PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1.Tích cực hoá hoạt động người học là vấn đề cốt lõi thuộc mục tiêu của giáo dục hiện đại
Chúng ta đang sống ở thế kỷ XXI, thế kỷ của những cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, hội nhập và phát triển. Trước tình hình đó, để hội nhập được với xu thế phát triển chung của thế giới, của thời đại, một yêu cầu cấp bách đang đặt ra đối với nền giáo dục nước ta là: phải không ngừng đổi mới hiện đại hoá nội dung và phương pháp dạy học.
Nhà trường là nơi giúp cho từng cá nhân, mỗi cá thể, mỗi công dân thay đổi triệt để quan niệm và phương pháp dạy học phù hợp với yêu cầu của thời đại ngày nay, thời đại mà mỗi con người phải năng động, tích cực và sáng tạo. Muốn học tập năng động, tích cực và sáng tạo thì phải biết cách phát huy cao độ tiềm năng của bản thân. Vì vậy, Tích cực hoá hoạt động của người học là vấn đề cốt lõi thuộc mục tiêu của giáo dục hiện đại.
Nếu chúng ta tiếp cận được mục đích của giáo dục “đào tạo ra những con người tự chủ, năng động, sáng tạo” thì nền giáo dục sẽ tạo ra được một nguồn sức mạnh to lớn. Chính vì vậy mục đích cần phải đạt của giáo dục là tích cực hoá hoạt động nhận thức của người học.
1.2. Cốt lõi của đổi mới dạy và học hiện nay là tích cực hoá hoạt động của người học
Vấn đề phát huy tính tích cực học tập của học sinh đã được đặt ra trong ngành giáo dục nước ta từ những năm 1960. Cũng ở thời điểm đó, trong các trường sư phạm đã có khẩu hiệu: “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Trong cải cách giáo dục lần hai, năm 1980, phát huy tính tích cực đã là một trong phương hướng cải cách, nhằm đào tạo những con người lao động sáng tạo làm chủ đất nước.
Thế nhưng, cho đến nay sự chuyển biến về phương pháp dạy học ở trường phổ thông chưa được là bao; phổ biến vẫn là cách dạy thông báo kiến thức định sẵn, cách học thụ động, sách vở. Tuy rằng trong nhà trường đã xuất hiện ngày càng nhiều tiết dạy tốt của các giáo viên dạy giỏi, theo hướng tổ chức cho học sinh hoạt động, tự lực chiếm lĩnh tri thức mới nhưng tình trạng chung hàng ngày vẫn là “thầy đọc - trò chép” hoặc giảng xen kẽ vấn đáp tái hiện.
Nếu cứ tiếp tục dạy học thụ động như thế, giáo dục sẽ không đáp ứng được những yêu cầu đổi mới của xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thách thức trước nguy cơ tụt hậu trên con đường của thế kỷ XXI bằng sự cạnh tranh trí tuệ đang đòi hỏi đổi mới giáo dục, trong đó có sự đổi mới căn bản về phương pháp dạy và học. Đây không phải là vấn đề của riêng nước ta mà là vấn đề đang được quan tâm ở mọi quốc gia trong chiến lược phát triển nguồn lực con người phục vụ các mục tiêu kinh tế- xã hội.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong nghị quyết Trung ương 4 khoá VII (1/1993), nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII (12/1996), được thể chế hoá trong Luật Giáo dục (12/1998), được cụ thể hoá trong các chỉ thị của Bộ GD & ĐT, đặc biệt chỉ thị số 15 (4/1999).
Luật Giáo dục, điều 24.2, đã ghi “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học” .Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới học tập chủ động, sáng tạo, chống lại thói quen học tập thụ động.
1.3. Các giờ VHS chưa phát huy được tính tích cực hoạt động của học sinh
Trong thực tế giảng dạy môn văn ở nhà trường nói chung và dạy học văn học sử nói riêng còn nằm trong quĩ đạo của lối dạy học cũ không phát huy được năng lực học tập của học sinh. Giảng dạy theo phương pháp thuyết giảng hay thông báo một chiều chỉ thích ứng với nền nông nghiệp và công nghiệp cách đây hàng chục thế kỷ, khi tri thức nhân loại còn ít, yêu cầu của giáo dục lúc đó chỉ cần những con người “thừa hành và thừa hành sáng dạ” chứ không phải là con người năng động sáng tạo, biết giải quyết vấn đề do thực tiễn đặt ra, biết tự tìm kiếm việc làm” như hiện nay. Với các bài văn học sử, lượng kiến thức nhiều, khó và mới nên giáo viên chủ yếu sử dụng phương pháp thuyết trình. Dạy thuyết trình thì kết quả đánh giá tuỳ thuộc vào khả năng tái hiện lượng kiến thức nhiều hay ít theo lời giảng của giáo viên hay theo sách giáo khoa, khả năng sáng tạo của học sinh không có cơ hội để phát triển. Lối dạy này, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng giảng dạy các giờ văn học sử.
Đối với các bài văn học sử, làm thế nào để học sinh không thờ ơ với bài giảng, hứng thú say mê tìm hiểu và phát huy được tính sáng tạo? Làm thế nào để rèn luyện năng lực tự nghiên cứu, tự hoạt động trên văn bản cho học sinh? Vì vậy, những biện pháp tích cực hoá hoạt động của học sinh trong giờ văn học sử ở nhà trường trung học phổ thông giúp các em hình thành năng lực tự nghiên cứu, tự hoạt động trên văn bản là việc làm cần thiết, sát thực, đúng với xu thế đổi mới phương pháp phù hợp với chiến lược “phát huy nội lực của người học”, đáp ứng mục tiêu giáo dục, như nghị quyết II của ban chấp hành Trung ương khoá VIII đã nghi: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học” .
Là giáo viên tham gia trực tiếp công tác giảng dạy môn Ngữ Văn ở nhà trường trung học phổ thông tôi luôn trăn trở làm thế nào để nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy- học các giờ văn học sử? Bởi vậy, việc đề ra những biện pháp tích cực hoá hoạt động học của học sinh trung học phổ thông trong giờ văn học sử là một phương thức góp phần đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy loại bài văn học sử nói riêng. Trên cơ sở đó, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập, đồng thời rèn luyện và hình thành ý chí cao đẹp của mỗi con người trên con đường lập nghiệp.
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.1.Tích cực hoá hoạt động người học là vấn đề cốt lõi thuộc mục tiêu của giáo dục hiện đại 1
1.2. Cốt lõi của đổi mới dạy và học hiện nay là tích cực hoá hoạt
động của người học . 1
1.3. Các giờ VHS chưa phát huy được tính tích cực hoạt động của học sinh
. 2
2. Lịch sử vấn đề 4
3. Mục đích nghiên cứu 6
4. Giả thuyết của luận văn 6
5. Phương pháp nghiên cứu 6
6. Giới hạn của đề tài 7
7. Nhiệm vụ của đề tài 7
8. Kết cấu của luận văn . 7
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY, HỌC TẬP BÀI VĂN HỌC SỬ Ở NHÀ TRưỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 9
A.CƠ SỞ LÝ LUẬN 9
1. Tính tích cực và tích cực hoá hoạt động của học sinh là cơ sở để tổ chức các hoạt động học tập của học sinh THPT 9
2. Phương pháp tích cực nhằm hoạt động hoá, tích cực hoá nhận thức của người học . 11
3. Sự phát triển tâm lý, tư duy ở học sinh trung học phổ thông, tạo tiền đề cho việc dạy học VHS theo hướng tích cực hoá hoạt động người học . 14
4. Khả năng tổ chức hoạt động học tập của học sinh THPT 17
5. Bài học văn học sử tạo điêù kiện thuận lợi cho việc tổ chức các biện pháp tích cực hoá hoạt động của người học 19
5.1 Đặc trưng của bài văn học sử 19
5.2 Thuận lợi và khó khăn của bài văn học sử khi tổ chức các hình thức học tập của học sinh 22
B. THỰC TRẠNG DẠY HỌC BÀI VĂN HỌC SỬ Ở NHÀ TRưỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG . 27
1. Khảo sát tình hình dạy và học bài văn học sử của giáo viên và học sinh ở trường trung học phổ thông 27
1.1 Khảo sát giáo viên văn THPT về tình hình dạy bài văn học sử 27
1.2 Khảo sát tình hình học bài văn học sử (tác gia) . 28
2.2 Về phía học sinh . 34
Chương 2: NHỮNG ĐỊNH HưỚNG VÀ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH TRONG GIỜ VĂN HỌC SỬ . 36
I. NHỮNG ĐỊNH HưỚNG TỔ CHỨC CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT
ĐỘNG CHO HỌC SINH TRONG GIỜ VĂN HỌC SỬ . 36
1. Xác định lại vai trò của Thầy trong giờ học VHS tác gia ở nhà
trường THPT 36
2. Trả lại vai trò chủ thể sáng tạo cho mỗi cá thể trò trong giờ học
VHS tác gia ở nhà trường THPT . 38
3. Cấu trúc lại cơ chế dạy học bài VHS tác gia ở nhà trường THPT
nhằm tích cực hoá hoạt động của chủ thể- trò . 39
4. Tổ chức và xây dựng giờ học VHS tác gia ở nhà trường THPT
thành những “hoạt động dạy học”. 41
5. Xây dựng mô hình giáo án theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học 43
5.1 Bài soạn cũ . 43
5.2 Xây dựng mô hình giáo án theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học . 44
II. NHỮNG BIỆN PHÁP TÍCH CỰC HOÁ HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH
TRONG GIỜ VHS (TÁC GIA) Ở NHÀ TRưỜNG THPT . 46
1. Sử dụng câu hỏi nêu vấn đề 46
2. Tổ chức cho mỗi cá thể- trò giao tiếp đối thoại và tranh luận trên
tinh thần khoa học: “Bình đẳng, dân chủ và tự do” . 48
3. Tổ chức cho mỗi cá thể- trò tìm tòi, phát hiện hệ thống lôgic lập luận 49
4. Nêu vấn đề và tổ chức cho HS trao đổi, thảo luận theo hình thức
hoạt động nhóm 52
5. Cho học sinh tập thuyết trình một đoạn . 53
Chương 3: THIẾT KẾ THỂ NGHIỆM CÁC BIỆN PHÁP TÍCH CỰC HOÁ HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH THPT TRONG GIỜ VHS (TÁC GIA) 56
1. Mục đích thể nghiệm 56
2. Nội dung thể nghiệm 56
3. Đối tượng thể nghiệm . 56
4. Thiết kế bài học thể nghiệm: NGUYỄN TUÂN 57
4.1. Định hướng dạy học . 57
4.2 Tiến trình dạy học . 57
5 Nhận xét, đánh giá và kết quả giờ dạy thể nghiệm . 63
Một số vấn đề rút ra sau sau giờ dạy thể nghiệm . 64
PHẦN KẾT LUẬN 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 70 .
