A- PHẦN MỞ ĐẦU
0.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
0.1.1. Ngôn ngữ“là yếu tố thứ nhất của văn học” (M. Go-rơ-ki) [69;215], “là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn" [69; 215]. Từ ngôn ngữ nghệ thuật đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn là con đường tiếp nhận văn học phù hợp với bản chất của nghệ thuật ngôn từ.
0.1.2. Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930- 1945, Tự lực văn đoàn là "nhóm quan trọng nhất và là nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học Việt Nam hiện đại" (Hoàng Xuân Hãn). Trong Tự lực văn đoàn, Nhất Linh là người sáng lập, người điều hành, đồng thời cũng là cây bút trụ cột của nhóm. Mặc dù sáng tác không nhiều, nhưng Nhất Linh đã "vạch ra một con đường riêng", cách tân mạnh bạo trong các sáng tác cả về nội dung và nghệ thuật, góp phần tạo danh tiếng cho tổ chức văn học này. Nhất Linh và Tự lực văn đoàn "đã có những đóng góp lớn vào nghệ thuật tiểu thuyết và tính hiện đại của tiểu thuyết, đóng góp vào câu văn của dân tộc với lối văn trong sáng và rất Việt Nam" (Huy Cận).
0.1.3. Sự nghiệp văn học của Nhất Linh đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, trong số những công trình nghiên cứu về sự nghiệp văn học của Nhất Linh đã công bố, chưa có công trình nào tập trung tìm hiểu sâu vào ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn. Vấn đề này, cách đây hơn 50 năm, đã được gợi ra: "Vấn đề ngôn ngữ Nhất Linh là một điểm thiết tưởng cần phải được để ý và đề cao" (Nguyễn Văn Trung, Tạp chí Văn số 14, 15.7.1964); nhưng sau nhiều năm trôi qua, việc nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật Nhất Linh vẫn chưa có sự tiến triển đáng kể.
Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: "Ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh trong các sáng tác trước năm 1945" nhằm đi sâu nghiên cứu quá trình vận động trong ngôn ngữ nghệ thuật Nhất Linh và thấy được những đóng góp của nhà văn đối với quá trình hiện đại hóa ngôn ngữ văn học dân tộc.
MỤC LỤC
A- PHẦN MỞ ĐẦU 1
0.1. Lí do chọn đề tài 5
0.2. Lịch sử vấn đề 6
0.2.1. Khái quát tình hình nghiên cứu về Nhất Linh . 6
0.2.2. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh . 9
0.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu . 10
0.4. Phương pháp nghiên cứu . 11
0.4.1. Phương pháp thống kê, phân loại 11
0.4.2. Phương pháp so sánh 11
0.4.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp . 12
0.4.4. Phương pháp lịch sử . 12
0.4.5. Phương pháp nghiên cứu liên ngành . 12
0.4.6. Phương pháp nghiên cứu tác giả . 12
0.4.7. Phương pháp hệ thống 13
0.5. Mục đích nghiên cứu . 13
0.6. Đóng góp của luận văn 13
0.7. Cấu trúc của luận văn . 13
B - NỘI DUNG . 15
Chương 1: GIỚI THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN CHI PHỐI NGÔN NGỮ NGHỆ
THUẬT CỦA NHẤT LINH . 15
1.1. GIỚI THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT . 15
1.1.1. Khái niệm "Ngôn ngữ nghệ thuật" . 15
1.1.2. Vai trò của ngôn ngữ nghệ thuật . 16
1.2. NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN NGÔN NGỮ
NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH 19
1.2.1. Những biến đổi trong đời sống xã hội Việt Nam đầu thế kỷ
XX 19
1.2.1.1. Sự tiếp xúc với văn hoá phương Tây 19
1.2.1.2. Sự phổ biến và phát triển của chữ quốc ngữ 21
1.2.1.3. Khát vọng xây dựng một nền quốc văn mới của tầng lớp trí
thức tân học đầu thế kỷ XX . 23
1.2.2. Hành trình đến với văn học của Nhất Linh . 28
1.2.2.1. Nhất Linh - người nghệ sĩ đa tài, say mê văn học 28
1.2.2.2. Chuyến du học ở Pháp - Những thay đổi trong quan niệm
xã hội và văn chương của Nhất Linh . 31
1.2.2.3. Chủ trương “Tự sức mình làm ra những sáng tác có giá trị
về văn chương”, "làm giàu văn sản trong nước”. . 33
Chương 2: QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NHẤT LINH TRưỚC VÀ SAU KHI
THAM GIA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN . 39
2.1. NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH TRưỚC KHI THAM GIA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN (TRONG "NHO PHONG" VÀ
"NGưỜI QUAY TƠ") .39
2.1.1. Ngôn ngữ trong "Nho phong" và "Người quay tơ "mang đậm
dấu ấn ngôn ngữ văn xuôi trung đại 39
2.1.1.1. Đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ văn xuôi trung đại 39
2.1.1.2. Ngôn ngữ "Nho phong” và "Người quay tơ” mang đậm dấu
ấn ngôn ngữ văn xuôi trung đại . 41
2.1.2. Ngôn ngữ văn học của buổi giao thời . 48
2.1.2.1. Tính chất giao thời trong dùng từ, đặt câu . 48
2.1.2.2. Bước đầu có sự kết hợp giữa ngôn ngữ trần thuật và ngôn
ngữ nhân vật . 51
2.1.2.3. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật, chưa được cá tính hóa 55
2.2. NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT CỦA NHẤT LINH TRONG GIAI ĐOẠN THAM GIA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN (TỪ "ĐOẠN TUYỆT"
ĐẾN "BưỚM TRẮNG") 57
2.2.1. Ngôn ngữ trong "Đoạn tuyệt" và "Lạnh lùng" – “một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối v ă n thật có tính cách
An Nam" . 58
2.2.1.1. Ngôn ngữ trần thuật giản dị, mạch lạc, trong sáng 59
2.2.1.2. Ngôn ngữ miêu tả sinh động, tinh tế, giàu chất tạo hình 66
2.2.1.3. Ngôn ngữ nhân vật bước đầu được cá tính hoá, phù hợp
tính cách nhân vật . 76
2.2.2. Ngôn ngữ trong "Đôi bạn" và "Bướm trắng" mang tính hướng
nội, đặc tả đời sống nội tâm nhân vật 80
2.2.2.1. Ngôn ngữ kể chuyện nhập vào nội tâm nhân vật 81
2.2.2.2. Ngôn ngữ miêu tả gắn với cảm xúc, tâm trạng nhân vật . 85
2.2.2.3. Ngôn ngữ nhân vật biểu hiện chiều sâu nội tâm . 88
Chương 3: MỘT SỐ ĐẶC SẮC TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ
THUẬT CỦA NHẤT LINH . 100
3.1. TẠO SẮC THÁI NGÔN NGỮ CỦA TẦNG LỚP THỊ DÂN TRUNG
LưU 100
3.2. CÓ NHỮNG KẾT HỢP TỪ MỚI TẠO CẢM GIÁC ÊM ÁI NGỌT
NGÀO .105
3.3. DÙNG NHIỀU TÍNH TỪ DIỄN TẢ NHỮNG CẢM GIÁC MONG
MANH .108
3.4. NHỮNG SO SÁNH ĐẸP, BAY BỔNG, TINH TẾ VÀ GỢI CẢM 112
C - KẾT LUẬN . 121
PHỤ LỤC . 123
TÀI LIỆU THAM KHẢO 128
.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
134 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2094 | Lượt tải: 2
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh trong các sáng tác trước năm 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c hộ, Mô đã dám gọi Hà là "Nhà tôi đấy!". Đó là 
những cách nói dân dã, bình dị của ngƣời lao động mang đậm cảm xúc 
tự nhiên, chân thật. 
Nhất Linh không vội vàng, không quá xúc động, bao giờ nhà văn 
cũng kiểm soát đƣợc tình cảm, cảm xúc trong ngôn ngữ của tác phẩm. 
Cách gọi tên các nhân vật ở ngôi thứ ba trong tác phẩm của ông đã thể 
hiện rõ thái độ chừng mực và tinh tế. Ông thƣờng gọi nhân vật là 
"chàng" hoặc "nàng", tên riêng của nhân vật: Dũng, Loan, Thảo,…. Với 
các nhân vật có tuổi, tác giả không bao giờ gọi tên tục mà thƣờng gọi 
"ông", "bà" kết hợp với danh vị của chồng, chẳng hạn: Bà Án, bà Phán, 
bà Hai,…Kể cả ở những lúc xung đột diễn ra rất căng thẳng, cách xƣng 
hô của các nhân vật vẫn giữ đƣợc chừng mực thể hiện rõ bản chất của 
ngƣời có học thức. Loan trong lúc xô xát với chồng, với mẹ chồng vẫn 
không có lời nào xúc phạm đến chồng vẫn gọi "cậu" xƣng "tôi", với mẹ 
chồng cô cũng không dám có lời xúc phạm quá đáng, chỉ tỏ thái độ quyết 
liệt qua cách xƣng hô "bà" và "tôi": "Bà là người, tôi cũng là người, 
không ai hơn kém ai" [8; 290]. 
Tinh tế trong ngôn ngữ từ lời của ngƣời kể chuyện đến lời của nhân 
vật, Nhất Linh luôn giữ đƣợc sự cân bằng, thái độ chừng mực. Cách gọi 
tên nhân vật ở ngôi thứ ba trong tác phẩm của ông vẫn thể hiện một cái 
nhìn âu yếm, chủ quan của một nhà tiểu thuyết lãng mạn, khác hẳn với cái 
nhìn khách quan đến sắc lạnh của nhà văn hiện thực nghiêm nhặt Nam 
Cao thƣờng gọi nhân vật của mình là hắn, y, thị, gã, mụ, anh cu, chị 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
cu,…"thậm chí ngay cả những nhân vật có tên hẳn hoi cũng có xu hướng 
bị thay thế bằng hắn hoặc y" [85; 234]. 
