MỤC LỤC 
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu . 1 
1.1. Đặt vấn đề 1 
1.2. Sự cần thiết nghiên cứu . 2 
2. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu . 2 
2.1. Mục tiêu nghiên cứu 2 
2.2. Phạm vi nghiên cứu . 3 
3. Phương pháp nghiên cứu . 4 
3.1. Phương pháp 5 
3.2. Thu thập dữ liệu . 5 
3.2.1. Dữ liệu sơ cấp . 5 
3.2.2. Dữ liệu thứ cấp . 7 
3.3. Nhận xét về nguồn dữ liệu 7 
3.3.1. Nhận xét về nguồn dữ liệu sơ cấp . 7 
3.3.2. Nhận xét về nguồn dữ liệu thứ cấp . 8 
3.3.3. Tính giá trị 8 
3.3.4. Độ tin cậy 9 
 
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH HÀNH VI 
1.1. Lý thuyết tài chính . 11 
1.1.1. Lý thuyết tài chính cơ bản . 11 
1.1.2. Lý thuyết thị trường hiệu quả 11 
1.1.3. Tài chính hành vi . 12 
 1.1.3.1. Lý thuyết kỳ vọng 12 
 1.1.3.2. Sự không yêu thích rủi ro . 14 
 1.1.3.3. Tính toán trí óc . 15 
 1.1.3.4. Tự điều chỉnh hành vi . 17 
 1.1.3.5. Hối tiếc . 17 
1.1.3.6. Phương pháp giải quyết vấn đề của nhà đầu tư dựa kinh 
nghiệm (Heuristics) . 18 
1.1.3.7. Hành vi bầy đàn 19 
1.1.3.8. Quá tự tin và phản ứng thái quá hay bi quan 20 
1.1.3.9. Sự tham khảo (Anchoring) . 22 
1.2. Lý thuyết hành vi đầu cơ (đầu cơ bong bóng) . 23 
1.2.1. Các tiền nghiên cứu 23 
1.2.2. Những yếu tố giúp giải thích bong bóng đầu cơ . 25 
1.3. Điều kiện để lý thuyết tài chính hành vi tồn tại . 25 
1.3.1. Hành vi không hợp lý 25 
1.3.2. Hành vi không hợp lý mang tính hệ thống 26 
1.3.3. Giới hạn khả năng kinh doanh chên lệch giá trên TTTC 26 
Kết luận chương I 27 
 
CHƯƠNG II: NGHIÊN CỨU TÂM LÝ HÀNH VI TRÊN THỊ TRƯỜNG 
HỨNG KHOÁN VIỆT NAM 
2.1. Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ năm 2007 đến nay 29 
2.1.1. Thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn bong bóng 
đầu cơ 30 
2.1.2. Thực trạng thị trường sau bong bóng đầu cơ . 32 
2.2. Kết quả điều tra những nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức trên thị 
trường chứng khoán Việt Nam 38 
2.2.1. Hồ sơ điều tra của các nhà đầu tư . 38 
2.2.2. Đặc điểm hành vi đầu tư 39 
 2.2.2.1. Sự thay đổi trong những khoản theo dõi đầu tư . 39 
 2.2.2.2. Sự thay đổi trong hạng mục mục tiêu đầu tư . 40 
 2.2.2.3. Sự thay đổi trong các nhân tố quan trọng trong đầu tư 42 
 2.2.2.4. Những lý do có thể của việc đánh giá quá mức và sự suy thoái 
của thị trường 44 
2.2.2.5. Những nguyên nhân và những kỳ vọng về giá trị thị trường 
hiện tại và tương lai . 46 
2.2.3. Yếu tố kỳ vọng tác động đến hiệu quả đầu tư . 48 
 2.2.3.1. Những lý do dẫn đến việc đầu tư kém hiệu quả . 48 
 2.2.3.2. Tính nhạy cảm của hành vi sợ thua lỗ 50 
2.2.4. Cách giải quyết sai lầm của nhà đầu tư dựa vào kinh nghiệm 
(Heuristics) 51 
2.2.4.1. Khả năng dự đoán sự phát triển thị trường của nhà đầu tư 51 
2.2.4.2. Tầm ảnh hưởng của các nguồn thông tin được công bố . 52 
2.2.4.3. Ý kiến của nhà đầu tư về việc thị trường sẽ trở ngược lại sự 
suy thoái như ngày hôm nay như thế nào 53 
2.2.4.4. Phản ứng của nhà đầu tư đối với cổ phiếu đang tăng giá . 55 
2.2.4.5. Khả năng tiếp tục thay đổi trong giá trị . 56 
2.3. Kết quả nghiên cứu 56 
Kết luận chương II 58 
 
CHƯƠNG III: G ỢI Ý NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ ỨNG XỬ VỚI NHỮNG TÁC 
ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH HÀNH VI TR ÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 
VIỆT NAM 
3.1. Nền tảng để đề xuất giải pháp 60 
3.2. Giải pháp về chính sách . 60 
3.2.1. Nguyên tắc 1: Dựa vào tâm lý đám đông của nhà đầu tư . 61 
3.2.2. Nguyên tắc 2: Dựa vào thói quen 62 
3.2.3. Nguyên tắc 3: Cảm giác “công bằng” tác động đến hành vi con 
người 63 
3.2.4. Nguyên tắc 4: Tự điều chỉnh hành vi . 64 
3.2.5. Nguyên tắc 5: Sự không yêu thích rủi ro của nhà đầu tư 65 
3.2.6. Nguyên tắc 6: Quá tự tin và phản ứng thái quá của nhà đầu tư 65 
3.2.7. Nguyên tắc 7: Con người trở nên thụ động khi bị dẫn dắt bởi quá 
nhiều thông tin . 66 
3.3. Xây dựng phương pháp đầu tư dựa vào mục tiêu của nhà đầu tư 67 
3.3.1. Đáp ứng mục tiêu của nhà đầu tư 67 
3.3.2. Đầu tư đáp ứng nhu cầu cuộc sống hiện tại 70 
3.3.3. Thực hiện việc đo lường mới của tỷ suất sinh lợi mới và rủi ro . 73 
3.3.4. Chiến lược bảo vệ cuộc sống 74 
3.3.5. Đáp ứng mục tiêu dùng tiền 75 
3.3.6. Đầu tư cho một vùng kế hoạch cố định . 76 
Kết luận chương III . 80 
 
KẾT LUẬN CHUNG 82 
PHỤ LỤC 1: BẢNG CÂU HỎI ĐIỀU TRA 90 
PHỤ LỤC 2: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH SO SÁNH THỐNG KÊ 95 
PHỤ LỤC 3: DỮ LI ỆU THỐNG KÊ 112 
PHỤ LỤC 4: NHỮNG YẾU TỐ GIÚP GIẢI THÍCH HÀNH VI BONG BÓNG 
 ĐẦU CƠ . 120 
 
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ VÀ BẢNG SỐ LIỆU 
2.1 Tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2007 30 
2.2 Tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2008 . 33 
2.3 Tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2009 . 34 
2.4 Phần trăm đầu tư vào hạng mục đầu tư dài hạn 38 
2.5 Chọn lựa những mục hạng đầu tư nhiều nhất trong và sau thời kỳ bong bóng 41 
2.6 Các nhân tố quan trọng nhất đóng góp vào việc định góp vào việc định giá thị trường 
trong thời kỳ bong bóng đầu cơ 45 
2.7 Các yếu tố quan trọng nhất đóng góp vào thị trường giá tăng từ tháng 3 năm 2007 . 46 
2.8 Giá trị ước lượng của thị trường chứng khoán ngày nay . 47 
2.9 Nguyên nhân của việc đầu tư kém hiệu quả . 49 
2.10 Bạn đã từng ở bất cứ thời điểm nào trong thời kỳ bong bóng đầu cơ bạn có nghĩ là 
bạn có thể dự đoán được tương lai phát triển của thị trường hay không? 51 
2.11 Trong thời kỳ bong bóng đầu cơ bạn phản ứng thế nào với các công bố từ 
công ty 53 
2.12 Nếu có một vụ suy thoái tương tự ngày nay, như vụ suy thoái hồi tháng 3 năm 2008. 
Thị trường sẽ trở lại mức độ trứơc trong vài năm hay sẽ ra sao? . 54 
3.1 Quá trình đầu tư dựa vào mục tiêu . 68 
3.2 Đầu tư dựa vào mục tiêu so với đầu tư truyền thống . 69 
3.3 Vùng của cơ hội lợi nhuận và rủi ro trong chi tiêu cuộc sống hiện tại 71 
3.4 Mối quan hệ giữa lỗ tiềm năng và tỷ lệ chi tiêu có thể chống đỡ thấp nhất . 74 
3.5 Giá trị danh mục thấp nhất . 78 
3.6 Đạt được giá trị danh mục tối thiểu 79
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
156 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1974 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu lý thuyết tài chính hành vi trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hưởng thái hóa của các ngân hàng đầu tư lên lời khuyên của các 
nhà phân tích có thể đóng góp vào sự biến động của thị trường và bong bóng đầu 
cơ. 
f) Sự tăng trưởng của các quỹ cộng đồng và sự xuất hiện của lợi tức quỹ 
hưu (Premiepensionsvalet). 