78 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1796 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những biện pháp tích cực hoá hoạt động của học sinh trung học phổ thông trong giờ văn học sử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc tìm hiểu tri
thức mới. Ngƣời học thực hiện tham gia hàng loạt hoạt động trong giờ học
nhƣ: tƣ duy, tìm tòi, phát hiện, khái quát hoá luận điểm, đàm thoại...GV đứng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
ở vị trí cƣơng vị ngƣời điều hành, tổ chức, dẫn dắt ngƣời học hoạt động. GV
đặt vấn đề- HS tri giác- GV tổ chức quá trình giải quyết vấn đề.
5. Xây dựng mô hình giáo án theo hƣớng tích cực hoá hoạt động
của ngƣời học
Tính chủ động, sáng tạo của học sinh sẽ đƣợc hình thành và phát huy
triệt để khi bài soạn của GV có định hƣớng tích cực hoá hoạt động của học
sinh. Đổi mới phƣơng pháp dạy học văn nói chung, dạy học VHS tác gia nói
riêng là sự đổi mới toàn diện, sự đổi mới mang tính hệ thống, nguyên lí, từ
mục đích, nội dung, con đƣờng, cách thức, hiệu quả. Vì vậy bài soạn của GV
cũng cần thay đổi lại.
5.1 Bài soạn cũ
Trƣớc đây, bài soạn là đề cƣơng nội dung kiến thức cần truyền thụ,
đƣợc soạn logic, chặt chẽ theo logic trình bày của trò chứ không phải logic
tiếp nhận của trò. Thực tế khảo sát mô hình bài soạn VHS tác gia ở nhà
trƣờng THPT vẫn là mẫu bài soạn theo sách giáo viên của NXB giáo dục
ban hành.
Ví dụ: Hƣớng dẫn giảng dạy bài VHS tác gia Nguyễn Trãi.
A. Mục tiêu bài học
Giúp HS:
- Thấy đƣợc Nguyễn Trãi là vị anh hùng dân tộc, một danh nhân văn
hoá, nhà tƣơng tƣởng, nhà văn, nhà thơ lớn.
- Hiểu đƣợc những đóng góp to lớn, nhiều mặt của Nguyễn Trãi đối với
văn học dân tộc, cụ thể là văn chính luận và thơ chữ Hán, chữ Nôm.
B. Tiến trình tổ chức dạy học
1. ổn định tổ chức lớp.
2. Kiểm tra bài cũ.
3. Vào bài mới.
4. Nội dung và phƣơng pháp lên lớp:
4.1 Cuộc đời Nguyễn Trãi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
4.2 Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi.
5. Củng cố.
Mục đích của bài soạn này là làm sao truyền thụ đƣợc nội dung thông
tin định sẵn theo ý muốn chủ quan của GV. Để đáp ứng đƣợc mục đích đó,
điều Gv quan tâm là sắp xếp một kết cấu lôgic kết cấu bài soạn sao cho thích
hợp với nội dung cần truyền đạt. Nhƣ vậy lôgic của bài soạn chỉ dựa vào lôgic
của văn bản SGK và lôgic lập luận của ngƣời trình bày mà không tính đến
lôgic tiếp nhận của chủ thể HS vốn là nhân vật trung tâm của giờ học.
Các đề mục nhƣ: Tiểu sử, quê quán, thân thế, sự nghiệp văn học...đều
nhằm mô tả lịch sử phát sinh của tác gia. Các đề mục ấy chƣa đề cập đến lịch
sử tiếp nhận, lịch sử chức năng của mỗi bạn đọc HS. Trong phần cuộc đời tác
gia nhiều GV sa vào trình bày sự kiện một cách khô khan, GV chỉ quan tâm
đến việc cụ thể hoá một cách chi tiết tiểu sử tác gia mà quên đi việc lí giải,
nêu bật ý nghĩa tƣ tƣởng đạo đức, thẩm mỹ ẩn tàng trong các sự kiện tiểu sử.
Bài soạn của GV chỉ làm công việc thống kê mà quên đi rằng nghiên cứu tiểu
sử để giúp các em nghe thấy giọng nói của nhà văn, hiểu đƣợc nét đặc thù của
nhân cách, các đặc điểm của tính cách, và số phận độc đáo cảu tác gia, lí giải
về mặt thẩm mỹ và và mặt lịch sử các quan điểm của ngƣời nghệ sĩ, thấy
đƣợc mối liên hệ giữa tiểu sử và hoạt động văn học của tác gia.
Nhƣ vậy bài soạn cũ lâu nay mới chỉ quan tâm đến hoạt động của thầy
mà chƣa quan tâm đến hoạt động của trò.
5.2 Xây dựng mô hình giáo án theo hướng tích cực hoá hoạt động
của người học
Thiết kế bài soạn mới là một bản thiết kế gồm 2 phần: Một bên là nội
dung kiến thức cần truyền đạt, một bên là hệ thống các thao tác làm việc giúp
HS tự hiếm lĩnh đƣợc dung lƣợng kiến thức thông tin cần thiết.
Chúng ta đều biết rằng bài VHS là bài có những đặc trƣng riêng khác
với tác phẩm văn học, chứa đựng tƣ liệu và các nhận định mang tính trìu
tƣợng cao, lại có cấu trúc bề mặt và cấu trúc chiều sâu. Vì vậy, bản thiết kế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
bài giảng không đơn thuần chỉ là một đề cƣơng của nội dung cần truyền thụ
qua lời giảng của GV nhƣ trƣớc nay vẫn quen làm. Thời gian cho mỗi bài chỉ
hạn chế trong một tiết dạy, vì vậy việc thiết kế giờ học không phải là một đề
cƣơng của nội dung cần truyền thụ qua lời diễn giải của GV. Bản thiết kế ấy
phải nêu đƣợc những tình huống đặt ra từ nội dung của bài học phù hợp với
trình độ và đặc điểm tiếp nhận của trò. Song song với đó là hệ thống thao tác
đƣợc GV sắp xếp hợp lí, nhằm hƣớng dẫn học sinh từng bƣớc sử lí để tiếp cận
và chiếm lĩnh nội dung bài học một cách sáng tạo.
Muốn vậy, GV phải quan tâm đến việc hƣớng dẫn khơi gợi để HS phát
hiện, nêu bật đƣợc những nhận định tổng quát soi sáng cho việc nghiên cứu
và học tập những chi tiết khác. Bài VHS tác gia quan trọng ở hệ thống những
luận điểm cơ bản, do vậy cần thiết lập trong thiết kế bài soạn một hệ thống
câu hỏi định hƣớng có tính chất nêu vấn đề để HS phải tự động não tƣ duy,
tìm tòi, phát hiện những luận điểm, những nhận định xƣơng sống trong bài.
Chính những nhận định đó soi sáng toàn bộ cho việc đánh giá con ngƣời và sự
nghiệp văn học của tác gia. Những nhận định thƣờng nằm ngay trong văn bản
SGK, GV cần tổ chức các hoạt động và hƣớng dẫn để HS xác định đƣợc,
nhấn mạnh những nhận định bao trùm. Từ đó GV có thể hệ thống hoá, phát
triển giải thích thêm để HS hiểu rõ, nắm chắc hơn những vấn đề đó. Mỗi tác
gia VH có hoàn cảnh riêng, sống trong những thời kỳ lịch sử khác nhau,
phong cách nghệ thuật, quan điểm sáng tác cũng khác nhau vì vậy không thể
có một kiểu bài soạn cho mọi tác gia. Có những tác gia cuộc đời trải qua hai
thời kì lịch sử, sự nghiệp văn học phản ánh và phát huy tác dụng đối với hai
hoàn cảnh xã hội khác nhau. Có những tác gia chỉ thuộc một thời kỳ lịch sử
và sự nghiệp văn học cũng chỉ phán ánh một hoàn cảnh xã hội. Vậy làm thế
nào để HS say mê và hứng thú khi học bài VHS tác gia? Làm thế nào để HS
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
tự giải quyết đƣợc các vấn đề mà các tác gia đặt ra? Đó chính là mấu chốt của
tích cực hoá hoạt động của HS trong giờ VHS tác gia
Bài soạn VHS tác của GV có định hƣớng tích cực hoá hoạt động của
HS không có nghĩa là GV tự tiện thay đổi nội dung kiến thức cần truyền thụ.