Cùng viết về đời sống của con ngƣời trong xã hội thị dân đang 
trên đƣờng "Âu hoá", nhƣng ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh và Vũ 
Trọng Phụng hoàn toàn khác nhau do quan điểm, tƣ tƣởng sáng tác khác 
nhau. Vì thế, cách sử dụng từ ngữ của các tác giả cũng khác nhau. Nhất 
Linh là nhà văn lãng mạn, đề cao tính lí tƣởng, quan tâm đến cuộc sống 
của tầng lớp trí thức tiểu tƣ sản, ông cổ vũ cho những cái mới tiến bộ 
đang diễn ra trong xã hội. Các nhân vật của ông không phải lo lắng nhiều 
về chuyện miếng cơm, manh áo, mà chủ yếu là suy nghĩ, trăn trở về 
quyền sống tự do, hạnh phúc, tự do yêu đƣơng, khát khao sống một cuộc 
sống có ý nghĩa hơn, ngôn từ đi sâu vào đời sống tâm hồn của con ngƣời. 
Các lớp từ ngữ đƣợc sử dụng đều mang một vẻ đẹp trong sáng, tinh tế, 
chừng mực nhƣ đã nói ở trên. 
 Còn Vũ Trọng Phụng lại khác, với cái nhìn hiện thực muốn lột tả 
những mặt trái của xã hội thực dân Âu hoá, tác phẩm Số đỏ của ông đã 
giễu nhại cả cả một xã hội, một phong trào chính trị, một thời đô thị hoá. 
Nên ông đã sử dụng ngôn ngữ giễu nhại "nhại một ngôn ngữ đang hình 
thành, hổ lốn, táp nham, lổn nhổn, không ăn khớp, ngôn từ khấp khểnh, 
xiêu vẹo, tạp pí lù" [41; 32]. Ngôn ngữ trong Số đỏ là ngôn ngữ đô thị: " 
…cái đô thị khốn khổ trong công cuộc đô thị hoá khốn khổ ở một xứ sở 
đầy ắp những tư tưởng, phong tục tập quán phong kiến nham nhở, lai 
tạp. Cái cặn bã "nội hoá" của đô thị(…) cộng với cái cặn bã văn minh 
ngoại lai (…)cộng với chất sa thải của Paris (…), chỉ có thể tạo ra 
những cái quái gở, những người dị dạng" [41; 33]. Trong xã hội lộn xộn 
ấy , ngôn từ cũng lai căng, hỗn tạp, ngay cả từng cái tên nhân vật cũng 
vậy: Typn, Minđơ, Mintoa, Me -xừ Xuân, Victor Ban, Văn Minh,… 
Đúng nhƣ Đỗ Đức Hiểu nhận xét : "Ngôn từ Vũ Trọng Phụng tung 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
hoành đầy hứng thú và hiểu biết cái đô thị điêu toa, giả dối này. Những 
cảnh nghịch bợm, phi lí, đối nghịch thật và giả, nịnh bợ nhau, động viên 
nhau, công kênh nhau, tôn sùng nhau, dắt díu nhau đến "vinh quang" 
điếm nhục, được biểu đạt bằng ngôn từ đầy nghịch lí của Vũ Trọng 
Phụng, một loạt nghịch dụ, với những từ đối nghịch. (…)Ngay cái tên 
Xuân Tóc Đỏ cũng mang những ý nghĩa trái ngược.(…) Nhà văn luôn 
luôn sử dụng những đối nghịch để diễn đạt tính nhiều mặt của nhân vật. 
Xuân mang trên đầu nó một kí hiệu đối ngẫu" [41; 33]. 
 Nhất Linh đã tạo cho tác phẩm của ông một "bầu khí quyển" ngôn 
ngữ lãng mạn với hệ thống từ ngữ đẹp, mực thƣớc và tinh tế, không có từ 
nghịch dị, rất ít từ thông tục. Những đặc điểm này trong ngôn ngữ của 
Nhất Linh cũng là những đặc điểm chung của ngôn ngữ văn chƣơng Tự 
lực văn đoàn. Tuy nhiên ở từng nhà văn vẫn có những nét riêng khác 
biệt. Ta có thể thấy điều này khi so sánh với Khái Hƣng và Thạch Lam. 
 Trong văn đoàn, nghệ thuật của Nhất Linh và Khái Hƣng có 
nhiều nét giống nhau, hai ông đã cùng viết chung hai tiểu thuyết: Gánh 
hàng hoa và Đời mưa gió, nhƣng ngôn ngữ mỗi ngƣời vẫn có những 
điểm khác nhau. Bạch Năng Thi đã chỉ ra điểm khác nhau đó nhƣ sau: 
Nhất Linh thì "hay quan sát, phán đoán, nặng suy nghĩ, nên cách diễn 
đạt tư tưởng thường có tính chất lí trí; người viết chủ động khi cầm bút, 
lời văn ngắn gọn, chặt chẽ chính xác, vừa giản dị, vừa chọn lọc. Khác 
với Khái Hưng réo rắt, êm đềm, phảng phất theo điệu tình cảm mơ hồ 
(…). Ngôn ngữ Khái Hưng thường là ngôn ngữ mơ hồ, man mác, chỉ 
thích ứng với những tình cảm phảng phất, những tình cảm mung lung, 
những ý nghĩ thoáng qua, hoặc một thứ ngôn ngữ đặc biệt của trí thức 
thành thị, một thứ ngôn ngữ kiểu cách của thính phòng" (Bạch Năng 
Thi) [44; 226 / 227]. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
So với Nhất Linh, ngôn ngữ Thạch Lam nghiêng về chất hiện thực 
hơn, nhƣng vẫn đậm chất thơ bởi sự hoà đồng của đầy ắp màu sắc, âm 
thanh và mùi vị. Đây là một bức tranh cuộc sống đƣợc vẽ lên qua những 
cảm giác tinh vi của con ngƣời thật cụ thể và ấn tƣợng: 
"Khi vào đến con đường khuất khúc trong làng trời nhá nhem tối. 
Qua hàng cây, Tân thấy lấp lánh đèn ở sân các nhà, tiếng reo đập lúa 
trên cối đá, tiếng hạt thóc bắn vào nia cót như mưa rào. Đâu đâu cũng 
thấy tiếng cười nói vui vẻ, cảnh đêm trong làng thôn quê vẫn yên lặng 
âm thầm thì chiều nay hoạt động vô cùng. Mùi lúa thơm vương lại trong 
các bụi cây hoà lẫn với mùi đầm ấm của phân, cỏ bốc lên khắp cả" 
(Những ngày mới). 
 Tuy có những nét khác biệt ấy, nhƣng trong việc sử dụng từ ngữ 
của Nhất Linh (cũng giống nhƣ Thạch Lam) đều mang đậm cốt cách trí 
thức, thị dân. "Vùng chữ" mang đậm cốt cách trí thức: trang nhã, thanh 
tao, ý nhị, kể cả khi miêu tả đời sống phồn tạp cũng dùng những uyển 
ngữ, nhã ngữ thay cho những từ khó nghe, thô tục. Chẳng hạn: "Mô tả 
những đối tượng tầm thường như phân cỏ, rác hay bãi rác… nhà văn 
cũng đem lại cho chúng một hương vị riêng: nồng ấm, đầm ấm, âm ấm 
và rất đặc biệt. Hình như những hương vị ấy được phả ra từ chính trái 
tim ấm áp tha thiết với cảnh sắc quê hương của nhà văn" [82; 46]. 
Rõ ràng Nhất Linh và các nhà văn Tự lực văn đoàn đã tạo ra lớp 
ngôn ngữ mang dấu ấn riêng của tầng lớp trí thức tiểu tƣ sản và tầng lớp 
thị dân trung lƣu bay bổng, lãng mạn, trong sáng và tinh tế, phù hợp với 
đối tƣợng tiếp nhận. 
3.2. CÓ NHỮNG KẾT HỢP TỪ MỚI TẠO CẢM GIÁC ÊM ÁI NGỌT 
NGÀO 
Với khát khao "dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một 
lối văn thật có tính cách An Nam" và quan điểm "đem phƣơng pháp 
khoa học thái Tây, ứng dụng vào văn chƣơng An Nam", Nhất Linh đã có 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
những cách kết hợp từ mới để diễn tả những cảm giác mới lạ và sự êm 
ái, ngọt ngào cho ngôn ngữ nghệ thuật. Đây là một trong những nét 
chung của các nhà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Nguyễn Trác, Đái Xuân 
Ninh đã nói: "…Các nhà văn Tự lực văn đoàn đã thể theo mẫu của nước 
ngoài (tiếng Pháp) tạo ra những từ trìu tượng bằng cách thêm một yếu 
tố tiền tố vào một từ cơ bản để tạo thêm một từ nhánh có chất lượng cao 
hơn.Yếu tố tiền tố được dùng nhiều nhất là "cái", "sự" [18; 103]. 
Trong sáng tác của Nhất Linh ta cũng bắt gặp nhiều những kết hợp 
nhƣ vậy, chẳng hạn: 
- Những cái ràng buộc, đè nén của cuộc đời thường không có nữa, 
chàng sẽ hết băn khoăn, hết e dè, được hoàn toàn sống theo ý mình (Bƣớm 
trắng). 
- Cận cũng vừa có cái ý nghĩ buồn rầu ấy vì không phải lần đầu 
Hà ho như vậy… (Đôi bạn). 
- Chàng có cái cảm tưởng rằng mình sắp thoát khỏi một nơi u ám 
nặng nề và một sự gì mới mẻ sắp nẩy nở ra trong tâm hồn (Đôi bạn). 
