường Lễ hội ăn sâu trong tiềm thức của cộng đồng nên tự thân nó đã có sự hấp dẫn đám đông, trong đó có khách du lịch. Tuy nhiên muốn thu hút khách du lịch, muốn lễ hội thành điểm tham quan du lịch thì ngành Du lịch của các tỉnh ĐBSCL phải phối hợp với địa phương tuyên truyền xúc tiến quảng bá về lễ hội. Khi xúc tiến tiếp thị cho du lịch lễ hội rất phải chú ý cung cấp thông tin đầy đủ và chân thực về sản phẩm du lịch lễ hội, về giá trị của lễ hội để phát đi những thông điệp tin cậy về lễ hội và du lịch lễ hội, làm cho những người tiếp nhận thông tin sau này sẽ là du khách tương lai của lễ hội hiểu rõ về lễ hội, về những quy ước chung của cộng đồng có lễ hội và xác định trách nhiệm của họ khi tham gia lễ hội. Giáo dục và thông tin về du lịch lễ hội và lễ hội cho khách và cộng đồng dân cư một cách thường xuyên, chú ý từ giải thích đến thuyết phục, từ thông tin đến giáo dục để có thái độ và cách ứng xử đúng đắn đối với lễ hội. Có như vậy mới tạo ra cơ sở cho hoạt động du lịch lễ hội phù hợp với lễ hội về quy mô, sức tải và cách ứng xử đúng từ phía chủ thể và khách thể của lễ hội. Trên cơ sở các giá trị của các lễ hội định đưa vào khai thác để phát triển du lịch lễ hội và dựa vào kết quả điều tra nhu cầu của khách du lịch lễ hội phải xây dựng hệ thống sản phẩm du lịch lễ hội theo hướng đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm. Sản phẩm du lịch lễ hội là loại hình sản phẩm du lịch đặc biệt, chứa đựng hàm lượng các yếu tố văn hoá cộng đồng, dân tộc rất cao và đa dạng, nhất là những yếu tố tâm linh, thành kính, linh thiêng. Vì vậy phải có sự phối hợp rất chặt chẽ giữa chuyên gia xây dựng sản phẩm du lịch với chuyên gia văn hóa, nhất là những người am hiểu về lễ hội trong quá trình thiết kế, xây dựng, xúc tiến quảng bá và thực hiện sản phẩm du lịch lễ hội. Tác giả xin đưa một một số giải pháp sau: - Xây dựng hệ thống thu thập thông tin phản hồi thường xuyên của khách du lịch lễ hội để có các biện pháp chấn chỉnh kịp thời. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng mà các nhà tổ chức, quản lý lễ hội, các nhà làm du lịch chưa chú trọng và chưa thực hiện thường xuyên. - Xây dựng hình ảnh, thương hiệu đặc trưng của các lễ hội tiêu biểu phát triển du lịch của vùng một cách thống nhất, độc đáo, hấp dẫn, làm cơ sở cho công tác tiếp thị điểm đến. - Sử dụng mọi phương tiện, hình thức quảng bá về lễ hội du lịch ở ĐBSCL như truyền hình, triển lãm, ấn phẩm, quảng bá trên internet (các công cụ quảng bá, quảng cáo như trang chuyên về văn hóa, lữ hành, các banner quảng cáo, blog du lịch,). Đặc biệt coi trọng thông tin truyền khẩu như hình thức quảng bá hiệu quả nhất. Đối với những lễ hội lớn mang tẩm quốc gia cần phải có các website với đầy đủ thông tin được cập nhật để du khách tra cứu và tham khảo trên mạng Internet. Hiện nay ở ĐBSCL, chỉ có lễ hội anh hùng Nguyễn Trung Trực là có trang web giới thiệu về lễ hội, tuy nhiên hiệu quả tuyên truyền, đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của khách vẫn chưa cao. - Các seri sách về lễ hội truyền thống cần phải được xuất bản và tái bản rộng rãi trong xã hội để người dân có nguồn tìm hiểu kỹ và sâu về ý nghĩa, nội dung, tính nhân văn, thông điệp, của lễ hội hay phong tục tập quán gắn liền với lễ hội ấy cũng như kiến trúc, nghệ thuật của di tích. Đối với các hướng dẫn viên du lịch thì đây là cẩm nang hành nghề. Hiện tượng thường thấy khi hướng dẫn viên giới thiệu về di tích và lễ hội rất qua loa cũng chỉ vì thiếu thông tin. Ngoài sách ra, các ấn phẩm khác như băng, đĩa, sách bỏ túi, bưu ảnh cũng cần được sản xuất và phát hành rộng rãi trong các nhà sách, tiệm báo ngoài chức năng lưu niệm còn dùng để quảng cáo. - Lịch tổ chức lễ hội tuyền thống cần phải được quảng bá rộng rãi và quảng bá sớm vì ở ĐBSCL có rất nhiều lễ hội hay nhưng do Việt Nam sử dụng âm lịch nên thay đổi hàng năm. Có nhiều người muốn tham dự nhưng bỏ lỡ cơ hội vì tính sai ngày. Lịch tổ chức cần phải đi kèm nội dung chương trình, địa điểm làm lễ, khu vui chơi, khu có trò diễn dân gian,... cũng như những chỉ dẫn về nơi đậu xe, gửi xe, nơi nghỉ ngơi, ăn uống và lưu trú. - Ở những địa chỉ du lịch lễ hội truyền thống đạt chuẩn như lễ hội Bà chúa Xứ núi Sam, lễ hội Nguyễn Trung Trực, lễ hội Ok Om Bok, các công ty du lịch cần đưa vào nội dung của Tour để du khách nước ngoài biết thêm một nét đẹp văn hóa của Việt Nam nói chung, của ĐBSCL nói riêng. 