Luận văn Nghiên cứu thực trạng bệnh hen phế quản và chỉ số peakflow ở học sinh tiểu học và trung học cơ sở thành phố thái nguyên

ĐẶT VẤN ĐỀ Hen phế quản (HPQ) là bệnh viêm mạn tính đường hô hấp, khá phổ biến trong các bệnh đường hô hấp ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới. Tỷ lệ lưu hành hen ngày càng gia tăng trong những năm gần đây. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), năm 2007 trên thế giới có khoảng 300 triệu người mắc hen, chiếm 6 - 8% dân số ở người lớn và hơn 10% ở trẻ em dưới 15 tuổi, ước tính đến năm 2025 con số này tăng lên đến 400 triệu người [38],[39],[40]. Ở nhiều nước, cứ 10 năm độ lưu hành hen lại tăng 20-50%, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á - Tây Thái Bình Dương tình hình hen phế quản trẻ em trong 10 năm (1984-1994) tăng lên nhiều lần: ở Nhật từ 0,7% đến 8%, Singapor từ 5 đến 20%, Indonesia 2,3 - 9,8%, Philippin 6 - 18% [2], [11]. Ở Việt Nam, độ lưu hành (ĐLH) hen là 7% chung cho cả người lớn và trẻ em, ĐLH hen thay đổi theo từng vùng và tình trạng ô nhiễm môi trường. Ở trẻ em, hen phế quản cũng có xu hướng tăng nhanh (4% năm 1984 và 11,6% năm 1994) [9], [17]. Tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong y học hiện nay đã giúp chúng ta ngày càng hiểu sâu sắc hơn về bệnh nguyên, bệnh sinh, chẩn đoán và điều trị hen. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong do hen phế quản tăng nhanh chỉ sau ung thư, vượt trên so với bệnh tim mạch, trung bình 40-60 người/1 triệu dân [1],[3]. Hàng năm có khoảng 250.000 người tử vong do hen, trong đó rất nhiều trường hợp tử vong có thể phòng ngừa được [10]. Hen phế quản là nguyên nhân chủ yếu khiến người bệnh phải đến khám và điều trị nhiều lần tại các cơ sở y tế, đặc biệt là trẻ em. Chi phí trực tiếp và gián tiếp cho việc điều trị hen lên đến hàng chục tỷ đô la mỗi năm, gây ảnh hưởng rõ rệt đến đời sống xã hội, gia đình và người bệnh [11]. Tuy nhiên, phần lớn người bệnh hen có thể sống bình thường hoặc gần bình thường, các chi phí trên có thể giảm một nửa và có thể ngăn ngừa được 85% các trường hợp tử vong do hen nếu người bệnh được phát hiện, điều trị, quản lý và dự phòng đúng hướng [18]. Cùng với các dấu hiệu lâm sàng, lưu lượng đỉnh (PEF) là chỉ số đánh giá sự tắc nghẽn đường dẫn khí thì thở ra bằng cách cố gắng thở ra thật nhanh, thật mạnh tối đa trong một lần thở ra [14]. PEF có thể sụt giảm nhiều giờ hoặc thậm chí là vài ngày trước khi có triệu chứng báo động của một cơn hen cấp [19]. Tuy nhiên PEF khác nhau theo từng độ tuổi, chiều cao, giới và chủng tộc. Vì vậy việc xác định được trị số PEF của trẻ bình thường cũng như trẻ hen phế quản sẽ giúp cho chẩn đoán sớm, theo dõi cũng như điều trị bệnh. Tại Thái Nguyên, chưa có nhiều đề tài nghiên cứu xác định tỷ lệ hen phế quản trẻ em lứa tuổi học đường, đặc biệt chưa có đề tài nào nghiên cứu trị số PeakFlow ở lứa tuổi này. Hen phế quản đang thực sự trở thành vấn đề sức khoẻ cộng đồng cần có nhiều giải pháp đồng bộ về tổ chức quản lý y tế, giáo dục truyền thông và kỹ thuật chuyên môn. Với những lý do trên, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu thực trạng bệnh hen phế quản và chỉ số Peakflow ở học sinh tiểu học và trung học cơ sở thành phố Thái Nguyên” nhằm hai mục tiêu sau: 1. Xác định tỷ lệ hen phế quản ở học sinh một số trường tiểu học, trung học cơ sở thành phố Thái Nguyên. 2. Mô tả chỉ số Peakflow ở trẻ em bình thường và trẻ hen phế quản ở độ tuổi từ 6-15 tại các trường học này. MỤC LỤC ĐẶT VẤN ĐỀ 1 Chương 1 : TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu hen phế quản 3 1.2. Định nghĩa hen phế quản . 4 1.3. Phân loại hen phế quản 5 1.4. Chẩn đoán hen phế quản trẻ em . 7 1.5. Thăm dò chức năng hô hấp trong hen phế quản 9 1.6. Tình hình mắc hen phế quản trên thế giới và Việt Nam 15 1.6.1. Tỷ lệ mắc hen phế quản 15 1.6.2. Tuổi, giới mắc bệnh 17 1.7. Những nguy cơ và hậu quả do hen phế quản . 18 1.7.1. Đối với người bệnh . 18 1.7.2. Đối với gia đình 19 1.7.3. Đối với xã hội . 19 1.7.4. Tử vong do hen phế quản 20 Chương 2 : ĐỐI TưỢNG VÀ PHưƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU . 21 2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu 21 2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 21 2.1.2. Địa điểm nghiên cứu 21 2.1.3. Thời gian nghiên cứu . 22 2.2. Phương pháp nghiên cứu . 22 2.2.1. Thiết kế nghiên cứu . 22 2.2.2. Cỡ mẫu . 22 2.2.3. Phương pháp chọn mẫu 23 2.2.4. Phương pháp và kỹ thuật thu thập số liệu 25 2.2.5. Công cụ nghiên cứu 26 2.2.6. Các chỉ tiêu nghiên cứu 26 2.2.7. Phương pháp xử lý số liệu 27 2.2.8. Khống chế sai số 27 2.3. Khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu 28 Chương 3 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 29 3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu . 29 3.2. Tỷ lệ mắc bệnh hen phế quản 30 3.3. Kết quả nghiên cứu trị số Peakflow ở trẻ em . 36 Chương 4 : BÀN LUẬN . 43 4.1. Các đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 43 4.2. Tỷ lệ hen phế quản ở học sinh . 44 4.3. Trị số PEF của học sinh bình thường và học sinh hen phế 49 quản . Chương 5: KẾT LUẬN . 55 KHUYẾN NGHỊ TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

pdf77 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3432 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu thực trạng bệnh hen phế quản và chỉ số peakflow ở học sinh tiểu học và trung học cơ sở thành phố thái nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tỷ lệ hen phế quản ở nhóm tuổi 6-10 (10,6%) cao hơn nhóm tuổi 11-15 (8,5%), sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Bảng 3.5: Tỷ lệ HPQ trẻ em theo giới Giới TS trẻ khám Số trẻ HPQ Tỷ lệ (%) p Nam 1213 125 10,3 > 0,05 Nữ 1207 100 8,3 Tổng 2420 225 9,3 Nhận xét: Tỷ lệ hen phế quản ở học sinh nam (10,3%) cao hơn ở học sinh nữ (8,3%). Tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 Bảng 3.6: Tỷ lệ HPQ theo trường học Trƣờng học TS trẻ khám Số trẻ HPQ Tỷ lệ (%) p THCS Hoàng Văn Thụ(1) 647 71 11,0 1,4 &2,3 < 0,05 1 &2 < 0,05 THCS Quang Trung (2) 781 53 6,8 Tiểu học Đội Cấn(3) 494 48 9,7 Tiểu học Hoàng Văn Thụ(4) 498 53 10,6 Tổng 2.420 225 9,3 Nhận xét: Tỷ lệ mắc hen phế quản ở học sinh trường THCS Hoàng Văn Thụ, Tiểu học Hoàng Văn Thụ (10,8%) cao hơn ở trường THCS Quang Trung và Tiểu học Đội Cấn (7,9%). Sự khác biệt giữa các trường có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. 11,0 6,8 9,7 10,6 0 2 4 6 8 10 12Tû lÖ (%) THCS Hoµng V¨n Thô THCS Quang Trung TiÓu häc §éi CÊn TiÓu häc Hoµng V¨n Thô Tr•êng Biểu đồ 3.2: Tỷ lệ hen phế quản theo trường học Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 Bảng 3.7: Phân bố trẻ hen phế quản theo tuổi và giới Giới Tuổi Nam Nữ p n Tỷ lệ (%) n Tỷ lệ (%) > 0,05 6-10 (n=99) 57 57,6 42 42,4 11 – 15 (n=126) 68 54,0 58 46,0 Tổng 125 55,6 100 44,4 Nhận xét: Tỷ lệ HPQ ở nam (55,6%) cao hơn nữ (44,4%). Sự chênh lệch này lớn hơn ở độ tuổi 6-10 và thấp hơn ở độ tuổi 11-15. Sự khác biệt về giới giữa các nhóm tuổi không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. 