- Chắc chàng sẽ buồn vì sự ngạc nhiên ấy và chàng sợ rồi sẽ 
không tin rằng ngôi sao của chàng là đẹp nữa (Đôi bạn)… 
Rõ ràng những kết hợp với tiền tố "cái" và "sự" đã làm cho các 
cảm giác, tâm trạng nói đến đƣợc hình dung một cách cụ thể hơn, gợi 
cảm hơn. 
Đặc biệt Nhất Linh còn có nhiều kết hợp rất riêng để diễn tả 
những cảm giác khó tả đồng thời tạo ra giọg điệu trẻ trung, êm ái nhƣ : 
- Sau mấy ngày u ám, trông nắng mới ngon lạ (Bƣớm trắng). 
- Thế mà em cũng vừa chợp được một giấc ngon lạ (Bƣớm trắng). 
- Chiều ba mươi tết giời trông buồn lạ (Bƣớm trắng). 
- Ván này ăn được đồng hào mới ngon lạ (Bƣớm trắng). 
 - Mắt em lúc này đẹp lạ (Những ngày diễm ảo)! 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
 - Cái xe êm lạ, đi đường này êm như sân đất (Những ngày diễm 
ảo). 
 - Chúng mình trẻ con lạ (Những ngày diễm ảo). 
 - Cỏ ngoài nắng thơm lạ (Những ngày diễm ảo)… 
Những kết hợp từ mới của Nhất Linh rất giống với cách sáng tạo 
từ ngữ theo phƣơng thức ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, có sự tƣơng giao 
giữa các giác quan mà các nhà thơ trong phong trào Thơ Mới đã sử dụng 
rất thành công, kiểu nhƣ: "khúc nhạc thơm", "khúc nhạc hường", " tháng 
giêng ngon như một cặp môi gần",… trong thơ Xuân Diệu; hay "chiều 
mồ côi, đời rét mướt", "tiếng gió buồn thê thiết"… trong thơ Huy Cận… 
Và có lẽ nhờ cách kết hợp từ tiếp nhận đƣợc từ các nhà thơ lãng mạn 
phƣơng Tây đã làm cho lời văn của Nhất Linh rất êm ái, ngọt ngào, giàu 
chất thơ. 
Với mong muốn khám phá thế giới tâm hồn của con ngƣời, Nhất 
Linh cũng tìm ra những kết hợp từ mới mẻ, chính xác, gợi cảm để miêu 
tả hiện thực và bộc lộ tâm trạng của nhân vật. Phạm Thị Phƣơng Anh đã 
nêu ra một số dẫn chứng cụ thể về cách sử dụng một số từ ngữ đạt đến 
độ hàm súc trong ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh: 
"… từ "rít" trong câu: "Ở ngoài trời mưa và lẫn với tiếng kèn, 
thỉnh thoảng cơn gió lại rít lên một tiếng dài"(Bướm trắng) vừa miêu tả 
đƣợc âm thanh tạo ra từ cơn gió mùa đông lạnh lẽo, vừa bộc lộ đƣợc sự 
tức bực, bức bách đến tức tối trong tâm hồn Trƣơng; từ "phơi" trong câu: 
"Mặt trời chưa lên cao, bình minh còn phơi màu hồng nhạt, một cơn gió 
lạnh đưa mùi thơm của hoa cau” (Đôi bạn), khiến cho ngƣời đọc nhƣ 
chìm vào không khí trong lành, mát mẻ tràn ngập hƣơng hoa cau thơm 
mát, mộc mạc, và ánh sáng chỉ kịp toả ra một thứ màu dịu nhẹ nhƣ 
"phơi" tấm lụa khổng lồ lên mọi vật, "phơi" vừa có tác dụng mô tả vừa 
có tác dụng gợi hình; từ "phẳng lì" trong câu: "Cánh đồng chân rạ vắng 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
người phẳng lì đến tận chân trời" (Đôi bạn) lại mở ra một không gian 
rộng lớn của cánh đồng mùa đông, "phẳng lì" có tác dụng gợi sự mênh 
mông làm cho những nhấp nhô của các bờ ruộng nhƣ bị biến mất. Dũng 
và Trúc nhìn mút tầm mắt , bị hút vào khoảng không mù mù, lạnh lẽo, 
vắng ngƣời, vắng cả bóng dáng cây lúa - những biểu hiện của sự sống 
nhƣ cuộc đời Dũng vậy, nhàm chán, buồn bã, cô đơn. "Phẳng lỳ" gây ấn 
tƣợng mạnh ở nghĩa thứ hai của câu hơn là ở nghĩa thứ nhất… " [18; 
105]. 
Phép đảo từ ngữ cũng đã đƣợc Nhất Linh sử dụng khá đắc địa, gợi 
cảm, tô đậm ấn tƣợng, cảm giác. Ví dụ: 
- “Nàng đỏ mặt và bên tai như văng vẳng có tiếng mắng” (Lạnh 
lùng). 
- “Trên rặng tre xơ xác, da trời tím thẫm thưa thớt điểm vài ngôi 
sao long lanh” (Đoạn tuyệt). 
Do chú ý đi sâu miêu tả cảm xúc, tâm trạng con ngƣời, nên trong 
cách dùng từ của Nhất Linh ta hay thấy ông kết hợp tính từ với danh từ 
hoặc tính từ với động từ nhằm làm nổi bật cảm giác của con ngƣời. 
Chẳng hạn nhƣ: 
- Kết hợp danh từ với tính từ: ý nghĩ khó chịu, ý nghĩ buồn, ý 
mong mỏi ngấm ngầm, ý tƣởng chua cay, bến đò xa vắng, đêm khuya 
lạnh, bóng tối giá lạnh,… 
- Kết hợp tính từ với động từ: vui thích đƣa mắt nhìn theo, mê 
man nhìn, lo lắng ngẫm nghĩ, hồi hộp ngắm nghía,… 
Có lẽ chính vì cách sử dụng ngôn từ nhƣ vậy đã phần nào tạo nên 
đặc điểm tràn ngập trong tác phẩm của Nhất Linh là "thế giới cảm giác". 
3.3. DÙNG NHIỀU TÍNH TỪ DIỄN TẢ NHỮNG CẢM GIÁC MONG 
MANH 
Nét nổi bật trong từ ngữ của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đó là hệ 
thống tính từ đƣợc xuất hiện một cách dày đặc và đa dạng, nhiều hơn hẳn 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
so với các tác phẩm văn học hiện thực. Chẳng hạn, tỉ lệ tính từ / trang 
văn bản của các tác phẩm Tự lực văn đoàn thƣờng rất cao, theo thống kê 
của Phạm Thị Phƣơng Anh: Đoạn tuyệt (9,73 từ), Lạnh lùng (10,48 từ), 
Nửa chừng xuân (11,59 từ), trong khi đó Số đỏ (3,74 từ), Giông tố 
(4,79 từ) [18; 101]. Nguyên nhân là do các tiểu thuyết Tự lực văn đoàn 
tập trung khai thác đời sống nội tâm của con ngƣời với những xúc cảm 
mong manh, tinh tế, còn các tác phẩm văn học hiện thực lại nghiêng về 
miêu tả hiện thực, những cái biểu hiện ra bên ngoài thành hành động, lời 
nói. Vì thế ở các tác phẩm hiện thực khi đi sâu miêu tả thế giới tâm hồn 
nhân vật thì tỉ lệ tính từ cũng đƣợc sử dụng nhiều, ví dụ ở Sống mòn của 
Nam Cao tỉ lệ này là: 8,5 từ / trang văn bản, tƣơng đƣơng với các tác 
phẩm của Nhất Linh. 
Khi so sánh cách sử dụng tính từ của Nhất Linh và Nam Cao ta 
thấy có những điểm giống và khác nhau. Với việc chú ý miêu tả thế giới 
tâm hồn của con ngƣời, cả hai nhà văn đều ƣa thích sử dụng nhiều tính 
từ trong một câu văn để diễn tả những trạng thái cảm xúc, tƣ tƣởng dồi 
dào. Chẳng hạn nhƣ: 
- "Sự rung động êm ái và hiu hắt buồn trước cơn gió lạnh đầu tiên 
khiến vẻ mặt Trúc trở nên dịu dàng và thoáng trong một giây chàng sống 
lại hết cả những ngày mới trở rét trong đời" (Đôi bạn - Nhất Linh). 
- "Nhưng sao trong cái vui của chàng vẫn phảng phất những lo 
lắng vẩn vơ, khác nào như những bông hoa phù dung về mùa thu đương 
độ nở đẹp lộng lẫy mà cái chết đã ngấm ngầm ở trong" (Đôi bạn - Nhất 
Linh). 
- "Qua khe cửa, trời hẵn còn tối, Trương thấy trong người mỏi 
mệt, nhưng có một cái mỏi mệt dễ chịu của một người vừa hết sốt" 
(Bướm trắng - Nhất Linh). 
- Oanh nhỏ nhen, ích kỷ, tham lam, vì những cái đó, âu cũng là 
bản tính của loài người (Sống mòn - Nam Cao). 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
- "Đáng ghét, đáng nguyền rủa, ấy là cái lối sống lầm than nó đã 
bắt buộc người ích kỷ, nó đã tạo ra những con người tàn nhẫn và tham 
lam" (Sống mòn - Nam Cao). 
- "Nhưng cái mặt Oanh khinh khỉnh, vênh vênh, trông khiêu khích 
lạ lùng" (Sống mòn - Nam Cao). 
Tuy nhiên khác với Nam Cao, Nhất Linh thích sử dụng kép tính từ 
(một tính từ chỉ trạng thái và một tính từ chỉ mức độ trong mối quan hệ 
chính phụ) để chỉ cùng một trạng thái, tâm trạng, điều đó góp phần biểu 
hiện tinh tế hơn về trạng thái cảm giác và tạo ra giọng văn nhịp nhàng, 
uyển chuyển. Nhƣ ở các câu trên đó là các tính từ: rung động êm ái, hiu 
hắt buồn, lo lắng vẩn vơ, đẹp lộng lẫy, chết đã ngấm ngầm ở trong, mỏi 
mệt dễ chịu. Còn ở Nam Cao các tính từ đƣợc sử dụng khá độc lập, 
ngang hàng nhau về ý nghĩa, có phần tạo cho giọng văn sự dứt khoát, 
mạnh mẽ hơn. 