3.3.4. Hợp tác liên kết khu vực và quốc tế Cần tăng cường liên kết, hợp tác giữa các địa phương trong vùng ĐBSCL, giữa các công ty du lịch, các trung tâm du lịch cả nước, các nước Đông Nam Á với ĐBSCL nhằm khai thác tốt tiềm năng du lịch lễ hội của vùng nói riêng và sản phẩm du lịch của vùng nói chung. - Liên kết hợp tác xây dựng các sự kiện du lịch, nâng tầm lễ hội du lịch của địa phương: cần chọn lựa và nâng tầm các lễ hội truyền thống thành lễ hội có qui mô cấp vùng và cấp quốc gia. Thí dụ như lễ hội Nguyễn Trung Trực (Kiên Giang), kỷ niệm chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút (Tiền Giang), lễ hội Bà Chúa Xứ, lễ hội đua bò (An Giang), đua ghe ngo (Sóc Trăng, Trà Vinh), lễ hội Gò tháp (Đồng Tháp), lễ hội nghinh Ông (Cà Mau, Trà Vinh),... thành những lễ hội du lịch có sự tham gia của tất cả các địa phương, với qui mô tầm cỡ cấp vùng, cấp khu vực. - Hiệp hội Du lịch ĐBSCL cần đẩy mạnh chương trình hợp tác phát triển du lịch giữa 4 tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL, gồm: Cà Mau, Kiên Giang, An Giang và thành phố Cần Thơ. Tăng cường, làm tốt việc kết nối các tour, tuyến du lịch, khai thác hiệu quả các loại hình du lịch ở các địa phương, như du lịch lễ ở An Giang; du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, biển đảo và lễ hội của Kiên Giang, du lịch sông nước miệt vườn, sinh thái rừng ngập mặn ở thành phố Cần Thơ và Cà Mau. - Ngoài liên kết nội vùng, Hiệp hội du lịch ĐBSCL và Sở VH – TT & DL các địa phương trong vùng xúc tiến liên kết, quảng bá, đẩy mạnh thị trường du lịch truyền thống là TPHCM, Đông Nam Bộ mà còn phải mở rộng ra miền Trung, miền Bắc, nơi có những thị trường du lịch rất tiềm năng. - Đẩy mạnh hơn nữa việc liên kết phát triển du lịch với nước láng giềng Campuchia với hai con đường chủ yếu là các cửa khẩu quốc tế ở hai tỉnh Kiên Giang và An Giang. Trong tương lai với Dự án liên vùng đó là Dự án đường cao tốc Cần Thơ - An Giang – Phnom Penh được khởi công xây dựng và đưa vào sử dụng sẽ là một tiến đề quan trong trong phát triển du lịch của vùng nói chung, đặc biệt là tuyến điểm Cần Thơ – Châu Đốc – Phnom Penh sẽ ngày càng phát triển, thậm chí thúc đẩy tận thị trường Thái Lan. 3.3.5. Phát triển nguồn nhân lực du lịch lễ hội Nguồn nhân lực này bao gồm cả nhân lực quản lý nhà nước về du lịch, quản trị kinh doanh và nhân lực kinh doanh phục vụ trực tiếp. Trong đó chú trọng đến nhân lực trực tiếp phục vụ khách du lịch lễ hội, nổi lên là các hướng dẫn viên du lịch và thuyết minh viên du lịch lễ hội. Họ cần có kiến thức toàn diện, chú trọng đến sự hiểu biết về giữ gìn lễ hội, hiểu biết về môi trường tự nhiên và đặc trưng văn hoá của chủ nhà và của khách tham quan du lịch lễ hội. Yếu tố con người là quyết định đối với mọi lĩnh vực, nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng quyết định chất lượng sản phẩm du lịch, chính vì vậy công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch cần được coi là khâu đột phá trong phát triển du lịch lễ hội đột phá ở ĐBSCL. ĐBSCL cần tập trung đầu tư, tăng cường năng lực đào tạo các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch, văn hóa (Đại học, Cao đẳng, Trung cấp,), hình thành mạng lưới đào tạo nhiều cấp độ để tăng nhanh qui mô đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong ngành du lịch, đồng thời chú trọng dạy nghề ngắn hạn nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng cơ bản về du lịch, văn