57,6 42,4 54,0 46,0 0 10 20 30 40 50 60 Tû lÖ (%) 6 - 10 tuæi 11 - 15 tuæi Tuæi Nam N÷ Biểu đồ 3.3: Phân bố hen phế quản theo tuổi và giới Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34 Bảng 3.8: Tỷ lệ HPQ theo bậc Bệnh Bậc HPQ Số lượng Tỷ lệ (%) Bậc 1 173 76,9 Bậc 2 42 18,7 Bậc 3 10 4,4 Tổng 225 100,0 Nhận xét: Hen phế quản bậc 1 chiếm tỷ lệ cao nhất (76,9%), hen bậc 2, bậc 3 chiếm tỷ lệ thấp hơn (18,7 và 4,4). Ở nghiên cứu của chúng tôi không có HPQ bậc 4. 76,89% 18,67% 4,44% BËc 1 BËc 2 BËc 3 Biểu đồ 3.4: Tỷ lệ hen phế quản theo bậc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35 Bảng 3.9: Bậc hen theo tuổi Bậc hen Tuổi Hen bậc 1 (n=173) Hen bậc 2 (n=42) Hen bậc 3 (n=10) Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) 6-10 74 42,8 25 59,5 0 0 11-15 99 57,2 17 40,5 10 100,0 p 0,05 p < 0,01 Nhận xét: Tỷ lệ trẻ bị hen bậc 1 và bậc 3 cao hơn ở nhóm tuổi 11-15 tuổi với p < 0,01. Ở hen bậc 2 tỷ lệ trẻ bị hen giữa 2 nhóm tuổi không có sự khác biệt với p > 0,05. 42,8 59,5 0 57,2 40,5 100 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 6-10 tuổi 11-15 tuổi Bậc 1 Bậc 2 Bậc 3 Biểu đồ 3.5: Bậc hen theo tuổi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36 Bảng 3.10: Bậc hen theo giới Bậc hen Giới Hen bậc 1 Hen bậc 2 Hen bậc 3 Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Nam 98 56,6 * 22 52,4 5 50,0 Nữ 75 43,4 ** 20 47,6 5 50,0 Tổng 173 100,0 42 100,0 10 100,0 p *&** <0,05 Nhận xét: Ở hen phế quản bậc 1, tỷ lệ trẻ trai bị bệnh cao hơn trẻ gái (p < 0,05). Với các bậc hen khác tỷ lệ 2 giới không có sự khác biệt. 3.3. Kết quả nghiên cứu trị số Peakflow ở trẻ em Bảng 3.11: Trị số PEF của trẻ bình thường theo tuổi và giới Giới Tuổi Nam Nữ p Số lượng PEF  SDX  Số lượng PEF  SDX  6 22 145,0 ± 19,70 14 147,14 ± 23,67 >0,05 7 12 169,16± 32,87 12 168,33 ± 14,03 8 14 190,71± 25,25 12 189,16 ± 27,12 9 11 221,81± 34,87 9 210,0 ± 16,58 10 11 237,27± 21,49 16 233,12 ± 27,25 11 17 275,88± 44,73 23 265,21 ± 29,98 12 28 300,0 ± 41,54 38 290,00 ± 28,09 13 24 321,25 ± 39,59 33 310,90 ± 27,76 14 29 338,92 ± 53,09 34 327,42 ± 32,75 15 8 366,25 ± 60,93 8 353,75 ± 15,98 Tổng 176 268,20± 81,71 199 267,83± 65,41 Nhận xét: Trị số PEF ở học sinh bình thường tăng dần theo tuổi với p < 0,01. Trị số PEF ở học sinh nam tương đương với học sinh nữ ở các độ tuổi với p > 0,05. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37 Bảng 3.12: Trị số PEF của trẻ bình thường theo tuổi và chiều cao Tuổi Số lƣợng Chiều cao trung bình PEF  SDX  6 36 115,27 ± 4,93 145,83 ± 21,02 7 24 119,33 ± 4,38 168,75 ± 24,72 8 26 125,5 0 ± 4,86 190,0 ± 25,61 9 20 132,15 ± 3,88 216,50 ± 28,14 10 27 136,25 ± 5,82 234,81 ± 24,70 11 40 142,57 ± 7,64 269,75 ± 36,82 12 66 146,13 ± 6,73 294,24 ± 34,51 13 57 150,86 ± 6,78 315,26 ± 33,33 14 63 154,33 ± 7,31 332,54 ± 43,42 15 16 158,56 ± 6,62 360,00 ± 43,51 Tổng 375 140,81± 14,79 266,13 ± 73,10 Nhận xét: Trị số PEF ở học sinh bình thường tăng dần theo độ tuổi và chiều cao, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Biểu đồ 3.6: Mối tương quan giữa trị số PEF với chiều cao của trẻ bình thường Nhận xét: Có mối tương quan thuận chiều rất chặt chẽ giữa PEF và chiều cao ở nhóm trẻ bình thường, phương trình hồi quy: PEF = (chiều cao x 4,35) – 346,74; Hệ số tương quan r = 0,88 (p<0,001) Y= 4,35X – 346,74 r = 0,88 p < 0,001 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38 Biểu đồ 3.7: Mối tương quan giữa trị số PEF với tuổi của trẻ bình thường Nhận xét: Có mối tương quan thuận chiều rất chặt chẽ giữa PEF và tuổi ở nhóm trẻ bình thường, phương trình hồi quy: PEF = (tuổi x 24,0) + 1,42; Hệ số tương quan r = 0,89 với p <0,001 Bảng 3.13: Trị số PEF của trẻ HPQ theo tuổi và giới Giới Tuổi Nam Nữ p Số lượng PEF  SDX  Số lượng PEF  SDX  6 5 114,0 ± 11,40 7 117,14 ± 12,53 > 0,05 7 12 135,0 ± 13,14 8 128,75 ± 8,34 8 15 166,0 ± 12,98 8 165,0 ± 10,69 9 10 193,0 ± 20,57 10 178,00 ± 12,29 10 15 206,0 ± 12,98 9 206,66 ± 10,0 11 18 233,33 ± 24,01 10 237,00 ± 19,46 12 11 255,45 ± 23,39 10 253,00 ± 23,59 13 20 268,0 ± 28,39 17 251,17 ± 21,76 14 14 292,14 ± 35,34 15 282,00 ± 21,44 15 5 314,0 ± 41,59 6 296,66 ± 23,38 Tổng 125 221,84 ± 59,65 100 219,90 ± 58,38 Nhận xét: Ở học sinh hen phế quản, trị số PEF khác nhau ở các độ tuổi, có chiều hướng tăng dần theo tuổi với p < 0,05. Tuy nhiên, trị số này gần tương đương giữa nam và nữ ở cùng độ tuổi với p > 0,05. Y=24,0X + 1,42 r = 0,89 p < 0,001 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39 Bảng 3.14: Trị số PEF của trẻ HPQ theo tuổi và chiều cao Tuổi Số lƣợng Chiều cao trung bình PEF  SDX  p< 0,05 6 12 113,50  3,09 115,83  11,64 7 20 119,30  3,61 132,50  11,64 8 23 125,95  6,55 165,65  11,99 9 20 130,95  7,61 185,50  18,20 10 24 134,50  5,92 206,25  11,72 11 28 140,78  8,07 234,64  22,19 12 21 146,33  4,70 254,28  22,92 13 37 148,64  7,09 260,27  26,61 14 29 153,62  6,01 286,89  28,92 15 11 158,09  8,66 304,54  32,36 Tổng 225 138,67  14,18 220,97  58,94 Nhận xét: Trị số PEF trung bình của học sinh hen phế quản tăng dần theo chiều cao ở từng độ tuổi, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Biểu đồ 3.8: Mối tương quan giữa trị số PEF với chiều cao của trẻ HPQ Nhận xét: Có mối tương quan thuận chiều rất chặt chẽ giữa PEF và chiều cao ở nhóm trẻ mắc HPQ, phương trình hồi quy: PEF = (chiều cao x 3,66) – 285,82; Hệ số tương quan r = 0,88 (p<0,001) Y=3,66X – 285,82 r = 0,88 p < 0,001 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40 Biểu đồ 3.9: Mối tương quan giữa trị số PEF với tuổi của trẻ HPQ Nhận xét: Có mối tương quan thuận chiều rất chặt chẽ giữa PEF và tuổi ở nhóm trẻ mắc HPQ, phương trình hồi quy: PEF = (tuổi x 20,95) – 5,11; Hệ số tương quan r = 0,93 với p <0,001 Bảng 3.15: Trị số PEF của trẻ HPQ theo tuổi và bậc hen Bậc Tuổi Bậc 1 Bậc 2 Bậc 3 p n=173 PEF  SDX  n=42 PEF  SDX  n=10 PEF  SDX  6 9 116,66 11,18 3 113,33  15,27 0 >0,05 7 15 133,33 13,45 5 130,00  0 0 8 15 170,00 10,00 8 157,50  11,65 0 9 17 187,05 18,96 3 176,66  11,54 0 10 18 208,33 11,50 6 200,00  10,95 0 11 21 243,81 12,83 4 217,50  25,00 3 193,33 5,77 <0,05 12 18 255,55 24,06 3 246,66  15,27 0 13 28 263,21 26,11 6 260,00  22,58 3 223,33 5,77 <0,05 14 23 295,21 24,28 2 280,00  14,14 4 242,5015,0 <0,05 15 9 306,66 35,70 2 295,00  7,07 0 r = 0,93 p < 0,001 Y= 20,95X – 5,11 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41 Nhận xét: Trị số PEF ở học sinh hen phế quản bậc 1 và bậc 2 theo độ tuổi gần như tương đương với p > 0,05. Riêng PEF ở hen phế quản bậc 3 thấp hơn so với PEF ở hen bậc 1 và bậc 2, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Bảng 3.16: So sánh trị số PEF của trẻ nữ bình thường và trẻ nữ HPQ theo tuổi Tuổi Bình thƣờng HPQ p n PEF  SDX  n PEF  SDX  6 14 147,14 ± 23,67 7 117,14 ± 12,53 <0,01 7 12 168,33 ± 14,03 8 128,75 ± 8,34 8 12 189,16 ± 27,12 8 165,0 ± 10,69 9 9 210,0 ± 16,58 10 178,00 ± 12,29 10 16 233,12 ± 27,25 9 206,66 ± 10,0 11 23 265,21 ± 29,98 10 237,00 ± 19,46 12 38 290,00 ± 28,09 10 253,00 ± 23,59 13 33 310,90± 27,76 17 251,17 ± 21,76 14 34 327,42± 32,75 15 282,00 ± 21,44 15 8 353,75± 15,98 6 296,66 ± 23,38 Tổng 199 267,83± 65,41 100 219,90 ± 58,38 Nhận xét: Trị số PEF trung bình ở học sinh nữ bình thường cao hơn học sinh nữ hen phế quản theo độ tuổi. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42 Bảng 3.17: So sánh trị số PEF của trẻ nam bình thường và trẻ nam HPQ theo tuổi Tuổi Bình thƣờng HPQ p < 0,01 n PEF  SDX  n PEF  SDX  6 22 145,0 ± 19,70 5 114,0 ± 11,40 7 12 169,16 ± 32,87 12 135,0 ± 13,14 8 14 190,71 ± 25,25 15 166,0 ± 12,98 9 11 221,81 ± 34,87 10 193,0 ± 20,57 10 11 237,27 ± 21,49 15 206,0 ± 12,98 11 17 275,88 ± 44,73 18 233,33 ± 24,01 12 28 300,0 ± 41,54 11 255,45 ± 23,39 13 24 321,25 ± 39,59 20 268,0 ± 28,39 14 29 338,92 ± 53,09 14 292,14 ± 35,34 15 8 366,25 ± 60,93 5 314,0 ± 41,59 Tổng 176 264,20 ± 81,07 125 221,84 ± 59,65 Nhận xét: Trị số PEF trung bình ở học sinh nam bình thường cao hơn học sinh nam hen phế quản theo từng độ tuổi. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43 Chƣơng 4 BÀN LUẬN Hen phế quản là một nội dung được đề cập nhiều trong những năm gần đây, là một trong những vấn đề có liên quan đến mọi lứa tuổi, vấn đề cần được quan tâm phân tích nhiều hơn trong tình hình đô thị hóa kéo theo ô nhiễm môi trường như hiện nay. Hen phế quản nói chung và HPQ trẻ em nói riêng đã trở thành một bệnh lý xã hội, mang tính toàn cầu. Tần suất mắc HPQ đang có xu hướng tăng cao trên toàn thế giới. Ở nước ta chưa có số liệu điều tra thống kê chính thức trên toàn quốc về tỷ lệ mắc hen phế quản, nhưng HPQ trẻ em được dự báo là có tỷ lệ mắc rất cao. Hậu quả của nó ảnh hưởng rõ rệt đến đời sống xã hội và là nguyên nhân hàng đầu làm học sinh nghỉ học. Tuy nhiên, hoàn toàn có thể kiểm soát được bệnh hen nếu chúng ta quan tâm đúng mức đến bệnh, đặc biệt có những hiểu biết và áp dụng rộng rãi các tiến bộ trong điều trị và quản lý bệnh. Trong phạm vi của nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành đánh giá thực trạng bệnh HPQ và chỉ số PEF ở học sinh tiểu học và trung học cơ sở thành phố Thái Nguyên để đưa ra những nhận định và một số khuyến nghị nhằm trang bị tốt hơn cho học sinh và phụ huynh những kiến thức, giúp người bệnh và gia đình phối hợp với các cơ sở y tế có thể kiểm soát, điều trị bệnh tốt nhất. Đồng thời có một bức tranh chung về tình hình bệnh HPQ tại các trường học, từ đó giúp cho công tác quản lý, kiểm soát bệnh hen tốt hơn, góp phần tạo cho xã hội nguồn nhân lực có chất lượng cao cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 4.1. Các đặc điểm của đối tƣợng nghiên cứu Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có 2420 học sinh tham gia điều tra trên số dự kiến là 1725, đạt tỷ lệ 140,3%. Với số đối tượng nghiên cứu này Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44 đảm bảo độ tin cậy như một số nghiên cứu khác trong cộng đồng. Nghiên cứu của Tôn Kim Long về tình hình hen và viêm mũi dị ứng ở một số trường trung học phổ thông nội thành Hà Nội năm 2003 với n = 1075 [33]. Một nghiên cứu của Khổng Thị Ngọc Mai về tình hình HPQ tại trường tiểu học và THCS Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên với n = 685 [34]. Do đó kết quả nghiên cứu này có thể góp phần xây dựng kế hoạch mang tính chiến lược trong quản lý, kiểm soát bệnh HPQ lứa tuổi học sinh tiểu học và THCS tại Thái Nguyên cũng như Việt Nam. Trong tổng số 2420 học sinh tiến hành nghiên cứu được phân bố theo 2 độ tuổi: 6-10 tuổi chiếm tỷ lệ 38,8%; 11-15 tuổi chiếm 61,2%. Tỷ lệ giới tính: nam 49,6% và nữ 50,4%. Ở độ tuổi 11-15 tỷ lệ nam là 49,4%, nữ 50,6%, trong khi đó độ tuổi 6-10 tỷ lệ nam là 49,9%, nữ là 50,1. Như vậy, tỷ lệ học sinh nam và nữ ở các nhóm tuổi không có sự khác biệt, phù hợp với nghiên cứu của Khổng Thị Ngọc Mai tại trường tiểu học và THCS Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên có tỷ lệ nam là 46,9% và nữ giới là 53,1%. Nhóm học sinh nghiên cứu tại 4 trường, trong đó có 2 trường THCS và 2 trường Tiểu học, 2 trường nằm ở trung tâm thành phố và 2 trường nằm ở phía Bắc thành phố Thái Nguyên. Do đó việc xem xét, so sánh tỷ lệ hen giữa các trường sẽ có những yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến tỷ lệ này. Cơ cấu giới và sự phân bố học sinh tại các trường như trên cho thấy học sinh trong đối tượng nghiên cứu không có sự khác biệt về giới mà chủ yếu là sự khác biệt về môi trường, địa điểm sinh sống... 4.2. Tỷ lệ hen phế quản ở học sinh Tỷ lệ hen phế quản chung trong học sinh: Hen là bệnh có số người mắc ngày càng gia tăng. Trong 2-3 thập kỷ vừa qua nhất là 10 năm gần đây, độ lưu hành hen tiếp tục tăng với tốc độ đáng lo ngại ở mọi lứa tuổi, nhất là trẻ dưới 15 tuổi. Độ lưu hành hen trẻ em khác nhau tùy từng nước, ở Philipin là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45 18,8%, Indonesia 9,8%, Thái Lan 12%, Nhật 8%, tại trường Chicago và Catholic của Mỹ năm 2007 tỷ lệ HPQ học sinh độ tuổi 6-12 là 12% [39],[56]. Tỷ lệ HPQ ở trẻ em Tây Ban Nha từ 6-12 tuổi ở khu vực thành thị là 12%. Tỷ lệ HPQ ở trẻ em Phần Lan là 10%. Tỷ lệ HPQ ở trẻ em Thụy Điển là 5,3%. Như vậy có thể thấy tỷ lệ HPQ khác nhau ở các vùng và dao động từ 0-20%, tỷ lệ HPQ ở khu vực người da đen sinh sống (19,9 ± 7,4) cao hơn người da trắng sinh sống (11,4 ± 4,7) [51]. Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.3 cho thấy: Tỷ lệ mắc hen phế quản trong học sinh độ tuổi 6-15 tại một số trường Tiểu học và THCS thành phố Thái Nguyên là 9,3%. Tỷ lệ này tương đương với kết quả nghiên cứu của Phan Quang Đoàn tại Hà Nội là 8,74% [23]. Nghiên cứu của Phạm Lê Tuấn về tỷ lệ mắc hen ở trẻ em lứa tuổi học đường nội, ngoại thành Hà Nội cũng cho kết quả tương đương là 10,42% [46]. Điều này có thể nói ngoài các yếu tố nguy cơ đối với HPQ như: gia đình, giới, hóa chất...thì tốc độ đô thị hóa với những “sản phẩm” của nó cũng ảnh hưởng tới độ lưu hành HPQ bởi Thái Nguyên cũng là thành phố có tốc độ đô thị hóa nhanh trong những năm gần đây. Kết quả của Khổng Thị Ngọc Mai nghiên cứu tại trường Tiểu học, THCS Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên cho kết quả tỷ lệ mắc hen khá cao (14,1%). Chúng tôi nhận thấy có sự chênh lệch này là do các nghiên cứu ở các địa điểm khác nhau. Môi trường sống, thời tiết, sự ô nhiễm môi trường, thu nhập, yếu tố gia đình đều có ảnh hưởng đến sức khỏe và bệnh tật trong đó có độ lưu hành HPQ. Tỷ lệ hen phế quản theo tuổi và giới: Kết quả ở bảng 3.4 cho thấy hen phế quản gặp ở các lứa tuổi nhưng cao hơn ở nhóm tuổi 6-10 tuổi, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Mai Lan Hương tại Khoa Nhi Bệnh viện Bạch Mai năm 2006 tỷ lệ HPQ ở 2 nhóm tuổi không có sự khác biệt [30]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46 Như vậy, một giải pháp ưu tiên để quản lý, kiểm soát hen phế quản trong bậc học Tiểu học cần đặt ra để giúp học sinh, gia đình và xã hội giảm thiểu các hậu quả của bệnh. Theo GINA, giới là một yếu tố nguy cơ của HPQ. Theo G.Balzano, tỷ lệ HPQ ở trẻ dưới 10 tuổi là nam/nữ = 2/1. Điều đó có thể liên quan đến đường hô hấp hẹp hơn, tăng trương lực đường thở và có thể lượng IgE tăng cao hơn ở trẻ nam, dẫn đến tăng giới hạn đường thở trong đáp ứng với sự đa dạng của các yếu tố nguy cơ. Sau 10 tuổi, tỷ lệ hen của nam giới không cao hơn nữ vì tỷ lệ đường kính của đường thở như nhau ở 2 giới do sự thay đổi kích thước họng xảy ra ở tuổi dạy thì ở nam, không có ở nữ. Nhưng theo Wolstenholme (1991) khi nghiên cứu ở Maldives, một số nước nằm ở vùng Ấn Độ Dương nơi có độ lưu hành hen trẻ em là 20%, tuổi dưới 15 không có sự khác biệt về giới [57]. Tại Việt Nam, theo Tôn Kim Long độ lưu hành hen ở nam và nữ là ngang nhau [33], theo nghiên cứu của Nguyễn Tiến Dũng tại Khoa Nhi bệnh viện Bạch Mai năm 2005 cho thấy hen gặp nhiều ở trẻ trai hơn trẻ gái với tỷ lệ 56% ở trẻ trai so với 44% ở trẻ gái. Như vậy tỷ số giữa trai/gái là 1,3/1 [16]. Theo Vũ Khắc Đại, tỷ lệ HPQ ở nam cũng cao hơn nữ tại Trường Tiểu học Thành Công B Hà Nội năm 2005 với tỷ lệ 1,5/1. Phạm Lê Tuấn khi nghiên cứu về đặc điểm dịch tễ HPQ trẻ em lứa tuổi học đường ở một số trường Hà Nội thấy tỷ lệ nam/nữ là 1,45/1[46]. Nghiên cứu của tác giả Phan Quang Đoàn, Tôn Kim Long (2006) về tỷ lệ mắc HPQ trong học sinh một số trường học ở Hà Nội chỉ ra tỷ lệ hen ở nam cao hơn nữ với tỷ lệ là 1,34/1 [23]. Nghiên cứu của Bùi Kim Thuận (2004) về đặc điểm lâm sàng, khí máu và thông khí phổi tại khoa Nhi bệnh viện Bạch Mai chỉ ra tỷ lệ HPQ ở nam cao hơn nữ với tỷ lệ là 1,3/1 [42]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47 Kết quả nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.5) cho thấy tỷ lệ hen phế quản ở học sinh nam cao hơn ở học sinh nữ với tỷ lệ nam 55, 6% và nữ 44,4%; tỷ số giữa nam/nữ là 1,25/1. Sự chênh lệch giữa nam và nữ mắc bệnh hen phế quản ở nhóm tuổi 6-10 cao hơn (1,36/1) nhóm 11-15 (1,17/1). Điều này có nghĩa ở nhóm tuổi 6-10, tỷ lệ nam mắc hen cao nữ, còn nhóm tuổi 11-15 tỷ lệ mắc hen ở 2 giới là tương đương. Tuy nhiên sự khác biệt về giới giữa các nhóm tuổi không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này phù hợp với nhiều tác giả [24], [27], [35], [36]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.6) cho thấy tỷ lệ HPQ ở học sinh các trường có sự khác biệt. Tại 2 trường Tiểu học và THCS Hoàng Văn Thụ, tỷ lệ HPQ cao hơn so với các trường còn lại. Tỷ lệ HPQ tại trường THCS Hoàng Văn Thụ cao nhất chiếm 11,0%. Vậy yếu tố nào ảnh hưởng đến điều này? Có phải 2 trường Tiểu học và THCS Hoàng Văn Thụ có tỷ lệ HPQ cao do địa điểm ở gần khu vực các nhà máy, xí nghiệp với lượng khói bụi, chất thải lớn? Dù chưa có một giải thích thỏa đáng nào về sự gia tăng của bệnh hen, song dễ thấy bệnh này có liên quan đến viêm dị ứng trong quá trình đáp ứng miễn dịch của cơ thể với yếu tố môi trường ngày càng bị ô nhiễm. Những “sản phẩm” của đô thị hóa và ô nhiễm môi trường như khói bụi, hơi hóa chất, xăng dầu...làm tăng nguy cơ bị hen phế quản. Tuy nhiên, cần phải có một nghiên cứu sâu về yếu tố nguy cơ của HPQ như yếu tố gia đình, thu nhập, môi trường...để có câu trả lời đầy đủ hơn. Đây là một vấn đề cần quan tâm bởi chương trình HPQ chưa có điều kiện để tiếp cận được ở tất cả các trường học thì việc xác định tỷ lệ HPQ ở từng trường để có kế hoạch ưu tiên can thiệp là rất cần thiết. Tỷ lệ HPQ theo bậc: Về mức độ nặng của bệnh HPQ theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.8) cho thấy chủ yếu gặp HPQ bậc 1 (76,95) và bậc 2 (18,7%), bậc 3 rất thấp 4,4%, không gặp HPQ bậc 4. Điều này chưa phản Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 48 ánh đúng thực trạng bệnh HPQ tại một khu vực mà chỉ phản ánh mức độ HPQ tại một thời điểm ở các trường. Đây là nghiên cứu tại cộng đồng nên có thể các trường hợp HPQ nặng sẽ không được tiếp cận. Nghiên cứu của Nguyễn Tiến Dũng tại Khoa Nhi bệnh viên Bạch Mai cho thấy HPQ bậc 1 và bậc 2 chiếm 70%, còn lại 30% là hen bậc 3, không gặp HPQ bậc 4 [18]. Theo Mai Lan Hương tỷ lệ trẻ em HPQ đến điều trị bậc 2 (46,9%) và bậc 3 (53,2%) là chủ yếu, không thấy HPQ bậc 1 [30]. Mức độ nặng của bệnh HPQ trong nghiên cứu của Lê Thị Hồng Hanh tại Khoa Hô hấp bệnh viện Nhi Trung ương cũng xác định hen bậc 1 chiếm 16%, bậc 2 chiếm 80%, bậc 3 chiếm 4%, không gặp bệnh nhân nào bị hen nặng, dai dẳng [27]. Điều này có thể lý giải cho nghiên cứu của chúng tôi, ở cộng đồng tỷ lệ HPQ bậc 1 chiếm tỷ lệ cao do thực tế, không phải bất cứ bệnh nhân hen nào cũng đi đến bệnh viện khám và điều trị mà chỉ khi nào bệnh hen nặng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe thì bệnh nhân mới đến bệnh viện khám. Trong hoàn cảnh của chúng ta hiện nay, những hiểu biết về bệnh hen còn nhiều hạn chế, bệnh nhân hen nhẹ thường ít chú ý đến sức khỏe của mình vì nhiều lý do hoặc do những định kiến xã hội làm cho người bệnh hen hoặc gia đình không dám đưa đi khám. Trong khi các câu lạc bộ hen, phòng tư vấn HPQ hoạt động còn hạn chế về mặt số lượng cũng như chất lượng thì việc xác định được các trường hợp HPQ bậc 1, bậc 2 ở cộng đồng để quản lý, tư vấn sẽ góp phần hạn chế tỷ lệ nâng bậc hen và nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân hen. Bậc hen theo tuổi: Xác định bậc hen theo tuổi sẽ giúp cho người bệnh, gia đình cũng như cán bộ y tế có kiến thức đầy đủ, chuẩn bị tốt hơn để phòng cũng như kiểm soát bệnh. Qua nghiên cứu (bảng 3.9) chúng tôi thấy tỷ lệ hen bậc 1 và hen bậc 3 gặp nhiều hơn ở nhóm tuổi 11-15 tuổi, còn hen bậc 2 gặp tương đương ở 2 nhóm tuổi. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Tiến Dũng năm 2005 [18] và một số tác giả [42],[49]. Theo Ngô Thị Xuân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 49 hen bậc 3 nhập viện với tỷ lệ (56,9%) cao hơn hen bậc 2 (43,1%), không gặp hen bậc 4, lứa tuổi càng cao tỷ lệ bậc hen càng lớn [49]. Như vậy, HPQ bậc 3 gặp chủ yếu ở học sinh THCS. Những trẻ này phải chăng do bệnh mới khởi phát ở trẻ lớn là nặng hay do quản lý hen kém nên bệnh có xu hướng nặng lên theo tuổi? Để khẳng định cần phải nghiên cứu sâu hơn về yếu tố liên quan giữa tuổi khởi phát HPQ với độ nặng của hen. Tuy nhiên, với nghiên cứu cắt ngang tại cộng đồng có thể sẽ không phản ánh đầy đủ về tỷ lệ bậc hen, đây cũng là một hạn chế của đề tài. Bậc hen theo giới: Một số nghiên cứu cho thấy giới là một yếu tố nguy cơ của hen phế quản, nam thường bị hen nhiều hơn nữ [16],[45],[46],[50]. Vậy giới có liên quan như thế nào đến bậc hen? Kết quả nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.10) cho thấy ở hen bậc 1 học sinh nam mắc nhiều hơn nữ, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, ở hen bậc 2 và bậc 3 tỷ lệ nam nữ gần như nhau. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Mai Lan Hương năm 2006 cho thấy ở HPQ bậc 2 và bậc 3 tỷ lệ tương đương ở cả 2 giới, nghiên cứu của một số tác giả cũng cho kết quả tương tự [28], [43]. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi cỡ mẫu trong các bậc hen có sự khác biệt nên để khẳng định điều này cần các nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn và tương đương giữa các bậc hen. 4.3. Trị số PEF của học sinh bình thƣờng và học sinh hen phế quản Trị số PEF của trẻ bình thường theo tuổi, chiều cao và giới: Trên thế giới, người ta sử dụng bảng trị số lưu lượng đỉnh thở ra (Peak Expiratory Flow – PEF) bình thường do Godfrey và cộng sự xây dựng năm 1970. Đây cũng là bảng trị số PEF bình thường được Viện Tim Phổi và Máu thuộc Bộ Y tế Hoa Kỳ sử dụng. Trong những năm qua, một số tác giả Việt Nam đã khảo sát trị số PEF trên người bình thường ở khu vực Thượng Đình và Thanh Trì, Hà Nội; ở trẻ em xã Hương Hồ thành phố Huế [15], [32], [47]. Tuy nhiên, đối Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50 tượng khảo sát ở mỗi vùng sẽ có những đặc thù khác nhau. Chúng tôi nghĩ rằng cần có bảng trị số bình thường cho trẻ em địa phương với đặc thù riêng của nó. Theo bảng trị số PEF của Godfrey và cộng sự thì PEF được tính dựa theo tuổi, giới và chiều cao (tính bằng cm). Nghiên cứu của J.E. Cotes tại EU năm 2004 cũng cho thấy trị số PEF ở trẻ em có mối liên quan chặt chẽ với chiều cao và tuổi, có sự khác biệt rõ giữa các giới [55]. Một nghiên cứu khác ở người lớn tại Nomogram, EU cho thấy có sự khác biệt rõ về trị số PEF trung bình giữa 2 giới và từng độ tuổi: ở độ tuổi 15-35 PEF tăng dần theo tuổi và đạt trị số cao nhất ở độ tuổi 30-40, sau đó PEF giảm dần [60]. Như vậy PEF không hoàn toàn tăng dần theo tuổi mà nó còn phụ thuộc vào bộ máy hô hấp ở các lứa tuổi nhất định. Tuy nhiên theo Leiner GC và cộng sự (1963) thì PEF của trẻ em được tính chỉ dựa vào tuổi và chiều cao [58]. Vậy vấn đề đặt ra là có cần thiết phải đối chiếu PEF với tuổi, giới và chiều cao hay chỉ cần đối chiếu PEF với tuổi và chiều cao? Kết quả nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.11, 3.12) cho thấy trị số PEF trung bình của trẻ bình thường tăng dần theo tuổi và chiều cao. Ở các độ tuổi từ 6-15 không có sự khác biệt PEF trung bình giữa 2 giới với p > 0,05. Như vậy, giới không có mối liên quan đến chỉ số PEF. Điều này cũng có nghĩa ở trẻ em 6-15 tuổi chúng ta chỉ cần đối chiếu PEF với tuổi và chiều cao là đủ, không cần thiết phải đối chiếu với giới. Kết quả trên cũng phù hợp với sự phát triển thể chất và tinh thần bình thường ở trẻ em: ở lứa tuổi 6-15 tuổi thì chiều cao của trẻ em nữ phát triển tương đương với trẻ em nam. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy PEF trung bình ở tuổi 6-15 là 266,13 ± 73,10, điều này phù hợp với nghiên cứu trên 1050 học sinh tiểu học và trung học cơ sở tại thị trấn Babol của Iran năm 2007 với độ tuổi trung bình là 10,26 và PEF trung bình là 262,35 ± 71,97 [54]. Vậy có thể nói Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 51 chức năng hô hấp ở trẻ em Thái Nguyên nói riêng và trẻ em Việt Nam nói chung tương đương với CNHH ở trẻ em một số nước trên thế giới hay không? Cần phải có nghiên cứu với quy mô lớn hơn, bên cạnh đó cũng phải loại trừ yếu tố không thuần nhất trong các độ tuổi nghiên cứu làm ảnh hưởng đến kết quả này. Chúng tôi đã xác định được hệ số tương quan r giữa PEF và chiều cao là 0,88 (p < 0,001) và giữa PEF và tuổi là 0,89 (p <0,001). Tương quan này là tương quan thuận và chặt. Như vậy ở trẻ em 6-15 tuổi, PEF tỷ lệ thuận với tuổi và chiều cao. Điều này được chứng minh qua biểu đồ tương quan giữa PEF và chiều cao, giữa PEF và tuổi. Điều này cũng có nghĩa có thể dùng chiều cao và tuổi để suy ra chỉ số peakflow trong trường hợp không có điều kiện đo PEF và có thể dùng kết quả PEF để theo dõi cũng như chẩn đoán sớm bệnh HPQ ở trẻ em. Qua hệ số tương quan r, chúng tôi thiết lập được phương trình hồi quy của PEF theo tuổi và chiều cao: PEF = (24,0 x tuổi ) + 1,42 PEF = (4,35 x chiều cao) – 346,74 Nghiên cứu tại Bangkok của S. Benjaponpitak và cộng sự năm 1999 trên 501 trẻ từ 5-15 tuổi cho thấy mối tương quan giữa PEF với chiều cao cũng rất chặt chẽ. Nhưng có sự khác biệt giữa các giới với phương trình hồi quy [59]: Với trẻ em nữ: PEF = (3,48 x chiều cao) – 204,11 Với trẻ em nam: PEF = (3,52 x chiều cao) – 186,80 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 52 Bảng 4.1: So sánh trị số PEF trung bình và chiều cao của trẻ em từ 6-15 tuổi ở học sinh Tiểu học và THCS thành phố Thái Nguyên với nghiên cứu của Lê Thị Cúc năm 2004. Chỉ số Lê Thị Cúc (n=175) Tôn Thị Minh (n= 375) p PEF  SDX  252,54 ± 69,03 266,13 ±73,10 < 0,05 Chiều cao  SDX  125,94 ±12,50 140,81 ±14,79 < 0,01 Khi so sánh với Lê Thị Cúc (nghiên cứu trên 175 trẻ em từ 6-15 tuổi tại xã Hương Hồ, thành phố Huế) chúng tôi thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về trị số PEF trung bình và chiều cao (p < 0,05 và p < 0,01) [15]. Có lẽ do nhóm đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là trẻ em thành phố có chiều cao lớn hơn nên trị số PEF trung bình cũng lớn hơn so với trẻ em nông thôn, một lý do khác do việc chọn cỡ mẫu giữa các nhóm tuổi của chúng tôi còn có sự khác biệt nên cũng ảnh hưởng đến chiều cao trung bình của nhóm đối tượng nghiên cứu. Kết quả của chúng tôi (bảng 3.12) phù hợp với nghiên cứu của J.E. Cotes tại EU năm 2004. Tuy nhiên khi so sánh trị số PEF trung bình theo chiều cao của chúng tôi với nghiên cứu của Godfrey chúng tôi nhận thấy ở lứa tuổi 6-15, PEF của trẻ em thành phố Thái Nguyên cao hơn và chiều cao khởi điểm cũng cao hơn. Khi chiều cao đến 150-160 cm thì trị số PEF của cả 2 nhóm mới cân bằng. Phải chăng từ 15 tuổi khi sự phát triển chiều cao tương đối ổn định và thể lực tương đối cân bằng thì PEF sẽ giống nhau? Nghiên cứu của tác giả Lê Thị Cúc cũng cho kết quả tương tự. Vậy có thể nói trẻ em Thái Nguyên nói riêng và trẻ em Việt Nam nói chung có chức năng hô hấp tốt hơn trẻ em các nước? Hay do các nghiên cứu thực hiện tại các thời điểm khác nhau nên các kết quả PEF còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác? Đây