Khi tìm hiểu về việc sử dụng tính từ của Nhất Linh so với Thạch 
Lam và Khái Hƣng ta cũng thấy có nét riêng rất dễ nhận ra là các tính từ 
thƣờng nghiêng về diễn tả những cảm giác mong manh, tinh tế, nhẹ 
nhàng. Cảm giác ấy có đƣợc là nhờ tác giả rất hay sử dụng các tính từ 
diễn tả những khoảnh khắc thoáng qua nhƣ: đưa thoảng qua, muốn 
thoáng qua, thơm thoảng, thoáng trông, thoáng qua,…; những tính từ 
gợi lên những cảm giác mong manh không rõ, không dễ định hình: thơm 
nhẹ quá, mờ sương, xa xôi, mờ mờ, phảng phất, xa xăm, êm ả, mong 
manh, hoà hợp, nhẹ lướt, ngây ngất, tha thiết, mơ màng, xao xuyến, mê 
man bàng hoàng, hiu quạnh, vu vơ, vẩn vơ, mang máng… 
Không chỉ vậy Nhất Linh còn là ngƣời dùng rất tài tình những kết 
hợp kép của tính từ nhƣ đã nói ở trên tạo ra những trạng thái cảm giác 
mơ màng hơn, hoặc phong phú, phức tạp hơn. Chẳng hạn: lo lắng vẩn 
vơ, sung sướng mong manh, sung sướng man mác, phất phơ vô định, 
buồn xa xôi, rụt rè ý nhị, mát dịu lạ lùng, bực tức vô cớ rạo rực, buồn xa 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
xôi, não nùng mong manh, ngây ngất nhớ, buồn bã lạ thường, hồi hộp 
sung sướng, khát khao ngấm ngầm, rạo rực hối hận, ngây ngất lảo đảo, 
rung động êm ái, buồn xa vắng mông mênh, rờn rợn sợ, mê man quên 
hết cả, lặng yên mơ mộng, quạnh hiu lạnh lẽo, kiêu hãnh một cách ngây 
thơ, vui một cách vô cớ, vui mừng rất êm ái…Chính cách sử dụng tính từ 
nhƣ vậy đã tạo cho ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh có khả năng đi 
sâu vào thế giới tâm hồn con ngƣời với những diễn biến tinh nhạy, kể cả 
những vùng mờ tối, khuất khúc. 
Tính từ trong tác phẩm của Khái Hƣng dù đƣợc sử dụng rất nhiều, 
với tỷ lệ khá lớn, nhƣng không chỉ tập trung vào biểu hiện thế giới cảm 
giác của con ngƣời nhƣ Nhất Linh mà mở rộng hơn về mọi lĩnh vực khác 
của cuộc sống. Ông hay kết hợp các tính từ chỉ nhiều trạng thái với nhau, 
mỗi tính từ là một trạng thái, chứ không kết hợp nhiều tính từ cùng chỉ 
một trạng thái nhƣ Nhất Linh, vì thế tính từ mang ấn tƣợng cụ thể, rõ nét 
hơn. Chẳng hạn: yên tĩnh êm đềm, khoan thai dõng dạc, đỏ ửng lấp loáng, 
thong thả ngân nga, ủ ê chán ngán, ngượng nghịu lúng túng, đau đớn 
phiền muộn, náo nhiệt nhộn nhịp, êm đềm tịch mịch, quê mùa cục mịch, 
trắng trẻo xinh xắn, lạnh lẽo tẻ ngắt, thản nhiên tươi cười, sáng sủa sạch 
sẽ, u ám buồn rầu, dịu dàng mơn mởn,… 
So với Nhất Linh, ngôn ngữ của Thạch Lam nghiêng về chất hiện 
thực nhiều hơn. Cách sử dụng tính từ của Thạch Lam cũng có điểm 
khác: "Trong bảng từ loại của mình, Thạch Lam phân bố động từ, tính từ 
tương đối đồng đều, độ chênh lệch gữa hai loại từ này rất thấp" [85; 76]. 
Hệ thống tính từ trong sáng tác của Thạch Lam cũng nghiêng về miêu tả 
cụ thể hiện thực cảnh vật và cuộc sống của con ngƣời, chứ không bay 
bổng lãng mạn nhƣ Nhất Linh. Ông cũng hay dùng nhiều tính từ trong 
một câu nhƣng thƣờng chỉ nhiều tính chất , trạng thái khác nhau, giữa 
các tính từ thƣờng dùng từ "và" tạo thành từng cặp đôi. Ví dụ nhƣ:, xanh 
xao và mệt nhọc, đen và mượt, âu yếm và nâng niu, êm đềm và phiền 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
phức, ẩm ướt và tối tăm, giản dị và sung sướng, lụp xụp và thấp lè tè, 
đen và hôi hám, đáng thương và ái ngại, thất vọng và buồn rầu, tha thiết 
và oán hờn, thiết tha và hi vọng, cảm động và mừng rỡ, âu yếm và mến 
thương, bình yên và thong thả, mát mẻ và hiền lành… Điều này khiến 
cho văn của Thạch Lam có phần giống Nhất Linh, nhƣng lại có điểm 
khác trong những bức tranh miêu tả cảnh vật và con ngƣời. Nhƣ vậy, 
cách sử dụng tính từ của Nhất Linh vừa mang những nét chung của ngôn 
ngữ văn xuôi Tự lực văn đoàn, đó là sử dụng nhiều tính từ (chứ không 
phải động từ), bởi đi sâu diễn tả thế giới tâm hồn của con ngƣời. Tính từ 
nhìn chung đẹp, gợi cảm, trong sáng. Tuy nhiên cũng có nét riêng nhƣ ta 
đã thấy là hệ thống tính từ của Nhất Linh nghiêng về diễn tả những xúc 
cảm mong manh, tinh tế trong tâm trạng con ngƣời. Tính từ đƣợc dùng 
ghép theo cách riêng để tăng khả năng biểu cảm và tạo ra giọng văn nhịp 
nhàng, êm ái. 
3.4. NHỮNG SO SÁNH ĐẸP, BAY BỔNG, TINH TẾ VÀ GỢI CẢM 
So sánh là phƣơng thức tu từ quen thuộc, xuất hiện dày đặc trong 
các tác phẩm Tự lực văn đoàn. Các nhà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã 
tận dụng tối đa những đối tƣợng có đặc tính giống nhau để đem ra so 
sánh. Họ đã làm sinh động hơn rất nhiều cho tác phẩm của mình bằng 
những hình ảnh so sánh, đặc biệt là những hình ảnh độc đáo. So sánh bao 
giờ cũng nhằm làm tăng tính gợi hình và gợi cảm của ngôn ngữ, các so 
sánh trong Tự lực văn đoàn có rất nhiều chức năng. Có khi nó đƣợc dùng 
để cụ thể hoá đối tƣợng: 
- "Một vài đám mây bay thấp vướng vào ngọn rừng kéo lan dài 
như những dải lụa trắng" (Đôi bạn). 
- "…Nét chữ tươi như hoa đào, già dặn như cành mai cỗi" 
(Nửa chừng xuân) 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
- "Thanh thấy tâm hồn nhẹ nhõm như vừa tắm ở suối" (Dưới bóng 
hoàng lan). 
So sánh có khi đƣợc dùng để gợi hình hơn cho đối tƣợng đƣợc so 
sánh: 
- "Hôm ấy vào hạ tuần, trăng vừa mọc, trông như cặp sừng trâu 
treo ngược trên đỉnh đồi" (Hồn bướm mơ tiên). 
- "… Khói ở các nhà toả ra như mấy vết mực tàu đương lan trên 
tờ giấy trắng ướt đẫm nước" (Đôi bạn). 
- Có khi so sánh dùng để tăng tính sinh động cho đối tƣợng cần biểu 
hiện: 
- "Chàng lấy vợ cũng như người khác chơi cây cảnh" (Lạnh 
lùng). 
- "Và liền lúc đó, ba tiếng trống đánh dồn dập, hấp tấp, bất thần 
như cái thức giấc hoảng hốt, kinh hãi của người đương chập chờn ngủ 
gật" (Nửa chừng xuân). 
Có một điều thú vị là ngƣời ta hay so sánh cái trừu tƣợng với cái 
không trừu tƣợng để ngƣời đọc có thể hình dung, tƣởng tƣợng ra cái trừu 
tƣợng kia là gì, thì các nhà văn Tự lực văn đoàn nhiều khi lại làm ngƣợc 
lại. Họ lấy cái cụ thể để so sánh với cái trừu tƣợng hoặc lấy hai cái trừu 
tƣợng so sánh với nhau để tạo ra những liên tƣởng mới. 
- "Đêm khuya nữa… chậm chạp và thong thả, bác hàng quà, đi 
nhẹ như chân ma… Tiếng rao buồn thảm, yếu ớt và uể oải như hàm một 
nỗi thất vọng khôn cùng" [Thạch Lam]. 
- "Hoa kim liên sắc vàng thắm như một nụ cười thân yêu" [Khái 
Hƣng]. 
- "Ở đâu vẳng lại tiếng ru em trong vắt như ánh nắng" [Nhất 
Linh]. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
- "Trước mặt hai người, về phía bên kia cánh đồng, ánh đèn nhà 
ai mới thắp, yếu ớt trong sương, trông như một nỗi nhớ xa xôi đương 
mờ dần" [Nhất Linh]. 