hóa cho lao động gián tiếp và người dân trong vùng có tham gia du lịch lễ hội. Du lịch lễ hội ở ĐBSCL hầu như mới được quan tâm phát triển gần đây, nên đội ngũ hướng dẫn viên có kiến thức và kinh nghiệm để hướng dân loại hình du lịch này còn hạn chế. Trong khi đó du khách đến một lễ hội truyên thống đều muốn tiếp thu những điều mới lạ do hướng dẫn viên giới thiệu. Hơn nữa, bất cứ hoạt động của một cơ quan nào cũng cần có một độ ngũ quản lý có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, và ở đây tôi đang muốn nhắc đến các nhà quản lý văn hóa, các ban trị sự của di tích lễ hội. Bởi vị hiện nay trình độ của đội ngũ cán bộ ở Ban quản lý di tích lễ hội truyền thống ở ĐBSCL chưa cao và hầu hết chưa được đào tạo chuyên sau về du lịch. Để giải quyết vấn đè này, tôi xin đưa ra một số giải pháp: - Tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ quản lý du lịch tại các Sở VH – TT & DL các địa phương. Bồi dưỡng nghiệp vụ các cán cộ đương nhiệm kết hợp có chính sách ưu đãi tuyển dụng cán bộ trẻ có năng lực chuyên môn cho công tác quản lý và hoạch định chính sách. - Cần mở các lớp tập huấn ngắn hạn cho đội ngũ cán bộ và nhân viên của các di tích gắn với lễ hội thông qua các buổi nói chuyện với chuyên gia du lịch. - Tổ chức nhiều chuyến đi thực tế cho cán bộ nhân viên trong ban quản lý di tích, lễ hội đến các điểm du lịch lễ hội truyền thống điển hình cả nước ta để họ có cơ hội, tiếp xúc, trao đổi và học hỏi kinh nghiệm khai thác lễ hội phục vụ du lịch. - Nên nhận và đào tạo thêm một số cán bộ là người địa phương để có thể phục vụ thuyêt mình tại điểm. - Cần chú ý tuyển dụng và đào tạo đội ngũ lao động du lịch tại các điểm du lịch nói chung, các điểm du lịch gắn với lễ hội nói riêng những người địa phương nhằm tạo công ăn việc làm cho họ và đảm bảo công tác thuyết minh, hướng dẫn cho du khách được tốt hơn. - Có chính sách cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp du lịch thực hiện đào tạo, tái đào tạo đội ngũ nhân viên, hướng dẫn viên về tác phong du lịch, kiến thức văn hóa, lịch sử, - Hiệp hội du lịch ĐBSCL phối hợp với các địa phương, các cơ sở đào tạo tổ chức các khóa tập huấn về kỹ năng kinh doanh du lịch, văn hóa du lịch cho người dân tại các địa bàn du lịch lễ hội tiêu biểu. Bên cạnh đó, việc tổ chức hoạt động tập huấn nâng cao nhận thức về vai trò của du lịch, văn hóa, lịch sử cũng hết sức cần thiết. 3.3.6. Phát triển du lịch lễ hội gắn với phát triển cộng đồng Đến với lễ hội, du khách được hòa vào trong không gian văn hóa đặc sắc, cô đọng, thẩm nhận các giá trị văn hóa của dân tộc. Đồng thời khách du lịch cũng sẽ làm thay đổi một phần diện mạo của lễ hội, tăng tính thu hút, hấp dẫn của lễ hội, góp phần làm xóa đi sự nhàm chán, đơn điệu của lễ hội tại địa phương. Từ đó sẽ đem đến cho địa phương nguồn lợi kinh tế, tạo việc làm cho người dân nơi đây thông qua dịch vụ như vận chuyển khách, trông giữ xe, bán hàng hóa - đồ lưu niệm, phục vụ lưu trú và ăn uống,... Nội dung trong lễ hội vừa quảng bá hình ảnh về văn hóa, về đời sống mọi mặt của địa phương, vừa có dịp để giao lưu, học hỏi các tinh hoa văn hóa đem đến từ phía du khách. Cho nên: - Các doanh nghiệp du lịch, các cơ quan quản lý du lịch, quản lý văn hóa và chính quyền địa phương cần có sự phối hợp chặt chẽ để giáo dục du lịch toàn dân, trang bị cho cộng đồng dân cư ở nơi có lễ hội được khai thác phục vụ phát triển du lịch lễ hội năng lực giao tiếp, biết giữ gìn và phát huy lòng mến khách, thuần phong mỹ tục, tính tự tôn cộng đồng, tự tôn dân tộc để có cư xử đúng trong giao tiếp và trong hoạt động du lịch lễ hội. - Cần chú ý khôi phục và phát triển các ngành thủ công truyền thống của địa phương có lễ hội để góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao trách nhiệm của cư dân địa phương trong bảo vệ lễ hội và tham gia vào phát triển du lịch lễ hội. Có như thế mới mở rộng được không gian lễ hội và tạo thêm cơ hội để