Đề tài: NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH NHIỄM GIUN TRÒN ĐƯỜNG TIÊU HÓA CỦA CHÓ NUÔI Ở HÀ NỘI VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Luận văn dài 98 trang
MỞ ĐẦU . 1
1. Tính cấp thiết của đề tài . 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Ý nghĩa khoa học của đề tài . 2
4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài . 2
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU . 3
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài . 3
1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 26
Chương 2: VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 32
2.1. Đối tượng, vật liệu và địa điểm nghiên cứu . 32
2.2. Nội dung nghiên cứu . 32
2.3. Phương pháp nghiên cứu . 33
2.4. Phương pháp sử lý số liệu 39
Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 42
3.1. Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh giun tròn đường tiêu hoá của chó ở Hà Nội 42
3.1.1. Thành phần loại giun tròn đường tiêu hóa của chó nuôi ở Hà Nội 42
3.1.2. Tỷ lệ nhiễm giun tròn ở chó qua kiểm tra phân . 44
3.1.3. Cường độ nhiễm giun tròn ở chó qua kiểm tra phân . 46
3.1.4. Tỷ lệ cường độ nhiễm giun tròn ở chó qua mổ khám 47
3.1.5. Tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá của từng loại chó nuôi ở Hà Nội . 49
3.1.6. Tỷ lệ nhiễm giun tròn theo lứa tuổi ở chó 51
3.1.7. Tỷ lệ nhiễm giun tròn ở chó theo mùa vụ 54
3.1.8. Tỷ lệ nhiễm giun tròn ở chó theo tính biệt . 56
3.2. Nghiên cứu đặc điểm bệnh lý, l©m sµng cña bệnh giun tròn đường tiêu hóa
của chó 57
3.2.1. Tỷ lệ về biểu hiệm triệu chứng bệnh lâm sàng của chó bị bệnh giun tròn57
3.2.2. Bệnh tích đại thể về vi thể ở cơ quan tiêu hóa của chó bị bệnh giun tròn 59
3.2.3. Sự thay đổi một số chỉ tiêu huyết học của chó bị bệnh giun móc so
với chó khỏe . 63
3.2.4. Công thức bạch cầu của chó khoẻ và chó bị bệnh giun móc 65
3.2.5. Kết quả thử nghiệm một số loại thuốc tẩy giun tròn đườg tiêu hoá chó . 66
3.2.6. Độ an toàn của thuốc tẩy . 68
3.2.7. Biện pháp phòng trị 71
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận 72
2. Đề nghị . 74 .
98 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2095 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu tình hình nhiễm giun tròn đường tiêu hóa của chó nuôi ở Hà Nội và biện pháp phòng trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cứ vào số lượng trứng giun bình quân
trên 3 vi trường. Kết quả được trình bày ở bảng 3.3
Bảng 3.3. Cƣờng độ nhiễm giun tròn đƣờng tiêu hóa
của chó nuôi ở Hà Nội
Loài
giun tròn
Số chó
nhiễm
(con)
Cƣờng độ nhiễm
+ ++ +++ ++++
Số chó
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số chó
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số chó
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số chó
(con)
Tỷ lệ
(%)
Ancylostoma
caninum
311 55 17,68 71 22,82 117 37,62 68 21,86
Toxocara
canis
91 26 28,57 29 31,86 36 39,56 0 0,00
Toxascaris
leonina
110 21 19,09 46 41,81 43 39,09 0 0,00
Trichocephalus
vulpis
32 21 65,62 11 34,37 0 0 0 0,00
Qua bảng 3.3 cho thấy, chó nuôi tại Hà Nội nhiễm giun móc Ancylostoma
caninum ở mức độ từ nhẹ, trung bình, nặng, đến rất nặng. Trong 311 chó nhiễm
giun móc có 55 con ở cường độ nhẹ, chiếm tỷ lệ 17,68%; 71 chó ở cường độ
trung bình, tỷ lệ 22,82%; 117 ở cường độ nặng, tỷ lệ 37,62%; 68 chó ở cường
độ rất nặng tỷ lệ 21,86%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
Chó nhiễm giun đũa (Toxocara canis và Toxascaris leonina) ở cường độ
nhẹ (28,57% và 19,09%), trung bình (31,86% và 41,81%) đến nặng (39,56%
và 39,09%), không thấy trường hợp nào nhiễm ở mức rất nặng. Riêng loài
giun tóc Trichocephalus vulpis chỉ nhiễm ở cường độ từ nhẹ (65,62%) đến
trung bình (34,37%).
Chúng tôi có nhận xét: số lượng chó nhiễm giun đũa, giun móc ở cường
độ nặng chiếm tỷ lệ cao và thấy chủ yếu ở những chó từ sơ sinh đến 8 tháng
tuổi. Ở giai đoạn này, sức đề kháng bệnh còn kém, mật độ nuôi cao (nuôi đàn)
ở những gia đình chăn nuôi kinh doanh, đồng thời nuôi theo phương thức bán
chăn thả (đối với chó nội). Đó chính là những nguyên nhân làm cho cường độ
nhiễm nặng cao. Số lượng giun sống trong ống tiêu hoá nhiều, mỗi ngày đẻ
hàng ngàn trứng phát tán ra ngoại cảnh gây ô nhiễm môi trường. Khi nhiễm
giun tròn đường tiêu hoá nặng, phần lớn chó có biểu hiện bệnh lý như: nôn, ỉa
chảy, xuất huyết ruột. Kết quả nghiên cứu về cường độ nhiễm giun tròn
đường tiêu hoá của chúng tôi phù hợp với nhận xét của Trịnh Văn Thịnh
(1978) [23], đó là: những con vật còn non thường cảm nhiễm giun với tỷ lệ
cao hơn vật trưởng thành. Cường độ nhiễm giun ở chó nước ta cao, kể cả số
lượng chủng loại và số lượng giun trên cùng cơ thể chó.
3.1.4. Tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm giun tròn đƣờng tiêu hoá của chó nuôi ở
Hà Nội qua mổ khám
Bằng phương pháp mổ khám toàn diện ở cơ quan tiêu hoá của Viện sĩ
Skrjabin, chúng tôi đã mổ khám 116 chó, xác định thành phần loài và đếm số
lượng từng loài giun tròn ký sinh ở từng cá thể. Từ đó xác định được tỷ lệ và
cường độ nhiễm. Kết quả được trình bày ở bảng 3.4.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
Bảng 3.4 cho thấy, trong 116 chó mổ khám, có 83 chó nhiễm giun móc
Ancylostoma caninum, chiếm tỷ lệ 71,55%, cường độ nhiễm dao động từ 16-
72 giun/ cá thể chó; 31 chó nhiễm giun đũa Toxascaris leonina, tỷ lệ là
26,72%, cường độ nhiễm dao động từ 2-7 giun/ cá thể chó; 24 chó nhiễm
giun Toxocara canis, tỷ lệ là 20,68%, cường độ nhiễm dao động từ 2-6 giun/
cá thể chó, 9 chó nhiễm giun tóc Trichocephalus vulpis, tỷ lệ là 7,75%, cường
độ nhiễm dao động từ 2-4 giun/ cá thể chó.
Như vậy, qua mổ khám chúng tôi thấy, tỷ lệ nhiễm giun móc là cao nhất
(71,55%) và cường độ nhiễm cũng nặng hơn các loài giun khác; tỷ lệ nhiễm
giun tóc thấp nhất và cường độ nhiễm cũng nhẹ nhất.
Chúng tôi có nhận xét rằng: phương pháp mổ khám để xác định thành
phần loài, tỷ lệ và cường độ nhiễm mỗi loài giun tròn ở đường tiêu hoá chó là
phương pháp chính xác. Đồng thời, kết quả mổ khám giun tròn ở trên cũng
hoàn toàn phù hợp với kết quả xét nghiệm phân mà chúng tôi đó trình bày ở
bảng 3.2
Bảng 3.4. Tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm giun tròn đƣờng tiêu hoá
của chó ở Hà Nội qua mổ khám
Loài giun tròn
Số chó
mổ khám
(con)
Số chó
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
nhiễm
(%)
Cƣờng độ
nhiễm
(Số giun / chó)
Ancylostoma caninum
116
83 71,55 16-72
Toxocara canis 24 20,68 2- 6
Toxascaris leonina 31 26,72 2- 7
Trichocephalus vulpis 9 7,75 2- 4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
3.1.5. Tỷ lệ nhiễm giun tròn đƣờng tiêu hoá theo từng loại chó nuôi ở Hà Nội
Những năm gần đây, khi đời sống của nhân dân ngày càng được cải
thiện thì người dân Hà Nội nuôi nhiều loại chó với những sở thích và mục
đích khác nhau. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ đi sâu nghiên cứu tỷ
lệ nhiễm giun tròn ở một số loại chó hiện nay phổ biến ở Hà Nội. Các loại chó
khác nhau thì chế độ nuôi dưỡng chăm sóc cũng có những điểm khác nhau.