Kiểu bài này có những yêu cầu chính về nội dung mà ngƣời GV cần nắm
đƣợc và tuân thủ. Phần cuộc đời tác gia bao giờ cũng đƣợc trình bày trƣớc sự
nghiệp VH của nhà văn. Song sự khéo léo của GV thể hiện ở chỗ kết hợp hài
hoà giữa nội dung bài giảng và phƣơng pháp dạy học nhằm tích cực hoá hoạt
động của HS, nâng cao hiệu quả giáo dục.
Nhƣ vậy, kết cấu giờ học là kết cấu của những tình huống học tập và hệ
thống thao tác tƣơng ứng chứ không phải là việc sắp xếp những việc làm của
GV trên lớp để truyền thụ từ một phía cho HS.
II. NHỮNG BIỆN PHÁP TÍCH CỰC HOÁ HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH
TRONG GIỜ VHS (TÁC GIA) Ở NHÀ TRƢỜNG THPT
1. Sử dụng câu hỏi nêu vấn đề
Trong thực tế giảng dạy ở nhà trƣờng THPT, bài VHS tác gia là tổng
thể, ở đó có sự kết hợp giữa cái chung và cái riêng, giữa tri thức khái quát và
cụ thể, giữa con ngƣời và tác phẩm, nhân cách và tài năng, lý luận và thực
tiễn sáng tác. Do đó câu hỏi nêu vấn đề theo hƣớng lịch sử – chức năng và hệ
thống cấu trúc là hệ thống các câu hỏi phù hợp với trình độ và nhu cầu giải
quyết vấn đề thực tế của ngƣời học.
Câu hỏi nêu vấn đề thƣờng có tính chất phức tạp về nội dung. Nó gợi
lên những mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chƣa biết, giữa cái cũ và cái mới
trong nhận thức của HS, mâu thuẫn giữa nhận thức của HS với tác giả, giữa
HS với HS về một vấn đề nào của bài học. “Tƣ duy con ngƣời chỉ bắt đầu từ
một vấn đề hay một câu hỏi, từ một sự ngạc nhiên hay sự thắc mắc, từ một
mâu thuẫn”[26; tr208]. Cho nên tình huống có vấn đề sẽ có tác dụng lôi kéo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
HS vào quá trình tƣ duy. Tác gia nào cũng có vấn đề nhƣng không phải bất cứ
vấn đề nào của tác gia cũng tự mình trở thành tình huống có vấn đề đối với
chủ thể đọc- trò [26; tr208]. Vấn đề đƣợc đặt ra nhƣng chỉ có thể có ý nghĩa
khi đƣợc chủ thể tiếp nhận. Ngƣợc lại, khi đƣợc chủ thể tiếp nhận và hứng thú
tìm tòi, khám phá chính là vì thực tại đã đặt ra những điều kiện cho phép giải
quyết vấn đề. Vì thế khi xây dựng câu hỏi nêu vấn đề ngƣời ta phải chú ý đến
những mối liên hệ, những cấu trúc có vấn đề của tác gia. Có nhƣ thế câu hỏi
mới biến thành tình huống có vấn đề. Khi ấy nó sẽ đƣa mỗi cá thể- trò vào
những tình huống có vấn đề và buộc HS phải giải quyết. Trên cơ sở đó mà
năng lực, phẩm chất, tài năng, nhân cách của trò đƣợc bộc lộ
Bài VHS tác gia cung cấp những kiến thức về qui luật của lịch sử văn
học, về các chặng đƣờng sáng tác, về hình thành tác gia, về nhân cách đặc biệt
của ngƣời nghệ sĩ. Mỗi tác gia văn học đều là một cá tính sáng tạo. Kiến thức
bài VHS tác gia là kiến thức về qui luật lịch sử của văn học, về các chặng
đƣờng sáng tác, về hình thành tác gia... HS thƣờng cho rằng kiến thức của bài
này khó, rắc rối, nên không mấy hứng thú khi tìm hiểu. Vì vậy, khi xây dựng
câu hỏi nêu vấn đề GV cũng phải tính đến hứng thú của cá thể- trò. Phải đặt
ra những tình huống có vấn đề để khêu gợi hứng thú tìm tòi của HS. Những
tình huống có vấn đề đƣợc đƣa ra phải phù hợp với khả năng và nhận thức
của HS, không quá khó nhung cung không quá dễ, tránh gây nhàm chán cho
HS. Có thể nêu ra vấn đề một cách trực tiếp hoặc cũng có thể đƣa ra dƣới
dạng một “trò chơi” văn chƣơng...Nếu xây dựng đƣợc nhƣ vậy sẽ tạo ra
những câu hỏi độc đáo, sáng tạo và có khả năng tích cực hoá hoạt động của
HS trong giờ học VHS ở nhà trƣờng THPT.
VD: Học bài VHS tác gia Tố Hữu trong phần tìm hiểu phong cách thơ
Tố Hữu GV đƣa câu hỏi:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
Phong cách là những đặc điểm có tính chất hệ thống về tƣ tƣởng và
nghệ thuật, biểu hiện trong sáng tác của nghệ sĩ. Vậy phong cách thơ Tố hữu
bao gồm những đặc điểm gì?
Với câu hỏi này, HS dựa vào SGK sẽ dễ dàng nhận ra những đặc điểm
phong cách thơ Tố Hữu:
- Thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hƣớng thơ trữ tình chính trị.
- Thơ Tố Hữu mang đậm cảm hứng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
- Thơ Tố hữu có giọng điệu riêng- giọng tâm tình ngọt ngào, tha thiết.
- Thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc.
2. Tổ chức cho mỗi cá thể- trò giao tiếp đối thoại và tranh luận trên
tinh thần khoa học: “Bình đẳng, dân chủ và tự do”
Trên cơ sở hệ thống những câu hỏi nêu vấn đề, thầy tổ chức cho mỗi
cá thể- trò tìm tòi, phát hiện. Giờ học đƣợc xây dựng thành một chuỗi
những hoạt động bên ngoài. Những hoạt động bên ngoài ấy, thông qua hoạt
động của thầy sẽ chuyển vào trong và tích cực hoá hoạt động bên trong của
mỗi cá thể trò.
Trong quá trình tham gia những “hoạt động bên ngoài” nhƣ thế, mỗi cá
thể - trò phải sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp, đối thoại và tranh luận. Khái
niệm, tƣ duy nhờ đó mà hình thành trong mỗi cá thể - trò. Quá trình dạy học
trên lớp vừa là quá trình nhận thức vừa là quá trình khám phá và phát hiện tri
thức một cách tích cực.
Quá trình giao tiếp, đối thoại và tranh luận nhƣ thế, là một quá trình thử
thách nghiêm túc đối với trí tuệ và tài năng của mỗi cá thể- trò. Tính hoạt
động của trò đƣợc phát huy mạnh mẽ trong quá trình giao tiếp, đối thoại và
tranh luận. Vì thế, quá trình dạy học sẽ trở nên sinh động và hấp dẫn hơn là
việc chỉ đơn thuần dùng lời giảng của GV. Nhƣng nếu muốn giờ học VHS
tác gia trở thành quá trình dạy học khoa học, có ý nghĩa giáo dục và đào tạo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
thì cá thể trò phải đƣợc giao tiếp, đối thoại và tranh luận trên tinh thần “bình
đẳng, dân chủ và tự do”. Mỗi thành viên lớp học, mỗi ý kiến của từng cá thể-
trò đều đƣợc tôn trọng nhƣ nhau.
Trong quá trình hoạt động và giao lƣu nhƣ thế, vai trò định hƣớng và tổ
chức điều khiển của GV trở nên hết sức quan trọng. Trong không khí tự do
trình bày quan điểm khoa học của học sinh, GV phải là một trọng tài thông
minh, vô tƣ không làm lụi tắt ý kiến của từng cá nhân mà lại còn khêu gợi
đƣợc hứng thú tham gia của tập thể lớp.
VD: Khi học bài VHS tác gia Nguyễn Tuân, GV đƣa ra gợi dẫn để giúp
HS tổng kết bài nhƣ sau: Hãy trình bày những nhận thức của bản thân qua bài
học tác gia Nguyễn Tuân. Từ đó rút ra bài học gì cho bản thân?
Với gợi dẫn này GV có thể sử dụng thời gian 5-6 để HS trao đổi, thảo
luận và tự do trình bày ý kiến của bản thân. GV giữ vai trò là trọng tài khêu
gợi các em bày tỏ quan điểm của mình. Từ đó hoạt động nhận thức đƣợc
chuyển hoá vào bên trong tác động tới sự hình thành nhân cách của các em.
Sau mỗi bài học tác gia các em không chỉ lĩnh hội đƣợc những kiến thức văn
học mà nhân cách của các em cũng đƣợc bồi đắp thêm. Quá trình nhận thức
của các em trở thành quá trình tự nhận thức, hiệu quả giáo dục đƣợc nâng lên.
GV có thể gợi ý, định hƣớng cho HS theo hƣớng sau:
- Nguyễn Tuân là một tài năng lớn đã góp phần cách tân và làm phong
phú nền văn học Việt Nam, nhất là ở thể loại tuỳ bút và kí.