Sự bùng phát của thị trường chứng khoán trùng hợp với sự phát triển bức phá 
trong ngành công nghiệp quỹ công chúng và sự sinh sôi của các quãng cáo cho các 
quỹ này. Quỹ cộng đồng đầu tiên đầu tư vào thị trường ở Thụy Điển xuất hiện vào 
thập niên 1950 bởi Handlsbanken. Thật khó để khuyến khích người dân đầu tư vào 
các quỹ và vào đầu thập niên 1970 thì tổng giá trị của 10 quỹ đầu tư không hơn 300 
triệu SEK. Sự tăng tốc đầu tiên của các quỹ đến vào năm 1984 khi mà allemansspar 
được giới thiệu. Có 2 chọn lựa trong allemansspar, một là tài khoản lợi tức (interest-
savings account) (allemanssparkonto) và một tài khoản lợi vốn (equity-savings 
account) trong quỹ công chúng (allemansfond). Có một khích lệ để dùng các loại 
tích lũy này vì hoa lợi được miễn thuế cho tới năm 1991. Cổ tức từ các quỹ công 
chúng được đánh thuế 20% cho đến tháng 1 năm 1997; điều này nên so với mức 
thuế 30% được đánh trên vốn thu nhập. Sự phổ biến của các quỹ công chúng phát 
triển nhanh chóng và vào năm 1986-87, 400 triệu SEK đã được đầu tư vào quỹ; 
khối lượng này tăng lên 75.000 triệu SEK vào năm 2000. Quỹ công chúng 
(allemansfond) là bước tiến lớn trong quỹ công chúng ở Thụy Điển và từ đó người 
ta đã biết cách phân bố rủi ro bằng cách đầu tư nhiều loại chứng khoán. Vào năm 
1989, cơ hội để đầu tư vào cổ phiểu ngoại quốc đã trở thành hiện thực. Đã có 10 
quỹ đầu tiên với tống vốn khoảng 880 triệu SEK, 5 năm sau 6.600 triệu SEK đã 
được đầu tư vào cổ phiếu ngoại quốc. Ngày nay khoảng 350 với chừng 50.000 triệu 
SEK đã được đầu tư (Fondex). 
Một phần lý do làm cho quỹ vốn cộng đồng sinh sôi quá nhanh là do chúng 
được dùng bằng lương hưu (premiepensionvalet). Sự thay đổi tự nhiên trong kế 
hoạch lương hưu đã khiến người ta cách để chấp nhận chứng khoán và quỹ đầu tư 
127 
như là một nguồn tốt để tăng vốn. Khi người ta đầu tư tiến thẳng vào các quỹ công 
chúng, họ có sẽ nắm bắt hơn về khái niệm và vì thế họ sẽ đầu tư nghiêng về phía 
nguồn vốn không phải lương hưu trong các quỹ công chúng. Nếu sự quan tâm của 
người ta được nhìn qua thấu kính của một kế hoạch lương hưu thì trực giác của họ 
sẽ nghĩ ngay đến đầu tư dài hạn vì mục đích của quỹ lương hưu là để chuẩn bị cho 
nghỉ hưu, và quỹ đó dĩ nhiên dành cho hầu hết người lao động trong nhiều năm tới. 
Ý nghĩ khuyến khích đầu tư dài hạn thì tốt theo một số nhà đầu tư, tuy nhiên khi mà 
con số các quỹ công chúng và danh mục đầu tư tăng lên, ngân hàng và các tổ chức 
đưa ra các quỹ công chúng mà có lẽ sẽ tạo ra nhiều cầu hơn cho cổ phiếu mà đến 
lượt nó đóng góp một phần lớn trong việc cổ phiếu tăng giá. 
Một lý do khác giải thích cho việc bùng nổ tăng trưởng của các quỹ này là họ 
đã trả một mức phí lớn cho quảng cáo. Các quỹ công chúng có thể khuyến khích 
các nhà đầu tư ngu ngơ tham gia vào thị trường bằng các khiến họ nghĩ rằng các 
chuyên gia quản lý quỹ sẽ giúp họ tránh xa được các cạm bẫy thị trường. Sự sinh 
sôi của các quỹ công chúng vốn vì thế tập trung thị hiếu (attention) của công chúng 
vào thị trường, Với tác động khuyến khích rằng giá đầu cơ trên thị trường tập trung 
lại hơn là với những cổ phiếu đơn lẻ. Một nghiên cứu ở Mỹ cho thấy rằng sự liên hệ 
giữa hoạt động thị trường và mức lãi trong các quỹ công chúng, các dòng tiền chảy 
vào các quỹ công chúng thể hiên ngay một phản ứng khi giá thị trường tăng 
(Warther, 1995). Có một khái niệm xuất hiện trong quần chúng đó là các quỹ đầu tư 
công chúng thì có vẻ tiện lợi và an toàn vì thế nó đã khuyến khích các nhà đầu tư 
mà đã từng sợ tham gia vào thị trường, vì thế nó giúp đẩy giá của thị trường lên. 
Mức kiến thức và giáo dục trong người dân và các nhà đầu tư có thể cũng có 
một vai trong quan trọng trong giá trị của cổ phiếu. Cám ơn các quỹ công chúng và 
các phương tiện đã giúp các nhà đầu tư học được cách để đầu tư dài hạn và để thấy 
giá giảm như tạm thời – và cũng như là mua cơ hội. Vì thế các nhà đầu tư đã học 
được cách phân bố danh mục đầu tư cổ phiếu thì không rủi ro, và rằng cổ phiếu thì 
có nhiều giá trị đầu tư hơn là họ đã từng nghĩ. Vì thế kết quả là bây giờ họ sẵn sàng 
128 
mua cổ phiếu nhiều hơn. Vì mức cầu cho cổ phiếu tăng , thị trường chứng khoán sẽ 
vĩnh viễn duy trì mức giá cao trong tương lai (Glassman, Hassett. 1999) 
g) Lạm phát và hiệu ứng của ảo tưởng tiền (Effects of Money Illusion) 
giảm. 
Ảo tưởng tiền là việc nhìn nhận sai lệch về sự khác biệt giữa giá trị danh nghĩa 
và giá trị thực, hoặc là xu hướng tiếp tục gán cho giá trị danh nghĩa tầm quan trọng 
mặc dù đã nhận thức được giá trị thực. Điều này thì bình thường giữa mọi nhà ra 
quyết định, mà vẫn ngoan cố, mặc dù sau khi thực chất biết rằng nó thì không hoàn 
toàn được loại trừ (Schwartz, 2000). 
Triển vọng và lạm phát của nền kinh tế Thụy Điển thì mà được đo bằng phần 
trăm thay đổi của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) thì đã tăng trướng cùng với thị trường 
giá lên trong thập niên 1990. Tại sao lạm phát lại xấu đến thế? Có rất nhiều lý do để 
giải thích nhưng một trong những lý do là công chúng khá quan tâm đến mức lạm 
phát cao. Những nghiên cứu ở Mỹ cho thấy rằng con người tin một cách rộng rãi 
rằng mức độ lạm phát là một thước đo tốt cho nên kinh tế và xã hội của một quốc 
gia (Shiller, 1997). Lạm phát cao được xem là một dấu hiệu của nền kinh tế xáo 
trộn, của việc mất giá trị cơ bản, và là một điều hổ thẹn cho quốc gia. Lạm phát thấp 
thì được nhìn nhận là dấu hiệu của một nền kinh tế phồn thịnh, xã hội công bằng, 
chính phủ điều hành tốt. Vì thế, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi lạm phát thấp thúc 
đấy sự tự tin của công chúng và vì thế thúc đẩy giá trị thị trường. 
Tầm nhìn này, tuy nhiên, cũng không thực sự thỏa mãn như những giải thích 
của các lý thuyết kinh tế. Thị trường chứng khoán phản ứng bất hợp lý với lạm phát 
vì người ta không hiểu đầy đủ các hiệu ứng của lạm phát vào mức lãi suất 
(Modigliani và Cohn, 1979). Khi lạm phát cao – lãi suất danh nghĩa cũng cao vì 
chúng phải bù đắp phần lạm phát cho các nhà đầu tư, mà cái phần lạm phát đó ăn 
mòn giá trị tiền của họ. Modigliani và Cohn cho rằng thị trường có hướng suy yếu 
khi mức lãi suất danh nghĩa cao (ngay cả) khi mức lãi suất thực thấp vì một dạng 
của “ảo tưởng tiền”, hay công chúng bối rối về những tác động của mức chuẩn tiền 
thay đổi. Khi có lạm phát, giá trị của tiền thay đổi, và vì thế mức đo mà con người 
129 
dùng để ước lượng giá trị cũng thay đổi theo. Khi người ta nghe về tiêu chuẩn so 
sánh thay đổi dĩ nhiên họ sẽ cảm thấy bối rối. 
Sự hiểu nhầm về lạm phát trong cộng đồng thúc đẩy sự kỳ vọng cao về giá trị 
thức của tiền sẽ quay lại. Hầu hết dữ liệu về sự trở lại của giá cả cổ phiếu trong qua 
khứ được báo cáo trong các phương tiện thông tin đều là mức danh nghĩa, hoàn toàn 
không có điều chỉnh vì lạm phát, và cũng chẳng có gì bất ngờ khi công chúng có thể 
cũng mong mức danh nghĩa như thế trở lại trong tương lai. Tỷ lệ lạm phát hằng năm 
của Thụy Điển trong suốt từ năm 1996-200 thì trên mức bình quân 0,36%, mức 
bình quân lạm phát hằng năm vào năm 1986-1990 là 5,33% (SCB). Vì thế, kỳ vọng 
mức danh nghĩa tương tự trở về như chúng ta thấy ở thị trường chứng khoán trong 
suốt thập kỷ qua là kỳ vọng nhiều ở giá trị thực. 
h) Sự mở rộng quy mô giao dịch 
Doanh thu (số cổ phần nhân đơn giá) của Stockholm Stock Exchange đã tăng 
từ 130.000 triệu SEK vào năm 1991 đến xấp xỉ 4.550.000 triệu SEK vào năm 2000 
(Stockholm Stock Exchange). Nó tăng 3400% chỉ trong chưa tới 10 năm hay tương 
đương bình quân hàng năm là 42.3%. 