Điều này liên quan đến sự phát tán mầm bệnh ở ngoài môi trường và con
đường xâm nhập vào vật chủ. Biết được tỷ lệ nhiễm của từng loại chó để đưa
ra biện pháp phòng trị có hiệu quả là vấn đề cần thiết.
Kết quả về tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá của các loại chó được
trình bày ở bảng 3.5.
Bảng 3.5. Tỷ lệ nhiễm giun tròn đƣờng tiêu hoá
của một số loại chó nuôi ở Hà Nội
Loại
chó
Số chó
kiểm tra
(con)
Loài giun tròn
Ancylostoma
caninum
Toxocara
canis
Toxascaris
leonina
Trichocephalus
vulpis
Số
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
(%)
Fok 130 57 43,84 11 8,46 12 9,23 2 1,53
Nhật 85 54 63,52 12 14,11 15 17,64 3 3,52
Berger 92 74 80,43 21 22,82 25 27,17 8 8,69
Nội 150 126 84,00 47 31,33 58 38,66 19 12,66
457 311 68,05 91 19,91 110 24,07 32 7,00
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
Qua bảng 3.5 cho thấy, chó nội nhiễm các loài giun tròn đường tiêu hoá
nhiều nhất, tiếp đến là chó Berger, chó Nhật và nhiễm ít nhất là chó Fok.
Đối với loài giun móc Ancylostoma caninum; tỷ lệ nhiễm ở chó Fok là
43,84%; chó Nhật (63,52%); chó Berger (80,43%), chó nội (84,00%).
Loài giun đũa (Toxocara canis, Toxascaris leonina); tỷ lệ nhiễm ở chó
Fok lần lượt là 8,46%, 9,23%; chó Nhật: 14,11%, 17,64%; chó Berger:
22,82%, 27,17%; chó nội: 31,33%, 38,66%.
Loài giun tóc Trichocephalus vulpis; tỷ lệ nhiễm ở chó Fok là 1,53%;
chó Nhật 3,52%; chó Berger 8,69%; chó nội 12,66%.
Sở dĩ có sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm giun tròn ở các loại chó là do điều
kiện nuôi dưỡng, chăm sóc có sự khác nhau. Chó Nhật và chó Fok là 2 loại
chó cảnh được chăm sóc, nuôi dưỡng khá chu đáo đảm bảo vệ sinh Thú y
(nuôi trong nhà, trong chuồng). Do hạn chế được sự cảm nhiễm mầm bệnh từ
môi trường ngoại cảnh nên tỷ lệ nhiễm các loài giun tròn thấp. Ngược lại, chó
nội thường được nuôi theo phương thức bán chăn thả nên nguy cơ cảm nhiễm
mầm bệnh từ môi trường cao hơn. Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với
kết quả nghiên cứu của Ngô Huyền Thuý (1996)[34]: chó nội, chó Berger,
chó Nhật tỷ lệ nhiễm giun móc Ancylostoma caninum lần lượt là 85,3%,
80,9%, và 61,7%; giun đũa Toxocara canis, Toxascaris leonina: 27,3% và
25,3%; 17,0% và 12,2%; 9,8% và 9,1%, giun tóc Trichocephalus vulpis:
18,3%, 14,9% và 2,5%.
Kết quả về tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá của 4 loại chó được
minh hoạ thêm ở biểu đồ 3.1.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
A. caninum T. canis T. leonina T. vulpis
Fok
NhËt
Berger
Néi
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá theo loại chó
3.1.6. Tỷ lệ nhiễm giun tròn theo tuổi của chó ở Hà Nội
Để có cơ sở khoa học đề xuất biện pháp phòng trị bệnh giun tròn có hiệu
quả, chúng tôi đã xét nghiệm phân chó ở các lứa tuổi từ sơ sinh đến trên 12
tháng tuổi. Kết quả xác định tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá theo lứa
tuổi được trình bày ở bảng 3.6.
Bảng 3.6. Tỷ lệ nhiễm giun tròn theo tuổi của chó nuôi ở Hà Nội
Lứa tuổi
(tháng)
Số chó
kiểm
tra
(con)
Loài giun tròn
Ancylostoma
caninum
Toxocara
canis
Toxascaris
leonina
Trichocephalus
vulpis
Số
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
(%)
Sơ sinh - 3 115 97 84,34 47 40,86 0 0,00 0 0,00
> 3 - 8 112 81 72,32 29 25,89 38 33,9 2 1,7
> 8 - 12 121 74 61,15 15 12,39 51 42,1 12 9,9
> 12 109 59 54,12 0 0,00 21 19,2 18 16,5
Tính chung 457 311 68,05 91 19,91 110 24,07 32 7,00
T
ỷ
l
ệ
Loài giun tròn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
Qua bảng 3.6 cho thấy: chó nhiễm giun móc Ancylostoma caninum cao
nhất ở lứa tuổi từ sơ sinh - 3 tháng, tỷ lệ là 84,34%, sau đó giảm dần theo
tuổi, chó trên 12 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm là 54,12%, nhưng nhìn chung tỷ lệ
nhiễm giun móc vẫn cao ở mọi lứa tuổi của chó.
Đỗ Hài (1972)[2] nhận xét: chó săn nuôi ở nước ta từ 1-5 tháng tuổi
nhiễm giun móc Ancylostoma caninum 83,3%. Như vậy, việc phòng chống
bệnh giun móc cho chó nên thực hiện ở mọi lứa tuổi.
Giun đũa: chó nhiễm Toxocara canis ở lứa tuổi từ sơ sinh - 3 tháng là
cao nhất (40,86%) và giảm dần ở lứa tuổi 8 tháng -12 tháng (12,39%), trên 12
tháng không thấy nhiễm loài giun này. Nhiều tác giả trong và ngoài nước cho
thấy: chó nhiễm loài giun Toxocara canis nặng ở giai đoạn còn non.
Skrjabin(1963)[20] cho biết, chó 2 tháng tuổi nhiễm nặng Toxocara
canis, thậm chí từ 15-21 ngày tuổi đã thấy có giun trưởng thành ký sinh (do
Toxocara canis nhiễm qua bào thai).
Chó từ sơ sinh đến 3 tháng tuổi không thấy nhiễm loài giun đũa
Toxascaris leonina, 3 - 8 tháng tuổi mới thấy nhiễm loài giun này, tỷ lệ là
33,92%, cao nhất là ở lứa tuổi 8 -12 tháng (42,1%), trên 12 tháng tuổi tỷ lệ
nhiễm loài này chỉ còn 19,26%.
Kết quả trên cho thấy, biến động nhiễm giun đũa ở chó giảm dần theo
tuổi chó. Sở dĩ có biến động như vậy, theo chúng tôi, giun đũa Toxocara
canis ngoài con đường qua thức ăn nước uống còn nhiễm qua bào thai, nhiều
chó sau khi đẻ ra đó nhiễm giun trong cơ thể và chỉ một thời gian sau trong
phân chó thải ra môi trường đã thấy trứng giun đũa. Vì thế, chó ở lứa tuổi sơ
sinh đến 3 tháng đã có tỷ lệ nhiễm cao nhất. Khi đến tuổi trưởng thành thì
sức đề kháng của cơ thể cũng tăng lên, làm cho tỷ lệ nhiễm giun đũa giảm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
Loài Toxascaris leonina không truyền qua bào thai nên xét nghiệm phân
chó dưới 3 tháng tuổi chưa thấy trứng giun, chó trên 3 tháng tuổi mới thấy
xuất hiện trứng trong phân. Do tuổi thọ của giun trong cơ thể chó không quá 7
tháng, nên khi chết, giun tự đào thải ra ngoài vật chủ. Đó là lý do tỷ lệ nhiễm
giun giảm dần theo tuổi chó. Kết quả trên cũng phù hợp với kết quả nghiên
cứu của Ngô Huyền Thuý (1996) [34].
Giun tóc Trichocephalus vulpis có tỷ lệ nhiễm thấp (7,00% ), và biến
động nhiễm tăng dần theo tuổi của chó. Từ sơ sinh đến 3 tháng tuổi không
thấy nhiễm, trên 3-8 tháng tuổi mới thấy nhiễm loài giun này, tỷ lệ là 1,78%,
8 - 12 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm là 9,91%, chó trên 12 tháng tuổi, tỷ lệ nhiễm là
16,51%.