- Học Nguyễn Tuân giúp ta nhận nhận thức và trân trọng những giá trị
thẩm mĩ của văn hoá và con ngƣời.
3. Tổ chức cho mỗi cá thể- trò tìm tòi, phát hiện hệ thống lôgic
lập luận
Bài VHS tác gia cung cấp cho HS kiến thức về qui luật của lịch sử văn
học, về các đƣờng sáng tác, về hình thành tác gia . Phân tích và đánh giá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
những đóng góp về sáng tác và lý luận VH của tác gia đối với nền VH dân tộc
nhất là đối với giai đoạn VH mà nhà văn đó sống và sáng tạo. Những kiến
thức về tác gia luôn đƣợc xây dựng trên một hệ thống luận điểm, luận chứng.
Hệ thống luận điểm, luận chứng đó không phải lúc nào cũng dễ thấy, dễ nắm
bắt vì thế đòi hỏi HS phải động não, tƣ duy, tìm kiếm và phải huy động năng
lực bản thân để phát hiện thâu tóm lập luận. Vì vậy khi học kiểu bài này, GV
phải tổ chức cho các em tìm tòi, phát hiện hệ thống lôgic lập luận.
“Lập luận đƣợc quan niệm là cách thức đƣa ra vấn đề, trình bày vấn đề
sao cho có tính thuyết phục và luôn đảm bảo đƣợc sự nhất quán trong bài
viết” (Nguyễn Quang Ninh). Nhƣ vậy lập luận có thể coi nhƣ mạch ngầm để
nối kết văn bản VHS, để đảm bảo tính hệ thống, lôgic, chặt chẽ.
Lập luận chính là sự xâu chuỗi các luận chứng. luận cứ sao cho hợp lý
nhất, có tính thuyết phục nhất, giúp cho ngƣời đọc nhận ra luận điểm, tin ở
luận điểm...
Đối với bài VHS tác gia, nhƣ ở phần trên đã nói là khi học kiểu bài này,
HS phải có kĩ năng tìm tòi và phát hiện luận điểm. Khi đã xác định đƣợc luận
điểm rồi thì luận cứ, luận chứng đƣa ra sẽ cùng hƣớng, phù hợp với luận điểm
đó. HS phải xác định đƣợc luận cứ, luận chứng phục vụ cho luận điểm, có
nghĩa là phải xác định đƣợc cách lập luận của tác giả SGK. Để xác định đƣợc
hệ thống lập luận của bài VHS tác gia, thì các em cần nắm đƣợc một số thủ
pháp kết cấu của lập luận nhƣ: liệt kê, phân chia, móc xích, hỏi đáp, lập luận
ba đoạn, song hành, tƣơng phản.
VD: Khi dạy bài VHS tác gia Nguyễn Tuân, HS căn cứ vào SGK, xác
định các mốc sống và hoạt động của Nguyễn Tuân, về các ảnh hƣởng tƣ
tƣởng và tình cảm từ bên ngoài đến đời và văn Nguyễn Tuân nhƣ sau:
+ Nguyễn Tuân sinh năm 1910, mất năm 1987
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
+ Quê ông ở làng Mọc, nay thuộc phƣờng Nhân Chính, Quận Thanh
Xuân, Hà Nội.
+ Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn.
- Trƣớc cách mạng tháng Tám 1945: Ông đi học, đi du ngoạn, từng bị
chính quyền thực dân phong kiến thời Pháp thuộc bắt vì tham gia bãi khoá, vì
đi qua biên giới Thái Lan không có giấy phép, vì giao du với những ngƣời
hoạt động chính trị.
Nguyễn Tuân cầm bút từ những năm ba mƣơi của thế kỷ XX và nổi
tiếng từ năm 1938 với các tác phẩm: Một chuyến đi, Vang bóng một thời.
- Sau cách mạng tháng Tám 1945: Ông nhiệt tình tham gia cách mạng
và kháng chiến, trở thành cây bút tiêu biểu của nền văn học mới; đã từng giữ
chức Tổng thƣ kí Hội Văn nghệ Việt Nam (1948-1958); đƣợc nhà nƣớc tặng
Giải thƣởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996. Ông là một nghệ
sĩ lớn, một nhà văn lớn.
Qua các sự kiện chính của cuộc đời Nguyễn Tuân mà SGK trình bày HS
phải nắm đƣợc ở đây tác giả đã sử dụng biện pháp liệt kê. Các sự kiện đƣợc
đƣa ra liên tục, nối tiếp nhau nhằm mục đích cung cấp đầy đủ về mặt số lƣợng
của các thông tin. Mục đích của cách lập luận này là việc lý giải những yếu tố
trong cuộc đời Nguyễn Tuân giúp cho sự hình thành phong cách và tài năng
thơ văn của ông.
Nhƣ vậy, khi học bài VHS tác gia, HS cần phải nắm đƣợc cách lập luận
của tác giả SGK. HS luôn phải tự suy nghĩ: Cách lập luận nhƣ vậy nhằm mục
đích gi, muốn nói lên điều gi?... Nếu không phát hiện đƣợc hệ thống lôgic lập
luận của bài viết thì kiến thức mà các em thu nhận đƣợc sẽ hời hợt, nông cạn.
Ở bài VHS tác gia, giữa các phần, các mục, các luận điểm luôn có quan
hệ với nhau. Tìm hiểu cuộc đời nhà văn cũng chính là tạo cơ sở cho việc tìm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
kiếm sự nghiệp văn học, bởi từ đó ta dễ dàng nhận thấy thế giới quan, nhân
sinh quan và phong cách nghệ thuật của tác gia văn học.
Một thiếu sót phổ biến lâu nay trong quá trình giảng dạy VHS tác gia là
bài dạy thƣờng thiếu hệ thống. GV cũng có đề cập đến tên tuổi, chân dung, số
phận nhà văn song nội dung trình bày, hƣớng dẫn học sinh vẫn không tránh
khỏi rời rạc, thiếu lôgic, nguyên nhân một phần là do GV chƣa tổ chức cho
HS tim tòi, phát hiện hệ thống lập luận của bài VHS tác gia.
4. Nêu vấn đề và tổ chức cho HS trao đổi, thảo luận theo hình thức
hoạt động nhóm
Bài khái quát về tác gia văn học có cấu trúc bề mặt và cả cấu trúc chiều
sâu. Xét về cấu trúc bề mặt, kiểu bài này gồm hai phần chính: cuộc đời và sự
nghiệp văn học. Đây là hai nội dung quan trọng không thể không nhắc tới
trong bài dạy tác gia. Hai nội dung này có mối quan hệ nội tại gắn bó khăng
khít với nhau. Trong phần cuộc đời tác gia không phải chỉ có những tháng
năm, những sự kiện quan trọng trọng đời sống, hoàn cảnh sinh hoạt của nhà
văn mà còn có những đặc điểm về nhân sinh quan của nhà văn. Và cũng chính
những điều kiện đó quyết định đến sự sáng tác văn học của nhà văn. Do vậy
muốn tìm hiểu đƣợc sâu sắc nội dung các sáng tác của các tác gia ta không thể
không tìm hiểu phần tiểu sử cuộc đời tác gia đó. Song kiến thức ở hai nội
dung này không quá khó nhƣng lại rất dài và rộng,vì vậy khi học kiểu bài này
GV có thể tổ chức cho HS trao đổi, thảo luận theo hình thức thảo luận nhóm.
Để tổ chức cho HS trao đổi, thảo luận theo hình thức thảo luận nhóm,
GV chia lớp học thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến 6 ngƣời hoặc theo tổ và bầu
nhóm trƣởng, sau đó giao nhiệm vụ cho các nhóm. Các nhóm nhận nhiệm vụ
và cùng nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm
khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả chung của cả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
lớp. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trƣớc toàn lớp, nhóm cử đại diện
nhóm hoặc phân công các nhóm viên trình bày.
Cấu tạo của một hoạt động thảo luận nhóm có thể nhƣ sau:
1. Làm việc chung cả lớp
- Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức.
- Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ.
- Hƣớng dẫn cách làm việc trong nhóm.
2. Làm việc theo nhóm.
- Phân công trong nhóm.
- Cá nhân làm việc độc lập rồi trao đổi hoặc tổ chức thảo luận trong
nhóm.
- Cử đại diện trình bày kết quả làm việc theo nhóm.
3. Tổng kết trƣớc lớp.
- Thảo luận chung.
- GV tổng kết.
Thông qua hoạt động trong tập thể nhóm, các ý kiến quan niệm của cá
nhân đƣợc điều chỉnh và qua đó, ngƣời học nâng mình lên một trình độ mới.
Hoạt động trong tập thể sẽ làm cho từng thành viên quen dần với sự phân
công hợp tác, tính cách, năng lực của mỗi cá nhân đƣợc bộc lộ.
5. Cho học sinh tập thuyết trình một đoạn
Một bài văn học sử tác gia trong SGK thƣờng bao hàm một khối lƣợng
kiến thức rất lớn. Vì vậy,tập cho các em thói quen thuyết trình một đoạn trong
văn bản sách giáo khoa là một yêu cầu quan trọng trong quá trình học tập.
Thuyết trình một đoạn Văn bản yêu cầu học sinh phải nắm vững kiến
thức, có kỹ năng tóm tắt văn bản, tự phát hiện và thâu tóm các luận điểm.