Đây là kiểu so sánh biểu hiện sự tinh tế trong tâm hồn ngƣời nghệ 
sĩ, họ phải thực sự rung động trƣớc cảnh vật, con ngƣời, thực sự cảm 
thấy đằng sau những cái tƣởng nhƣ không thể có sự liên hệ ấy một mối 
quan hệ gần gũi. Trong các nhà văn Tự lực văn đoàn, Nhất Linh là ngƣời 
hay sử dụng nhất cách so sánh này. Có lẽ chính vì thế mà ngôn ngữ của 
Nhất Linh có một vẻ riêng bay bổng và lãng mạn. 
 Trong so sánh, nét riêng của ngôn ngữ tác giả thể hiện chủ yếu ở 
cách dùng chuẩn so sánh và tƣơng quan so sánh, qua đó bộc lộ cái nhìn 
độc đáo của nhà văn. Lấy tƣơng quan so sánh làm tiêu chí, chúng tôi 
nhận thấy Nhất Linh thƣờng sử dụng hình thức so sánh tâm trạng, cảm 
giác của con ngƣời với sự vật, tâm trạng đang trong trạng thái hoạt động. 
Những so sánh kiểu này rất gợi hình, gợi cảm: 
- "Nàng thấy hạnh phúc của nàng đẹp đẽ như ánh lửa lấp lánh 
trong cốc rượu đương sóng sánh trên tay nàng" (Lạnh lùng). 
- "Một luồng khói pháo thơm đưa thoảng qua cửa sổ đem lại cho 
Dũng những cảm tưởng dịu dàng êm ái như ngọn gió xuân dịu dàng đem 
mùa xuân tới" (Đôi bạn). 
- "Một mùi thơm tựa như mùi cốm non phảng phất lẫn với bụi, với 
gió, với ánh nắng" (Đôi bạn). 
- "Ngoài kia, ánh nắng vàng buổi chiều như tiếc ngày cuối cùng 
của một năm, còn lảng vảng trên các ngọn đồi, chòm cây, lướt thướt trên 
những cánh đồng cỏ màu xanh già" (Đoạn tuyệt). 
"Chàng sung sướng chỉ vì thấy mình như con chim thoát khỏi 
lồng, nhẹ nhàng trong một sự tự do không bờ bến" (Bướm trắng). 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
Kiểu so sánh này, không chỉ gợi lên rất rõ cảm giác đƣợc nói đến 
(dù là những cảm giác rất mong manh, mơ màng), mà còn có khả năng 
gợi lên trong ngƣời đọc rất nhiều liên tƣởng. Các sự vật đƣợc đem ra để 
so sánh không trong trạng thái tĩnh tại, mà đang hoạt động, biến đổi, vì 
thế ngƣời đọc tuỳ theo cảm nhận của mình mà có thể có những liên 
tƣởng khác nhau, những cảm xúc khác nhau. Tất cả những so sánh đó 
đều gợi lên những hình ảnh thật đẹp, lãng mạn và bay bổng, bộc lộ 
những cảm giác tế vi của con ngƣời. Qua những so sánh đó Nhất Linh đã 
thể hiện những rung động sâu xa với con ngƣời và tạo vật. Các so sánh 
của ông đều nhấn mạnh đến cảm giác tinh nhạy của con ngƣời trƣớc 
cuộc đời, thể hiện những quan sát kĩ lƣỡng, sự gắn bó với cuộc sống đến 
từng cảm giác. 
Để miêu tả cảnh vật thiên nhiên, Nhất Linh cũng rất hay dùng 
phƣơng thức so sánh giữa sự vật với sự vật, có điều thú vị là những sự 
vật đem ra để so sánh ấy cũng không ở trong một trạng thái tĩnh tại, 
chẳng hạn: 
- "…Khói ở các nhà toả ra như vết mực tàu đương lan trên tờ giấy 
trắng ướt đẫm nước" (Đôi bạn). 
- "Thỉnh thoảng Trương phải cúi đầu cho khỏi chạm vào cành 
cây; dưới một cái ao gần đây, bóng một cành tre in ngược, ngọn trúng 
vào giữa một đám sao trông như một cây bông vừa toả hoa lấp lánh" 
(Bướm trắng). 
Hoặc có khi sự tĩnh tại chỉ là tạm thời, trong khoảnh khắc: 
- "Trên một cây bàng nhỏ, những lộc mới đâm, màu xanh non hơi 
phơn phớt hồng, trông như một đàn bướm ở đâu bay về đậu yên" (Đôi 
bạn). 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
- "Dưới chân nàng một vùng cỏ bóng loáng ánh nắng, trông nắng 
in trên nền trời như hình một con chim trắng giương giương đôi cánh 
sắp bay" (Đôi bạn). 
Qua cách so sánh này, ta thấy cảnh vật hiện lên rất sống động, rất 
đẹp - một vẻ đẹp trong trẻo, lãng mạn. Đồng thời chứng tỏ khả năng liên 
tƣởng phong phú, sự tài tình của nhà văn kiêm hoạ sĩ Nhất Linh trong 
việc nắm bắt những vẻ đẹp linh động của ngoại cảnh. Những so sánh đó 
cũng thể hiện một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, sự gắn bó thiết tha với 
cuộc đời, với con ngƣời và tạo vật, kể cả ở những so sánh rất cụ thể, rất 
thực tế, chẳng hạn: "Ở ngoài vườn, tiếng ếch nhái ran lên từng loạt, 
thỉnh thoảng có tiếng chẫu chuộc kêu nghe lõm bõm như tiếng chân rút 
mạnh của một người lội trong bùn" (Đôi bạn). Phải là ngƣời gắn bó với 
cuộc sống nơi thôn quê, hay để ý quan sát và suy tƣởng mới có hình ảnh 
so sánh chính xác và độc đáo đến vậy. 
Các so sánh của Nhất Linh dù gắn với hiện thực hay bay bổng 
lãng mạn cũng đều có nét chung là rất đẹp, gợi cảm và tinh tế, khác với 
so sánh của Thạch Lam bình dị và chân chất. Thạch Lam rất hay sử dụng 
so sánh cảm giác của tâm hồn với một sự vật bình dị hoặc yếu ớt thanh 
mảnh, chẳng hạn: 
- "Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời này, cuộc đời một cô hàng 
xén từ tuổi trẻ đến tuổi già toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia 
như một tấm vải thô sơ" (Cô hàng xén). 
- "Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi, không biết, như 
chiếc đèn con của chị Tý chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ" (Hai đứa 
trẻ). 
- "Tất cả những cái đó bây giờ xa quá. Tâm trí tôi giãn ra, như 
một cây tre uốn cong trở lại cái thẳng thắn lúc thường" (Sợi tóc). 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
Những hình ảnh: "Tấm vải thô" cuộc đời đƣợc dệt lên bằng toàn 
sợi khó nhọc (Cô hàng xén), ngọn đèn con của chị Tí và đêm đen nơi 
phố huyện (Hai đứa trẻ), cây tre uốn cong lại thẳng (Sợi tóc) là những 
hình ảnh rất đỗi bình dị, thân thuộc với cuộc sống con ngƣời vùng quê. 
Những so sánh này đã gợi nên trong lòng ngƣời đọc bao xót xa thƣơng 
cảm cho những cuộc đời tăm tối, khó nhọc. 
Trong tác phẩm của Nhất Linh còn xuất hiện những so sánh giữa 
đặc điểm, tính chất, hoạt động của ngƣời với đặc điểm, tính chất, hoạt 
động của sự vật mang màu sắc nhục cảm, để tôn vinh cái đẹp hình thể 
của con ngƣời, thể hiện những xúc cảm mãnh liệt, những khao khát thầm 
kín trong tâm hồn những ngƣời đang yêu: 
- "Chàng như trông thấy trước mặt bàn tay hơi rung rung của 
Loan, hôm nào, cời những quả đậu non trong rá, chàng nhớ đến cái cảm 
tưởng ngây ngất được thấy đôi môi Loan mềm và thơm như hai cánh hoa 
hồng…" (Đôi bạn). 
- "Lụa áo Trương thấy mềm như da người và một mùi thơm hơi 
cay - không giống hẳn mùi thơm của nước hoa xông lên ngây ngất" 
(Bướm trắng). 
- "Lần đầu chàng nhận thấy vẻ đẹp của cái cổ tròn màu trắng dịu 
và nom như một búp hoa ngọc lan sắp nở" (Bướm trắng). 
- " Quả na phơi nắng suốt ngày, những múi na âm ấm và thơm 
phảng phất như môi người yêu" (Đôi bạn). 
- "Hoa mộc thơm như cô con gái quê mới dậy thì" (Lạnh lùng). 
Dù có dùng phƣơng thức so sánh nào thì các hình ảnh so sánh của 
Nhất Linh cũng đều có nét chung là rất đẹp, gợi lên trong lòng ngƣời 
những cảm giác trong sáng, lãng mạn. Đây là nét khác với Thạch Lam 
khi ông sử dụng những so sánh tƣơng tự nhƣ vậy, chẳng hạn: 
- "Bác Lê là một người đàn bà nhà quê chắc chắn và thấp bé, da 
mặt và chân tay nhăn nheo như một quả trám khô… Mẹ con bác ở một 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
căn nhà cuối phố, một cái nhà lụp xụp như những căn nhà khác… Mùa 
rét thì rải ổ rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm ngủ trên đó, trông như một 
cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc" (Nhà mẹ Lê). 
- "Nhưng đến mùa rét… Dưới manh áo rách nát thịt chúng nó 
thâm tím lại vì rét như thịt con trâu chết " (Nhà mẹ Lê). 
 Có thể thấy rằng "chuẩn so sánh ở đây dưới mức bình thường, là: 
quả trám khô bị rút hết nước nhăn nheo đến thảm hại; là ổ chó, thịt trâu 
chết. Nhưng có lẽ không gì có thể gợi ra hình ảnh mẹ con bác Lê trúng 
hơn những sự vật tầm thường này" [20; 90]. Những so sánh này đã thể 
hiện một cách xác thực thân phận thấp hèn và cuộc đời cơ cực, đắng cay 
của họ, thể hiện một cái nhìn hiện thực của Thạch Lam về cuộc sống. 