Theo Houdemer (1938), chó ở Việt Nam nhiễm giun tóc 0,59%. Đỗ Hài
(1972) cho biết: chó săn còn nhỏ ở Việt Nam nhiễm giun tóc là 32%, chó lớn
nhiễm cao hơn (56%) (dẫn theo Lương Văn Huấn và cs, 1997) [4].
Tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá theo tuổi được minh hoạ ở biểu đồ 3.2.
0
10
20
0
40
50
60
70
80
90
SS - 3 >3 - 8 > 8 - 12 > 12
A. caninum
T. canis
T. leonina
T. vulpis
Løa tuæi (th¸ng)
Tû
lÖ
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá theo tuổi chó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
3.1.7. Tỷ lệ nhiễm giun tròn ở chó theo mùa vụ
Việc nghiên cứu biến động nhiễm theo mùa vụ có ý nghĩa về dịch tễ học,
làm cơ sở đề xuất biện pháp phòng bệnh. Chúng tôi đã kiểm tra phân của chó
ở 2 vụ; đông - xuân (192 chó) và hè - thu (265 chó). Kết quả về tỷ lệ nhiễm
giun tròn theo mùa vụ được trình bày ở bảng 3.7.
Bảng 3.7. Tỷ lệ nhiễm giun tròn ở chó theo mùa vụ
Mùa vụ
Số chó
kiểm
tra
(con)
Loài giun tròn
Ancylostoma
caninum
Toxocara
canis
Toxascaris
leonina
Trichocephalus
vulpis
Số
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
(%)
Đông - xuân 192 118 61,45 28 14,58 35 18,22 12 6,25
Hè - thu 265 193 72,83 63 23,77 75 28,30 20 7,54
Tính chung 457 311 68,05 91 19,91 110 24,07 32 7,00
Qua bảng 3.7 cho thấy:
Tỷ lệ nhiễm giun móc ở vụ hè - thu là 72,83%, vụ đông- xuân là 61,45%.
Giun đũa Toxocara canis, Toxascaris leonina: ở vụ hè - thu tỷ lệ nhiễm
là 23,77% và 28,30%, vụ đông - xuân là 14,58% và 18,22%.
Giun tóc Trichocephalus vulpis: tỷ lệ nhiễm ở vụ hè - thu là 7,54, vụ
đông - xuân là 6,25%.
Từ kết quả trên, chúng tôi có nhận xét: tỷ lệ nhiễm các loài giun tròn
đường tiêu hoá chó có sự khác nhau ở 2 vụ Hè - thu và Đông - xuân.
Vụ hè - thu, tỷ lệ nhiễm giun đũa, giun móc cao hơn vụ đông - xuân. Sự
khác nhau này có ý nghĩa thống kê (P < 0,01).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
Tỷ lệ nhiễm giun tóc Trichocephalus vulpis ở vụ hè -thu là 7,54%, vụ
đông - xuân là 6,25%. Sự khác nhau không rõ rệt ( P>0,05).
Theo Phạm Sĩ Lăng (1989): ở nước ta, do điều kiện nóng, ẩm, nhiệt độ
thích hợp để trứng phát triển thành ấu trùng từ 20 -300c, thời gian lây nhiễm
giun móc thường xảy ra từ tháng 4 - tháng 10, đó là mùa nóng ẩm, mưa nhiều,
tạo điều kiện thuận lợi cho trứng giun móc phát triển thành ấu trùng cảm
nhiễm. Mùa đông thời tiết lạnh sẽ hạn chế sự phát triển của ấu trùng và ấu
trùng có thể bị chết. Vì vậy mùa đông tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá
thấp hơn.
Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) cho biết, chó nhiễm giun đũa và giun
tóc ở hầu hết các tháng trong năm, tuy nhiên chó con thường bị nhiễm giun
đũa trong những tháng nóng ẩm từ mùa hè sang mùa thu. Như vậy, kết quả
nghiên cứu của chúng tôi tương đối phù hợp với nhận xét của các tác giả trên
Tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá theo mùa vụ được minh hoạ rõ hơn
ở biểu đồ 3.3.
0
10
20
30
40
50
60
70
80
A. caninum T. canis T. leonina T. vulpis
Hè - thu
Đông - xuân
Loài giun tròn
Tû
lÖ
Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ nhiễm giun tròn theo mùa vụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
3.1.8. Tỷ lệ nhiễm giun tròn theo tính biệt của chó
Để biết được tỷ lệ nhiếm giun tròn của chó đực và chó cái có khác nhau
không, chúng tôi đã xét nghiệm phân của 202 chó đực và 255 chó cái. Kết quả
được trình bày ở bảng 3.8
Bảng 3.8. Tỷ lệ nhiễm giun tròn theo tính biệt của chó
Tính
biệt
Số chó
kiểm
tra
(con)
Loài giun tròn
Ancylostoma
caninum
Toxocara
canis
Toxascaris
leonina
Trichocephalus
vulpis
Số
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
(%)
Đực 202 136 67,32 41 20,29 48 23,76 14 6,93
Cái 255 175 68,62 50 19,60 62 24,31 18 7,05
Tính
chung
457 311 68,05 91 19,91 110 24,07 32 7,00
Qua bảng 3.8 cho thấy; tỷ lệ nhiễm giun móc Ancylostoma caninum ở
chó đực là 67,32%, chó cái là 68,62%; Toxocara canis ở chó đực 20,29%, ở
chó cái là 19,60%, Toxascaris leonina ở chó đực 23,76%, ở chó cái là
24,31%, Trichocephalus vulpis ở chó đực 6,93%, ở chó cái là 7,05%. Kết quả
cho thấy, tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá của chó đực và chó cái có sự
khác nhau, song sự sai khác này không rõ rệt ( P> 0,05). Như vậy, bước đầu
có thể nhận xét rằng: tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá không phụ thuộc
vào tính biệt của chó.
Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Ngô
Huyền Thuý (1996)[34].
Tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá theo tính biệt của chó được minh
hoạ ở biểu đồ 3.4.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
0
10
20
30
40
50
60
70
A. caninum T. canis T. leonina T. vulpis
Đực
Cái
Loài giun tròn
Tỷ
lệ
Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá theo tính biệt của chó
3.2. NGHIÊN CỨU BỆNH LÝ, LÂM SÀNG CỦA CHÓ BỊ BỆNH GIUN
TRÕN Ở ĐƢỜNG TIÊU HOÁ
3.2.1. Tỷ lệ và những biểu hiện lâm sàng của chó bị bệnh giun tròn
Để có cơ sở khoa học cho việc chẩn đoán bệnh giun tròn đường tiêu
hoá chó, chúng tôi đã theo dõi biểu hiện lâm sàng của 112 chó nhiễm hỗn hợp
giun móc và giun đũa. Kết quả được trình bày ở bảng 3.9.
Kết quả ở bảng 3.9 cho thấy: trong 112 chó theo dõi, có 104 chó có biểu
hiện lâm sàng, tỷ lệ là 92,85%, những biểu hiện lâm sàng chủ yếu như: nôn
mửa (94con), tỷ lệ là 90,38%; ăn ít, bỏ ăn, (95con) tỷ lệ là 91,34%; ỉa chảy,
phân không có máu và chất nhày(33con), tỷ lệ là 31,73%; iả chảy, phân có
máu và chất nhày (71con), tỷ lệ là 68,26%, gày yếu, suy nhược (86con), tỷ lệ
là 82,69%; có triệu chứng thần kinh (6 con), tỷ lệ (5,76%).
Những biểu hiện lâm sàng trên là kết quả tác động cơ giới, chiếm đoạt
chất dinh dưỡng và tác động do độc tố của giun. Đó cũng là nguyên nhân gây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
58
chết chó nếu không được điều trị kịp thời. Chó chết do rối loạn tiêu hoá, mất
nước, mất máu và rối loạn điện giải, dẫn đến hạ huyết áp, truỵ tim mạch khi
chó nôn nhiều và tiêu chảy ra máu.
Bảng 3.9. Biểu hiện lâm sàng chủ yếu của chó bị bệnh giun tròn
Số chó
theo dõi
(con)
Số chó có
biểu hiện
lâm sàng
(con)
Tỷ lệ có
biểu hiện
lâm sàng
(%)
Triệu chứng lâm sàng
Những biểu hiện chủ yếu
Số
chó
(con)
Tỷ lệ
(%)
112 104 92,85
Nôn mửa 94 90,38
Ăn ít, bỏ ăn 95 91,34
Ỉa chảy, phân không có máu và chất nhày 33 31,73
Ỉa chảy, phân có máu và chất nhày 71 68,26
Gày yếu, suy nhược 86 82,69
Có triệu chứng thần kinh 6 5,76
Phạm Sĩ Lăng (1985)[10] quan sát 64 chó nghiệp vụ và chó cảnh bị
nhiễm giun móc cấp tính, thấy biểu hiện lâm sàng đặc trưng: nôn mửa
(91,1%), bỏ ăn hoặc ăn ít (87,7%), ỉa chảy (84,3%), chảy máu ruột (98,3%),
thân nhiệt tăng do viêm ruột kế phát (35,9%). Chó chết sau 2-3 ngày nếu
không được điều trị kịp thời.