Mức doanh thu cao có thể do lãi thị trường tăng như là kết quả của các nhân tố 
khác đã được đề cập ở đây nhưng một nhân tố quan trọng khác đó là việc xụt giá 
giao dịch. Điều này có thể là kết quả của cuộc đấu tranh quyết liệt hơn và việc liên 
tục giảm giá của các môi giới trên Internet nhưng việc thay đổi công nghệ cũng 
đóng một vai trò quan trọng trong việc làm giả giá trị giao dịch. Quảng cáo giảm giá 
trên mạng của các môi giới đã làm nảy sinh một lượng lớn các nhà đầu tư nghiệp dư 
người mà có thể “giao dịch cả ngày”, vì thế, cố gắng để tạo ra lợi nhuận buôn bán 
cổ phiếu một cách nhanh chóng bẳng cách sử dụng tương tự (hệ thống khớp lệnh) 
mà được sử dụng bởi các nhà đầu tư chuyên nghiệp. Sự tăng trường của giao dịch 
mạng, cũng như là thông tin trên mạng Internet và các dịch vụ giao tiếp, có thể 
hướng con người từng phút từng phút một quan tâm đến thị trường. Sau nhiều giờ 
giao dịch trao đổi cổ phiếu có khả năng họ cũng sẽ tham gia thị trường, khi mà các 
130 
nhà đầu tư có thể bắt kịp giá thay đổi trong phòng khách của họ trong thời gian 
rãnh. 
Các nhà kinh tế học Schlomo Benartzi và Richard Thaler theo kinh nghiệm 
của họ cho thấy có thể có những mối quan hệ phủ định giữa việc phơi trần định giá 
(exposure to price quotes) và mức cầu cổ phiếu (Shlomo và Thaler, 1995). Hai nhà 
kinh tế học cho thấy rằng mẫu thời gian quan tâm đến giá cả thị trường có thể có tác 
động quan trọng đến mức cầu cổ phiếu. Nếu người ta bị phơi bày dữ liệu hằng ngày 
trên giá cổ phiếu có thể họ sẽ không thích thú với việc đầu tư chứng khoán hơn là 
nếu họ chỉ được xem lợi nhuận trở lại lâu hơn. Để kiểm soát liên tục những biết 
động trong giá chứng khoán dĩ nhiên tạo ra nổi lo sợ về rủi ro đầu tư chứng khoán. 
Các nhà đầu tư có tổ chức mà khuyến khích gíam sát giá cả thị trường thì thường có 
su hướng chán nản về mức giá thị trường (Shiller, 2000). 
Mặt khác, việc báo giá thường xuyên hơn là do việc thay đổi công nghệ gần 
đây, và có một hiểu ứng trái ngược được nhìn thấy bởi Thaler và Benartzi. Trong 
một setting không thực nghiệm, nơi mà các “giám thị” không kiểm soát được sự 
quan tâm của công chúng, sự tăng cường các quan sát giá có thể làm tăng mức cầu 
cổ phiếu bởi các nhà đầu tư bị thu hút bởi chúng. 
i) Sự xuất hiện của cơ hội may rủi 
Số lượng các “sòng bài” đã tăng lên đáng kể trong thập kỷ qua. Ngày nay, con 
người có thể tham gia đánh bạc qua truyền hình, Internet, và các loại phương tiện 
khác trong nhà hàng, café thậm chí trong các casino của nhà nước. Sự tăng lên 
thường xuyên các loại hình cờ bạc thực tại có thể có những hiệu ứng quan trọng 
trong tiềm năng sâu xa về văn hóa và thái độ thay đổi chấp nhận rủi ro ở một lãnh 
vực (khu vực) khác, như là đầu tư vào thị trường chứng khoán. Bài bạc triệt tiêu sự 
ngăn chặn tự nhiên chống lại việc chấp nhận những rủi ro và vài loại cờ bạc đặc biệt 
trong xổ số, giống về mặt ngoài thị trường tài chính. Một người đặt lệnh với máy 
tính, anh ta nhận được chứng nhận (tờ vé số) và đều này thiết lập một sở thích tham 
gia vào các loại cờ bạc như thế, và cũng thật là tự nhiên để sau này anh ta có thể 
chuyển lên một dạng cao hơn chơi vé số đó là đầu cơ vào thị trường cổ phiếu. 
131 
j) Hiệu ứng lan tỏa từ bài bạc sang tính dễ biến động của thị trường tài chính có 
thể có nguồn gốc từ bài bạc và các “sòng bài” thì thường khuyến khích nó bằng 
cách cho thêm một cơ hội cuối cùng để lấy hên, một sở thích cao mà một người thể 
hiện cao hơn người kia bao nhiêu, và một cách mới để khuyến khích một người 
thoát khỏi cảm giác chán nản hay đơn điệu (Shiller, 2000). Ngày nay chúng ta luôn 
bị khuất phục vào các quảng cáo chuyên nghiệp cao mà có để cổ vũ cho những thái 
độ. Theo tỷ lệ thì truyền hình và các thông báo công chúng thường khuyến khích 
người ta chọn quỹ công chúng để đầu tư cho tương lai nghỉ hưu của họ. Các nổ lực 
marketing đó và các kinh nghiệm bài bạc hay thấy những loại bài bạc khác, có thể 
đã có hiệu ứng làm khuyến khích không đáng kể đến hành vi chấp nhận rủi ro trên 
thị trường chứng khoán. 
2.Yếu tố văn hóa 
Phần này sẽ mô tả các yếu tố văn hóa, ngoài ra còn mô tả các ngoại lực đã 
giúp hình thành nên cấu trúc bong bóng đầu cơ, như là: 
a) Phương tiện thông tin 
Phương tiện thông tin lúc nào cũng có mối liên hệ gần gũi với vệc gây ra và 
mở rộng bong bóng đầu cơ. Có lẽ bong bóng nối tiếng nhất là chứng hoa Uất 
Hương Hà Lan vào thập niên 1630, khi đó báo chí đóng một vai trò quan trọng 
trong việc truyền bá chịu chứng này (Garber, 2000). Mặc dù báo chí luôn cho rằng 
họ không có cái nhìn thiên vị, tuy nhiên, họ là một phần hợp nhất của các sự kiện 
trên thị trường vì họ thích có được nhiều người xem càng tốt. Các sự kiện trên thị 
trường chỉ có ý nghĩa khi có các nhóm lớn có những ý tưởng tương đồng, và ở đây 
phương tiện thông tin đóng vai trò là một phương tiện thiết yếu trong việc truyền bá 
những ý tưởng này. Phương tiện thông tin thực chất đóng hai vai trò: chúng lập nên 
sân khấu cho thị trường nhảy nhưng chúng cũng là chủ thể đề ra các bước nhảy đó 
(Shiller, 2000). 
Phương tiện thông tin thì luôn ở trong sự cạnh tranh không ngừng để lấy được 
tình cảm của công chúng mà cần thiết cho sự sống sót của họ. Sự sống sót đòi hỏi 
họ tìm và định nghĩa tin tức hay, tập trung vào những tin tức tiềm năng và bất cứ 
132 
khi nào có thể, định nghĩa một câu chuyện sắp xảy ra mà cuốn hút sự quan tâm của 
độc giả để giữ đuợc khách hàng. Phương tiện thông tin hình thành tình cảm của độc 
giả, phân loại suy nghĩ, và họ tạo ra môi trường trong đó những sự kiện của thị 
trường chứng khoán mà chúng ta thấy đang trình diễn. phương tiện thông tin là 
những người truyền bá những cái cơ bản của việc di chuyển giá chứng khoán đầu 
cơ thông qua nỗ lực đưa tin tức đáng quan tâm đến khán giả. Chúng thỉnh thoảng 
làm tăng mối quan tâm bằng cách gắn những câu chuyện với sự di chuyển cuả giá 
chứng khoán mà dân chúng đã quan sát, và vì thế làm tăng sự nổi bật của những di 
chuyển này và tập trung mối quan tâm vào chúng. Chúng có lẽ nhắc nhở công 
chúng về tình tiết thị trường quá khứ, hay về chiến lược giao dịch cuả những người 
khác. Vì thế phương tiện thông tin có thể thỉnh thoảng ấp ủ phản ứng mạnh từ giá 
quá khứ tới sự thay đổi của giá sau. Kết quả là phương tiện thông tin ấp ủ nhiều 
phương tiện thông tin liên tiếp. 
Những phương tiện thông tin liên tiếp thì thỉng thoảng được xem xét là news 
cascades. Nó dường như rằng tin tức ảnh hưởng thị trường thì thường bị hoãn lại. 