khai thác hợp lý các yếu tố cầu thành của không gian lễ hội, những địa điểm tổ chức các lễ hội đó, làm tăng tính hấp dẫn du lịch. Chẳng hạn như ở Lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam có thể kết hợp mua sắm đặc sản của “vương quốc mắm Châu Đốc”, lễ hội Ramadan thì mua sắm thổ cẩm ở làng dệt Châu Phong, - Ngoài ra, cộng đồng địa phương cũng có thể tham gia vào lễ hội để phục vụ du khách và có thêm thu nhập bằng các hình thức: + Cung cấp dịch vụ ăn uống cho du khách với các món đặc sản của địa phương. + Sản xuất, bán hàng lưu niệm đặc trưng của địa phương mình. + Làm hướng dẫn viên dẫn khách tham quan. + Cung cấp dịch vụ lưu trú và vui chơi cho khách. + Sản xuất và cung cấp thực phẩm cho du khách. - Cần xây dựng mô hình du lịch cộng đồng người Khmer nhằm kết hợp khai thác văn hóa dân tộc với lễ hội dân gian hiệu quả hơn. Trong thời gian diễn ra lễ hội, ở phần trò chơi dân gian có thể cho du khách cùng tham gia nhằm tạo sự phấn khởi và để lại kỷ niệm về chuyến đi trong lòng du khách. Những vấn đề trên đây khi được đầu tư, hướng dẫn cụ thể sẽ góp phần tạo điều kiện tối đa cho các cộng đồng dân cư nơi có lễ hội tham gia vào hoạt động phát triển du lịch lễ hội tại địa phương và được hưởng lợi một cách công bằng từ sự phát triển du lịch lễ hội đem lại. Như vậy thì du lịch lễ hội mới thành công thực sự và cộng đồng sẽ là lực lượng phát triển du lịch lễ hội tự nguyện vì chính lợi ích của họ. Để người dân với tư cách là chủ thể của lễ hội, lại vừa là người bảo tồn, phát triển nó, chúng ta cần phải có phương hướng, giải pháp để hướng dẫn người dân. Xã hội hoá càng mạnh thì việc định hướng phải càng nghiêm ngặt, cụ thể để cho hoạt động lễ hội đúng hướng. Có như vậy mới ngăn chặn được tình trạng “dịch vụ hoá” việc tổ chức hoạt động lễ hội, hạn chế được các mặt trái của quy luật kinh tế thị trường. Và như thế họ mới thấy giá trị của mình và nhiệt tình tham gia vào các hoạt động văn hóa du lịch, góp phần bảo tồn và phát huy được những giá trị văn hóa trong đó có lễ hội. Vấn đề rất quan trọng ở đây làm làm thế nào để vừa giải quyết được công ăn việc làm cho người dân địa phương mà không gây ra mâu thuẫn giữa người được tham gia với người chưa được tham gia vào họat động du lịch vì cùng một lúc không thể tạo điều kiện cho tất cả người dân tham gia vào hoạt động du lịch được. 3.3.7. Quản lý tốt vấn vệ sinh, an toàn thực phẩm, an ninh trật tự trong mùa lễ hội - Tổ chức giao thông vận tải thân thiện với môi trường trong khu vực lễ hội, cả giao thông động và giao thông tĩnh. - Tăng cường đội ngũ cán bộ để bảo vệ, tuần tra nhằm đảm bảo an toàn và an ninh cho du khách, đồng thời kiểm soát các hoạt động có khuynh hướng mê tín dị đoan trong dịp diễn ra lễ hội. Tiến hành phân luồng giao thông để tránh tình trạng ùn tắc giao thông, tai nạn có thể xảy ra vào những ngày chính lễ. Thanh tra, kiểm tra để tránh tình trạng tăng giá vào mùa lễ hội. - Sử dụng các biện pháp can thiệp trong tình huống cần thiết và khẩn cấp để bảo vệ lễ hội, đặc biệt là việc điều tiết lượng du khách không để vượt quá khả năng của sức chứa của lễ hội, đồng thời kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các cơ sở tham gia kinh doanh du lịch lễ hội. Đây là vấn đề rất quan trọng, cần có sự quản lý, kiểm soát chặt chẽ từ các cấp, các ngành có liên quan kết hợp với Ban tổ chức lễ hội cũng như người dân. - Giáo dục người dân ý thức trong việc bảo vệ môi trường, đồng thời trang bị các dụng cụ chứa đựng rác và nhắc nhở du khách giữ gìn vệ sinh môi trường nơi diễn ra lễ hội. Khi vào mùa lễ hội, khách du lịch tấp nập, đông đúc dễ dẫn đến tình trạng các thực phẩm ở các hàng quán xung quanh lễ hội kém chất lượng, không an toàn. Hàng năm các địa phương nên tổ chức các lớp tập huấn về vệ sinh an toàn thực phẩm cho các đơn vị, cá nhân kinh doanh mặt hàng ăn uống. Và vấn đề này nên được đưa vào quy chế bắt buộc trong hoạt động du lịch dịch