Qua cách so sánh của Thạch Lam, ta có thể nhận ra điểm giống và 
khác nhau khá rõ trong cách sử dụng ngôn từ giữa hai nhà văn vừa là 
đồng nghiệp, vừa là anh em này. Bên cạnh những so sánh nhằm làm tăng 
giá trị gợi hình và biểu cảm nhƣ các nhà văn khác trong Tự lực văn đoàn, 
Nhất Linh còn rất hay sử dụng kiểu so sánh mang đậm chất ẩn dụ, chúng 
là những so sánh thực sự độc đáo, thực sự là điểm nhấn cho tác phẩm, 
buộc ngƣời đọc phải tìm hiểu, phải khám phá xem vì sao tác giả lại so 
sánh nhƣ vậy. Chẳng hạn trong Đôi bạn, tác giả đã để Dũng ví tình yêu 
của mình với Loan "như một ngôi sao nhỏ ở một góc trời chỉ riêng đẹp, 
riêng quý với chàng chính vì chàng đã chọn nó và không cho ai biết". 
Cách so sánh ấy vừa gợi đƣợc vẻ đẹp, lung linh kì diệu của tình yêu 
Dũng giành cho Loan, vừa biểu tƣợng cho tình yêu ấy mong manh, xa 
vời, suốt đời Dũng khao khát nhƣng không thể nào với tới đƣợc. 
Một lần nữa, cũng trong tác phẩm này, Dũng lại có một ý tƣởng so 
sánh rất thú vị: "những con đom đóm bay qua ao bèo lúc tắt lúc sáng 
như những ngôi sao lạc biết thổn thức". Để hiểu đƣợc hết ý nghĩa của so 
sánh này, chúng ta không thể chỉ đọc riêng nó mà phải liên hệ với các 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
câu khác trong truyện. Khi Dũng có câu ví này là lúc chàng đang đi cùng 
Loan vào một buổi tối mà trong lòng đang ngập tràn cảm xúc yêu thƣơng 
dành cho Loan. Cảm xúc ấy dâng trào mãnh liệt nhƣ đã lên đến đỉnh cao, 
nhƣng Dũng lại không đủ can đảm nói ra. Những con đom đóm nhắc lại 
kỷ niệm thời thơ ấu bên Loan - cô bạn nhỏ hàng xóm và nhƣ trƣớc Dũng 
ví tình yêu của mình với ngôi sao, thì nay kỷ niệm tuổi thơ lại càng làm 
cho tình yêu ấy thêm đậm đà. Cái nhấp nháy của con đom đóm chính là 
ngôi sao tình yêu trong lòng chàng bởi nó cũng đang nhấp nháy vì thổn 
thức, vì xúc động, vì rạo rực - một nỗi rạo rực kín đáo. "Ngôi sao lạc " ấy 
cũng xa vời, cũng không thể bắt đƣợc nhƣ đom đóm không bị đánh lừa 
sà xuống cùng hai ngƣời - tình yêu của Dũng cũng vậy, thổn thức nhƣng 
thật buồn! 
Nhất Linh đã sáng tạo ra nhiều so sánh hết sức độc đáo, nhiều ẩn 
ý. Trong Bướm trắng, lúc gặp Thu buổi đầu, ý nghĩ so sánh đầu tiên ập 
đến trong Trƣơng đó là sự kiêu hãnh của Thu chỉ làm cho sắc đẹp của 
nàng "ý vị hơn lên như chất chua của một quả mơ". Quả mơ ấy hấp dẫn 
thật, nhƣng để có thể thƣởng thức đƣợc nó thì ngƣời ta cũng phải nếm 
trải rất nhiều vị chua của nó. Còn Thu nhận ra tình yêu của mình với 
Trƣơng khiến cho cuộc sống của nàng khác biệt hơn trƣớc, nhiều dƣ vị 
hơn trƣớc, nhƣng trong cái dƣ vị ngọt ngào không phải là không có chút 
gợn lòng vì những dƣ vị buồn, có lẽ không phải vô tình Nhất Linh để cho 
nàng ví đời sống hiện tại của nàng so với những cái đã qua "có vị hơn…, 
đậm đà hơn, một vị hương âm thầm không rõ rệt, ấm áp như hương thơm 
đọng trong quả cam mới hái ngoài nắng vào chưa bóc vỏ". 
Những so sánh này của Nhất Linh thật sắc sảo, tinh tế, vừa mang 
lại sự sinh động gợi hình, vừa ẩn chứa trong đó biết bao cảm xúc, để 
ngƣời đọc phải suy nghĩ, liên tƣởng, chiêm nghiệm mới có thể khám phá 
ra. Không phải giản đơn chỉ là so sánh, Nhất Linh còn để một khoảng 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
trống cho ngƣời đọc nhận biết ý nghĩa của so sánh đó, để đồng cảm, sẻ 
chia cùng nhân vật sâu sắc hơn. 
So sánh là thủ pháp thƣờng thấy trong văn học. Nó có tác dụng 
làm phong phú các hình ảnh, cảm giác… cho tác phẩm. Các nhà văn 
mƣợn nó để thể hiện, phát huy khả năng tƣởng tƣợng, liên tƣởng vốn đã 
nhiều màu vẻ của mình, giúp chúng ta có ấn tƣợng, cảm nhận đậm nét 
hơn những điều nhà văn đang truyền đạt. Bằng tài năng của mình, Nhất 
Linh đã tạo đƣợc những nét riêng trong cách sử dụng thủ pháp nghệ 
thuật này, thể hiện cá tính sáng tạo, cách nhìn riêng của ông về con 
ngƣời, về cuộc sống. 
Để thực hiện khát vọng "đi sâu vào tâm hồn ngƣời đời", Nhất Linh 
đã tạo ra đƣợc những cách dùng từ mới mẻ, tinh tế, giàu khả năng biểu 
cảm, gợi hình. Các phép tu từ của ông đã diễn tả thành công những tâm 
trạng, những trạng thái cảm xúc mong manh đầy biến ảo, phức tạp, 
không dễ nắm bắt trong nội tâm con ngƣời, đó là điều mà không phải 
nhà văn nào cũng có thể làm đƣợc. Những đặc sắc trong cách dùng từ 
của Nhất Linh đã khẳng định tài năng của ông trong sáng tạo từ ngữ, góp 
phần đƣa ngôn ngữ văn học dân tộc đạt đến độ trong sáng, tinh tế, phong 
phú. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
C - KẾT LUẬN 
1. Nhất Linh là vị “chủ soái” vững vàng của nhóm Tự lực văn 
đoàn - tổ chức văn học có vị trí quan trọng trong quá trình hiện đại hoá 
nền văn học dân tộc vào những năm 30 của thế kỷ XX. Không chỉ điều 
hành mọi hoạt động của Văn đoàn, mà ông còn đi đầu trong sáng tác 
theo những tôn chỉ mà tổ chức đã đề ra. Với sự chủ động, sáng tạo trong 
sử dụng ngôn ngữ, Nhất Linh đã tuân thủ và thực hiện đƣợc tôn chỉ của 
Văn đoàn là "xây dựng một lối văn giản dị, ít chữ nho, một lối văn thật 
có tính cách An Nam". 
2. Lớn lên trong môi trƣờng văn hoá xã hội Việt Nam những năm 
đầu thế kỷ XX với nhiều biến động phức tạp, Nhất Linh đã tiếp nhận và 
cộng hƣởng đƣợc khát vọng mãnh liệt của lớp nhà văn cùng thế hệ 
trong việc xây dựng một nền quốc văn mới. Ông cũng đã tiếp thu đƣợc 
những thành tựu của ngôn ngữ văn chƣơng tiếng Việt bằng chữ quốc ngữ 
của lớp nhà văn trƣớc qua văn chƣơng và báo chí đƣơng thời. Song, yếu 
tố quan trọng nhất tác động đến ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh là 
chuyến du học ở Pháp. Sau chuyến đi Pháp, không chỉ quan điểm về 
cuộc đời và nghệ thuật thay đổi mà ngôn ngữ nghệ thuật của ông cũng có 
sự đổi mới rõ rệt. 
3. Về phƣơng diện ngôn ngữ nghệ thuật, Nhất Linh luôn tích cực, 
chủ động cách tân, sáng tạo. Từ Nho phong và Người quay tơ đến các 
tác phẩm viết trong giai đoạn tham gia Tự lực văn đoàn, ngôn ngữ nghệ 
thuật của Nhất Linh đã thoát dần tính “biền văn”, “sáo ngữ” để chuyển 
sang ngôn ngữ văn xuôi hiện đại. Trong các sáng tác ở giai đoạn Tự lực 
văn đoàn, ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh vận động theo hƣớng ngày 
càng đi sâu vào biểu hiện nội tâm nhân vật. Nếu nhƣ ở Đoạn tuyệt và 
Lạnh lùng, ngôn ngữ mới chỉ miêu tả đƣợc tâm trạng từ cái nhìn bên 
ngoài; thì đến Đôi bạn và Bướm trắng, ngôn ngữ đã nhập đƣợc vào 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
dòng nội tâm của nhân vật, đã chạm đƣợc cả tới những vùng "mờ tối", 
"khuất khúc", cả phần tiềm thức, bản năng. Qua các tác phẩm, ngôn ngữ 
nghệ thuật của Nhất Linh đã chuyển tải đƣợc quan điểm sáng tác và 
cảm xúc thẩm mĩ của nhà văn. 
Tuy chƣa đạt đến đỉnh cao trong việc thể hiện những trạng thái nội 
tâm căng thẳng, giằng xé đau đớn, nhƣng ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất 
Linh đã rất thành công khi miêu tả những trạng thái cảm xúc nhẹ nhàng, 
mong manh và đầy biến ảo của tâm hồn. Nhất Linh đã góp phần đƣa 
ngôn ngữ văn học dân tộc đạt đến độ trong sáng, tinh tế và uyển chuyển. 