Thông qua việc thuyết trình sẽ phát huy hết nội lực và tiềm năng tích cực hoạt
động của HS.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
Để có thể thuyết trình đƣợc một đoạn, HS cần nắm vững văn bản một
cách tổng quan, đồng thời phát hiện và thâu tóm những luận điểm, luận
chứng. Muốn vậy học sinh phải làm việc với SGK, lấy SGK làm căn cứ cơ
bản để thuyết trình. Tức là, HS phải có sự chuẩn bị bài ở nhà trƣớc khi đến
lớp. Việc chuẩn bị bài ở nhà sẽ giúp các em hình thành năng lực tự học, tự
nghiên cứu. Nếu rèn luyện cho học ngƣời học có phƣơng pháp, kỹ năng, thói
quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có
trong mỗi ngƣời, kết quả học tập sẽ đƣợc tăng lên gấp bội.
Bên cạnh đó, tập cho HS thuyết trình một đoạn còn rèn luyện cho các
em năng lực tƣ duy gắn liền với kỹ năng nói. Quá trình học tập sẽ chuyển từ
thụ động sang chủ động, HS trở thành ngƣời trực tiếp tham gia và điều khiển
quá trình học tập. Kiến thức bài học cũng đƣợc hấp thu và truyền tải một cách
trực tiếp từ HS đến học sinh. HS buộc phải phát huy hết nội lực vốn có của
mình, việc tích cực hoá hoạt động của HS đƣợc nhân lên gấp bội.
Dựa vào cấu trúc của bài VHS (tác gia), GV có thể lựa chọn cho học
sinh những đoạn thuyết trình phù hợp. Cụ thể: GV có thể lựa chọn phần tiểu
sử của tác gia để cho học thuyết trình trong khoảng thời gian từ 2 đến 3 phút
hoặc có thể vận dụng biện pháp này vào dạy học phần kết luận hay tổng kết.
VD: Khi dạy học bài tác gia Nguyễn Tuân, GV có thể yêu cầu HS
thuyết trình phần tiểu sử. Dựa vào kiến thức SGK và những hiểu biết của bản
thân HS sẽ trình bày đƣợc những nét khái quát nhất về tác gia Nguyễn Tuân:
+ Nguyễn Tuân sinh năm 1910, mất năm 1987.
+ Quê ông ở làng Mọc, nay thuộc phƣờng Nhân Chính, Quận Thanh
Xuân, Hà Nội.
+ Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn.
-Trƣớc cách mạng tháng Tám 1945: Ông đi học, đi du ngoạn, từng bị
chính quyền thực dân phong kiến thời Pháp thuộc bắt vì tham gia bãi khoá, vì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
đi qua biên giới Thái Lan không có giấy phép, vì giao du với những ngƣời
hoạt động chính trị.
Nguyễn Tuân cầm bút từ những năm ba mƣơi của thế kỷ XX và nổi
tiếng từ năm 1938 với các tác phẩm: Một chuyến đi, Vang bóng một thời.
- Sau cách mạng tháng Tám 1945: Ông nhiệt tình tham gia cách mạng
và kháng chiến, trở thành cây bút tiêu biểu của nền văn học mới; đã từng giữ
chức Tổng thƣ kí Hội Văn nghệ Việt Nam (1948-1958); đƣợc nhà nƣớc tặng
Giải thƣởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996. Ông là một nghệ
sĩ lớn, một nhà văn lớn.
Trên đây mới chỉ là đề xuất một số biện pháp tích cực hoá hoạt động
của HS THPT qua bài VHS tác gia. Chắc chắn còn nhiều những biện pháp có
thể vận dụng nhƣng những biện pháp này thiết thực và phù hợp hơn cả nhằm
mục đích giúp tích cực hoá hoạt động của HS khi học kiểu bài này. Đồng thời
những biện pháp trên đƣợc áp dụng đúng mức sẽ có tác dụng phát huy tính
độc lập, chủ động tích cực, tự giác sáng tạo của HS trong học tập. Đồng thời
khơi dậy niềm ham mê, sự hứng thú của các em khi khám phá , lĩnh hội tri
thức cũng nhƣ vận dụng chúng trong những trƣờng hợp cụ thể, trong những
tình huống học tập khác nhau. Điều cơ bản là GV phải nắm chắc ƣu nhƣợc
điểm của từng biện pháp trên để đạt hiệu quả cao khi sử dụng, biết phối hợp
và vận dụng linh hoạt đồng bộ các biện pháp đó hỗ trợ cho việc giảng dạy tri
thức mới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
CHƢƠNG III
THIẾT KẾ THỂ NGHIỆM
CÁC BIỆN PHÁP TÍCH CỰC HOÁ HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC
SINH THPT TRONG GIỜ VHS (TÁC GIA)
1. Mục đích thể nghiệm
- GV tổ chức hƣớng dẫn HS để các em làm việc với văn bản SGK từ đó
xác định hệ thống những luận điểm, nhận định tổng hợp của bài học.
- Kết hợp các biện pháp dạy học tích cực để tạo ra những tình huống học
tập, yêu cầu và khích lệ HS tự giác, tích cực, chủ động tham gia giải quyết các
vấn đề đặt ra trong bài dƣới sự tổ chức điều khiển của GV. Từ đó đánh giá
bƣớc đầu tính hiệu quả của giả thuyết mà luận văn đã đề xuất.
- Thông qua thể nghiệm, có thể rút ra những kết luận sƣ phạm bổ ích
đối với việc lựa chọn giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng dạy- học bài
VHS tác gia.
2. Nội dung thể nghiệm
Đánh giá năng lực tổ chức hƣớng dẫn của GV và khả năng hoạt động
học tập của HS. Thực chất là phát huy tính chủ động, tìm tòi, sáng tạo của HS
trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
3. Đối tƣợng thể nghiệm
- HS thuộc khối 12, học SGK chƣơng trình nâng cao.
- Văn bản thể nghiệm: Bài tác gia Nguyễn Tuân (1 tiết)
GV tham gia thể nghiệm: Cô giáo Nguyễn Thị Lan, trƣờng THPT Công
Nghiệp Việt Trì, Phú Thọ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
4. Thiết kế bài học thể nghiệm: NGUYỄN TUÂN
4.1. Định hướng dạy học
Đây là một bài VHS về tác gia văn học. Dạy học bài này làm sao để HS
tự phát hiện ra những nhận định quan trọng của SGK về cuộc đời và con
ngƣời Nguyễn Tuân, về sự nghiệp sáng tác của ông và phong cách nghệ thuật
Nguyễn Tuân.
GV nên có một hệ thống lời gợi dẫn để vừa khơi gợi, dẫn dắt HS tự tìm
kiếm kiến thức từ SGK, vừa trình bày những hiểu biết của mình trƣớc lớp.
Những kiến thức HS cần tiếp thu là:
- Nét riêng biệt về cuộc đời và con ngƣời Nguyễn Tuân.
- Những nét lớn về sự nghiệp sáng tác của ông.
- Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.
4.2 Tiến trình dạy học
- Kiểm tra sự chuẩn bị bài của học sinh.(2 đến 3 phút)
1. Tìm hiểu về cuộc đời của nhà văn Nguyễn Tuân.
1.1. Tiểu sử.
Gợi dẫn 1: Trình bày tiểu sử của nhà văn Nguyễn Tuân ?
- HS làm việc với SGK và rút ra câu trả lời.(GV có thể cho HS tập thuyết
trình phần tiểu sử)
Yêu cầu:
- Về năm sinh, năm mất, quê hƣơng, gia đình.
+ Nguyễn Tuân sinh năm 1910, mất năm 1987
+ Quê ông ở làng Mọc, nay thuộc phƣờng Nhân Chính, Quận Thanh
Xuân, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
58
+ Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn.
- Trƣớc cách mạng tháng Tám 1945: Ông đi học, đi du ngoạn, từng bị
chính quyền thực dân phong kiến thời Pháp thuộc bắt vì tham gia bãi khoá, vì
đi qua biên giới Thái Lan không có giấy phép, vì giao du với những ngƣời
hoạt động chính trị.
Nguyễn Tuân cầm bút từ những năm ba mƣơi của thế kỷ XX và nổi
tiếng từ năm 1938 với các tác phẩm: Một chuyến đi, Vang bóng một thời.
- Sau cách mạng tháng Tám 1945: Ông nhiệt tình tham gia cách mạng
và kháng chiến, trở thành cây bút tiêu biểu của nền văn học mới; đã từng giữ
chức Tổng thƣ kí Hội Văn nghệ Việt Nam (1948-1958); đƣợc nhà nƣớc tặng
Giải thƣởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996. Ông là một nghệ
sĩ lớn, một nhà văn lớn.
1.2 Con người Nguyễn Tuân
Gợi dẫn 2: Con ngƣời Nguyễn Tuân có những nét riêng nào?
GV tổ chức cho HS thảo luận nhóm nhỏ trong khoảng thời gian từ 3-5
phút, sau đó mời các đại diện nhóm trình bày ý kiến của nhóm mình. Trong
quá trình hoạt động nhóm các em có thể tự do trình bày, tranh luận, bổ sung
bằng những hiểu biết của bản thân, sau đó GV tổng kết và rút ra kết luận.