vụ đối với các đơn vị, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực này. Nếu nhà hàng, khách sạn, cơ sở kinh doanh nào để xảy ra ngộ độc thực phẩm thì không chỉ bị cơ quan chức năng xử phạt, hoặc rút giấy phép kinh doanh. Có như thế, các khách sạn, nhà hàng, sẽ lựa chọn những đơn vị, cá nhân có uy tín cung cấp thực phẩm cho mình. Đồng thời xây dựng bếp ăn đúng quy chuẩn và chọn lựa đội ngũ cán bộ nhân viên chế biến thức ăn đảm bảo sức khỏe và có tay nghề cao. 3.3.8. Xây dựng và đưa vào khai thác hiệu các tuyến du lịch lễ hội mới Hiện nay, chương trình tour du lịch của các công ty du lịch ở ĐBSCL cũng khá đa dạng, phần nào cũng đã đáp ứng được nhu cầu của khách. Tuy nhiên, hầu hết chỉ tập trung khai thác các tuyến truyền thống, còn những lễ hội cũng hết sức hấp dẫn và có tiềm năng khai thác vẫn chưa được các nhà điều hành du lịch đua vào chương trình tour của mình. Việc mở thêm tuyến mới nhằm làm phong phú thêm sản phẩm du lịch, có nhiều lựa chọn cho du khách đồng thời giảm sức ép lên các tuyến điểm truyền thống. Qua nghiên cứu, khảo sát thực tế, tác giả xin thiết kế một vài tuyến du lịch lễ hội kết hợp với các loại hình du lịch khác. Tuyến 1: Long An – Đồng Tháp (khai thác lễ hội Gò Tháp và du lịch vùng Đồng Tháp Mười cho chuyến này) Các điểm tham quan của tuyến: Khu du lịch sinh thái Đồng Tháp Mười, khu di tích Núi Đất, vườn cò Tháp Mười, Vườn quốc gia Tràm Chim, tham dự lễ hội Gò Tháp (tháng 3 hoặc tháng 11 Âm lịch), Khu du lịch sinh thái Gáo Giồng, Xẻo Quýt, Với tuyến này, hiện nay hầu như rất ít thấy các công ty du lịch đưa vào khai thác và giới thiệu trong chương trình tour, chủ yếu là các tour du lịch bụi mang tính tự phát. Và từ tuyến này chúng ta có thể nối tuor đến An Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long, để tham quan các điểm du lịch nổi tiếng đều rất thuận lợi. Tuyến 2: Vĩnh Long – Trà Vinh – Bến Tre (Khai thác lễ hội cúng biển Mỹ Long hoặc lễ hội của đồng bào Khmer ở Trà Vinh) Các điểm tham quan của tuyến: Du lịch miệt vườn trên các cù lao, tham quan Văn Thánh Miếu, hệ thống các chùa ở Trà Vinh như chùa Âng, chùa Nôdol, chùa Hang, ao Bà Om, biển Ba Động hoặc tham dự lễ hội cúng biển Mỹ Long (nếu khách đi đúng vào thời điểm diễn ra lễ hội tháng 5 Âm lịch); đến Bến Tre có thể tham quan hệ thống các cù lao, sân chim Vàm Hồ, Khu lăng mộ hai vị Nguyễn Đình Chiểu và Phan Thanh Giản. Tuyến 3 (quốc tế): Châu Đốc – Tịnh Biên – Phnom Penh - Siem Reap (khai thác tuyến này cho lễ hội vía Bà Chúa Xứ hoặc đua bò Bảy Núi đều được và có thể nối tour với các điểm du lịch khác tùy theo nhu cầu của khách). Ngoài việc tham quan các điểm du lịch ở Châu Đốc và Tịnh Biên thì điểm du lịch tại Campuchia khách sẽ đến là: tham quan thị xã Kong Pong Thom, cầu Kong Pong Kdey, Cổng Thành Phía Nam đền Angkor Thom: đền Bayon (ngôi đền có nhiều khối đá khổng lồ); đền Ta Prohm - nơi hãng phim Hollywood (Mỹ) dựng cảnh phim “Bí mật ngôi mộ cổ”, tham quan Hoàng Cung, chùa Bà Pênh (Wat Phnom). Ngoài ra, cũng nên đưa vào khai thác tuyến tổng hợp: - Long An – Đồng Tháp – An Giang – Kiên Giang – Cà Mau – Bạc Liêu – Sóc Trăng – Hậu Giang – Cần Thơ – Vĩnh Long – Tiền Giang. - Long An – Tiền Giang – Bến Tre – Trà Vinh – Vĩnh Long – Đồng Tháp – Cần Thơ - Kiên Giang – Cà Mau – Bạc Liêu – Sóc Trăng – Hậu Giang Với hai tuyến này, dựa vào thời điểm khách đi rơi vào mùa lễ hội ở địa phương nào thì sẽ tham dự lễ hội ở địa phương đó, đây là tuyến có thể khai thác tổng hợp các loại hình du lịch ở ĐBSCL trong đó có du lịch lễ hội truyền thống. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ    1. Kết luận Trong thời đại toàn cầu hóa, du lịch có vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế thế giới và các nền kinh tế quốc gia. Du lịch văn hóa là xu hướng của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam vì đem lại giá trị lớn cho cộng đồng xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu lễ hội truyền thống ở ĐBSCL phục vụ phát triển du lịch, có thể rút ra một số kết luận sau: Du lịch văn hóa, trong đó có du lịch lễ hội truyền thống ở Việt nam nói chung và ở ĐBSCL nói riêng ngày càng được sự quan tâm của nhiều người bởi vì nó là loại hình du lịch dựa vào giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam và văn hóa bản địa, có trách nhiệm cao đối với vấn đề bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc và phát triển cộng đồng. Dựa trên cơ sở tiềm năng lễ hội truyền thống vốn có của vùng, kếp hợp với xu thế, nhu cầu của thực tiễn, các địa phương ở ĐBSCL hiện đã đẩy mạnh khai thác lọai hình du lịch này. ĐBSCL là nơi sinh sống của cộng đồng 4 dân tộc anh em Kinh, Khmer, Hoa, Chăm. Đó là vùng đất có nền văn hóa đa dạng với nhiều lễ hội truyền thống mang bản sắc văn hóa độc đáo. Trong những năm qua, lễ hội truyền thống ở ĐBSCL bước đầu đã được các Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch các địa phương, các công ty lữ hành và đặc biệt là của khách du lịch xem là một sản phẩm du lịch hấp dẫn. Qua đó, vừa tạo điều kiện để các địa phương có thể có thêm kinh phí bảo tồn và phát huy các lễ hội, tạo thêm công ăn việc làm và thu nhập của người địa phương và đồng thời quảng bá, giới thiệu đặc điểm văn hóa nói chung, lễ hội truyền thống của vùng nói riêng một cách rộng rãi hơn. Vấn đề khai thác du lịch lễ hội truyền thống ở ĐBSCLTuy nhiên, thực trạng khai thác du lịch lễ hội truyền thống của vùng cũng còn rất nhiều vấn đề tồn đọng, chưa mạng lại hiệu quả so với tiềm năng vốn có. Bởi vì du lịch lễ hội truyền thống ở ĐBSCL vẫn chưa thực sự thu hút và quan tâm của các công ty du lịch và các nhà quản lý văn hóa, du lịch mặc dù trên thực tế, du lịch lễ hội của vùng đầy tìm năng và hấp dẫn. Trên cơ sở phân tích tiềm năng, hiện trạng, những điểm mạnh, những vẫn đề còn tồn đọng trong khai thác phát triển du lịch lễ hội truyền thống ở ĐBSCL, các định hướng phát triển du lịch lễ hội của vùng bao gồm: - Xây dựng các sản phẩm du lịch lễ hội để phù hợp với thị trường khách du lịch và tiềm năng lễ hội của vùng. - Về tổ chức không gian du lịch, xác định cụm và các tuyến du lịch trọng tâm trong khai thác sản phẩm du lịch lễ hội. - Đưa ra các định hướng về phát triển nguồn nhân lực và đầu tư phục vụ cho phát triển du lịch. Luận văn cũng đưa ra một số giải pháp để phát triển du lịch lễ hội của vùng như: đào tạo nguồn nhân lực, giải pháp đầu tư và huy động vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật cho phát triên du lịch, giải pháp về gắn phát triển du lịch lễ hội với cộng đồng địa phương, xây dựng và đưa vào khai thác một số tuyến du lịch mới để giảm tải sức ép lên các tuyến truyền thống, giải pháp hợp tác liên kết khu vực và quốc tế, xúc tiến tiếp thị quảng bá mở rộng thị trường, các pháp quản lý vấn đề vệ sinh thực phẩm, ô nhiễm môi trường. 2. Kiến nghị  Đối với UBNDcác tỉnh - Nên quan tâm đầu tư thỏa đáng cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng nhằm phát triển du lịch, đặc biệt là mạng lưới giao thông phục vụ phát triển du lịch. - Đổi mới về cơ chế, cần có chủ trương, chính sách ưu đãi để thu hút, khuyến khích các nhà đầu tư mạnh dạn khai thác tiềm năng du lịch của tỉnh nhà. - Cần có cơ chế thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính, nhanh gọn; việc thanh, kiểm tra nên tế nhị và hết sức tinh tế, giúp cho các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực du lịch được kinh doanh dễ dàng thuận tiện; đem lại sự tin tưởng, hài lòng của du khách.  