Nét đặc sắc trong ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh là ở hệ 
thống từ ngữ phong phú, mới mẻ; những hình ảnh so sánh đẹp, giàu tính 
biểu cảm; cách diễn đạt tinh tế những rung động nội tâm sâu kín hoặc 
những xúc cảm mơ hồ, mong manh. Nhất Linh đã đem đến cho văn học 
đƣơng thời một lối văn mới mẻ, cuốn hút, làm say lòng ngƣời đọc - một 
lối văn đặc biệt thích hợp với tầng lớp thanh niên trí thức thành thị nhiều 
mơ mộng, lãng mạn. 
4. Do “vùng thẩm mĩ” gắn với tầng lớp trung lƣu thành thị, nên 
ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh là thứ ngôn ngữ thi vị hoá cuộc sống, 
thiếu hơi thở khoẻ khoắn, sôi động của cuộc đời rộng lớn; thiếu chất 
sống “tƣơi ròng” của thực tế so với ngôn ngữ văn xuôi hiện thực cùng 
thời. Điểm hạn chế của ngòi bút Nhất Linh cũng là hạn chế của ngôn ngữ 
văn xuôi Tự lực văn đoàn và ngôn ngữ văn học lãng mạn đƣơng thời nói 
chung, 
 5. Song, nhìn một cách khái quát, trong giai đoạn sáng lập và 
tham gia nhóm Tự lực văn đoàn, với tƣ cách nhà văn, Nhất Linh đã có 
nhiều tìm tòi, sáng tạo và thành công. Nói một cách hình tƣợng, ông là 
một trong số không nhiều nhà văn đã bƣớc vững vàng từ "phòng chờ" lên 
"chuyến tàu" văn học của thời kì mới; và chính ông cũng góp phần tạo 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
nội lực lớn giúp "con tàu" tăng tốc, nhanh chóng tiến thẳng vào quỹ 
đạo hiện đại. Nhất Linh xứng đáng đƣợc ghi danh đối với quá trình hiện 
đại hoá nền văn học Việt Nam. 
PHỤ LỤC 1 
Nhất Linh thời Tự Lực Văn Đoàn 
PHỤ LỤC 2 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
Một bức họa của Nhất Linh 
PHỤ LỤC 3 
KHẢO SÁT CÁC CHỮ TRONG TÁC PHẨM NHO PHONG 
KHÁC VỚI QUY TẮC CHÍNH TẢ HIỆN NAY 
STT 
Cách viết 
trong tác phẩm 
Trang văn bản 
sử dụng 
Cách viết 
 hiện nay 
1 dau 2,52 rau 
2 suềnh soàng, xuềnh soàng 3,108 xuềnh xoàng 
3 xuốt (ngày, đêm, đời, tháng) 3,7,10,21,22,27,28,39, 
41,44,47,48,52,105,108, 
109,110,112,119,121 
suốt 
4 truyện (nói truyện) 4,7,12,14,15 chuyện 
5 Danh (túp danh) 8 gianh 
6 Dàn (thiên lí) 9 Giàn 
7 Sinh (sinh đẹp, sinh quá) 9,109 xinh 
8 Sinh sắn 16 Xinh xắn 
9 rầm (mƣa rầm) 10,33 dầm 
10 Rong (rong đèn) 120 Dong 
(chongđèn) 
11 Chán (bóp chán) 12,35,98 Trán 
12 Giáng (ngƣợng ngùng) 12,19,26,80,104,120 dáng 
13 trải (tóc) 13 chải 
14 rứt (rứt tình, rứt tay) 13, 17 dứt 
15 Soá (trắng soá) 13, 39, 53 xoá 
16 Sa (sa lắc sa lơ) 13 xa 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
STT 
Cách viết 
trong tác phẩm 
Trang văn bản 
sử dụng 
Cách viết 
 hiện nay 
17 rời (rời tay) 13 dời 
18 Trõng (cái trõng, lều trõng) 14,92 chõng 
19 trấn (cửa trấn song) 16,37 chấn 
20 xẫm (tối xẫm) 19 sẫm 
21 Dũ (ủ dũ) 19 rũ 
22 Soay (soay sở) 21,102,111 xoay 
23 Soàng (áo soàng) 21 xoàng 
24 rỗ (cúng rỗ) 23 giỗ 
25 xuông (canh xuông) 23,108 suông 
26 dơm dớm 26 rơm rớm 
27 Sanh sao, xanh sao 27,57,105,114,122 Xanh xao 
28 Soãi (tay bỏ soãi) 27 xoãi 
29 Sé (sé ruột, sé gan) 27,79 xé 
30 Soa (đầu) 27 xoa 
31 Suôi (xong suôi, suôi gió…) 32,78,89,102 xuôi 
32 Giã (giã rời) 32 Rã rời 
33 dắp (dắp bụng) 34 rắp 
34 giở (giở dang, hay giở…) 37,38,55,56,59 dở 
35 xụt (xụt sùi) 114 sụt 
36 dốn (cắt dốn) 108 rốn 
37 Giòng (giòng chữ, giòng 
dõi, giòng nƣớc…) 
40, 53, 55, 78, 113 dòng 
38 Xiêng (xiêng năng) 41 siêng 
39 giỗ (dạy giỗ) 42 dỗ 
40 Chơn (ăn trắng mặc chơn) 44 trơn 
41 sấu sa 44 xấu xa 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
STT 
Cách viết 
trong tác phẩm 
Trang văn bản 
sử dụng 
Cách viết 
 hiện nay 
42 tróng (tróng thành, tróng mạnh) 45, 60, 103 chóng 
43 dộn (bận dộn) 47 rộn 
44 Say (say thóc) 47 xay 
45 Xút (xút kém) 52, 101 sút 
46 Dun (dun rủi) 54 Run rủi 
47 Dƣơm dƣớm 54, 62, 80 Rƣơm rƣớm 
48 Xa xút 56, 84 Sa sút 
49 Giao (giao cắt) 56 Dao 
50 Giòng rã, giòng giã 60, 69, 84 Ròng rã 
51 sếp (thu sếp) 61 xếp 
52 Giƣơng (cái giƣơng) 62 rƣơng 
53 Soã (tóc soã) 63 xoã 
54 Chơ chẽn 66 Trơ trẽn 
55 dủ (dủ đi) 66, 88, 91 rủ 
56 Giò (giò la) 79 Dò 
57 Chôi (chôi bập bềnh) 68 trôi 
58 Sách (sách gói) 74 xách 
59 Trài (thuyền trài) 75, 77, 79, 84 chài 
60 Trông (trông chênh) 76 Chông chênh 
61 Giòng giòng 117 Ròng ròng 
62 Cháp (cái cháp) 89, 90 tráp 
63 Chƣng (sáng chƣng) 90 trƣng 
64 chống (vác cờ vác chống) 91 trống 
65 chạc (chạc năm sáu mƣơi) 92 trạc 
66 rễ (rễ chịu) 92 dễ 
67 trậm (trậm quá) 93 chậm 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
STT 
Cách viết 
trong tác phẩm 
Trang văn bản 
sử dụng 
Cách viết 
 hiện nay 
68 Chơi (ma chơi) 95 trơi 
69 Sô (sô đẩy) 95 Xô 
70 sƣớng (sƣớng danh) 95,96,97,98,119,120,121 xƣớng 
71 dật (dật mình) 98 giật 
72 trống (trống lại) 101 chống 
73 sốc (sốc vác) 103 xốc vác 
74 trí (ngã trí) 103 chí 
75 Dàn dụa 105 Ràn rụa 
76 xuốt (sáng xuốt) 109 suốt 
77 chằn chọc 118 trằn trọc 
78 Chôi ( trôi chẩy) 119 Trôi 
79 Trói (trói lọi) 120 Chói 
80 Rong (trống rong) 120 giong 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
* Tác phẩm của Nhất Linh 
1. Nho phong - Nghiêm Hàm ấn quán xuất bản, Hà Nội, 1926 
2. Người quay tơ - Đời nay xuất bản, Sài Gòn, 1968. 
3. Anh phải sống- Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1994 
4. Gánh hàng hoa- Nhất Linh, Khái Hƣng, Nxb Tổng Hợp, 1998 
5. Đời mưa gió- Nhất Linh, Khái Hƣng, Nxb Đại học và giáo dục chuyên 
nghiệp, Hà Nội, 1991 
6. Nhất Linh truỵện ngắn, (Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn và giới thiệu), Nxb 
Văn học, Hà Nội ,2000 
7. Nắng thu - in trong Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930-1945, Tập II, 
Nxb KHXH Hà Nội, 1989 
8. Đoạn tuyệt - In trong Tuyển tập tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, Nxb Hội 
nhà văn, Hà Nội, 1999 
9. Đi Tây - Nxb Đời nay, Sài Gòn, 1968 
10. Lạnh Lùng - In trong Tuyển tập tiểu thuyết Tự lực văn đoàn - tập 1; 
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1999 
11. Thế rồi một buổi chiều, Đời nay xuất bản, Sài Gòn, 1968 
12. Đôi Bạn, Nxb Đại học và giáo dục Chuyên Nghiệp, Hà Nội, 1991 
13. Bướm trắng , Nxb Văn học Hà nội , 1996 
14. Dòng sông thanh thuỷ - 3 tập , Nxb Đời nay , 1961 
15. Viết và đọc tiểu thuyết , Nxb Đời nay , Sài Gòn , 1972 
16. Xóm cầu mới - Nxb Phƣợng Giang, Sài Gòn , 1973 
* Tác phẩm văn học và các sách - báo - tạp chí khác 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
17. Vũ Tuấn Anh (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học 
Quốc Gia, Hà Nội. 