Tin tức cũng dường như hình thành sự dao động trong mối quan tâm của công 
chúng. Mối quan tâm này được đặt tại những hình ảnh hay những câu chuyện, hay 
liên quan tới những sự kiện họ đã biết trứơc đó. Tuy nhiên, họ có thể bỏ qua những 
tin tức được đề cập liên tiếp cho những chuỗi sự kiện đến khi một mẫu tin tức mới 
quan trọng ngược lại với chuỗi thông tin đang được report xuất hiện.sự quan tâm kế 
tiếp nhau như vậy được gọi là Cascades, như là mối quan tâm của môt người cho 
mốt cái gì đó, dẫn tới mối quan tâm đến cái sự kiện khác..và khác. 
Phương tiện thông tin bị cuốn hút bởi thị trường tài chính bởi vì có một dòng 
chảy liên tục của tin tức trong hình thức của giá thay đổi hàng ngày và bản báo cáo 
của công ty. Có những thị trường khác như bất động sản, mà có thể làm việc như 
nguồn thông tin mặc dù nó chúng không tạo ra sự di chuyển giá cả hàng ngày và sự 
dao động của giá cả thì không nhiều như trong thị trường chứng khoán. Thị trường 
chứng khoán cũng sở hữu một hình ảnh của chất lượng và công chúng xem nó như 
là trong một song bài lớn”Big Casino” nơi những người chơi tự đưa ra những lựa 
133 
chọn. thị trường chứng khoán cũng là nơi của sự hào hứng và những thách thức 
căng thẳng của việc đạt được hay mất tài sản. Thị trường tài chính sở hữu bản chất 
của những tay cờ bạc chung thuỷ đáng được khen thưởng vì khi họ chơi thường 
xuyên hơn họ học được nhiều hơn và họ dễ đưa ra những quyết định thích hợp. 
Trong những nổ lực để thu hút sự quan tâm, thông tin đại chúng cố gắng đưa 
ra những vấn đề vào trong suy nghĩ của con người. kết quả phương tiện thông tin 
đưa đến những ấn tượng rằng có những chuyên gia trên tất cả mọi khía cạnh của 
vấn đề, mà sẽ đưa ra những lời khuyên cho từng mỗi vấn đề mà mọi người đang bối 
rối. 
Không thiếu những nhà báo và những chuyên gia đang cố gắng giải quyết 
những vấn đề của chúng ta về thị trường ngày nay, tuy nhiên; có một sự thiếu của 
những sư kiện hợp lý hay những giải thích được xem xét giữa những người này. 
Nhiều tin tức phải được đưa ra trước sức ép của ngày đáo hạn. bất cứ thứ gì phải 
làm để hợp với những con số. Những thông tin cơ bản, sau khi được chú ý rằng thị 
trường bùng nổ là để tập trung vào những con số thống kê ngắn hạn, đang làm 
những so sánh với đối thủ cạnh tranh và câu chuyện tin tức kết thúc với một vài yếu 
tố thông thường đằng sau sự phát triển. 
b) Có phải giá chứng khoán thay đổi vào những ngày với tiêu đề lớn? 
Cái gì là tin tức thật sự sau đó, cái gì là phản ứng thật sự với những sự kiện 
đáng nghi ngờ? có phải những tin tức quan trọng được theo sau bởi giá chứng 
khoán thay đổi? Một nghiên cứu được thực hiện bởi Victor Niederhoffer ở Mỹ năm 
1971 tìm kiếm để xác định có phải những ngày với tin tức của sự kiện thế giới quan 
trọng liên quan tới những ngày với giá chứng khoán dao động. Nghiên cứu bao gồm 
432 tiều đề lớn trong New York Times giữa năm 1950 và 1966. Vài sự kiện bao 
gồm chiến tranh ở Hàn Quốc, quân đội ở Nga đe doạ Hungary và Hà Lan vào năm 
1956, khủng hoảng ở Kênh Đào Suez vào năm 1956, căng thẳng ở Cuba vào năm 
1960 và 1962, và sự ám sát của Tổng Thống John Kennedy vào năm 1963. Nghiên 
cứu kết luận rằng chỉ số S&P trong giai đoạn này thể hiện một sự tăng một ngày 
đáng kể( của hơn 0.78%) vào chỉ 10% của những ngày dao dịch và giảm một ngày 
134 
đáng kể ( của hơn 0.71%) vào chỉ 10% của những ngày dao dịch. Trong số 432 sự 
kiện thế giới đáng nhớ, 78(18%) chỉ ra sự tăng đáng kể và 56(13%) chỉ ra sự giảm 
đáng kể. Vì thế những ngày như thế chỉ làm tăng nhẹ giá cả so với những ngày 
khác(Niederhoffer, 1971). Niederhoffer chỉ ra rằng những câu chuyện thuộc tiêu đề 
dường như không ảnh hưởng nhiều đến giá trị cơ bản được thể hiện trên thị trường 
chứng khoán. Phương tiện thông tin đại chúng dường như có suy nghĩ rằng những 
tin tức biến động lớn đến quốc gia dường như không là những gì thật sự quan trọng 
đối với thị trường chứng khoán. Ông ta tiên đoán rằng những sự kiện khủng hoảng 
thì có lẽ ảnh hưởng đến thị trường chứng khóan. Niederhoffer chỉ ra rằng suốt thời 
kỳ khủng hoảng, được định nghĩa như là 5 hay 6 headlines lớn xuất hiện trong vòng 
giai đoạn 7 ngày, 42% thay đổi hàng ngày là lớn, so sánh với 20% với cái khác, giai 
đoạn thời gian “bình thường”. Vì thế giai đoạn thời gian là cái gì đó, nhưng không 
đáng kể, thì được theo sau bởi thay đổi lớn trong thị trường chứng khoán. Rất ít sự 
dao động giá trên thị truờng chứng khoán chỉ ra sư liên kết có ý nghĩa với headlines. 
c) Những thay đổi giá chủ yếu vào những ngày không có thông tin 
Cái gì gây ra sự thay đổi giá cả vào những ngày không có thông tin quan 
trọng? Một cuộc nghiên cứu vào 1989 đưa ra một danh sách của sự di chuyển của 
50 chứng khoán lớn nhất nước Mỹ, được đo lường bởi chỉ số S&P từ chiến tranh 
thế giới thứ hai. Hầu hết những cái gọi là lời giải thích không phản ứng với bất kỳ 
tin tức không thường xuyên nào, và trong số chúng có thể thậm chí không được 
xem là tin tức nghiêm trọng(Culter et al.,1989). Theo lý thuyết thị trường hiệu quả, 
thấy trong 3.1.1, giá chứng khoán phản ánh với tin tức khi nó xuất hiện, nhưng 
không phải khi thông tin đại chúng nói về chúng. Điều này sau đó có thể là một 
cuộc tranh cãi về ý kiến của việc tìm ra thông tin vào ngày mà phần lớn giá chuyển 
động lớn. Môt lí do khác có thể là sự kết hợp của những thông tin nhỏ có thể gây ra 
sự thay đổi lớn, mặc dù những sự kiện tách biệt thì quá nhỏ để làm bất cứ sự khác 
nhau. Nhiều câu chuyện tin tức xuất hiện vào những ngày giá dao động đựơc chỉ ra 
như là nguyên nhân của sự thay đối thị thường không thể tính cho sự thay đổi, hay 
ít nhất không có đủ tầm quan trọng. Thường tin tức liên quan tới một công ty, và 
135 
khi một công ty xem xét tổng giá trị thị trường của nó bao nhiêu, nó dễ dàng kết 
luận rằng nó thì không chắc chắn một công ty nên có một tác động như thế lên tổng 
thị trường. Tuy nhiên, một công ty có thể dễ dàng trình bày rằng sự kiện được xem 
xét bởi thị trường như là một đường phân nước, chỉ ra rằng nhiều sự kiện tương tự 
có lẽ xảy ra, mà sẽ ảnh hưởng công ty trong cùng ngành. 
Trong một cuộc nghiên cứu được thực hiện ở Mỹ năm 1989, Shiller and Feltus 
đã hỏi 101 chuyên gia của thị trường rằng họ có nghe gì về việc tăng nợ bằng cách 
thay cổ phần(leveraged buyout-LBO) bởi UAL, công ty mẹ của United Airlines. 
Câu hỏi cho chuyên gia là họ có nghe về LBO như là một lời giải thích cho sư sụp 
đổ của thị trường, hay sự sụp đổ của UAL được gây ra bởi sự giảm trong thị trường. 
Không quá 36% câu trả lời rằng họ nghe về tin tức trước sự sụp đổ; 53% nói rằng 
họ nghe về nó sau đó như là một lời giải thích cho sự sụp đổ; còn lại 11% thì không 
chắc chắn họ nghe về nó khi nào(Feltus, Shiller, 1989). Nó dường như là câu 
chuyện tin tức là một cái đuôi gắn dài sau sự sụp đổ, hơn là trực tiếp gây ra nó, và 
vì thế nó thì không quan trọng như những gì phương tiện thông tin được đề cập. 
Câu hỏi thứ hai liên quan đến sự giảm đột ngột trong giá chứng khoán UAL sẽ làm 
giảm sự đảm nhiệm trong tương lai, hay nếu những tin tức nên được xem là điểm 
quan trọng, trong đó những nhà đầu tư có thể đưa ra những hoài nghi về thị trường. 