Trịnh Văn Thịnh, 1963[25] nhận xét: chó bị bệnh giun móc thường có
biểu hiện mệt mỏi, buồn rầu, lờ đờ, lông rụng, da dày, những chỗ tróc da mẩn
đỏ, nhất là ở chỗ nhọn mông và mũi, chó gầy dần, trở thành bần huyết, bạch
cầu tăng, hồng cầu giảm, cuối cùng thuỷ thũng ở chân, đi tả, con vật chết
trong hôn mê và có những cơn co giật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
59
Lapage (1968)[48] nhận xét: chó bị bệnh giun móc biểu hiện thiếu máu
đặc thù. Ở ruột non, giun móc nhanh chóng bám vào thành ruột hút máu, tạo
các vết thương ở nhung mao ruột, làm cho các vết thương luôn rỉ máu.
Skrjabin (1963) cho biết, giun tiết độc tố, phá hoại hồng cầu và mạch
máu ngoại biên, gây rối loạn tiêu hoá ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất
của chó dẫn đến viêm đường tiêu hoá, gây ỉa chảy, suy nhược cơ thể. Ngoài ra
độc tố của giun còn gây các triệu chứng thần kinh: co giật, sùi bọt mép.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [9], chó bị bệnh giun móc thì
gầy còm, suy nhược, có thể bị thuỷ thũng, con vật bỏ ăn, kiết lỵ và táo bón
xen kẽ, trong phân có máu.
Kết quả theo dõi về các biểu hiện lâm sàng của chó bị bệnh giun tròn
đường tiêu hoá của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của Phạm Sĩ
Lăng (1985) và phù hợp với nhận xét của Trịnh Văn Thịnh (1963), Lapage
(1968), Nguyễn Thị Kim Lan (1999).
3.2.2. Bệnh tích đại thể, vi thể ở cơ quan tiêu hoá của chó bị bệnh giun móc
Để kiểm tra bệnh tích đại thể ở cơ quan tiêu hoá chó bị bệnh giun tròn,
chúng tôi đã mổ khám 116 chó, kiểm tra bệnh tích đại thể bằng mắt thường và
kính lúp.
Kết quả được trình bày ở bảng 3.10.
Qua bảng 3.10, chúng tôi thấy; bệnh tích chủ yếu tập trung ở phần ruột
non chó. Trong 81 chó có bệnh tích thì 56 chó niêm mạc ruột non (đoạn tá
tràng, không tràng) xung huyết, xuất huyết từng đám, tỷ lệ 69,13%, có 8 chó
có những điểm xuất huyết lấm chấm, tỷ lệ 9,87%; 17 chó viêm ruột cata,
trong lòng ruột chứa nhiều dịch màu nâu hồng, tỷ lệ 20,98%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
60
Bảng 3.10. Bệnh tích đại thể ở cơ quan tiêu hoá chó bị bệnh giun tròn
Số chó
mổ
khám
(con)
Số chó
có
bệnh
tích
(con)
Tỷ lệ
(%)
Những bệnh tích đại thể
Số chó
(con)
Tỷ lệ
(%)
116 81 69,82
- Ruột non viêm cata, trong lòng
ruột chứa dịch màu nâu hồng.
17 20,98
- Niêm mạc ruột non tổn thương
xung huyết, xuất huyết từng
đám, thành ruột viêm tăng sinh
dày lên.
56 69,13
- Niêm mạc ruột non có những
điểm xuất huyết lấm chấm.
8 9,87
Bệnh tích vi thể
Bằng phương pháp cắt cúp tổ chức bệnh phẩm có bệnh tích đại thể rõ
rệt, chúng tôi đã xác định được những biến đổi vi thể ở cơ quan tiêu hoá
của chó bị bệnh giun móc. Đó là: niêm mạc ruột non xuất huyết, hồng cầu
thoát khỏi mạch quản vào lòng ruột (ảnh 1). So sánh với tổ chức ruột non
của chó không bị bệnh giun móc (ảnh 2), chúng tôi thấy, niêm mạc ruột non
bình thường, không bị xuất huyết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
61
ẢNH 1. Xuất huyết niêm mạc ruột non ẢNH 2. Niêm mạc ruột bình thƣờng
Hồng cầu thoát khỏi mạch quản, lan tràn giữa các lông nhung. Sự thoát
khỏi lòng mạch của hồng cầu gây nên hiện tượng xuất huyết cấp tính, quá
trình này xảy ra do sự tác động cục bộ ở niêm mạc ruột, các tế bào niêm mạc
ruột bị bong tróc, hạ niêm mạc thấm dịch phù, lông nhung ruột bị tổn thương,
đứt nát và biến dạng. Tại các vị trí bị phá huỷ, tổ chức liên kết trở nên lỏng
lẻo (ảnh 3); tiêu bản vi thể ruột non bình thường: vị trí đối chứng (ảnh 4),
thấy tế bào biểu mô lành lặn, sắp xếp chặt chẽ, không bị xuất huyết.
Biến đổi vi thể ở ruột non mà chúng tôi quan sát được chính là hiện
tượng mất máu của vật chủ (giảm số lượng hồng cầu và huyết sắc tố…). Niêm
mạc ruột non bị tổn thương dẫn đến viêm cata, tăng nhu động ruột, gây tiêu
chảy, phân có máu và chất nhày. Kết quả xác định biến đổi vi thể phù hợp với
kết quả xác định bệnh tích đại thể mà chúng tôi quan sát được khi mổ khám.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
62
ẢNH 3. Tế bào biểu mô ruột bị bong tróc, ẢNH 4. Tế bào biểu mô lành lặn
lông nhung biến dạng
Khi số lượng giun ký sinh nhiều, chúng tác động trên lớp tương mạc, niêm
mạc ruột bằng tác động cơ học, đồng thời tiết nhiều độc tố và chất chống
đông máu, làm cho quá trình xuất huyết trở nên trầm trọng và lan tràn. Sau
thời gian giun tác động và cơ thể đáp ứng cục bộ, xuất hiện các tế bào viêm,
các tế bào xâm nhập vào xoang ruột gồm: đại thực bào, bạch cầu ái toan, bạch
cầu đa nhân trung tính (ảnh 5).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
63
ẢNH 5. Thâm nhiễm tế bào bạch cầu
3.2.3. Sự thay đổi một số chỉ tiêu huyết học của chó bị bệnh giun móc
Trong chẩn đoán, điều trị bệnh cho vật nuôi, việc xét nghiệm các chỉ tiêu
huyết học có ý nghĩa quan trọng. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tình
hình nhiễm giun, sán của chó, nhưng chưa có tác giả nào nghiên cứu về các
chỉ tiêu huyết học của chó bị bệnh giun móc đường tiêu hoá. Để có cơ sở
chứng minh tác hại của giun tròn đường tiêu hoá chó, đặc biệt là giun móc
Ancylostoma caninum, chúng tôi đã xét nghiệm máu của chó bị bệnh giun
móc (10 mẫu) và chó không bị bệnh giun móc (10 mẫu). Kết quả về một số
chỉ tiêu huyết học được trình bày ở bảng 3.11.
Qua bảng 3.11 cho thấy: khi bị bệnh giun móc, số lượng hồng cầu giảm rõ
rệt, từ 6,51 triệu/ mm3 máu (chó không bị bệnh giun móc) còn 4,67 triệu/mm3
máu (chó bị bệnh giun móc); bạch cầu tăng từ 9,34 nghìn/mm3 máu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
64
(chó không bị bệnh giun móc) lên 14,5 nghìn/mm3 máu (chó bị bệnh giun
móc); hàm lượng huyết sắc tố giảm từ 12,1 g% (chó không bị bệnh giun móc)
xuống còn 9,1g% (chó bị bệnh giun móc). Sự thay đổi này có ý nghĩa thống
kê (P đều < 0,001).