Yêu cầu:
Con ngƣời Nguyễn Tuân có bốn nét riêng biệt: Nguyễn Tuân là một
trí thức giàu lòng yêu nƣớc và tinh thần dân tộc; Nguyễn Tuân là con ngƣời
có ý thức cá nhân rất cao; Nguyễn Tuân là một con ngƣời rất mực tài hoa,
uyên bác; Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng sự thật nghề nghiệp
của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
59
- Giàu lòng yêu nƣớc và tinh thần dân tộc thì không chỉ riêng Nguyễn
Tuân mà có nhiều tri thức Việt Nam. Điều đáng nói ở đây là lòng yêu nƣớc
của Nguyễn Tuân rõ ở nhƣng nét rất riêng: yêu những giá trị văn hoá cổ
truyền của dân tộc (tiếng mẹ đẻ, những kiệt tác văn chƣơng, điệu hát ca trù,
những thú chơi tao nhã của tri thức Việt Nam, những món ăn dân tộc của
ngƣời Việt).
- Ý thức cá nhân của Nguyễn Tuân cũng có những biểu hiện rất riêng:
Viết văn để bày tỏ cái độc đáo về cá tính của mình, ham đi đây đi đó (chủ
nghĩa xê dịch), sống tự do phóng túng.
- Nguyễn Tuân thực sự tài hoa, uyên bác: tài hoa: viết văn, diễn kịch,
đóng phim; uyên bác: am hiểu sâu sắc về văn chƣơng, lại còn hiểu biết về hội
hoạ, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh, lịch sử, địa lí...
- Nguyễn Tuân rất coi trọng nghề viết văn: Ông coi viết văn là một
nghề nghiêm túc, cao cả, “khổ hạnh”, không mang tính vụ lợi, chỉ hƣớng
về cái đẹp.
2. Tìm hiểu sự nghiệp văn học của Nguyễn Tuân
2.1 Quá trình sáng tác và các đề tài chính.
Gợi dẫn 3: Quá trình sáng tác của nhà văn nguyễn Tuân gồm mấy giai
đoạn? Đề tài ở mỗi giai đoạn là gì? Tác phẩm tiêu biểu của mỗi giai đoạn?
GV hƣớng dẫn HS tìm hiểu SGK và trả lời.
* Yêu cầu:
Quá trình sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân trải qua từ những năm 30
của thế kỉ XX và kết thúc vào cuối thế kỉ XX (1987). Trong gần 50 năm sáng
tạo nghệ thuật ấy, nhà văn Nguyễn Tuân đã để lại một sự nghiệp văn học
phong phú và rất độc đáo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
60
Quá trình sáng tác của Nguyễn Tuân có thể chia làm hai giai đoạn:
- Giai đoạn trƣớc cách mạng tháng Tám 1945:
+ Thời gian sáng tác khoảng 10 năm (từ 1935 đến 1945)
+ Đề tài sáng tác: ba đề tài: “chủ nghĩa xê dịch”, vẻ đẹp “vang bóng một
thời” và đời sống trụy lạc.
+ Các tác phẩm tiêu biểu: Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Thiếu
quê hƣơng, Chiếc lƣ đồng mắt cua,...
- Giai đoạn sau cách mạng tháng Tám 1945:
+ Thời gian sáng tác: 42 năm (từ 1945 đến 1987)
+ Đề tài sáng tác Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn ở chế độ
cũ chân thành và nhiệt huyết đi theo cách mạng, đem ngòi bút của mình
phục vụ cho hai cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lƣợc (thực dân Pháp
và đế quốc Mĩ) và theo sát công cuộc xây dựng đất nƣớc. đề tài sáng tác
của Nguyễn Tuân thời kì này là: nhân dân lao động và ngƣời chiến sĩ trên
mặt trận vũ trang.
Song, cái riêng của Nguyễn Tuân là ông luôn có ý thức phục vụ kháng
chiến, cách mạng trên cƣơng vị của một nhà văn, và là một nhà văn giữ
nguyên cá tính và phong cách độc đáo của mình. Dƣới ngòi bút của ông nhân
dân lao động cũng nhƣ ngƣời chiến sĩ trên mặt trận vũ trang đều hiện lên là
những con ngƣời tài hoa, nghệ sĩ và nhân cách cao cả.
- Các tác phẩm chính: Tập bút kí Sông Đà, Kí chống Mĩ, Cô Tô,....
Sau cách mạng Nguyễn Tuân chủ yếu viết bút kí.
2.2. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.
Gợi dẫn 4: Trình bày phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
61
* Yêu cầu:
Nguyễn Tuân có một phong ách nghệ thuật độc đáo và sâu sắc. Phong
cách trƣớc hết thâu tóm trong một chữ “ngông”.
Trƣớc và sau Cách mạng tháng Tám 1945, phong cách nghệ thuật
Nguyễn Tuân có mặt thống nhất, có mặt biến đổi.
Ông là nhà văn của những tính cách độc đáo, của những tình cảm, cảm
giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ, của gió bão, của núi cao, rừng
thiêng, của thác ghềnh dữ dội...
Nguyễn Tuân tìm đến thể tuỳ bút nhƣ những điểm tát yếu, nhân vật chủ
chốt là “cái tôi” của chính ngƣời cầm bút.
- Nguyễn Tuân có kho từ vựng phong phú, một khả năng tổ chức câu
văn xuôi đầy giá trị tạo hình, lại có nhạc điệu trầm bổng.
Gợi dẫn 5: Giải thích rõ chữ “ngông” trong phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Tuân?
GV tổ chức cho HS giao tiếp, đối thoại và tranh luận. Với câu hỏi này
GV có thể gợi ý cho HS theo yêu cầu sau:
* Yêu cầu:
- “Ngông” là thái độ sống, một cách ứng xử khác ngƣời, khác đời của
một ngƣời nào đó. Ngƣời đó tỏ rõ sự kiêu ngạo đối với xã hội bởi ý thức về
tài năng và nhân cách của mình hơn đời. Nguyễn Công Trứ ngày xƣa trong
“Bài ca ngất ngƣởng”, Tản Đà trong bài thơ “Hầu trời” đã thể hiện cái ngông
đó của mình.
- Nguyễn Tuân kế thừa cái ngông đó của Nguyễn Công Trứ và Tản Đà
đồng thời chịu ảnh hƣởng tƣ tƣởng cá nhân của văn hoá chủ nghĩa phƣơng
Tây hiện đại. Cái ngông của Nguyễn Tuân thể hiện rõ sự chứng tỏ tài hoa,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
62
uyên bác trong mỗi trang viết; thể hiện rõ trong việc xây dựng nhân vật, dù là
ở loại ngƣời nào cũng thể hiện tài hoa xuất chúng trong nghề nghiệp của
mình, còn thể hiện rõ trong mọi sự vật đƣợc miêu tả, dù chỉ là cái ăn, cái uống
cũng đƣợc nhìn nhận ở phƣơng diện văn hoá, mĩ thuật...
Gợi dẫn 6: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân sau cách mạng
tháng Tám 1945 có những chuyển biến gì?
HS tìm hiểu SGK và trả lời.
* Yêu cầu:
- Nếu nhƣ trƣớc cách mạng, Nguyễn Tuân quan niệm cái đẹp chỉ trong
quá khứ và tài hoa nghệ sĩ chỉ có trong những ngƣời xuất chúng của thời đại
trƣớc còn xót lại thì sau cách mạng, Nguyễn Tuân quan niệm cái đẹp có ở quá
khứ, hiện tại, tƣơng lai và tài hoa có thể cả ở những con ngƣời bình thƣờng
trong quần chúng nhân dân .
- Nếu nhƣ trƣớc cách mạng, Nguyễn Tuân tìm cảm giác mạnh ở thời
“vang bóng”, ở “chủ nghĩa xê dịch”, ở đời sống trụy lạc thì sau cách mạng,
Nguyễn Tuân tìm cảm giác mạnh ở những phong hùng vĩ của thiên nhiên, ở
những thành tích của nhân dân trong chiến đấu và xây dựng.
- Nếu nhƣ trƣớc cách mạng, Nguyễn Tuân dùng thể tuỳ bút để thể hiện
“cái tôi” cá nhân nội tâm của chính mình thì sau cách mạng, cũng vẫn giữ
“cái tôi” cá nhân, nhƣng nhìn hƣớng ngoại để phản ánh hiện thực, biểu dƣơng
tinh thần, thành tích trong chiến đấu và xây dựng của nhân dân.
Gợi dẫn 7: Nói tới nhà văn Nguyễn Tuân, ngƣời ta thƣờng đặt cho ông
danh hiệu “Ngƣời suốt đời đi tìm cái đẹp”. Hãy giải thích vì sao?
GV tổ chức cho HS thảo luận nhóm nhỏ. HS trao đổi trong thời gian 2-
3 phút, sau đó đại diện nhóm trình bày ý kiến.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
63
* Yêu cầu:
- Ngƣời ta nói Nguyễn Tuân là “ngƣời suốt đời đi tìm cái đẹp” là rất phù
hợp với cảm hứng và phong cách nghệ thuật của ông. Sáng tác nào của ông ở
cả hai thời kì trƣớc và sau cách mạng đều có chung một cái nhìn hƣớng về
phƣơng diện thẩm mĩ đối với cảnh vật, về phƣơng diện tài hoa nghệ sĩ đối với
con ngƣời.
- “Ngƣời suốt đời đi tìm cái đẹp” ấy đã làm nên một nhà văn Nguyên
Tuân vừa tài hoa, uyên bác vừa có tâm. Ngƣời đọc nhiều thế hệ vừa khâm
phục ông về tài vừa kính trọng ông về đức.
Hƣớng dẫn tổng kết:
GV đặt vấn đề cho HS tự tổng kết
Gợi dẫn 8: Hãy trình bày những nhận thức của bản thân qua bài học tác
gia Nguyễn Tuân. Từ đó rút ra bài học gì cho bản thân?