Đối với Sở VH – TT & DL các tỉnh - Cần tiến hành rà soát, kiểm kê và qui hoạch cụ thể những lễ hội truyền của địa phương có khả năng khai thác du lịch để có kế hoạch đầu tư, nâng cấp bảo tồn và phát triển nhằm phục vụ nhân dân và thu hút du khách. - Cần gắn kết chặt chẽ với các ngành chức năng trong tỉnh trong tổ chức các hoạt động văn hóa lễ hội đặc sắc mang tính đa dạng, phong phú và hấp dẫn. - Cần tư vấn hoặc hỗ trợ các điểm lễ hội truyền thống mà Ban quản lý nơi đó vì thiếu trình độ hay thiếu vốn đầu tư mà để cho di tích nhếch nhác, nhuốm màu mê tín hay mang tính buôn thần bán thánh. Với sự giúp đỡ của ngành du lịch, các lễ hội ấy sẽ khởi sắc hơn để góp phần vào ngành công nghiệp không khói của địa phương. - Cần biên soạn và tổng hợp các tư liệu chính xác về các lễ hội truyền thống của tỉnh mình bằng cách thu thập những tài liệu đã có, tu chỉnh lại nếu cần, biên soạn thêm những nơi chưa có tư liệu để tập hợp lại thành một cuốn sách nói về các lễ hội truyền thống của vùng. Thiết nghĩ công việc này mặc dù tốn nhiều công sức, thời gian và kinh phí, nhưng là việc làm cần thiết, xem như một phần của kinh phí đầu tư cho ngành du lịch. - Xây dựng băng đĩa ghi lại nội dung về hoạt động lễ hội nhằm quảng bá và giới thiệu đến du khách; trên các hàng lưu niệm khuyến khích doanh nghiệp, tiểu thương khắc tên địa điểm diễn ra lễ hội và lấy biểu tượng, hình ảnh liên quan đến lễ hội làm dấu tích. - Cần mở những lớp chuyên đào tạo hướng dẫn viên du lịch lễ hội hoặc văn hóa, hoặc mở rộng mạng lưới cộng tác viên làm việc bán thời gian cho ngành du lịch hoặc có thể tìm cộng tác viên tại chỗ, như thế sẽ đỡ thời gian, kinh phí và công sức đào tạo. - Cần đẩy mạnh các hoạt động liên kết khai thác tiềm năng du lịch văn hóa lễ hội với các tỉnh bạn trong khu vực  Đối với các đoàn thể, ban ngành chức năng của các tỉnh - Có sự kết hợp giữa chính quyền, ngành du lịch và đoàn thể, cá nhân đang quản lý các lễ hội truyền thống. - Phổi hợp với Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh nhà trong việc xây dựng các chính sách hợp lý, các kế hoạch bài bản để huy động vốn đầu tư cho du lịch cũng như quản lý hiệu quả hoạt động du lịch trên địa bàn của mình.  Đối với Ban quản lý, Ban tổ chức các lễ hội truyền thống - Phải có ý thức bảo tồn và phát huy những giá trị của lễ hội truyền thống, tránh tình trạng mai một làm biến đổi nguyên bản gốc của lễ hội. - Kết hợp với lực an ninh quản lý, bảo vệ vấn đề trật tự, bài trù mê tín dị đoan, tệ nạn ăn xin, móc túi, xử lý những tình trạng mua bán, lấn chiếm trái phép không gian diễn ra lễ hội. - Giới thiệu thời gian, địa điểm diễn ra lễ hội trên các phương tiện thông tin đại chúng, các sách hướng dẫn, tờ rơi, tờ bướm, để du khách có thể tham gia lễ hội được dễ dàng, tiện lợi. - Xây dựng những chương trình lễ hội kết hợp tổ chức các trò chơi dân gian, văn nghệ truyền thống, để phục vụ người dân và thu hút khách du lịch. - Trang bị các dụng cụ chứa đựng rác và nhắc nhở du khách giữ gìn vệ sinh môi trường nơi diễn ra lễ hội. Như vậy, để du lịch lễ hội truyền thống ở ĐBSCL phát triển, cần phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa chính quyền địa phương, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch các tỉnh, Ban quản lý – Ban tổ chức các lễ hội và các công ty du lịch lữ hành. TÀI LIỆU THAM KHẢO    1. Bùi Công Ba (2010), Lễ hội ở Kiên Giang thực trạng tiềm năng và một số giải pháp quản lý cần trao đổi, Tham luận Hội thảo quốc tế Bảo tồn và phát huy lễ hội cổ truyền trong đời sống xã hội đương đại, Hà Nội. 2. Ban Quản Trị Lăng miếu núi Sam (2004), Lịch sử miếu Bà Chúa Xứ núi Sam, Hội Văn nghệ Châu Đốc, An Giang. 3. Đào Ngọc Cảnh (2008), Giáo trình Tổng quan du lịch, Trường đại học Cần Thơ, Cần Thơ. 4. Nguyễn Mạnh Cường (2002), Vài nét về người Khmer Nam Bộ, Nxb Khoa học Xã hội, TP.HCM. 5. Ngô Thị Kim Doan (2003), Những lễ hội Việt Nam tiêu biểu, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. 6. Nguyễn Xuân Hồng (2010), Bảo tồn và phát triển lễ hội truyền thống của người Việt ở ĐBSCL trong xã hội đương đại, Tham luận Hội thảo quốc tế Bảo tồn và phát huy lễ hội cổ truyền trong đời sống xã hội đương đại, Hà Nội. 7. Nguyễn Văn Hiệu (2009), Khai thác lợi thế văn hóa trong hoạt động du lịch, Tạp chí Đại học Sài Gòn (11). 