Bảng 3.11. So sánh số lƣợng hồng cầu, bạch cầu, hàm lƣợng huyết sắc tố
giữa chó khỏe và chó bị bệnh giun móc
Chỉ tiêu huyết học
Chó khoẻ
(
xmX
)
(n=10)
Chó bệnh
(
xmX
)
(n=10)
So sánh
Số lượng hồng cầu
(Triệu/mm3 máu)
6,51 0,13 4,67 0,10 P< 0,001
Số lượng bạch cầu
(Nghìn/mm
3
máu)
9,34 0,05 14,50 0,32 P< 0,001
Hàm lượng huyết sắc tố
(g%)
12,10 0,22 9,10 0,10 P< 0,001
Theo chúng tôi, số lượng hồng cầu giảm là do giun móc ký sinh, hút
máu làm cho các mao mạch bị tổn thương, rỉ máu. Giun còn tiết chất chống
đông máu làm cho máu không đông. Độc tố của giun còn phá vỡ hồng cầu,
gây hiện tượng mất máu, niêm mạc nhợt nhạt. Đó là nguyên nhân làm cho
lượng huyết sắc tố giảm, lượng máu có thể mất nhiều hay ít còn phụ thuộc
vào số lượng giun ký sinh. Các mao mạch tổn thương gây hiện tượng viêm,
xuất hiện sự thâm nhiễm các tế bào bạch cầu. Do vậy, số lượng bạch cầu tăng
lên so với chó không bị bệnh giun móc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
65
Lapage (1968)[48] nhận xét: chó bị bệnh giun móc biểu hiện thiếu máu
đặc thù, ở ruột non chó, giun móc nhanh chóng bám vào thành ruột hút máu,
tạo các vết thương ở nhung mao ruột, làm cho các vết thương luôn rỉ máu.
Thời gian hút máu tới lúc no khoảng 100-250 phút. Giun cái hút máu nhiều
hơn giun đực. Một giun móc trưởng thành hút của ký chủ 0,84ml máu trong
khoảng 24 giờ, làm hồng cầu, huyết sắc tố giảm, số lượng bạch cầu tăng.
Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với nhận xét của Trịnh Văn Thịnh
(1963)[25], (1982)[29]: chó bị bệnh giun móc thường có biểu hiện mệt mỏi,
buồn rầu, lờ đờ, lông dựng, da dầy, những chỗ chóc da mẩn đỏ, chó gầy dần,
trở thành bần huyết (thiếu máu).
3.2.4. Công thức bạch cầu của chó khoẻ và chó bị bệnh giun móc
Để biết khi chó bị bệnh giun móc, loại bạch cầu nào tăng trong công
thức bạch cầu, chúng tôi đã làm tiêu bản máu, nhuộm Hematoxilin- eosin và
phân loại bạch cầu, sau đó tính tỷ lệ phần trăm từng loại. Kết quả được trình
bày ở bảng 3.12.
Bảng 3.12. Công thức bạch cầu của chó khoẻ và chó bị bệnh giun móc
Công thức bạch cầu
(%)
Chó khoẻ
(
xmX
)
(n=10)
Chó bệnh
(
xmX
)
(n=10)
So sánh
Trung tính 61,5 0,65 64,81 0,48 P < 0,01
Ái toan 6,41 0,05 10,67 0,27 P < 0,001
Ái kiềm 0,64 0,03 0,77 0,04 P > 0,05
Đơn nhân lớn 6,30 0,09 6,63 0,11 P > 0,05
Lâm ba cầu 25,15 0,69 17,12 0,46 P < 0,001
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
66
Bảng 3.12 cho thấy: tỷ lệ các loại bạch cầu của chó bị bệnh giun móc
đều khác so với chó khoẻ, rõ nhất là sự thay đổi bạch cầu ái toan: tỷ lệ bạch
cầu ái toan từ 6,41% (ở chó khoẻ) tăng lên 10,67% (ở chó bệnh) (P<0,001); tỷ
lệ các loại bạch cầu khác như: bạch cầu đa nhân trung tính và lâm ba cầu cũng
tăng lên trong máu chó bệnh (P<0,01 và P< 0,001), bạch cầu ái kiềm và đơn
nhân lớn thay đổi không đáng kể (P>0,05).
Qua kết quả trên, chúng tôi có nhận xét: khi chó bị bệnh giun móc,
công thức bạch cầu thay đổi, đặc biệt tỷ lệ bạch cầu ái toan tăng lên rất cao so
với chó khỏe.
Trịnh Văn Thịnh (1963)[25], (1982)[29] nhận xét: tác động hút máu ký
chủ và độc tố của giun làm hồng cầu, huyết sắc tố giảm, bạch cầu toan tính
tăng. Theo nhiều tác giả, bạch cầu toan tính tăng lên là một chỉ tiêu quan
trọng xác định gia súc bị nhiễm giun, sán. Kết quả của chúng tôi phù hợp với
nhận xét của các tác giả này.
3.2.5. Kết quả thử nghiệm các loại thuốc tẩy giun tròn cho chó
Hiện nay trên thị trường có nhiều loại thuốc tẩy giun tròn cho chó. Để
có cơ sở khoa học cho việc dùng thuốc phòng trị giun tròn có hiệu quả, chúng
tôi đã thử nghiệm 4 loại thuốc tẩy (2 loại thuốc tiêm, 2 loại thuốc cho uống),
mỗi loại thuốc thử nghiệm cho 15 chó nhiễm giun tròn (có kết quả dương tính
qua xét nghiệm phân) và xác định hiệu lực của các loại thuốc: thuốc
Albendazol (uống) dùng để tẩy giun móc, Levamisol (tiêm) dùng để tẩy giun
đũa, Ivermectin (tiêm) dùng để tẩy giun tóc, Sanpet (uống) dùng để tẩy hỗn
hợp các loại giun tròn. Hiệu lực được đánh giá bằng xét nghiệm phân sau khi
dùng thuốc không còn trứng giun tròn. Sau khi cho thuốc 24 giờ, chúng tôi
theo dõi sự thải giun qua phân chó, sau 15 ngày kiểm tra phân chó tìm trứng
giun để xác định hiệu lực của thuốc. Kết quả được trình bày ở bảng 3.13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
67
Bảng 3.13. Hiệu lực của một số loại thuốc tẩy giun tròn cho chó
Tên thuốc
Tác dụng tẩy
(loài giun tròn)
Liều dùng
(mg/kgTT)
Số chó
dùng
thuốc
(con)
Kết quả
Sau khi tẩy
Số chó
(-)
Tỷ lệ
(%)
Albendazol
Ancylostoma
caninum
20 15 14 93,33
Levamisol
Toxocara canis
Toxascaris leonina
15 15 13 86,66
Ivermectin
Trichocephalus
vulpis
0,3 15 12 80,00
Sanpet Hỗn hợp 25 15 14 93,33
Bảng 3.13 cho thấy:
- Thuốc Albendazol với liều 20mg/kgTT, tẩy giun móc Ancylostoma
caninum, kết quả có 14 chó trong phân không còn trứng giun móc, 1 chó vẫn
còn trứng trong phân, hiệu lực đạt 93,33%.
- Thuốc Sanpet liều 25mg/kgTT, dùng để tẩy cho những chó nhiễm hỗn
hợp các loài giun tròn, kết quả có 14 chó sạch trứng, 1 chó vẫn còn trứng, đạt
hiệu lực 93,33%.
- Thuốc Levamisol với liều 15mg/kgTT, tẩy giun đũa cho 15 chó, kết
quả 13 chó sạch trứng giun (1 chó còn trứng giun Toxocara canis, 1 chó còn
trứng Toxascaris leonina) đạt hiệu lực tỷ lệ 86,66%.
- Thuốc Ivermectin liều 0,3mg/kgTT, tẩy giun tóc cho 15 chó, kết quả 12
chó sạch trứng giun, đạt hiệu lực 80,00%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
68
Như vậy, sử dụng 4 loại thuốc tẩy giun tròn cho chó, bước đầu chúng tôi
thấy: thuốc Albendazol có tác dụng tẩy giun móc khá tốt (hiệu lực đạt
93,33%), thuốc Sanpet có tác dụng tẩy cùng lúc 4 loài giun tròn đường tiêu
hoá, tỷ lệ hiệu lực đạt 93,33%; thuốc Levamisol có tác dụng tẩy 86,66% số
chó bị nhiễm giun đũa được tẩy; thuốc Ivermectin có tác dụng tẩy 80% số chó
nhiễm giun tóc được dùng thuốc.
Kết quả trên cho phép chúng tôi sơ bộ đánh giá: cả 4 loại thuốc đều có
tác dụng tẩy giun tròn đường tiêu hoá cho chó. Tuy nhiên, Sanpet là thuốc có
ưu điểm cùng lúc tẩy được nhiều loài giun tròn ký sinh ở đường tiêu hoá chó.