GV gợi ý:
- Nguyễn Tuân là một tài năng lớn đã góp phần cách tân và làm phong
phú nền văn học Việt Nam, nhất là ở thể loại tuỳ bút và kí.
- Học Nguyễn Tuân giúp ta nhận nhận thức và trân trọng những giá trị
thẩm mĩ của văn hoá và con ngƣời.
5 Nhận xét, đánh giá và kết quả giờ dạy thể nghiệm
Sau khi tiến hành dạy thể nghiệm giáo án trên đối với HS khối 12 của
trƣờng THPT Công nghiệp và THPT Việt Trì, thay vì tiến hành khảo sát để có
những số liệu cụ thể đánh giá giờ dạy thể nghiệm, chúng tôi đặt câu hỏi thăm
dò đối với GV và HS.
Nội dung câu hỏi nhƣ sau:
+ Đối với GV: Theo thầy (cô) những biện pháp tích cực hoá hoạt động
của học sinh trong giờ dạy thể nghiệm đã có tác dụng nhƣ thế nào đối HS?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
64
+ Đối với HS: Em hãy cho biết khả năng và mức độ lĩnh hội kiến thức
của em sau bài giảng?
Nhận xét, đánh giá kết quả giờ dạy thể nghiệm.
+ Đối với HS: - Thái độ rất hào hứng tự tin.
- Nắm kiến thức một cách chắc chắn.
+ Đối với GV: - Đa số GV thừa nhận sự tác động tích cực của giờ dạy
thể nghiệm. Song vấn đề thời gian vẫn quá sít sao.
Một số vấn đề rút ra sau sau giờ dạy thể nghiệm
Thể nghiệm một giờ dạy học theo hƣớng tích cực hoá hoạt động của HS
thông qua bài học tác gia Nguyễn Tuân đã khẳng định tính đúng đắn của việc
phát huy vai trò chủ động, tích cực, tự giác, sáng tạo của HS trong học tập
kiểu bài VHS tác gia thông qua sử dụng các biện pháp dạy học tích cực.
Bài VHS tác gia Nguyễn Tuân là bài học có rất nhiều vần đề cần khai
thác và làm sáng tỏ trong phạm vi một tiết học. Do đó, trong giờ học thể
nghiệm tài liệu cơ bản quan trọng nhất là SGK. Dƣới sự tổ chức và dẫn dắt
của GV thông qua những biện pháp cụ thể, HS say sƣa, tìm tòi, chủ động
trong quá trình tiếp cận, phát hiện và lĩnh hội tri thức. Dựa vào SGK, hiểu biết
của bản thân và những câu hỏi gợi dẫn của GV, HS đã phát hiện đƣợc những
nhận định khái quát, cốt lõi. Trên cơ sở đó, GV bổ sung khái quát hoá thành
nội dung cơ bản của bài học. Cách làm này có tác dụng kích thích HS động
não tƣ duy, say mê, hứng thú tìm hiểu tri thức mới. Không khí lớp học vui vẻ,
dân chủ, HS tích cực hoạt động.
Giờ học thể nghiệm đƣợc thiết kế với mục đích tích cực hoá hoạt động
của HS, trong đó đề cao vai trò của ngƣời học, phát huy vai trò năng động,
sáng tạo của HS. Do vậy, GV rất công phu, nghiêm túc trong việc thiết kế giờ
dạy để phù hợp đối tƣợng giảng dạy. GV quan tâm đến công việc chuẩn bị
của cả thầy và trò.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
65
Ở giờ dạy thể nghiệm này, GV sử dụng các biện pháp tích cực hoá hoạt
động của HS nên HS rất hứng thú học bài, nhận thức hoàn toàn chủ động, con
đƣờng đến với tri thức mới và lĩnh hội chúng đƣợc rút ngắn lại. GV rất chú
trọng tới hoạt động bên trong của mỗi chủ thể bạn đọc HS, phối hợp linh hoạt
và sáng tạo các phƣơng pháp trong quá trình dạy học.
Về hệ thống luận điểm và hệ thống câu hỏi trong bài học: Hệ thống
luận điểm đƣợc xác định là yêu cầu quan trọng của bài VHS tác gia. Thiết kế
bài thể nghiệm, ngƣời dạy đã lấy SGK làm điểm tựa, tuân thủ hệ thống luận
điểm, nhận định SGK đƣa ra để HS thuận lợi khi tìm hiểu. Mỗi một luận
điểm, một nhận định đƣa ra trong bài học đều đƣợc dƣới dạng thức khái quát
nêu vấn đề. Vì vậy, luôn tạo đƣợc cho HS phản ứng thắc mắc,đòi hỏi phải
đƣợc lý giải làm sao cho sáng tỏ. Những luận điểm, những nhận định có tính
chất nêu vấn đề nhƣ vậy đòi hỏi HS phải luôn động não suy nghĩ, phải tự giác,
tự lực tìm cách giải quyết vấn đề. Tự các em phải huy động vốn hiểu biết,
phát hiện, liên tƣởng, so sánh, tìm tòi những dữ liệu để làm sáng tỏ vấn đề. Có
thể nói hệ thống luận điểm, nhận định trong thiết kế thể nghiệm đã đặc biệt
phát huy tác dụng trong việc khơi dậy hứng thú học tập của HS và hình thành,
rèn luyện cho HS năng lực tự học, tự tham gia lĩnh hội và giải quyết vấn đề
của bài VHS tác gia.
Hệ thống câu hỏi trong thiết kế thể nghiệm đã bám sát phƣơng pháp dạy
học mới theo hƣớng tích cực hoá hoạt động của ngƣời học. GV xây dựng hệ
thống câu hỏi nêu vấn đề để định hƣớng sự tìm tòi, phát hiện kiến thức của
học sinh. Hệ thống câu hỏi đƣa ra trong bài đã chú ý đến tính vừa sức của
học sinh, vừa có câu hỏi mang tính chất phát hiện, vừa có câu hỏi nêu vấn
đê, câu hỏi liên hệ mở rộng, câu hỏi so sánh, lại vùa có câu hỏi đánh giá...
Các câu hỏi này là phƣơng tiện, là chỗ dựa để HS xác định, phát hiện và cụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
66
thể hoá những tri thức cơ bản trong bài, đồng thời tích cực hoá hoạt động
của ngƣời học.
* Đề xuất của cá nhân sau giờ dạy thể nghiệm
Giờ dạy thể nghiệm cho thấy HS không quá yếu kém, thờ ơ trong việc
lính hội kiểu bài này. Nếu GV biết cách thức tổ chức, hƣớng dẫn học tập bằng
những phƣơng pháp tích cực, cùng với sự tận tình, sự theo dõi sát sao của GV
học sinh đã bộc lộ tiềm lực và khả năng học bài VHS tác gia nói riêng, phân
môn VHS nói chung tƣơng đối tốt. Khi đƣợc tham gia vào các tình huống học
tập, HS biểu lộ sự say mê, niềm hứng khởi tham gia phát hiện và lý giải
những điều bổ ích, lý thú trong học tập. HS không hẳn hoàn toàn thờ ơ, coi
nhẹ kiểu bài này, mà cũng nhận thấy tầm quan trọng và ý nghĩa riêng của nó
trong chƣơng trình. Song hứng thú học tập của học sinh và vai trò của bài
VHS tác gia chƣa đƣợc coi trọng đúng mực. Đôi khi GV vẫn còn tƣ tƣởng
xem nhẹ kiểu bài này, GV chƣa có những trăn trở, suy nghĩ để tìm ra những
biện pháp hữu hiệu nâng cao chất lƣợng dạy bài VHS tác gia. Bởi thế, hứng
thú học tập của HS chƣa đƣợc khơi nguồn và khai thác triệt để, chƣa đƣợc coi
trọng một cách đứng mực. Hứng thú học tập của học sinh là một đòi hỏi, một
yêu cầu mang tính sƣ phạm. Hứng thú ấy chỉ thực sự có đƣợc bằng sự tận
tâm, tận lực, bằng cách thức tổ chức hƣớng dẫn, điều khiển các thao tác hoạt
động của HS trong giờ học và bằng tính tích cực, tự giác của HS.
Giờ dạy thể nghiệm đã chứng minh dạy bài VHS tác gia theo hƣớng tích
cực hoá hoạt động của HS là công việc không mấy khó khăn, có thể làm đƣợc
và mang lại kết quả giáo dục cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
67
PHẦN KẾT LUẬN
Cùng với xu hƣớng đổi mới phƣơng pháp dạy học đang diễn ra mạnh mẽ
ở mọi cấp học, môn học, bài học VHS, một bộ phận cấu thành của bộ môn
văn học, cũng đã và đang vận động chuyển mình đi lên trong mối quan tâm
của đông đảo những ngƣời làm công tác giáo dục, cũng nhƣ toàn thể GV và
HS. Với ý nghĩa đó, luận văn “Những biện pháp tích cực hoá hoạt động của
học sinh THPT trong giờ VHS (tác gia)” có ý nghĩa sâu sắc đối với công việc
đổi mới PPDH văn học ở nhà trƣờng trung học phổ thông hiện nay.
1. Luận văn góp phần giải quyết một nhận thức chƣa đúng đắn về mối
liên hệ giữa kiến thức và phƣơng pháp. Lâu nay, GV đã quen với việc dạy
VHS chỉ nặng về cung cấp kiến thức mà không nghĩ đến mục tiêu quan trọng
hơn là phát huy vai trò chủ thể của ngƣời học. Đồng thời, phá vỡ một định
kiến cho rằng dạy VHS là phải thuyết giảng vì kiến thức nhiều, thời gian ít,
hiểu biết và kỹ năng của học sinh hạn chế....