chỉ là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 53 nhận xét bước đầu, cần có một công trình nghiên cứu sâu rộng hơn trên phạm vi cả nước mới có thể xác nhận được điều này. Trị số PEF của trẻ HPQ theo tuổi, giới và chiều cao: Quan niệm về điều trị hen phế quản ngày càng có nhiều thay đổi: từ việc điều trị các cơn hen nặng, ác tính tại bệnh viện sẽ được thay thế bằng những chương trình giáo dục quản lý - điều trị dự phòng tại cộng đồng mà hình thức sinh hoạt câu lạc bộ tại các trường học đang đem lại kết quả khả quan. Một trong những phương pháp được đề xuất để thực hiện chiến lược quản lý và dự phòng hen theo GINA đó là người bệnh biết cách đo lưu lượng đỉnh hàng ngày (sáng và chiều cách nhau 12 giờ). Để theo dõi cơn hen và mức độ nặng nhẹ của cơn hen thì dùng lưu lượng đỉnh là phù hợp. Khi đường thở hẹp lại thì có nghĩa là có sự rối loạn thông khí tắc nghẽn thì trị số PEF giảm, khi điều trị có kết quả thì PEF tăng lên. Hiện nay việc đo lưu lượng đỉnh đã trở thành phổ biến và được áp dụng rộng rãi trên nhiều nước. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.13, 3.14) cho thấy trị số PEF trung bình của học sinh HPQ tăng dần theo tuổi và chiều cao, trị số PEF trung bình ở nam là 221,84 ± 59,65 l/ph, ở nữ là 219,90 ± 58,38 l/ph, không có sự khác biệt trị số PEF giữa nam và nữ với p >0,05. Kết quả này phù hợp với Nguyễn Vũ Bảo Anh [8], tuy nhiên thấp hơn so với Phạm Lê Tuấn [46]. Sự khác biệt có lẽ do đối tượng nghiên cứu của chúng tôi ở cộng đồng, hen bậc 1 chiếm phần lớn, bên cạnh đó còn có sự khác biệt về đối tượng ở các nhóm tuổi trong nhóm nghiên cứu. Chúng tôi đã xác định được hệ số tương quan r giữa PEF và chiều cao ở trẻ HPQ là 0,88 và giữa PEF và tuổi là 0,93. Qua hệ số tương quan r, chúng tôi cũng thiết lập được phương trình hồi quy của PEF ở trẻ HPQ theo tuổi và chiều cao: PEF = (20,95 x tuổi) – 5,11 PEF = (3,66 x chiều cao) – 285,82 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 54 Tương quan này là tương quan thuận và chặt. So với trẻ bình thường thì mối tương quan giữa chiều cao và PEF không thay đổi, tuy nhiên mối tương quan giữa tuổi và PEF lại chặt chẽ hơn. Điều này cũng có nghĩa PEF ở trẻ HPQ rất có giá trị trong theo dõi cũng như tiên lượng bệnh, nó có thể coi như một chỉ số tham chiếu giúp người thầy thuốc cũng như người bệnh có thể phát hiện các dấu hiệu sớm của bệnh khi chưa có triệu chứng lâm sàng. Tiến hành so sánh trị số PEF ở trẻ bình thường và trẻ HPQ cho thấy PEF trung bình ở trẻ hen cả nam và nữ đều giảm hơn so với trẻ bình thường ở các nhóm tuổi. Tính chung PEF trung bình tuổi 6-15 ở trẻ nữ bình thường là 267,83 ± 65,41, trẻ nữ HPQ là 219,90 ± 58,38, ở trẻ nam bình thường là 264,20 ± 81,71, trẻ nam HPQ là 221,84 ±59,65. Sự khác biệt giữa 2 nhóm có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Tôn Kim Long, Vũ Khắc Đại và một số tác giả [19],[20],[33]. Như vậy, rõ ràng trị số PEF góp phần khẳng định chẩn đoán HPQ cũng như độ nặng của bệnh đồng thời PEF ở trẻ HPQ là một thông số rất quan trọng để theo dõi diễn biến bệnh và kết quả điều trị. Đo PEF bằng lưu lượng đỉnh kế là một phương pháp tiện lợi, người bệnh có thể tự thực hiện ở nhà, đánh giá được kết quả điều trị cũng như tiên lượng được mức độ bệnh, ngoài ra phương pháp này rất tiện lợi khi áp dụng cho trẻ nhỏ từ 6-9 tuổi vì ở lứa tuổi này các em chưa thể đo CNHH trên máy một cách chính xác được. Trong nghiên cứu, chúng tôi đo trị số PEF của 225 trẻ HPQ cho thấy trị số PEF ở học sinh hen bậc 1 và bậc 2 không có sự khác biệt với p > 0,05, riêng hen bậc 3 PEF giảm có ý nghĩa với p < 0,05. Điều này cũng có nghĩa ở hen bậc 1 và bậc 2, ảnh hưởng đến chức năng hô hấp là chưa rõ rệt. Tuy nhiên, số lượng trẻ nghiên cứu ở từng bậc hen không tương đương, nghiên cứu tại cộng đồng không tiếp cận được các trường hợp hen nặng có ảnh hưởng rõ đến chức năng hô hấp có thể sẽ ảnh hưởng đến kết quả PEF ở từng bậc hen. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 55 KẾT LUẬN Qua nghiên cứu trên 2420 học sinh 6-15 tuổi tại một số trường Tiểu học và THCS thành phố Thái Nguyên, chúng tôi rút ra những kết luận sau: 1. Tỷ lệ hen phế quản ở học sinh - Tỷ lệ HPQ chung ở học sinh 6-15 tuổi tại một số trường Tiểu học và THCS thành phố Thái Nguyên là 9,3%. Trong đó: + Học sinh 6-10 tuổi tỷ lệ HPQ là 10,6% + Học sinh 11-15 tuổi tỷ lệ HPQ là 8,5% - Tỷ lệ học sinh nam HPQ là 10,3%, nữ là 8,3% - Tỷ lệ HPQ theo trường học: + THCS Hoàng Văn Thụ là 11,0% + THCS Quang Trung là 6,8% + TH Đội Cấn là 9,7% + TH Hoàng Văn Thụ là 10,6% - Tỷ lệ HPQ theo bậc: Bậc 1 chiếm 76,9%, bậc 2 chiếm 18,7%, bậc 3 chiếm 4,4%, không có bậc 4. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 56 2. Trị số PEF ở học sinh bình thƣờng và học sinh hen phế quản Trị số PEF trung bình ở học sinh bình thường 6-15 tuổi Giới Tuổi Nam Nữ Số lượng PEF  SDX  Số lượng PEF  SDX  6 22 145,0 ± 19,70 14 147,14 ± 23,67 7 12 169,16± 32,87 12 168,33 ± 14,03 8 14 190,71± 25,25 12 189,16 ± 27,12 9 11 221,81 ± 34,87 9 210,0 ± 16,58 10 11 237,27 ± 21,49 16 233,12 ± 27,25 11 17 275,88 ± 44,73 23 265,21 ± 29,98 12 28 300,0 ± 41,54 38 290,00 ± 28,09 13 24 321,25 ± 39,59 33 310,90 ± 27,76 14 29 338,92 ± 53,09 34 327,42 ± 32,75 15 8 366,25 ± 60,93 8 353,75 ± 15,98 Tổng 176 264,20± 81,71 199 267,83± 65,41 Trị số PEF trung bình của học sinh HPQ 6-15 tuổi Giới Tuổi Nam Nữ Số lượng PEF  SDX  Số lượng PEF  SDX  6 5 114,0± 11,40 7 117,14 ± 12,53 7 12 135,0± 13,14 8 128,75 ± 8,34 8 15 166,0± 12,98 8 165,0 ± 10,69 9 10 193,0± 20,57 10 178,00± 12,29 10 15 206,0± 12,98 9 206,66± 10,0 11 18 233,33± 24,01 10 237,00± 19,46 12 11 255,45± 23,39 10 253,00± 23,59 13 20 268,0± 28,39 17 251,17± 21,76 14 14 292,14± 35,34 15 282,00± 21,44 15 5 314,0± 41,59 6 296,66± 23,38 Tổng 125 221,84 ± 59,65 100 219,90 ± 58,38 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 57 - Có mối tương quan thuận và chặt giữa PEF với chiều cao và tuổi. + Trẻ bình thường: PEF = (Chiều cao x 4,35) – 346,74 Hệ số tương quan r = 0,88 với p <0,001 PEF = (Tuổi x 24,0) + 1,42 Hệ số tương quan r = 0,89 với p <0,001 + Trẻ HPQ: PEF = (Chiều cao x 3,66) – 285,82 Hệ số tương quan R = 0,88 với p <0,001 PEF = (Tuổi x 20,95) – 5,11 Hệ số tương quan r = 0,93 với p <0,001 - Trị số PEF trung bình ở nhóm trẻ bình thường cao hơn nhóm trẻ HPQ, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 58 KHUYẾN NGHỊ Tỷ lệ hen phế quản trẻ em tại các trường học khá cao, để chẩn đoán sớm, quản lý và kiểm soát bệnh tốt, góp phần hạn chế sự nặng lên của bệnh chúng tôi đề xuất một số khuyến nghị sau: 1. Tăng cường công tác truyền thông giáo dục sức khỏe về bệnh HPQ trong cộng đồng đặc biệt là ở trường học. Phối hợp chặt chẽ giữa ngành Giáo dục Đào tạo và ngành Y tế để có chương trình quản lý hen học đường hiệu quả. 2. Nên sử dụng rộng rãi phương pháp đo PEF bằng Peakflow meter để sàng lọc HPQ tại cộng đồng cho trẻ em. 3. Mặc dù PEF của Godfrey được sử dụng rộng rãi trên thế giới nhưng cần xây dựng một bảng trị số PEF riêng cho trẻ em Việt Nam để có kết quả chính xác hơn trong chẩn đoán, điều trị, theo dõi cũng như dự phòng cho trẻ em bị hen phế quản. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT 1. Nguyễn Năng An (2005), “Tổng quan về vấn đề Hen phế quản”, Tạp chí Y học thực hành (số 513), tr 7-8. 2. Nguyễn Năng An (2006), Tiếp cận mới trong chẩn đoán và điều trị hen phế quản theo phác đồ GINA 2006, Hội thảo khoa học chuyên đề Hen phế quản, Hà Nội 10/2006. 3. Nguyễn Năng An, Trần Thuý Hạnh, Nguyễn Hoàng Phương (2006), “Những hiểu biết mới về cơ chế hen phế quản”, Tập huấn hen phế quản tại Bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên 10/2006. 4. Nguyễn Năng An, Trần Quỵ (2007), “Cập nhật thông tin từ Hội nghị Hô hấp Châu Á Thái Bình Dương tại Kyoto, Nhật Bản 11/2006”, Hội thảo khoa học chuyên đề Hen phế quản, Hà Nội 2/2007. 5. Nguyễn Năng An, Trần Thuý Hạnh (2008), “Tình hình kiểm soát hen và những trở ngại cần được khắc phục”, Hội nghị khoa học hưởng ứng ngày hen toàn cầu, Hà Nội 5/2008. 6. Nguyễn Năng An, Lê Văn Khang, Phan Quang Đoàn (2000), “Một số đặc điểm dịch tễ học HPQ ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam”, Hội thảo HPQ quốc tế, Hà Nội tháng 5/2000. 7. Nguyễn Năng An, Lê Anh Tuấn, Phạm Lê Tuấn (2002), “Sổ tay hướng dẫn quản lý và kiểm soát hen phế quản”, Chương trình hen phế quản, Sở Y tế Hà Nội 2002. 8. Nguyễn Vũ Bảo Anh (2004), Viêm mũi dị ứng và hen phế quản ở lứa tuổi học sinh tiểu học tại câu lạc bộ phòng chống hen Trường tiểu học Thành Công B Hà Nội, Luận văn tốt nghiệp bác sỹ y khoa, Trường đại học Y Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 60 9. Bệnh viện Nhi Trung ương (2007), Hội thảo khoa học chuyên đề Một số tiến bộ mới trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý hô hấp ở trẻ em, Hà Nội 2/2007 10. Bệnh viện Nhi Trung ương (2008), Tài liệu tập huấn chăm sóc sức khoẻ trẻ em tại cộng đồng, Hà Nội 5/2008. 11. Bệnh viện Nhi Trung ương (2008), Cập nhật kiến thức về bệnh dị ứng miễn dịch và hô hấp ở trẻ em, Hà Nội 5/2008. 12. Ngô Quý Châu (2002), “Chẩn đoán và điều trị hen theo GINA 2002”, Hội thảo khoa học chuyên đề hồi sức cấp cứu, Hà Nội 5/2002. 13. Đào Văn Chinh (1999), “Hen phế quản”, Bách khoa thư bệnh học, tập 1, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội tr 180-184. 14. Đào Văn Chinh, Nguyễn Quốc Tuấn (2000), Hen phế quản, Nhà xuất bản Y học. 15. Lê Thị Cúc (2004), “Tìm hiểu trị số lưu lượng đỉnh thở ra ở trẻ em xã Hương Hồ thành phố Huế bằng máy đo lưu lượng đỉnh Peak-Flow meter”, Tạp chí khoa học, đại học Huế (số 23), tr 65-72. 16. Nguyễn Tiến Dũng (2005), “Một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng hen phế quản ở trẻ em”, Tạp chí Y học Việt Nam (số 6), tr 1-3. 17. Nguyễn Tiến Dũng (2007), “Chẩn đoán, xử trí hen phế quản ở trẻ em”, Hen phế quản và dự phòng hen phế quản, Nhà xuất bản Y học. 18. Nguyễn Tiến Dũng (2005), “Dịch tễ học và sử dụng thuốc trong điều trị HPQ ở trẻ em”, Tạp chí Y học Việt Nam (số 1), tr 26-32. 19. Nguyễn Tiến Dũng, Bùi Kim Thuận (2005), “Liên quan giữa thay đổi chức năng hô hấp với các triệu chứng lâm sàng trong hen phế quản trẻ em”, Tạp chí Nghiên cứu Y học (số 5), tr 79-80. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 61 20. Vũ Khắc Đại (2005), Tình hình hen phế quản ở học sinh một trường tiểu học, Khoá luận tốt nghiệp bác sỹ y khoa khoá 1999-2005, Trường đại học Y Hà Nội. 21. Phan Quang Đoàn (2007), “Đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán, phân loại HPQ”, Hen phế quản và dự phòng hen phế quản, Nhà xuất bản Y học. 22. Phan Quang Đoàn (2007), “Nguyên nhân và các yếu tố thuận lợi gây HPQ”, Hen phế quản và dự phòng HPQ, Nhà xuất bản Y học. 23. Phan Quang Đoàn, Tôn Kim Long (2006), “Lưu hành hen phế quản trong học sinh một số trường học ở Hà Nội và tình hình sử dụng Seretide dự phòng hen trong các đối tượng này”, Tạp chí Y học thực hành (số 6), tr 15-17. 24. Lê Thị Thúy Hằng (2007), Một số yếu tố ảnh hưởng đến độ nặng cơn hen và hiệu quả của salbutamol xịt định liều với khí dung trong điều trị cơn hen cấp ở trẻ em, Luận văn thạc sỹ y học, Trường đại học Y Hà Nội. 25. Hội hen, dị ứng, miễn dịch lâm sàng Việt Nam (2005), Tiếp cận mới trong chẩn đoán, điều trị bệnh hen và COPD, Hà Nội 2005. 26. Hội hen, dị ứng, miễn dịch lâm sàng Việt Nam (2008), Hội thảo chuyên đề cập nhật và chẩn đoán điều trị hen theo GINA 2007, Thái Nguyên 2008. 27. Lê Thị Hồng Hạnh, Đào Minh Tuấn (2008), “Nghiên cứu vai trò của vi rút đường hô hấp trong cơn hen phế quản cấp ở trẻ em”, Tạp chí Nghiên cứu Y học (số 4), tr 86-88. 28. Trịnh Mạnh Hùng (2000), Một số kết quả bước đầu về chẩn đoán và điều trị HPQ do bụi nhà, Luận văn tiến sỹ y học, Trường đại học Y Hà Nội. 29. Đỗ Thuỳ Hương (2006), Tìm hiểu một số yếu tố dịch tễ của hen phế quản trẻ em, Khoá luận tốt nghiệp bác sỹ y khoa, Trường đại học Y Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 62 30. Mai Lan Hương (2006), Một số yếu tố liên quan đến độ nặng của bệnh và hiệu quả của Seretide trong điều trị dự phòng hen phế quản trẻ em, Luận văn thạc sỹ y học, Trường đại học Y Hà Nội. 31. Lê Minh Hương (2007), “Những cập nhật mới về bệnh HPQ trẻ em”, Tài liệu giáo dục bệnh nhân hen, Hà Nội 5/2007. 32. Nguyễn Thanh Long (1996), “Tìm hiểu trị số lưu lượng đỉnh bình thường ở trẻ em trường học khu vực thành phố Huế bằng máy đo lưu lượng đỉnh Mini-Wright”, Tập san Nghiên cứu khoa học, trường đại học Y khoa Huế, tr 13-14. 33. Tôn Kim Long (2004), Nghiên cứu tình hình hen - viêm mũi dị ứng ở học sinh một số trường trung học phổ thông nội thành Hà Nội năm 2003, Luận văn thạc sỹ y học, Trường đại học Y Hà Nội. 34. Khổng Thị Ngọc Mai, Nguyễn Văn Sơn (2009), “Thực trạng hen phế quản ở học sinh Tiểu học, trung học cơ sở Gia Sàng thành phố Thái Nguyên”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, đại học Thái Nguyên, (số 8), tr 15. 35. Vũ Hồng Minh (2001), Nghiên cứu tình hình sử dụng thuốc và đánh giá tác dụng Salbutamol khí dung trong điều trị HPQ ở trẻ em, Luận văn thạc sỹ dược học, Trường đại học Dược Hà Nội. 36. Lê Thị Nga, Nguyễn Thị Xuân Hương (2007), “Nghiên cứu về đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị hen phế quản tại khoa nhi, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên”, Tạp chí Nghiên cứu Y học, (số 6), tr 87-89. 37. Nguyễn Thanh Phong (2004), Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ trên bệnh nhân hen phế quản tại Khoa miễn dịch lâm sàng bệnh viện Bạch Mai từ 12/2003 – 4/2004, Luận văn tốt nghiệp bác sỹ y khoa, Trường đại học Y Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 63 38. Trần Quỵ (2002), “Hen phế quản ở trẻ em”, Thông tin Y học lâm sàng (số 8), tr 3. 