3.2.6. Độ an toàn của thuốc tẩy giun tròn đƣờng tiêu hoá chó
Để đánh giá mức độ an toàn của thuốc đối với chó, trước và sau khi
cho chó dùng thuốc từ 1- 3 giờ, chúng tôi theo dõi một số các chỉ tiêu sinh
lý như: thân nhiệt, tần số hô hấp, nhịp tim. Kết quả được trình bày ở bảng
3.14.
Bảng 3.14 cho thấy, sau khi sử dụng thuốc tẩy cho chó, các chỉ tiêu sinh
lý như: thân nhiệt, tần số hô hấp và nhịp tim đều có sự thay đổi chút ít so với
trước khi sử dụng thuốc lần lượt là:
Albendazol: trước khi tẩy (380,4, 27,7, 89,8), sau khi tẩy(380,46, 28,0, 90,4).
Levamisol: trước khi tẩy (380,4, 27,2, 89,8), sau khi tẩy (380,48, 28,1, 90,8).
Ivermectin: trước khi tẩy (380,4, 26,7, 91,5), sau tẩy (380,52, 29,0, 93,0).
Sanpet: trước khi tẩy (380,48, 27,3, 91,4), sau khi tẩy (380,53, 28,5, 92,5).
Nhưng sự thay đổi này vẫn nằm trong giới hạn sinh lý bình thường. Điều này
chứng tỏ rằng, các loại thuốc thử nghiệm trên ít độc đối với chó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
69
Bảng 3.14. Một số chỉ tiêu sinh lý của chó trƣớc và sau khi dùng thuốc
Tên thuốc
Số
chó
theo
dõi
(con)
Trƣớc khi dùng thuốc Sau khi dùng thuốc
Thân nhiệt
(
0
C)
(
xmX
)
Hô hấp
(Lần /phút)
(
xmX
)
Nhịp tim
(Lần /phút)
(
xmX
)
Thân nhiệt
(
0
C)
(
xmX
)
Hô hấp
(Lần /phút)
(
xmX
)
Nhịp tim
(Lần/phút)
(
xmX
)
Albendazol 15 38,40 0,03 27,70 0,32 89,80 0,42 38,46 0,02 28,00 0,32 90,40 0,31
Levamisol 15 38,40 0,02 27,20 0,27 89,80 0,39 38,48 0,02 28,10 0,24 90,80 0,40
Ivermectin 15 38,42 0,01 26,70 0,23 91,50 0,51 38,52 0,01 29,00 0,22 93,00 0,36
Sanpet 15 38,48 0,02 27,30 0,35 91,40 0,42 38,53 0,02 28,50 0,3 92,50 0,31
Ngoài phương pháp theo dõi các chỉ tiêu sinh lý, chúng tôi cũng theo dõi
những phản ứng phụ dưới tác dụng của thuốc như: nôn mửa, ỉa chảy, run rẩy,
chảy nước bọt.v.v. Kết quả được trình bày ở bảng 3.15
Bảng 3.15 cho thấy:
Sau khi sử dụng 3 loại thuốc; Albendazol, Sanpet, Levamisol cho chó,
không thấy chó nào có biểu hiện phản ứng, tỷ lệ an toàn đạt 100%.
Đối với thuốc Ivermectin, sau khi sử dụng 1 giờ, 1 chó có biểu hiện rối
loạn tiêu hoá (tiêu chảy), nhưng sau 3 giờ biểu hiện đó mất hoàn toàn, chó trở
lại bình thường, tỷ lệ an toàn đạt 93,33%.
Theo chúng tôi, một loại thuốc được coi là tốt khi đảm bảo được hai yêu
cầu: có tác dụng tốt và an toàn đối với đối tượng được dùng thuốc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
70
Bảng 3.15. Tỷ lệ chó có phản ứng sau khi dùng thuốc
Tên thuốc
Liều
lƣợng
(mg/kgTT)
Số chó
dùng
thuốc
(con)
An toàn Phản ứng
Biểu hiện
phản ứng
Số chó
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số chó
(con)
Tỷ lệ
(%)
Albendazol 20 15 15 100 0 0,00 Không
Levamisol 15 15 15 100 0 0,00 Không
Ivermectin 0,3 15 14 93,33 1 6,66 Tiêu chảy
Sanpet 25 15 15 100 0 0,00 Không
Từ kết quả ở bảng 3.13, 3.14 và 3.15, chúng tôi bước đầu có nhận xét:
Thuốc Albendazol, với liều 20mg/kgTT, có tỷ lệ hiệu lực là 93,33% và
an toàn 100%, có thể sử dụng tẩy giun móc cho chó
Thuốc Levamisol, với liều 15mg/kgTT, có hiệu lực 86,66% và an toàn
100%, có thể sử dụng tẩy giun đũa chó.
Thuốc Ivermectin, liều 0,3mg/kgTT, có hiệu lực 80,00% và tỷ lệ an toàn
là 93,33%. Tuy có 1 chó biểu hiện phản ứng, nhưng chúng tôi vẫn coi thuốc
này là thuốc tẩy giun tóc đối với chó khá tốt.
Thuốc Sanpet, liều 25mg/kgTT, tẩy cho những chó nhiễm hỗn hợp 4 loài
giun tròn, đạt hiệu lực là 93,33% và tỷ lệ an toàn 100%.
Sau khi đã xác định được hiệu lực và độ an toàn của 4 loại thuốc trên,
chúng tôi đã hướng dẫn các hộ gia đình nuôi chó ở 9 quận nội thành Hà Nội
(các gia đình mà chúng tôi đã xét nghiệm phân chó có kết quả dương tính với
giun đũa, giun móc và giun tóc) tẩy giun cho chó bằng 4 loại thuốc này.
Qua theo dõi trên số lượng chó khá lớn (108 con), chúng tôi thấy các loại
thuốc này nhìn chung có tác dụng tốt và an toàn đối với chó. Những chó được
tẩy giun tròn hầu hết được cải thiện về tình trạng sức khoẻ, ăn uống tốt hơn,
nhanh nhẹn hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
71
3.2.7. Biện pháp phòng trị
Đặc điểm khí hậu miền Bắc nước ta là khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều
kéo dài làm cho khu hệ giun, sán rất đa dạng và phong phú, là điều kiện
thuận lợi cho mầm bệnh giun sán tồn tại và phát triển quanh năm, làm cho
chó nuôi ở nước ta nhiễm ký sinh trùng một cách dễ dàng. Từ kết quả về
một số đặc điểm dịch tễ và kết quả thử nghiệm thuốc trị bệnh giun tròn cho
chó. Chúng tôi bước đầu đề xuất qui trình phòng bệnh giun tròn cho chó
nuôi ở Hà Nội như sau:
+ Tẩy giun cho chó (sau khi đã chẩn đoán chó nhiễm loại giun tròn nào)
bằng một trong những thuốc trên hoặc dùng thuốc Sanpet nếu chó bị nhiễm
hỗn hợp nhiều loài giun tròn.
+ Đối với chó mẹ, tẩy giun trước khi mang thai để tránh lây nhiễm mầm
bệnh cho con trong thời gian mang thai. Sau khi sinh con 20 ngày tẩy lại cho
chó mẹ.
+ Chó con tẩy giun lần đầu vào lúc 25 - 30 ngày tuổi, tẩy lần 2 lúc 3
tháng tuổi. Sau đó cứ 3 - 4 tháng tẩy cho chó 1 lần.
+ Thực hiện vệ sinh Thú y đối với thức ăn, nước uống, chuồng nuôi và
môi trường ngoại cảnh để hạn chế tỷ lệ nhiễm giun tròn ở chó.
+ Hàng ngày thu gom phân trong chuồng nuôi và sân chơi, ủ phân theo
phương pháp nhiệt sinh học, tẩy uế nền chuồng, sân chơi của chó bằng chất
sát trùng 2 tháng một lần và dội nước sôi mỗi tháng 2 lần để tiêu diệt trứng và
ấu trùng giun tròn.
+ Không để chó khoẻ tiếp xúc với chó bệnh, nên nuôi nhốt chuồng,
không thả rông chó để tránh lây nhiễm mầm bệnh từ môi trường ngoại cảnh.
+ Tăng cường chăm sóc nuôi dưỡng để nâng cao sức đề kháng của chó
với bệnh nói chung và bệnh giun tròn đường tiêu hoá nói riêng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
72
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận
Từ các kết quả nghiên cứu về tình hình nhiễm giun tròn đường tiêu
hoá của chó nuôi ở Hà Nội và biện pháp phòng trị, chúng tôi rút ra một
số kết luận sau:
1.1. Thành phần giun tròn ký sinh ở đường tiêu hoá của chó nuôi tại khu
vực Hà nội gồm 4 loài: Ancylostoma caninum, Toxocara canis, Toxascaris
leonina, và Trichocephalus vulpis.