Trong số những người phản hồi, 30% chọn cái thay thế đầu tiên, 50% chọn cái thứ 
hai và những người còn lại thì không chắc chắn. Những chuyên gia trên thị trường 
dường như có phản ứng hầu hết với tin tức như là một lời giải thích cho hành vi của 
nhà đầu tư. Nó có lẽ đúng để nói rằng sự kiện tin tức là những cái cơ bản đối với sự 
sụp đổ của thị trường, trong đó nó đưa ra một câu chuyện mà làm tăng phản hồi từ 
giảm giá chứng khoán tới sự giảm giá chứng khoán sau đó nữa, bằng cách ấy nó giữ 
phản hồi từ sự giảm giá chứng khoán cho một dài đoạn lâu hơn những cái khác 
trong trường hợp này. Tuy nhiên nó không giống như là một nguyên nhân. 
d) Nền kinh tế mới 
Cùng với những thay đổi chủ yếu trong lý thuyết kinh tế mới mà được sinh ra 
để giải thích và bào chữa cho những điều kiện thị trường mới. một người có thế 
136 
nhận thức hàng loại những những điều gây tranh cãi khác nhau, như là: những thay 
đổi vĩ mô, ví dụ lạm phát thấp hơn, toàn cầu hoá tăng, tỉ lệ lãi suất giảm và những 
thay đổi về cấu trúc, ví dụ như tư nhân hoá, cấu trúc lại doanh nghiệp và một sự 
dịch chuyển tới nền kinh tế dịch vụ hơn là kinh tế sản xuất truyền thống. Một yếu tố 
khác nữa là có giá trị đang được đề cập là sự bùng nổ trong ngành công nghê cao. 
Hầu hết những nhà kinh tế vĩ mô đồng ý rằng một sự lạm phát thấp và sự ổn 
định kinh tế là những yếu tố quan trọng cho một cái nhìn thị trường mạnh hơn. Cái 
làm cho thị trường khó đạt được sự tốt nhất là sự không chắc chắn, chẳng hạn như 
rủi ro và với giá cả lạm phát cao có xu hướng khó có thể dự đóan. 
Một lý thuyết được biết suốt thời kỳ của sự bùng nổ vào những năm 1960s là 
nếu lạm phát tăng thì thị trường chứng khoán sẽ cũng tăng. Thị trường chứng khóan 
sẽ là hàng rào ngăn cản tốt nhất chống lại lạm phát bởi vì những nhà đầu tư có nhu 
cầu tương tư bất kể tỷ lệ lạm phát là bao nhiêu. Suốt thời kỳ bùng nổ năm 1990s ý 
kiến thì bị đảo ngược, niềm tin chung cho rằng lạm phát cao sẽ đẩy thị trường 
xuống thay vì tăng lên. Trước hết, những nghiên cứu gần đây bởi những nhà kinh tế 
đã chỉ ra rằng thị trường thì thể hiện sự nghèo nàn suốt thời gian bùng nổ cao của 
lạm phát và thị trường cuối cùng chấp nhận những kiến thức mới hơn. Lý do thứ hai 
mà dường như có khả năng cân bằng là mọi người trong những năm 1990s thì phản 
ứng với sự kiện rằng thị trường chứng khoán có sự dịch chuyển ngược lại so với 
lạm phát, hơn là di chuyển cùng với nó, 
Kết thúc cuộc chiến tranh lạnh và căng thẳng giữa các quốc gia giảm xuống 
được trình bày như là một điểm gẫy cho nền kinh tế. Đột nhiên, con người, hàng 
hoá và tiền tệ có thể di chuyển tự do trong một thế giới mà không còn bị thống trị 
bởi những hiệp ước của quân đội. Nền kinh tế mở khiến các doanh nghiệp đối mặt 
với sự cạnh tranh với các quốc gia khác trên thế giới, sự cạnh tranh gây ra sức ép 
cho cả giám đốc tư nhân và quốc dân phải xem xét lại cách tổ chức doanh nghiệp và 
cấu trúc của lực luợng lao động của họ là tốt nhất hay không. Như là một niềm tin 
chắc chắn vào cuối những năm 1990s rằng những công ty IT đã đưa nền kinh tế vào 
một kỷ nguyên mới của năng suất cao. Điều này cho phép ngân hàng trung ương 
137 
giảm tỉ lệ lãi suất và để cho nền kinh tế phát triển đến mức cao nhất mà không có 
rủi ro của lạm phát cao hơn. Với năng suất cao mong đợi, lương thì được phép để 
tăng, hay ngược lại, sản lượng tương tự có thể đạt được với ít giờ lao động hơn. Kết 
quả là nhiều người hơn có khả năng sử dụng nhiều dịch vụ hơn và nhiều người hơn 
được cung cấp dịch vụ như yêu cầu. 
Nền kinh tế mới được trích như là một yếu tố quan trọng trong sự giải thích sự 
tăng giá nhanh của chứng khoán. Khái niệm của nền kinh tế mới ngụ ý rằng những 
cơ hội phát triển không cânn xứng mà không thể được đánh giá với sự giúp đỡ của 
những phương pháp định giá truyền thống. Giá tăng đáng kể thì phản ánh cơ hội 
phát triển không xác định và năng suất tăng tạo ra bởi những tiến bộ trong công 
nghệ mới. Sự tự tin trong thời đại kinh tế mới thì hoạt động như là nền tảng hợp lý 
cho nhiều nhà đầu tư để tiếp tục đầu tư vào thị trường chứng khoán mặc dù việc 
định giá cao rõ ràng của một vài chứng khoán nếu được định giá bởi hơn những 
phương pháp phân tích cơ bản. 
e) Quan tâm của công chúng đối với thị trường 
Mức độ của quan tâm của công chúng và sư quan tâm đối với những thay đổi 
của thị trường đáng kể qua thời gian, chỉ như là mối quan tâm của công chúng nhảy 
từ một chủ đề có giá trị tới một chủ đề khác. Quan tâm trong thị trường chứng 
khoán chỉ tức thời, phụ thuộc vào chất lượng của câu chuyện của những sự kiện 
được kết tủa lại, như được thấy bởi những con số trong bảng, sự quan tâm của 
những con số trong bảng và sư quan tâm liên quan đến thị trường đã tăng trong suốt 
cả những năm 1990s khi giá trị của thị truờng chứng khoán tăng. 
Meir Statman và Steven Thorley đã chỉ ra với sự giúp đỡ của những phân tích 
thống kê mà tỷ lệ lợi nhuận cao trong thị trường chứng khoán tiếp tục làm tăng khối 
lượng giao dịch cho nhiều tháng sau đó, và trong khi đó sự giao động cao của giá 
thị trường cũng làm tăng khối lượng giao dịch, kết quả của sự dao động trong khối 
lượng giao dịch thì nhất thời. Meir Statman và Steven Thorley đã đưa ra kết luận 
rằng những kết quả nhất quán của lợi nhuận là bởi vì ảnh hưởng của lợi nhuận cao 
trên sư tự tin của nhà đầu tư. Mặc dù thị trường tăng sẽ “nâng tất cả các tàu”, có 
138 
một xu hướng cho những nhà đầu tư để xem xét sự thành công của đầu tư như là sự 
kết nối của khả năng, và làm tăng sự quan tâm của họ trên những chứng khoán được 
giao dịch. 
Khi người ta thành công trong bất kỳ lãnh vực nào họ tất nhiên sẽ có động lực 
mới và phát triển kỹ năng trong sự hy vọng đạt được thành công lớn hơn. Đạt được 
khả năng và mối quan tâm họ có lẽ quan tâm nhiều hơn tới thị trường cho một giai 
đoạn dài hơn để thấy kỹ năng đầu tư của họ thông qua lợi nhuận. 
Hãy xem xét ví dụ sau: 
Bạn đi tới một song bài và đặt ¼ vào trong rãnh máy. Ban thắng 100$. Hành vi 
cờ bạc này của bạn bị ảnh hưởng như thế nào? Mọi người thường sẵn sàng hơn để 
chơi trong tình huống này bởi vì nó là một tài sản hiện thời và dễ dàng đạt được. 
Bạn chỉ sắp đi vào một song bài, thì bạn thấy một tờ báo. Bạn sỡ hữu 100 cổ 
phiếu và thấy rằng nó tăng 1.00$ vào ngày hôm đó. Hành vi cờ bạc của bạn bị ảnh 
hưởng như thế nào? Hành vi cờ bạc của hầu hết mọi người thì không bị ảnh hưởng 
bởi những tin tức như vậy. 
Trong trường hợp đầu tiên, người ta cảm thấy như thể là họ đang chơi với tiền 
của nhà. Trong trường hợp hai, có vẻ như là tiền của chính bản thân họ. Trạng thái 
cảm xúc của nhà đầu tư khi họ quyết định việc đầu tư của họ thì không còn nghi 
ngờ gì nữa vì nó là một trong những yếu tố quan trọng gây ra sự bùng nổ của thị 
trường. Mặc dù trạng thái cảm xúc của họ có lẽ chỉ là một phần kết quả của những 
yếu tố như là tình cảm vật chất và chủ nghĩa cá nhân, nó thì cũng được thổi phồng 
bởi sự tác động tâm lý của khuynh hướng tăng mạnh được quan sát trong thị trường. 