8. Vũ Ngọc Khánh (2007), Văn hóa lễ hội truyền thống cộng đồng các dân tộc Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 9. Nguyễn Văn Lưu (2010), Khai thác lễ hội một cách hợp lý để đẩy mạnh phát triển du lịch, Tham luận Hội thảo quốc tế Bảo tồn và phát huy lễ hội cổ truyền trong đời sống xã hội đương đại, Hà Nội. 10. Lê Hồng Lý (2008), Khai thác các giá trị văn hóa và lễ hội truyền thống ở các tỉnh ĐBSCL phục vụ phát triển du lịch, Tạp chí Văn hóa dân gian. 11. Hoàng Nam (2005), Một số giải pháp quản lý lễ hội dân gian, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 12. Thích Minh Nhẫn (2010), Du lịch tâm linh ĐBSCL, Tham luận Hội thảo Hoằng pháp toàn Quốc, Kiên Giang. 13. Thạch Phương (1993), “Mấy đặc điểm của sinh hoạt lễ hội cổ truyền của người Việt ở Nam Bộ”, Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại, tr.117-127. 14. Lâm Tâm (1994), Một số tập tục người Chăm An Giang, Chi hội Văn nghệ dân gian tỉnh An Giang, An Giang. 15. Nguyễn Phương Thảo (2008), Văn hóa dân gian Nam Bộ những phát thảo, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. 16. Tổng cục du lịch - Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2010), Đề án Phát triển du lịch ĐBSCL đến 2020, Hà Nội. 17. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 18. Nguyễn Minh Tuệ (Chủ biên), Lê Thông, Vũ Đình Hòa, Lê Mỹ Dung, Nguyễn Trọng Đức, Lê Văn Tin, Trần Ngọc Diệp (2010), Địa lý du lịch Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 19. Đinh Thị Minh Tuyết (2010), Bảo tồn lễ hội truyền thống – nhìn từ góc độ quản lý, Tạp chí Tổ chức Nhà nước (7). 20. Lê Thị Vân (2006), Giáo trình Văn hóa du lịch, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 21. Viện Văn hóa – Bộ phận thường trú tại TP.HCM và Nhà xuất bản tổng hợp tỉnh Hậu Giang (1988), Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ, Nxb Tổng hợp Hậu Giang, Hậu Giang (cũ). 22. Viện Văn hóa (Chủ biên), Trường Lưu (1993), Văn hóa người Khmer vùng ĐBSCL, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 23. Bùi Thị Hải Yến (2007), Quy hoạch du lịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 24. Bùi Thị Hải Yến (Chủ biên), Phạm Hồng Long (2009), Tài nguyên du lịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Các wedsite: 25. www.angiang.gov.vn 26.www.baclieu.gov.vn 27. www.bvhttdl.gov.vn 28. www.cantho.gov.vn 28. www.camau.gov.vn 30. www.chinrong.com 31. www.cinet.gov.vn 32. www.dongthap.gov.vn 33. www.giacngo.vn 34. www.hoidisan.vn 35. www.itdr.org.vn 36. www.kiengiang.gov.vn 37. www.kiengiangvn.vn 38. www.longan.gov.vn 39. www.mdta.vn 40. www.soctrang.gov.vn 41. www.tanchauxulua.com 42. www.tapchicongsan.org.vn 43. www.tiengiang.gov.vn 44. www.travinh.gov.vn 45. www.vanhoahoc.edu.vn 46. www.vicas.org.vn 47. www.vietgle.vn 48. www.vietnamtourism.gov.vn 49. www.vinhlong.gov.vn PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG ĐBSCL Hình 1: Hội đua ghe Ngo Nguồn: otosaigon.com Hình 2: Hội đua bò Bảy núi Nguồn: vnexpress.net Hình 3: Lễ hội Quán Âm Nam Hải Nguồn: vietbalo.vn Hình 4: Lễ hội nghinh Ông Gành Hào Nguồn: diendanbaclieu.net Hình 5: Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Nguồn: dantri.com.vn Hình 6: Lễ hội Bà Chúa Xứ Gò Tháp Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam Hình 7: Lễ hội cúng biển Mỹ Long Nguồn: vinabooking.vn Hình 8: Lễ hội Chol Chnam Thmay Nguồn: soctrang.gov.vn Hình 9: Lễ hội anh hùng Nguyễn Trung Trực Nguồn: tuoitre.vn Hình 10: Lễ hội Ramadan Nguồn: vnexpress.net Biên tập: Dương Thanh Xuân Bản đồ được thành lập dựa trên bản đồ Hành chính Đồng bằng sông Cửu Long tỉ lệ 1/1.000.000 Biên tập: Dương Thanh Xuân Bản đồ được thành lập dựa trên bản đồ Hành chính Đồng bằng sông Cửu Long tỉ lệ 1/1.000.000 Biên tập: Dương Thanh Xuân Bản đồ được thành lập dựa trên bản đồ Hành chính Đồng bằng sông Cửu Long tỉ lệ 1/1.000.000

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5886.pdf
Tài liệu liên quan