1.2. Qua xét nghiệm phân, tỷ lệ nhiễm giun móc Ancylostoma caninum
là 68,05%; giun đũa Toxocara canis 19,91%, Toxascaris leonina 24,07%;
giun tóc Trichocephalus vulpis 7,00%. Nhiễm giun móc ở cường độ nặng là
37,62%, rất nặng (21,86%); nhiễm giun đũa (Toxocara canis, Toxascaris
leonina) cường độ nặng (39,56%, 39,09%); loài giun tóc Trichocephalus
vulpis nhiễm mức từ nhẹ đến trung bình (65,62, 34,37%).
1.3. Qua mổ khám, tỷ lệ nhiễm giun móc Ancylostoma caninum là
71,55%, cường độ 16-72 giun/chó; giun đũa Toxocara canis 20,68%, cường
độ 1-6 giun/chó, Toxascaris leonina 26,72%, cường độ 1-7 giun/chó; giun tóc
Trichocephalus vulpis 7,75%, cường độ 1-4 giun/chó.
1.4. Chó Fok nhiễm các loài giun tròn thấp nhất (1,53% - 43,84%), chó
Nhật (3,53% - 63,52%), chó Berger (8,69% - 80,43%), cao nhất là chó nội
(12,66% - 84,00%)
1.5. Tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá giảm dần theo tuổi chó, riêng
giun tóc Trichocephalus vulpis tỷ lệ nhiễm tăng theo tuổi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
73
1.6. Tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá của chó ở vụ hè - thu cao hơn
vụ đông - xuân và không phụ thuộc vào tính biệt của chó.
1.7. Chó bị bệnh giun tròn đường tiêu hoá biểu hiện triệu chứng: nôn
mửa (90,38%); ăn ít, bỏ ăn, (91,34%); ỉa chảy, phân không có máu và chất
nhầy (31,73%); ỉa ra máu, phân có chất nhày (68,26%); gày yếu.suy nhược,
(82,69%); có triệu chứng thần kinh (5,76%).
1.8. Bệnh tích đại thể ở đường tiêu hoá chó bị bệnh giun tròn: niêm mạc
ruột (tá tràng, không tràng) viêm cata, trong lòng ruột chứa dịch màu nâu
hồng (20,98%); xung huyết, xuất huyết từng đám, vách ruột bị tổn thương,
dày (69,13%); niêm mạc ruột non xuất huyết lấm chấm (9,87%)
- Bệnh tích vi thể: niêm mạc ruột xung huyết, xuất huyết, hồng cầu thoát
ra khỏi mạch quản vào lòng ruột, lan tràn giữa các lông nhung, lông nhung bị
tổn thương, biến dạng, tế bào biểu mô ruột bị bong tróc, thâm nhiễm các tế
bào bạch cầu, đặc biệt là bạch cầu ái toan.
1.9. Số lượng hồng cầu, hàm lượng huyết sắc tố của chó bị bệnh giun
móc giảm, số lượng bạch cầu tăng. Công thức bạch cầu thay đổi, bạch cầu ái
toan tăng cao rõ rệt.
1.10. Thuốc Albendazol với liều 20mg/kgTT, tẩy giun móc Ancylostoma
caninum, hiệu lực đạt 93,33%.
- Thuốc Sanpet liều 25mg/kgTT, dùng để tẩy cho những chó nhiễm hỗn
hợp các loài giun tròn, đạt hiệu lực 93,33%.
- Thuốc Levamisol với liều 15mg/kgTT, đạt hiệu lực tỷ lệ 86,66%.
- Thuốc Ivermectin liều 0,3mg/kgTT, tẩy giun tóc, đạt hiệu lực 80,00%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
74
2. Đề nghị
- Sử dụng thuốc Albendazol, Levamisol, Ivermectin, Sanpet tẩy giun
tròn đường tiêu hoá cho chó.
- Tiếp tục thử nghiệm các biện pháp phòng trị bệnh giun tròn ở chó, từ
đó có cơ sở khoa học để hoàn thiện qui trình phòng trị bệnh giun tròn đường
tiêu hoá chó có hiệu quả.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Trần Minh Châu, Hồ Đình Chúc, Phạm Sĩ Lăng, Dương Công Thuận
(1988), Bệnh thường thấy ở chó và biện pháp phòng trị, Nhà xuất bản
Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 125- 128.
2. Đỗ Hài (1972), “Nhận xét về giun tròn (Nematoda) trên chó săn nuôi ở
Việt Nam”, Tạp chí khoa học và Kỹ thuật Nông nghiệp, (số 6), tr. 438.
3. Đỗ Hài (1975), “Quan sát dịch bệnh của chó Berger”, Tạp chí Khoa học
và Kỹ thuật Nông nghiệp, (số 8), tr 605.
4. Lương Văn Huấn, Lê Hữu Khương (1997), Ký sinh và bệnh ký sinh ở gia
súc- gia cầm, Nhà xuất bản Nông nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh,
Tập I, Phần giun sán, chương V, tr. 171 - 252.
5. Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1979), Ký sinh trùng học Thú y, Nhà xuất bản
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, tr. 142-149.
6. Phạm Văn Khuê, Trần Văn Quyên, Đoàn Văn Phúc (1993), “Nhận xét về
giun sán ký sinh của chó ở Hà Nội”, Công trình nghiên cứu trường
Đại học Nông nghiệp I, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 70-76.
7. Phạm Văn Khuê(1995), “Điều tra tình hình một số bệnh ký sinh trùng gia
súc lây sang người qua thịt ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Kỹ
thuật Thú y, Tập II, (Số 3), tr. 68.
8. Lê Hữu Khương, Lương Văn Huấn (1998), “Giun móc ký sinh trên đàn
chó ở Thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học và Kỹ thuật Thú y,
TậpV, (số 4), tr. 69.
9. Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Quang Tuyên (1999),
Giáo trình Ký sinh trùng Thú y, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội,
tr. 127.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
76
10. Phạm Sĩ Lăng (1985), “Bệnh giun móc ở chó Việt Nam”, Công trình
nghiên cứu Khoa học và Kỹ thuật Thú y (1985 - 1989) Viện Thú y,
Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, tr 114.
11. Phạm Sĩ Lăng, Đào Hữu Thanh (1989), “Đặc điểm bệnh học của bệnh sán
dây ở chó khu vực Hà Nội và qui trình phòng trừ bệnh”, Công trình
nghiên cứu Khoa học và Kỹ thuật Thú y (1985-1989) Viện Thú y, Nhà
xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 107.
12. Phạm Sĩ Lăng, Lê Thanh Hải, Nguyễn Thị Rật (1993), “Một số nhận xét
về loài giun ký sinh ở thú ăn thịt ở vườn thú Thủ lệ và chó cảnh, kỹ
thuật phòng trị”, Công trình nghiên cứu Khoa học và Kỹ thuật (1990-
1991) Viện Thú y, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 16 - 17.
13. Phạm Sĩ Lăng, Phan Địch Lân, Bùi Văn Đoan (1993), Chó cảnh - kỹ thuật
nuôi dạy và phòng trị, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 6, 12,
23, 41.
14. Phạm Sĩ Lăng, Nguyễn Thị Kim Thành (1999), “Tình hình nhiễm giun
đũa ở đàn chó và một số thú ăn thịt (họ chó và mèo) nuôi tại vườn thú
Hà Nội”, Tạp chí Khoa học và Kỹ thuật Thú y, Tập III, (Số 4), tr. 67.
15. Phạm Sĩ Lăng, Phan Địch Lân (2001), Bệnh Ký sinh trùng ở Gia súc và
biện pháp phòng trị, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 154, 162,
204, 208.
16. Phan Địch Lân, Phạm Sĩ Lăng, Đoàn Văn Phúc (1989), Bệnh giun tròn
ở động vật nuôi Việt Nam, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội,
tr.115-118.
17. Nguyễn Thị Lê, Phạm Văn Lực, Hà Duy Ngọ, Nguyễn Văn Đức, Nguyễn
Thị Minh (1996), Giun sán ký sinh ở gia súc Việt Nam, Nhà xuất bản
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 129, 142-172.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
77
18. Hồ Văn Nam, Nguyễn Thị Đào Nguyên, Phạm Ngọc Thạch (1997), Giáo
trình chẩn đoán lâm sàng Thú y, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội,
tr. 135 - 176.
19. Lê Hữu Nghị, Nguyễn Văn Duệ (2000), “Tình hình nhiễm giun sán của
chó tại thành phố Huế và hiệu quả của thuốc tẩy”, Tạp chí Khoa học
Kỹ thuật Thú y, Tập VII, (số 4), tr. 58.