3. Những yếu tố tâm lý 
a) Mong đợi và cảm xúc 
Những nhà kinh tế thường lấy con người ra làm mẫu cho việc tính toán, những 
cá nhân với lý trí đầy đủ, người mà tăng nhu cầu và lợi ích của họ dựa vào giá cả 
tương lai mong đợi và những thay đổi. Sự thật là, những quyết định thật sự của nhà 
đầu tư về việc bao nhiêu để phân bổ vào tổng giá trị thị trường, và vào những loại 
tài sản khác như là trái phiếu, bất động sản, hay những loại khác, những xu hướng 
139 
không dựa vào viêc tính toán cẩn thận. Những nhà đầu tư thường làm những hành 
động trái ngược, chẳng hạn họ không kết nối những dự đoán cho lợi nhuận của 
những loại tài sản khác nhau, cũng không đo lường những tài sản này đối với rủi ro 
(Shiller 2000). Một nhà đầu tư dễ dàng kết luận rằng nó không thành vấn đề về việc 
anh ta đặt tài sản ở đâu. Hầu hết những nhà đầu tư không hiểu cũng không quan tâm 
đến mô hình kinh tế phức tạp mà những nhà kinh tế sử dụng để dự đoán. Và tuy 
nhiên những nhà đầu tư phải làm một vài quyết định như là: Những yếu tố nào có lẽ 
bước vào trong trí óc của họ khi đưa ra quyết định về bao nhiêu sẽ phân bổ vào 
trong thị trường chứng khoán? Cảm giác về thị trường chứng khoán như là “ chỉ là 
một trò chơi trong thị trấn”, trong một cảm giác xúc cảm, có lẽ đóng một vai trò 
quan trọng tại điểm này trong việc đưa ra quyết định. 
Sử dụng những khái niệm chung, một người có thể biết rằng thị trường chứng 
khoán có thể lặp lại tình trạng của những năm gần đây. Khả năng đó dường như quá 
đúng. Nhưng vấn đề đặt ra là những nhà đầu tư cá nhân cảm thấy như thế nào khi 
anh ta đưa những lựa chọn của anh ta vào những quỹ đầu tư trong chương trình về 
hưu của anh ta? Cách mà người này cảm thấy phụ thuộc vào kinh nghiệm của anh ta 
trong đầu tư như thế nào? Nếu một người ra khỏi thị trường mà không tham gia 
kiếm tiền như những nhà đầu tư khác, anh ta có lẽ sẽ cảm thấy hối tiếc. Cảm giác 
hối tiếc được tìm thấy bởi những nhà tâm lý là một trong những động lực mạnh nhất 
để tạo ra một sự thay đổi nào đó.(Loomes and Sugden, 1982). Ganh tị là một đặc 
tính thống trị khác, để thấy người khác trên thị trường chứng khoán kiếm nhiều hơn 
bản thân mình là một kinh nghiệm đau thương, đặc biệt từ khi nó loại bỏ lòng tự 
trọng của anh ta. Trong trường hợp người khác thông minh hơn, anh ta cảm thấy 
mình như một thằng khờ, và thậm chí họ không thông minh mà chỉ may mắn anh ta 
cũng cảm thấy không tốt hơn. Một cảm giác chung trong tình huống này là nếu một 
người tham gia chỉ trong một năm trong thị trường chứng khoán đang tăng mọi thứ 
sẽ tốt hơn và làm nhẹ nỗi đau. Một người cũng có thể nghĩ rằng việc mất tiềm tàng 
sẽ loại bỏ hơn lòng tư trọng của một người hơn là từ chối không tham gia vào thị 
trừơng. Một người cũng nhân ra rằng chấp nhận rủi ro để bước vào thị trừơng chỉ 
140 
như là một đợt dốc xuống. Nhưng chi phí tâm lý của việc mất tiềm tàng trong tương 
lai có lẽ không lớn hơn cái cảm giác hối tiếc của việc bước ra khỏi thị trường trong 
quá khứ. Nếu một người tham gia vào thị trường hôm nay chỉ trong chốc lát và cân 
nhắc có nên bước ra hay không, anh ta đang có một khung cảm xúc trong trí óc 
khác nhau cơ bản của con người. Loại người này cảm thấy thoả mãn và có lẽ tự hào 
trong thành công trong quá khứ, và anh ta sẽ chắc chắn cảm thấy giàu có hơn. Một 
người cảm thấy như là người đánh bạc sau khi họ chạm tới khung thời gian lớn. 
Chẳng hạn như một người đánh bạc với tiền trong nhà và vì thế không có gì đế mất 
bằng cách đánh cược lần nữa (Johnson and thaler, 1990). Khái niệm của đánh bạc 
với tiền của nhà là một lý thuyết về sự yêu thích rủi ro của con người và liên quan 
đến tính toán trí óc được mô tả trong phần trước, những nhà đầu tư nói chung sẽ trở 
nên không yêu thích rủi ro trong trường hợp của những mất mát trước và việc 
không yêu thích rủi ro giảm trong trường hợp đạt được lợi nhuận lần trước. Lý 
thuyết cũng liên quan đến sự thay đổi thời gian; một tài sản mà càng được tích luỹ 
gần đây, tài sản đó càng gắn với rủi ro nhiều hơn. Điều này bởi vì những nguồn mới 
chưa được đồng hoá. 
Trong những phần sau, vài yếu tố tâm lý xác định bong bóng đầu cơ, như là 
kinh nghiệm cá nhân và sự cần thiết để kiểm soát sẽ được mô tả. 
b) Kinh nghiệm cá nhân 
Giao dịch đầu tiên thì được làm với một cảm giác mập mờ giữa sai và đúng. 
Những nhà giao dịch cá nhân có lẽ đang được tư vấn bởi vài người bạn hay một nhà 
môi giới cá nhân trước khi thực hiện giao dịch đầu tiên. Nhà đầu tư chuyên nghiệp 
có lẽ nghiên cứu những phần tài chính của tờ báo trước khi đến văn phòng vào buổi 
sáng. Thảo luận với một vài người bạn và đồng nghiệp hoàn thành bức tranh mà sẽ 
giúp anh ta hình thành ý kiến cho việc giao dịch đầu tiên của ngày hôm đó. Hoàn 
thành nghiệp vụ đầu tiên có nghĩa là ý kiến về một phần của nhà đầu tư sẽ trở nên 
đáng tin cậy và đưa anh ta giải pháp cho tính hiệu lực của lý thuyết của anh ta. Hy 
vọng sớm chuyển thành niềm vui nếu như giá dịch chuyển như mong đợi. Điều này 
141 
có lẽ chuyển thành sự hồ hởi, phụ thuộc vào tính khí của nhà đầu tư. Vị trí mở thì rõ 
ràng và lợi nhuận thì hy vọng tạo ra. 
Thành công sản sinh niềm tin. Những nhà đầu tư thường trải qua ít thời gian 
và nổ lực trong việc tập hợp thông tin suốt giai đoạn lần thứ hai, bởi vì anh ta cơ 
bản biết những gì anh ta muốn (Goldber, von Nitsch, 2001). Việc trao đổi thông tin 
với những người bạn và đồng nghiệp chỉ giúp để xác định những ý kiến cá nhân liên 
quan đến việc di chuyển của giá, nó không giống như cuộc thảo luận quan trọng 
như với các chuyên gia. Trái lại, những người khác tìm đến anh ta xin lời khuyên, 
và vì thế sẽ thông thường không phủ nhận ý kiến của anh ta. Giao dịch lần hai cũng 
thành công, và nhà đầu tư thật sự vui mừng. Anh ta được thuyết phục rằng anh ta 
đang ở trong tình trạng tốt. Tự nhiên hơn, thế giới của anh ta di chuyển xung quanh; 
bạn bè đồng nghiệp cần và phải là những người chiến thắng sau đó, và ý kiến của 
anh ta thì thật sự cần thiết. Không may, mục tiêu và sự diễn giải thì không còn được 
đòi hỏi, và nhà đầu tư hành động theo cảm giác độc lập. Nó dường như thể nhà đầu 
tư bị hư hỏng bởi sự thành công, bây giờ có một nhu cầu ép buộc là lặp lại cảm giác 
hạnh phúc và nhận ra nó càng thường xuyên càng tốt. Sự tự tin tăng dẫn anh ta tới 
tăng kích thước đầu tư, xứng với lợi nhuận lớn hơn, mà anh ta hy vọng nhận ra càng 
nhanh càng tốt. Trạng thái cảm xúc thành công của niềm vui, hy vọng và sự thèm 
muốn và trạng thái phởn phơ mà có thể được thấy ở nhiều nhà đầu tư thành công, 
Bóp méo sự hiểu biết của họ về tính hiện thực của mức độ lớn hơn hay nhỏ hơn, 
phụ thuộc vào mật độ dày đặc. Thông tin trong hình thức phơi bày thì được đón 
nhận nhiều hơn trong hình thức thái quá, trong khi đó sự thay đổi mà có lẽ làm tổn 
hại thì khó được chú ý. 
c) Sự cần thiết của việc kiểm soát. 
Sự cần thiết để kiểm soát thì đặc biệt rõ ràng trong thị trường tài chính, nơi 
người thắng và người thua xuất hiện mỗi ngày. Cái mánh khoé của phần đông người 
tham gia thị trường chỉ là một bước phía trước, sử dụng sự chuyển động của thị 
trường thông qua những chiến lược kỹ thuật, phân tích thành công và trở thành một 
trong những người thắng cuộc. 