18. Phạm Thị Phƣơng Anh (2006), Đặc trưng ngôn ngữ tiểu thuyết Tự lực 
Văn đoàn, luận văn thạc sĩ khoa học văn học, Hà 
Nội. 
19. Lại Nguyên Ân (1998), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học 
Quốc Gia, Hà Nội. 
20. Nguyễn Thị Song Bình (1998), Truyện ngắn Nhất Linh trước năm 1945, 
luận văn thạc sĩ khoa học văn học, Hà Nội. 
21. Nam Cao (1971), Sống mòn, tiểu thuyết in lần thứ ba, NXB 
Văn học, Hà Nội. 
22. Ân Thị Vân Chi (1998), Độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết Cửa 
biển của Nguyên Hồng, luận văn thạc sĩ khoa học 
văn học, Hà Nội. 
23. Nguyễn Huệ Chi (1989), Tuyển tập Hoàng Ngọc Phách, Nxb Văn 
học, Hà Nội. 
24. Nguyễn Huệ Chi (1996), Hoàng Ngọc Phách đường đời và đường 
văn, NXB Văn học, Hà Nội. 
25.Phong Lê , Huệ Chi (1960), "Vài vấn đề văn học sử giai đoạn 1930 - 
1945 nhân đọc cuốn Lƣợc thảo lịch sử văn học 
Việt Nam của nhóm Lê Quý Đôn", Tạp chí văn 
học, (số 5). 
 26. Trƣơng Chính (1939), Dưới mắt tôi, Nxb Thuỵ Ký, Hà Nội. 
27. Trƣơng Chính (1989), "Tự lực văn đoàn", Báo người giáo viên 
nhân dân (số đặc biệt 27 -28 - 29 - 30 - 31 tháng 
7). 
28. Vũ Thị Khánh Dần (1997), Tiểu thuyết của Nhất Linh trước cách 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
mạng tháng Tám, Luận án PTS, viện Văn học; 
Hà Nội. 
29. Nguyễn Đức Đàn (1958), "Mấy ý kiến về Nhất Linh và Khái Hƣng 
- hai nhà văn tiêu biểu trong Tự lực văn đoàn", 
Tập san Văn- Sử- Địa, (số 46). 
30. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương 
Tây hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
31. Đặng Anh Đào (1994), "Văn học Pháp và sự gặp gỡ với văn học 
Việt Nam 1930-1945", Tạp chí văn học (số 7). 
32. Phan Cự Đệ (1974), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Tập I, 
NXB ĐH& THCN, Hà Nội. 
33. Phan Cự Đệ (1981), Những đặc trưng thẩm mĩ của ngôn ngữ 
tiểu thuyết, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
34. Phan Cự Đệ 
 (Chủ biên) 
(2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX - Những vấn 
đề lịch sử và lý luận, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
35. Hà Minh Đức (1999), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
36. Lê Chí Dũng 
 Trần Đình Hƣợu 
1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, 
NXB ĐH & GDCN, Hà Nội. 
37.GN Popelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học- Tập II, 
Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Lê NgọcTrà dịch, 
NXB Giáo dục, Hà Nội. 
38. Lê Cẩm Hoa 
 (Tuyển chọn và giới thiệu) 
(2000), Nhất Linh con người và tác phẩm, NXB 
Văn học, Hà Nội. 
39. Nguyễn Công Hoan (2000), Bước đường cùng, NXB Đồng Nai. 
40. Nguyễn Văn Hạnh (1999), Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ, 
NXB Giáo dục, Hà Nội. 
41. Đỗ Đức Hiểu (1990), "Những lớp sóng ngôn từ trong Số đỏ"; 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
Tạp chí ngôn ngữ (số 4), quý VI, Hà Nội. 
42. Nguyễn Hữu Hiếu (1994), "Mấy suy nghĩ về nhà văn Nhất Linh - 
Nguyễn Tƣờng Tam", Tạp chí văn học (số 4). 
43. Mai Hƣơng 
 (Tuyển chọn) 
(2000), Nhất Linh- cây bút trụ cột của Tự lực văn 
đoàn, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 
44. Mai Hƣơng 
 (Tuyển chọn) 
(2000), Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học 
dân tộc, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 
45. Nguyễn Thị Mai 
Hƣơng 
(2008), Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu 
thuyết của Nhất Linh từ Đôi bạn đến Bướm 
trắng, luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn, Thái 
Nguyên. 
46. Khái Hƣng (1999) Hồn bƣớm mơ tiên, Tuyển tập Tự lực văn 
đoàn, (Tập II), NXB Hội nhà văn. 
47. Khái Hƣng (1999) Nửa chừng xuân, Tuyển tập Tự lực văn 
đoàn, (Tập II), NXB Hội nhà văn. 
 48. Nguyễn Hoành Khung (1983), Tự lực văn đoàn, Từ điển văn học, (Tập 
II), Nxb KHXH, Hà Nội. 
49. Nguyễn Hoành Khung (1989), Văn xuôi lãng mạn Việt Nam (1930 - 
1945), tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội 
50. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội 
nhà văn Hà Nội. 
51. Phong Lê (2004), "Chữ viết và yêu cầu xây dựng một nền 
quốc văn mới ở Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ 
XX", Tạp chí Hán Nôm, số 5, (66). 
52. Phạm Quang Long (1990), "Tự lực văn đoàn - một kiểu tƣ duy văn 
học", Tạp chí khoa học, (số 2), Trƣờng Đại học 
tổng hợp Hà Nội. 
53. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
54. Phƣơng Lựu (Chủ biên) (1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
55.Phƣơng Lựu (Chủ biên) (2006), Lý luận văn học , Nxb Giáo dục Hà Nội. 
56. Phƣơng Lựu (1995), Tìm hiểu lí luận văn học phương Tây 
hiện đại, NXB văn học, Hà Nội. 
57. Phƣơng Lựu (1997), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm 
văn học trung đại Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà 
Nội. 
58. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB 
Văn học, Hà Nội. 
59. Nguyễn Đăng Mạnh 
(Sƣu tầm, tuyển chọn) 
1998), Tuyển tập Vũ Trọng Phụng tập 1, NXB 
Văn học, Hà Nội. 
60. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật 
của nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
61. Nguyễn Đăng Mạnh (1997), "Quá trình hiện đại hoá văn học Việt 
Nam nửa đầu thế kỷ XX", Tạp chí văn học (số 
5). 
62. Nam Mộc (1962), "Sai lầm chủ yếu trong cuốn Viết và đọc 
tiểu thuyết của Nhất Linh", Tạp chí văn học (số 
7). 
63. Tú Mỡ (1988), "Trong bếp núc của Tự lực văn đoàn", 
Tạp chí văn học (số 5, 6). 
64. Tôn Thảo Miên 
 (Tuyển chọn) 
(2007), Truyện ngắn Thạch Lam tác phẩm và lời 
bình, NXB Văn học, Hà Nội. 
65. Lê Hồng My (2004), Lời văn nghệ thuật trong văn xuôi 
Nguyên Hồng, đề tài nghiên cứu khoa học cấp 
Bộ, ĐHSP Thái Nguyên. 
66. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, trƣờng 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
viết văn Nguyễn Du, Hà Nội. 
67. Nguyễn Đăng Na (2003), Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại - 
những vấn đề văn xuôi tự sự, NXB Giáo dục, Đà 
Nẵng. 
68. Nguyễn Đăng Na (2001), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, 
tập 2, NXb Giáo dục, Hà Nội 
69. Lê Bá Hán, Trần Đình 
Sử, Nguyễn Khắc Phi 
(đồng chủ biên) 
(1992), Từ điển thuật ngữ Văn học, Nxb Giáo 
dục, Hà Nội. 
 70.Vũ Ngọc Phan (1994), Nhà văn hiện đại, Tập I, NXB Văn học - 
Hội nghiên cứu giảng dạy văn học thành phố Hồ 
Chí Minh 
71. Hoàng Ngọc Phách (1988), Tố Tâm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
72. Hà Đình Sơn (2006), Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu 
thuyết "Bướm trắng" của Nhất Linh, luận văn 
thạc sĩ ngữ văn, Hà Nội. 
73. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb GD, Hà Nội. 
74. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại, 
NXB Giáo dục, Hà Nội. 
75. Hoài Thanh, Hoài Chân (2006), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà 
Nội. 
76. Bích Thu (Tuyển chọn) (1999, Nam Cao - về tác gia và tác phẩm, NXB 
Giáo dục, Hà Nội. 
77. Ngô Văn Thƣ (2005), Tiểu thuyết của Khái Hưng, luận văn tiến 
sĩ khoa học ngữ văn, Hà Nội. 
78. Phạm Thị Thƣ (2008) Quan niệm văn chương của Xuân Diệu 
trước 1945, Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục, 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
Thái Nguyên 
79. Trần Thị Trâm (2003), Hoàng Ngọc Phách - ngƣời đổi mới tiểu 
thuyết, NXB Thanh niên, Hà Nội. 
80.Trần Thị Việt Trung (2002), Lịch sử phê bình văn học Việt Nam giai 
đoạn từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945, NXB Đại 
học Quốc gia, Hà Nội. 
 81. Hoàng Tiến (1994), Chữ quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ 
viết đầu thế kỷ XX, NXB Lao động, Hà Nội. 
82. Lê Thị Dục Tú (1996), Quan niệm về con ngƣời trong tiểu 
thuyết Tự lực văn đoàn, NXB Thanh niên, Hà 
Nội. 
83. Nguyễn Thị Thuý 
Toàn 
(2004), Ngôn từ nghệ thuật trong truyện ngắn 
Thạch Lam, luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn, 
Hà Nội. 
84. Ngô Tất Tố (2000), Tắt đèn, NXB Đồng Nai. 
85. Trần Đăng Xuyền 2002), Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính 
sáng tạo, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
86. Trần Đăng Xuyền (2002), Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, Nxb 
Khoa học xã hội, Hà Nội. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
doc.pdf