20. Skrjabin K.I và Petrov A.M. (1963), Nguyên lý môn giun tròn Thú y, Tập I
(do Bùi Lập, Đoàn Thị Băng Tâm, Tạ Thị Vinh dịch từ nguyên bản tiếng
Nga), Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội 1977, tr. 34-35.
21. Skrjabin K.I và Petrov A.M. (1963), Nguyên lý môn giun tròn Thú y, Tập
II (do Bùi Lập, Đoàn Thị Băng Tâm, Tạ Thị Vinh dịch từ nguyên bản
tiếng Nga), Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội 1979, tr.60 -
90, 165-168.
22. Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh (1976), Công trình nghiên cứu Ký sinh
trùng ở Việt Nam, Tập I, Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội,
tr.102-105.
23. Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh (1978), Công trình nghiên cứu Ký sinh
trùng ở Việt Nam, Tập II, Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội,
tr.252-267.
24. Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc, Nguyễn Duy Hoan (2002),
Giáo trình Phương pháp nghiên cứu trong chăn nuôi, Nhà xuất bản
Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 72 - 96.
25. Trịnh Văn Thịnh (1963), “Những nhận xét đầu tiên về sinh thái học của
một số loài ký sinh ở gia súc nước ta”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật
Nông nghiệp, (số 4), tr. 238.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
78
26. Trịnh Văn Thịnh (1963), Ký sinh trùng Thú y, Nhà xuất bản Nông thôn,
Hà nội, tr. 215.
27. Trịnh Văn Thịnh (1966), Một số bệnh giun sán của gia súc, Nhà xuất bản
Nông thôn, Hà Nội, tr 178.
28. Trịnh Văn Thịnh (1967), “Bệnh giun sán và năng suất chăn nuôi”, Tạp chí
Khoa học và Kỹ thuật Nông nghiệp, (số 6), tr. 136-138.
29. Trịnh Văn Thịnh, Phan Trọng Cung, Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1982), Giáo
trình Ký sinh trùng học Thú y, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội,
tr.162.
30. Ngô Huyền Thuý (1994), “Nhận xét về tình hình bệnh tật đàn chó cảnh ở
Hà Nội và biện pháp phòng trị”, Tạp chí Khoa học và Kỹ thuật Thú y,
Tập I, (Số 5), tr. 82.
31. Ngô Huyền Thuý, Nhữ Văn Thụ (1994), “Giun móc gây hại cho chó”,
Tạp chí Khoa học công nghệ và Quản lý kinh tế, (Số 12), tr. 463.
32. Ngô Huyền Thuý, Nhữ Văn Thụ (1995), “Tình hình nhiễm giun
Spirocerca lupi ở chó Hà Nội”, Tạp chí Khoa học và Kỹ thuật Thú y,
Tập II, (Số 1), tr. 87.
33. Ngô Huyền Thuý (1995), “Tỷ lệ nhiễm giun sán theo tuổi và giống chó”,
Tạp chí Khoa học công nghệ và Quản lý kinh tế, (Số 8), tr. 6-9.
34. Ngô Huyền Thuý (1996), Giun sán đường tiêu hoá của chó ở Hà Nội và
một số đặc điểm giun thực quản Spirocerca lupi, Luận án Tiến sĩ
Nông nghiệp, Hà Nội.
35. Mai Quế Tiệp (1996), Tình hình nhiễm giun sán ký sinh đường tiêu hoá
của thú ăn thịt và biện pháp phòng trị, Luận văn Thạc sĩ Khoa học
Nông nghiệp.
36. Nguyễn Phước Tương (1994), Thuốc và biệt dược Thú y, Nhà xuất bản
Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 252.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
79
37. Nguyễn Phước Tương (2000), Bệnh ký sinh trùng của vật nuôi và thú
hoang lây sang người, Tập I, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, tr.31.
38. Phan Thế Việt, Nguyễn Thị Kỳ, Nguyễn Thị Lê (1977), Giun sán ký sinh ở Động
vật Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 177- 180.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
39. Arundel H.J. (2000), Veterinary anthelmintic, Published by the University
of Sydney, p. 21.
40. Aguilar A., Reyes J.J., Maya (2005), Ecological analysis and discription of
intestinal Helminthes present in dogs in Mexicocity, Vet parasitol, p. 73.
41. Bugio R.D., Capello M. (2005), “Detection of excretory sectetory
coproantigens in experimental hookworm infection”, Am, I, Trop,
Med, Hyg, p.69.
42. Bowman D.D., Rock T., Heaney K., Neumann N.R., Ulrich M., Amodied
(2003), Persistent efficacy of moxidectin canien sustained-release
injectable against experimental infection of Ancylostoma caninum and
Uncinaria stenocephala in dogs, Vet, p.228 - 333.
43. De Castro J.M., Dos Santos S.V., Monteiro N.A.(2005), Contamination of
public gardens along seafrom of Praia Grande City, Sao Paulo,
Brazil, by eggs of Ancylostoma and Toxocara in dogsfess, Bras, Med,
Trop, p. 40-42.
44. Eva Fok, Jakats Schilla, Beata Simidoza, Savakes Stamethy, Meikles
Kavakas (1988), Prevalence of intestinal helminth in dogs and cats,
Hungari-21- Budapest, p. 47.
45. Glen Coleman (1998), Parasitic diseases of companion animals, the
University of Queensland, p. 26.
46. Giraldo M.T., Garcia N.L., Castano J.C. (2005), Prevalence of intestinal
helminthes present in dogs from Quindio province, Biomedica, p. 52.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
80
47. Juer Landman and Paul prociv (2003), Experimental human infection with
the hookworm Ancylostoma caninum. MJA, p. 69-71.
48. Lapage A.G. (1968), Veterinary parasitology, Oliver and Boyd - London,
p.76-77, 102-103, 145-157.
49. Segovia J.M., Guerrero R., Torrest J., Miquel J., Feliu (2003), Ecological
analyses of the intestinal helminth communities of the wolf,
Canislupus, in Spain, Folia Parasitol(Praha); 50 (3); p. 231.
50. Soulsby E.J.L. (1965), Textbook of veterinary clinical parasitology
volume1, Helminths Black Well- ford, P. 9-25, 33-45, 86-145.
51. William Heinemann (1978), Medical Books, Veterinary Helminthology,
Second edition-Senior lecture, Department of Veterinary School,
Glass gow, London, p. 178.
52. William J.F. (1990), Veterinary parasitology reference manual, College
of veterinary medicine, Wasington state university, p. 79-80.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
81
MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HOẠ
ẢNH 6. Kiểm tra trứng giun tròn ở mẫu phân chó dƣới kính hiển vi
ẢNH 7. Trứng giun Ancylostoma caninum dƣới kính hiển vi ( x100)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
82
ẢNH 8. Trứng giun Toxocara canis dƣới kính hiển vi ( x 100)
ẢNH 9. Trứng giun Toxascaris leonina dƣới kính hiển vi ( x 100)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
83
ẢNH 10. Trứng giun Trichocephalus vulpis dƣới kính hiển vi (x 100)
ẢNH 11. Mổ khám toàn diện đƣờng tiêu hoá chó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
84
ẢNH 12
Bệnh tích đại thể ở ruột non chó do giun móc gây ra
ẢNH 13
Bệnh tích đại thể ở ruột non chó do giun móc gây ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
85
ẢNH 14. Giun móc Ancylostoma caninum
ẢNH 15. Giun đũa Toxocara canis
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
86
ẢNH 16. Giun đũa Toxascaris leonina
ẢNH 17. Giun tóc Trichocephalus vulpis
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
87
ẢNH 18. Đầu giun móc Ancylostoma caninum
(với những răng lớn trong xoang miệng)
ẢNH 19 ẢNH 20
ẢNH 19 ẢNH 20
Đuôi giun móc Ancylostoma caninum cái Đuôi giun móc Ancylostoma caninum đực
( x 40 ) (x 40 )
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
88
ẢNH 21. Các mẫu máu chó khoẻ và chó bị bệnh giun móc
ẢNH 22. Bạch cầu ái toan trong tiêu bản máu chó bị bệnh giun móc
( x 100)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
89
ẢNH 23. Lâm ba cầu trong tiêu bản máu chó bị bệnh giun móc
( x 100)
ẢNH 24. Bạch cầu đơn nhân lớn trong tiêu bản máu chó bị bệnh giun móc
( x 100)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
90
ẢNH 25. Bạch cầu trung tính trong tiêu bản máu chó bị bệnh giun móc
( x 100)
ẢNH 26. THUỐC SỬ DỤNG TẨY GIUN TRÒN CHO CHÓ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV_08_NL_TY_HMD.pdf