142 
Khái niệm “nơi điều khiển” chỉ ra mức độ mà mọi người đặt sự kiểm soát của 
họ (điều khiển bên trong) hay nhận biết rằng số phận bị điều khiển bởi người khác 
hay lực lượng bí ẩn nào đó (điều khiển bên ngoài). Theo lý thuyết này, người thành 
công nói riêng có một nơi điều khiển bên trong. Trong khi người thua cuộc luôn 
nghĩ rằng họ không thể làm gì để cải thiện tình trạng của họ. Đối với họ, xui xẻo do 
người khác gây ra; cuộc sống luôn chống lại họ và đối xử với họ thật xấu 
(Goldberg, von Nitsch, 2001). 
- Những hình thức của tự kiểm soát 
Có nhiều loại điều khiển. Một là đưa sự kiểm soát thông qua sự ảnh hưởng. 
Chúng ta giả định rằng những nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán nói chung 
không có bất kỳ cơ hội nào ảnh hưởng giá cả và vì thế không thể đưa vào bất cứ sự 
điều chỉnh nào. Thật ra, chỉ có một vài cá nhân và tổ chức điều chỉnh thị trường 
thông qua việc giao dịch khối lượng lớn. Thậm chí những bậc thầy có thể ảnh 
hưởng thị trường bằng ý kiến của họ cũng chỉ trong một thời gian ngắn (Goldberg, 
von Nitsch,2001). Điều này chỉ có thể trong thị trường nhỏ, được xác định thường 
xuyên và lớn bởi những lời đề nghị của những bậc thấy chứng khoán, mặc dù giá thì 
luôn luôn được điều chỉnh nhanh chóng. Thậm chí sự bơm vốn lớn thì cũng thường 
xuyên không đủ để lèo lái thị trường theo hướng mong đợi. Nhiều ngân hàng trung 
ương ở nhiều quốc gia đã tìm thấy điều này trong chi phí của họ khi những can 
thiệp mạnh cũng không thể ngăn cản sự giảm giá của tiền tệ. Trường hợp của Nick 
Leeson là một ví dụ điển hình, khi mà Nick lesson khám phá ra điều này cho chính 
bản thân anh ta khi có sự sụp đổ của ngân hàng uy tín Barings Bank vào năm 1995. 
Nói chung phần lớn những người tham gia thị trường nhận ra rằng họ không thể ảnh 
hưởng giá cả. Kết quả là, họ luôn quan niệm rằng họ không điều khiển thị trường 
trong bất kỳ hình thức nào. 
Một cách khác để đặt sự kiểm soát là thông qua sự phán đoán. Cá nhân có thể 
lấy những thứ đưa vào tính toán và sắp xếp hành động của họ trong cái cách mà mỗi 
sự kiện trở thành những cái càng được yêu thích càng tốt nếu những sự kiện này có 
thể được dự đoán tới một mức độ nào đó (Thompson, 1981). Một ví dụ là một giám 
143 
đốc của một công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán người mà nhận ra 
doanh thu và lợi nhuận của của công ty được tạo ra. Giám đốc này có thể dự đoán 
giá chứng khoán tăng hay giảm trong tương lai một cách chính xác, dựa vào thông 
tin bên trong, và anh ta bước vào nghiệp vụ dựa trên những thông tin này, chẳng 
hạn anh ta có thể kiểm soát toàn bộ thông qua vốn của anh ta. Ngoài những trường 
hợp đặc biệt như thế này, mà đem lại kết qủa như mong muốn, hầu hết những nhà 
đầu tư không thể dư đoán giá tương lai. Nó thậm chí càng ngạc nhiên hơn khi chỉ 
vài nhà đầu tư có thể dự đoán mức độ mà giá có thể được dự đoán. Một đám đông 
những nhà kinh tế và nhà phân tích kỹ thuật được thuyết phục rằng họ kiểm soát thị 
trường dựa vào cái cơ bản là phán đoán của chính bản thân họ; những phán đoán 
biện minh cho cảm giác có thể điều khiển thị trường và họ tin rằng họ càng phân 
tích hợp lý thì họ càng có thể đi đến cái chính xác. Hiện tượng này được gọi là “ảo 
tưởng kiểm soát” và thường được thấy trên thị trường chứng khoán. 
Những người ra quyết định trong biến thể thứ ba của sự điều khiển thì chỉ nhận 
ra những yếu tố mà chi phối một sự kiên đặc biệt, mà không có bất cứ sự ảnh hưởng 
nào đối với sự xuất hiện hay kết quả của nó. Khái niệm này vẫn làm cho anh ta có 
thể đánh giá tình huống của chính anh ta và vì thế làm nhẹ đi cảm giác của sự vô 
dụng. Anh ta thậm chí nhận được kết quả tốt nhất ngoài tình trạng của anh ta cho 
những mục đích riêng. Ngăn ngừa rủi ro của một ai đó, ví dụ, chỉ gây ra cảm giác 
rằng nguyên nhân của rủi ro có được biết hay không. Sự biến thể của tự điều chỉnh 
này áp dụng cho một mảng rộng của quá trình ra quyết định mà khác nhau trong 
mỗi mức độ điều khiển mà nó trải qua. Người ra quyết định xem xét tình huống có 
thể điều khiển ít hơn hay nhiều hơn khi anh ta cảm thấy rằng khi ta cảm thấy rằng 
anh ta được thông báo đầy đủ và rành rọt, để anh ta có đủ tự tin tính toán một sự 
kiện đang xảy ra. Một ví dụ là việc tung một đồng xu, nơi mặt ngửa (một khả năng 
của 50%) có nghĩa là đạt được 110 USD và mặt úp (50% khả năng) có kết quả trong 
việc mất 100 usd. Mọi thứ cho quyết định được biết, vì thế rủi ro có thể được tính 
toán chính xác và được điều chỉnh. Những tình huống mà được xác định bởi thông 
tin đầy đủ và có khả năng xảy ra đáng tin cậy và được chỉ định rõ ràng thì không là 
144 
đặc tính của thị trường chứng khoán. Người hành xử trên thị trường thì luôn luôn 
nhận thức rằng anh ta chỉ có một phần thông tin liên quan đến việc đầu tư của anh 
ta, và anh ta chỉ có thể dự đoán khả năng một cách mơ hồ. Những nhà đầu tư có thể 
bước vào tình huống mà hết sức mơ hồ, đặc biệt là khi họ bước vào những thị 
trường mà đối với họ là mới. 
Biến thể thứ tư và yếu nhất của sự kiểm soát xuất hiện khi một sư kiện được 
giải thích trở về trước, nghĩa là sau khi nó xuất hiện. Mục đích chính là đi đến một 
tình huống tương tự trong tương lai; dựa vào việc giải thích những sự kiên mà đã 
được xảy ra (Thompson, 1981). Giải thích một sự kiện chủ yếu là để phân tích 
nguyên nhân của nó, và kiểm soát nguyên nhân để một người có thể kiểm soát tình 
huống tương tự xảy ra trong tương lai. Biến thể thứ tư này đóng một vai trò trong 
thị trường tài chính tới mức mà biết được nguyên nhân và kết quả trên thị trường 
mà có thể cực kỳ hữu ích cho những đầu tư tiếp theo. Ví dụ, một người vừa mất 
nhiều tiền trong vụ sụp đổ của thị trường chứng khoán thì thề rằng sẽ làm hết sức có 
thể để rủi ro trong tương lai được biết trước và tránh được mất mát. Nhà đầu tư bắt 
đầu tìm kiếm những lời giải thích cho vụ sụp đổ. Rủi ro là nhà đầu tư có thể đi đến 
kết luận quá sớm mà thật sự không cần thiết đúng để đáp ứng sự cấp bách cho việc 
kiểm soát. Anh ta, chẳng hạn, sớm nhận ra rằng, sự sụp đổ này xuất hiện vào tháng 
10, giống như nhiều vụ sụp đổ trước. anh ta sẽ quyết định rằng năm tới anh ta sẽ 
bán chứng khoán vào tháng 9 để tránh một vụ thảm họa lần nữa. Lời đồn của tháng 
10 như là “tháng sụp đổ” vì thế được tạo ra. Những nhà đầu tư có thể có quan sát tốt 
khi nhìn thấy sự thật rằng những vụ sụp đổ tháng 10 bởi vì những lý do hoàn toàn 
khác nhau, mà xuất hiện trùng hợp vào tháng 10. 
Biến thể thứ năm và yếu nhất là sự kiểm soát liên quan khả năng giảm đi kết 
quả xấu trong hành vi của một người nào đó. Loại kiểm soát này được sử dụng bởi 
những cá nhân người nhanh chóng quên đi một sự việc đau thương hay người có thể 
lèo lái suy nghĩ của họ theo hướng tích cực (Thompson, 1981). Tại cùng thời gian, 
họ thành công trong việc trình bày rằng nên bước qua số phận như một làn gió và để 
đi dến những mức độ cao hơn “ bây giờ tôi biết tại sao điều đó xảy ra và tôi biết sẽ 
145 
phải làm gì trong thời gian sắp tới”. Những mất mát thường được xem nhẹ như là 
cái giá họ phải trả cho việc đạt được kinh nghiệm. Mọi người thường nói với chính 
họ rằng họ có thể trả nhiều hơn nữa để đạt thêm những kíên thức và kinh nghiệm, vì 
thế họ vẫn còn là những người đang học nghề. Đặc điểm của loại kiểm soát này 
cuối cùng dẫn tới sự thoả mãn lớn hơn thông qua một sự thay đổi trong việc nhận 
thức của, thậm chí một một thái độ hay một tình huống. Không may, không có sự 
thay đổi trong những trường hợp thực tế. 