39. Trần Quỵ (2007), “Dịch tễ học hen phế quản và tiếp cận chương trình khởi động toàn cầu về phòng chống hen phế quản”, Hen phế quản và dự phòng hen phế quản, Nhà xuất bản Y học, tr 14-15. 40. Trần Quỵ (2007), “Sổ tay tư vấn hen phế quản”, Hà Nội 2007. 41. Phạm Huy Thông (2006), “Hướng dẫn quản lý chăm sóc người bệnh HPQ tại cộng đồng”, Tập huấn hen phế quản tại Bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên 10/2006. 42. Bùi Kim Thuận (2004), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, khí máu và thông khí phổi trong hen phế quản ở trẻ em, Luận văn tốt nghiệp bác sỹ chuyên khoa cấp II, Trường đại học Y Hà Nội. 43. Trần Thị Linh Tú (2000), Khảo sát sự thay đổi lâm sàng độ bão hòa ôxy và lưu lượng đỉnh trong điều trị cơn HPQ thể vừa bằng Neubulizer Terbutaline, Luận văn tốt nghiệp bác sỹ y khoa, Trường đại học Y Hà Nội, tr 20-22. 44. Đào Minh Tuấn, Lê Hồng Hanh (2003), “Bệnh nhi hen phế quản vào điều trị tại khoa hô hấp A16-Bệnh viện Nhi Trung ương”, Tạp chí Y học thực hành (số 462), tr 179-182. 45. Lê Anh Tuấn, Nguyễn Năng An (2003), Tình hình và hiệu quả kiểm soát hen tại cộng đồng (Hà Nội) bằng thuốc phối hợp ISC + LABA, Chương trình Hen phế quản Sở Y tế Hà Nội, Hà Nội 12/2003, tr3, tr6. 46. Phạm Lê Tuấn, (2005), "Một số đặc điểm dịch tễ hen phế quản trẻ em tuổi học đường nội, ngoại thành Hà Nội". Tạp chí Y học dự phòng, tập XV, số 1 (72), tr 57-62. 47. Nguyễn Văn Tường, Trịnh Bỉnh Di, Nguyễn Đình Hường và cộng sự (1996), “Giá trị bình thường các chỉ tiêu chức năng phổi nghiên cứu tại Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 64 khu vực Thanh Trì và Thượng Đình, Hà Nội”, Kết quả bước đầu nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học người Việt Nam, Nhà xuất bản Y học. 48. Nguyễn Thị Vân (2007), “Chức năng hô hấp trong chẩn đoán và theo dõi hiệu quả điều trị HPQ”, Hen phế quản và dự phòng hen phế quản, Nhà xuất bản Y học, tr 135-138. 49. Ngô Thị Xuân (2008), Đánh giá mức độ kiểm soát và giá trị theo dõi điều trị dự phòng HPQ ở trẻ em bằng trắc nghiệm kiểm soát hen (ACT), Luận văn thạc sỹ y học, Trường đại học Y Hà Nội, tr 40-43. TIẾNG ANH 50. Dunder T, Tapiainen T, Pokka, Uhari M (2007), “Infections in child day care centers and later development of asthma, allergic rhinitis, and atopic dermatitis: Prospective follow-up survey 12 years after controlled randomized hygiene intervention”, Arch Pediatr Adolesc Med, 161 (10), pp: 972-7. 51. GINA (2002), Global Strategy For Asthma Management and Prevention, National Institutes of Health, Bethesda, Maryland, USA. 52. GINA (2004), Pocket guide for Asthma management and Prevention in children, updated 2004. 53. GINA (2007), Global Strategy for Asthma Management and Prevention 5/2008. 54. Iraj Mohammadzadeh, Mohammad Gharagozlou, Seyed Abbass Fatemi (2007), “Normal values of peak expiratory flow rate in children from the town of Babol, Iran”, Iranian journal of allergy, asthma and immunology, 5 (4), pp: 195-8. 55. J. E. Cotes (2004), “Peak expiratory flow rate for use with EU”, adapted for EU scale Mini-Wright peak flow meters by Clement Clark. Date of preparation – 7th October 2004. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 65 56. Mosnaim GS, Sadowski LS, Durazo-Arvizu RA, Sharp LK, Curtis LM, Shalowitz MU, Shannon JJ, Weiss KB (2007), “Parental language and asthma among urban Hispanic children”, J Allergy Clin Immunol, 120 (5), pp:1160-65. 57. Lanfant C (2006), GINA 2006. 58. Leiner GC et al (1963), “Expiratory Peakflow rate. Standard values for normal subjects”, Use as a clinical test of ventilatory function. Am Rev Resp Dis. 59. S Benjaponpitak, C Direkwattanachai, C Kraisarin, C Sasisakulporn (1999), “Peak expiratory flow rate values of students in Bangkok”, Journal of the Medical Association of ThaiLand, 01/12/1999, 82 Suppl 1: S137-43. 60. “Predictive Normal Values (Nomogram, EUscale)”, updated 2004. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 PHIẾU ĐIỀU TRA (Phiếu được phát trực tiếp cho học sinh từ 8 tuổi trở lên, trẻ dưới 8 tuổi gia đình sẽ điền giúp) Họ và tên học sinh........................................................................................ Ngày, tháng, năm sinh................................................................................... Lớp: ................Trường:................................................................................. Điện thoại gia đình:....................................................................................... Em (hoặc gia đình) hãy đọc kỹ và trả lời câu hỏi sau: 1. Em có bị thở khò khè hoặc thở rít tái đi tái lại bao giờ không? Có □ Không □ 2. Trong 12 tháng qua em đã bị bao nhiêu lần thức giấc vì thở khò khè? Không bao giờ □ Dưới 1 đêm/1 tuần □ Trên 1 đêm/1 tuần □ 3. Em có bao giờ bị thở khò khè, nặng ngực hoặc ho khi tiếp xúc với chất có mùi lạ hoặc chất gây ô nhiễm trong không khí không? Có □ Không □ 4. Em đã bao giờ được bác sỹ chẩn đoán là hen hoặc viêm phế quản thể co thắt, thể giống hen chưa? Có □ Không □ 5. Em có khi nào bị khò khè nặng ngực hoặc ho sau khi vận động gắng sức không? Có □ Không □ 6. Em có bị ho khan về đêm không hoặc ho có liên quan đến nhiễm lạnh hoặc nhiễm trùng hô hấp không? Có □ Không □ Xác nhận của nhà trƣờng Ngƣời điều tra Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 BỆNH ÁN NGHIÊN CỨU I- Hành chính: 1. Họ và tên: .........................................………………….Lớp....................... 2. Giới: Nam,nữ. Tuổi............ 3. Chiều cao.......................Cân nặng................................................................ 4. Họ tên mẹ.........................................................Nghề nghiệp......................... 5. Địa chỉ.............................Xã/phường...............................Thành phố............ 6. Điện thoại nhà riêng...................................................................................... II - Khám - Hỏi bệnh 4 tuần trước (hỏi cha, mẹ nếu là học sinh tiểu học): + Ho, khò khè, khó thở, nặng ngực: Có □ Không □ + Triệu chứng ban ngày: Có □ Không □ + Thức giấc đêm: Có □ Không □ + Dùng Thuốc cắt cơn: Có □ Không □ - Đo chức năng hô hấp PEF: Sáng:............... Chiều:........... - Khám lâm sàng: + Phổi có rales rít: Có □ Không □ + Triệu chứng xảy ra khi có yếu tố kích thích: Có □ Không □ + Triệu chứng kèm theo khác: III- Chẩn đoán HPQ: Có □ Không □ - Chẩn đoán bậc hen: HPQ bậc 1 □ HPQ bậc 2 □ HPQ bậc 3 □ Ngày tháng năm Xác nhận của nhà trƣờng Điều tra viên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf5LV_09_YDUOC_NHI_TON THI MINH.pdf
Tài liệu liên quan