- Kết quả của sự cần thiết của việc kiểm soát. 
Chiến lược để làm đơn giản sự trở ngại của một vài thông tin nào đó để tránh 
sự không hoà hợp về nhận thức được gọi là “nhận thức có chọn lọc”. Tương tự vậy, 
sự ảo tưởng về kiểm soát thì được nói là để giúp giảm đi khả năng hạn chế của việc 
kiểm soát; vì thế nó thoả mãn nhu cầu kiểm soát. Con người thường tưởng tưởng 
rằng họ thì thành thạo về một tình huống nào đó-trong thực tế họ luôn luôn không 
kiểm soát tình huống bằng bất cứ phương tiện nào (Goldberg, von Nitsch, 2001). Ra 
quyết định có chọn cách mà sự không hoà hợp thì được giảm. Chi phí chìm là một 
ví dụ, theo đó người ta cố gắng đưa những dự án tạo ra lỗ gắn với sự không hòa hợp 
vào vùng lợi nhuận bằng cách của những quyết định không hợp lý. Cản trở của nhu 
cầu của việc kiểm soát bao gồm thuật ngữ của mất khả năng kiểm soát, mà tương tự 
đưa ra những kiểu ra quyết định không lý trí, ví dụ như sự phản ứng đầy hốt hoảng. 
Sự ảo tưởng kiểm soát có thể được gắn với những lĩnh vực khác hơn là mong 
ước để thoả mãn nhu cầu của kiểm soát. Hầu hết mọi người giả định rằng họ càng 
có khả năng kiểm soát, họ càng sớm có thể ảnh hưởng những vấn đề theo hứớng 
tích cực của chính họ. Mô hình này thì dễ dàng bị đảo ngược lại như là một phần 
của sự ngụy biện của khả năng có điều kiện. Một khi một người nào đó thành công 
một vài lần trong một chuỗi liên tiếp, anh ta sẽ bị thuyết phục rằng mọi thứ anh ta 
có thể kiểm soát được. Hiện tượng của ảo tưởng kiểm soát cũng có thể bắt nguồn từ 
lý thuyết quyền hạn (attribution), một phần quan trọng của lý thuyết này là sự tự 
mãn liên quan đến sự kết luận “Self esteem”, nếu một người thành công, họ sẽ cho 
rằng điều này là do khả năng của bản thân; nếu một cái giá đó sai hay trong những 
146 
tình cảnh ngược lại thì sẽ bị đổ lỗi. Những người tham gia thị trường thành công 
trong thị trường tài chính sẽ lấy tất cả sự tín nhiệm. Họ sẽ có một sự ảo tưởng lớn 
về sự kiểm soát sau khi hàng loạt thành công liên tiếp; họ dường như thành công 
trong mọi thứ. Nếu họ không thành công, thì họ nhắc nhở bản thân họ rằng những 
người thành công trên thị trường chứng khoán luôn luôn phụ thuộc vào sự may 
mắn. Và thời gian đó là do họ không may mắn. Self esteem cũng gây ra sự ảo tưởng 
về khả năng kiểm soát. 
Thuật ngữ “sự bất cẩn learned carelessness” gắn liền với sự ảo tưởng kiểm 
soát. Với hiện tượng này, nhà đầu tư có hàng loạt thành công và không còn biết cái 
gì là cảm giác bị mất mát. Ví dụ, Nick Leeson, thì thành công trong một giai đoạn 
dài đến nỗi ông ta được gọi là “người đàn ông tạo ra vàng” bởi những đồng nghiệp 
ở Singapore. Anh ta dường như có khả năng tạo ra lợi nhuận lớn cho ngân hàng 
Barings với nỗ lực chưa từng thấy. Kết quả của hành động bất cẩn của ông ta và 
phát triển thành ngu dốt và tính hoang tưởng tự đại được biết đến. Tầm quan trọng 
của một sự kiện cho việc đánh giá một tình huống giảm bởi vì sự có sẵn của những 
sự kiện này giảm. Việc mất mát càng xảy ra lâu, hay nhưng mất mát không không 
đáng kể hay không rõ ràng được ghi nhận trong trí nhớ, rủi ro càng ít đóng một vai 
trò trong việc đánh giá những tác động và vì thế những giao dịch càng trở nên đầy 
rủi ro. Sự bất cẩn được học vì thế dẫn tới kết quả tương tự như sự ảo tưởng kiểm 
soát. 
4. Các trường phái tâm lý và ứng dụng trong tài chính hành vi 
Trên đây chỉ là một số hiệu ứng tâm lý đã được đề cập và đưa vào một số mô 
hình tài chính hành vi. Còn nhiều hiệu ứng tâm lý khác nhau có thể tác động đến 
các quyết định lệch lạc của nhà đầu tư, có thể được tổng hợp trong bảng 1. 
147 
Bảng : Các trường phái tâm lý và ứng dụng trong tài chính hành vi 
Trường phái 
chính 
Các hiệu ứng 
chính 
Ứng dụng trong tài chính 
Tâm lý hành 
vi 
Do John 
B.Watson sáng lập 
năm 1913, nghiên 
cứu các điều kiện 
khiến con người sẽ 
hành động theo 
một cách nào đó 
- Tin vào điều 
thật ra không tồn tại 
(magical thinking) 
- Ưa thích sự chắc 
chắn (certainty effect) 
- Lý thuyết triển 
vọng (prospect theory) 
Hiệu ứng ưa thích sự chắc 
chắn và lý thuyết triển vọng liên 
quan đến các vấn đề không ưa thích 
rủi ro và thích mạo hiểm khi bị lỗ 
hơn khi đang lời trong tài chính 
Tâm lý nhận 
thức 
Do Uric 
Neiser sáng lập 
năm 1967, nghiên 
cứu về cách mà suy 
nghĩ của con người 
điều khiển hành vi 
của họ 
- Hội chứng tự 
tôn (touchy feely 
syndrome), lý thuyết 
nuối tiếc (regret theory) 
- Mâu thuẫn về 
nhận thức (cognitive 
dissonance) 
- Định nghĩa hẹp, 
tính toán bất hợp lý 
- Bù đắp chi phí 
đã bỏ ra 
- Quá tự tin 
- Lệch lạc trong 
nhận thức về quá khứ 
(hindsight bias) khẳng 
định quá mức 
(confirmatory bias) 
Đây là trường phái đóng góp 
lớn cho tài chính, ngoài những hiệu 
ứng đã đề cập ở trên, hiệu ứng mâu 
thuẫn về nhận thức, bù đắp chi phí 
bỏ ra, lý thuyết tiếc nuối giúp giải 
thích vì sao chúng ta thường nắm 
giữ mãi các khoản lỗ và cứ lỗ liên 
tục. 
Hội chứng tự tôn giải thích 
chúng ta có xu hướng tự đánh giá 
cao cổ phiếu mà mình chọn đầu tư. 
Hiệu ứng lệch lạc trong nhận 
thức về quá khứ hay khẳng định 
quá mức cũng giống như hội chứng 
quá tự tin, làm chúng ta nhận xét 
rằng mình có khả năng dự đoán thị 
truờng tốt 
148 
Lý thuyết cấu 
trúc hình thức 
(Gestait theory) 
Do Max 
Werrtheirmer sáng 
tạo từ 1912, nghiên 
cứu cách chúng ta 
suy diễn từ những 
dữ liệu chúng ta 
nhận được 
- Hiệu ứng thuyết 
phục (persuasion effect) 
- Hiệu ứng tự 
thuyết phục (seff-
persuasion) 
- Lệch lạc do tình 
huống điển hình 
- Xu hướng tự 
bảo vệ (ego-defensive 
attitude) 
- Hiệu ứng ước 
đoán sai (false 
consensus effect) 
- Lý thuyết phản 
kháng (somatic market 
theory) 
Đây là trường phái có tác 
động rất lớn đến các lý thuyết tài 
chính, đưa ra các luận điểm vì sao 
chúng ta có thể mắc sai lầm từ 
nhiều tình huống khác nhau, đặc 
biệt các lý thuyết phản kháng, lý 
thuyết ước đoán sai, và hiệu ứng tự 
thuyết phục, thuyết phục đưa ra 
nhiều giải thích khả dĩ cho các hiệu 
ứng bầy đàn và nguyên nhân hiện 
tượng định giá sai kéo dài 
Phân tâm học 
(Psycho-
analysis) 
Do Sigmund 
Freud sáng lập đầu 
thế kỷ 20, nghiên 
cứu về các loại 
bệnh tâm thần 
- Hội chứng 
hoang tưởng (paranoid 
personality disorder) 
- Quá chú ý đến 
bản thân 
- (narcissistic 
personality disorder) 
- Hội chứng phiền 
muộn, bi quan 
(depressed personality 
disorder) 
Chúng ta quá lo lắng về việc 
có thể bị lừa hay có thể sai lầm, hay 
chúng ta quá chú ý đến việc có 
thành công hay không, đều sẽ ảnh 
hưởng đến quyết định của chúng ta 
trong kinh doanh chứng khoán. Vì 
vậy, trường phái này cũng có đóng 
góp trong việc giải thích hành vi 
nhà đầu tư, từ những giải thích về 
rối loạn tính cách (personality 
disorder) 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
luan van Le Thi Ngoc Lan.pdf