2. Tích cực hoá hoạt động của HS phải đƣợc thấu triệt trong mọi môn
học và kiểu bài. Bởi, HS vừa là đối tƣợng, vừa là chủ thể của quá trình
giáo dục. Trong khi, các hoạt động khác thƣờng hƣớng vào thay đổi đối
tƣợng khách thể thì hoạt động học tập làm cho chính chủ thể hoạt động
thay đổi. Bằng hoạt động học tập mỗi HS tự hình thành và phát triển nhân
cách của mình.
Luận văn khẳng định bài học VHS rất thuận lợi cho việc tổ chức các
biện pháp tích cực hoá hoạt động của HS. Mỗi bài VHS (tác gia) đều chứa
khối lƣợng kiến thức lớn, trìu tƣợng, có tính chất liên môn, liên cấp. Nắm
vững kiến thức của kiểu bài này, học sinh mới có tiền đề lĩnh hội tác phẩm
văn chƣơng. Đối với bài VHS (tác gia) khả năng tích cực hoá hoạt động học
tập chính là mắt xích quan trọng giúp các em hoàn thành quá trình học tập và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
68
giải quyết nghịch lý giữa thời gian có hạn trên lớp với dung lƣợng kiến thức
sâu rộng, phức tạp của kiểu bài này. Mặt khác, kiến thức học sinh thu nhận
đƣợc sẽ bền vững sâu sắc hơn. Cùng với kiến thức, phƣơng pháp và kỹ năng
học tập của học sinh ngày càng hoàn thiện. Muốn vậy, ngƣời GV phải nhận rõ
vai trò, trách nhiệm, phải phát huy trí tuệ cùng với việc vận dụng linh hoạt,
hài hoà các phƣơng pháp, biện pháp để tích cực hoá hoạt động của HS.
3. Thực thi phƣơng pháp dạy học mới chứng tỏ HS là trung tâm
trong bài học VHS. Bài VHS (tác gia) đã chú trọng tạo mọi cơ hội và sử
dụng nhiều hình thức để HS đƣợc hoạt động, đƣợc phát huy tiềm năng
sáng tạo của bản thân.
Trong cơ chế dạy học này, ngƣời học phải giải quyết triệt để mối quan
hệ giữa thu nhận tri thức với phƣơng pháp và kĩ năng thu nhận tri thức đó ở
HS. Từ đó tạo đƣợc sự phát triển toàn diện về trí tuệ, tâm hồn và năng lực của
học sinh.
Bằng cách sử dụng các biện pháp tích cực hoá hoạt động của học sinh
đã tạo đƣợc sự đồng hành giữa đổi mới phƣơng pháp dạy học với đổi mới
quan niệm, nội dung, chƣơng trình và SGK khi thực hiện quy trình dạy học
văn nói chung và dạy học kiểu bài VHS (tác gia) nói riêng.
Trong nhà trƣờng THPT, tích cực hoá hoạt động của HS có tác dụng
khơi dậy và kích thích HS tƣ duy độc lập, sáng tạo, hứng thú tìm tòi và phát
hiện. Học tập thông qua con đƣờng tích cực hoá sẽ đem lại tác dụng và hiệu
quả lớn hơn rất nhiều so với cách học tập và tiếp thu một chiều trƣớc đây.
Hơn nữa, tích cực hoá hoạt động của HS, nghĩa là HS chủ động, phát huy
năng lực tƣ duy năng động, sáng tạo nắm bắt và vận dụng kiến thức một cách
có hệ thống.
4. Xuất phát từ mục tiêu giáo dục đào tạo, từ yêu cầu bức thiết của thực
tế dạy học văn trong nhà trƣờng THPT, tác giả luận văn đã phân tích khái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
69
quát lý luận về khả năng tổ chức học tập của lứa tuổi HS THPT một cách có
cơ sở kết hợp với hoạt động lĩnh hội tri thức trong học tập để đƣa ra các biện
pháp tích cực hoá hoạt động của HS qua bài VHS (tác gia). Qua luận văn
chúng tôi hy vọng những luận chứng dã nêu góp phần khẳng định tính đúng
đắn khoa học của cuộc đổi mới phƣơng pháp dạy.
Phần thử nghiệm của luận văn là phần kiểm chứng hiệu quả của việc
vận dụng những biện pháp đã đặt ra, đồng thời bƣớc đầu góp tiếng nói thể
hiện tính bức thiết và định hƣớng đúng đắn của luận văn.
Song, do điều kiện thời gian và trình độ của bản thân, chúng tôi mong
muốn những suy nghĩ bƣớc đầu của luận văn sẽ đƣợc tiếp tục nghiên cứu và
phát triển. Chúng tôi rất mong nhận đƣợc sự chỉ bảo, góp ý của quý thầy cô,
của đồng nghiệp để luận văn hoàn thiện hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tài liệu và sách chuyên khảo
1. Nguyễn Duy Bình: Dạy văn- dạy cái hay. cái đẹp. NXB Giáo dục 1983.
2. Hoàng Hữu Bội: Thiết kế dạy học Ngữ Văn 10, 11, 12 . NXB Giáo
dục 2008.
3. Nguyễn Viết Chữ: Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại
thể. NXB Đại học quốc gia HN 2001.
4. Hồ Ngọc Đại: Tâm lý học dạy học- NXB Giáo dục 1983.
5. Phạm Văn Đồng: Thư gửi Hội thảo “Nghiên cứu và phát triển năng lực tự
học-Tự đào tạo”. Tạp chí nghiên cứu giáo dục số 2-1998.
6. Nguyễn Trọng Hoàn: Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm
văn chương- NXB Giáo dục
7. Nguyễn Trọng Hoàn: Tiếp cận văn học. NXB khoa học xã hội 2002.
8. Trần Bá Hoành: Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và sách
giáo khoa. NXB Đại học sƣ phạm.
9. Trần Bá Hoành: Phương pháp tích cực. NCGD, 8-1996.
10. Trần Bá Hoành: Dạy học lấy học sinh làm trung tâm. NCGD 1-1994.
11. Lê Văn Hồng: Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm. Tài liệu dùng
cho các trƣờng ĐHSP và CĐSP- 1995.
12. Nguyễn Thanh Hùng: Sự tồn tại của phương pháp là cụ thể ,
NCGD 8-1992
13. Nguyễn Thanh Hùng: Hiểu văn, dạy văn. NXB Giáo dục 2000.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
71
14. Nguyễn Thanh Hùng: Cơ cấu chuyển vào trong và tư duy đồng hiện. Tạp
chí Nghiên cứu giáo dục số 2- 1996.
15. Nguyễn Thị Thanh Hƣơng: Dạy học văn ở nhà trường phổ thông. NXB
ĐHQG Hà Nội 2001.
16. Nguyễn Sinh Huy: Tiếp cận xu thế đổi mới PPGD trong giai đoạn hiện
nay, NCGD, 3-1995.
17. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi: Từ điển thuật ngữ văn học.
NXB Giáo dục 1997.
18. Nguyễn Kỳ: Phương pháp giáo dục tích cực, NCGD, 2-1993.
19. Nguyễn Kỳ: Thời đại và PPGD, NCGD, 7-1994.
20. Nguyễn Kỳ: Mô hình dạy học tích cực, lấy học sinh làm trung
tâm,Trƣờng bồi dƣỡng cán bộ Quản lí giáo dục, H. 1996.
21. Phan Trọng Luận: Xã hội, Văn học, Nhà trường, NXB GD- 1996.
22. Phan Trọng Luận: Con đường nâng cao hiệu quả dạy học văn, NXB GD
1978.
23. Phan Trọng Luận: Phương pháp dạy học văn- 2 tập NXB Giáo dục 2001.
24. Phan Trọng Luận: Văn học giáo dục thế kỷ XXI. NXB ĐHHQG Hà Nội
2002.
25. Phan Trọng Luận- Nguyễn Thanh Hùng: Phương pháp dạy học văn.
NXB ĐHQG Hà Nội 1998.
26. Phan Trọng Luận: Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học. NXB Giáo dục
HN- 1983.
27. Phan Trọng Luận (chủ biên): Thiết kế bài học Ngữ văn 10, 11, 12. NXB
Giáo dục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
72
28. Đoàn Thị Kim Nhung: PPDH Ngữ Văn ở trường THCS theo hướng tích
hợp và tích cực, NXB Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2006.
29. Ngữ Văn 10. (Tập I,II) NXB Giáo dục.
30. Ngữ Văn 11. (Tập I,II) NXB Giáo dục.
31. Ngữ Văn 12. (Tập I,II) NXB Giáo dục
32. Ngữ Văn 10- Nâng cao (Tập I,II) NXB Giáo dục.
33. Ngữ Văn 11- Nâng cao (Tập I,II) NXB Giáo dục.
34. Ngữ Văn 12- Nâng cao (Tập I,II) NXB Giáo dục.
35. Nguyễn Huy Quát, Hoàng Hữu Bội: Một số vấn đề về phương pháp dạy-
học văn trong nhà trường, NXB GD, 2001.
36. Trƣơng Đức Thành: Hiện trạng về đổi mới dạy và học Văn. NCGD 8-
1992.
37. Trần Trọng Thuỷ: Một lý thuyết hoạt động học tập. NCGD 2-1992.
38. Phạm Toàn: Công nghệ dạy văn. NXB ĐHQG Hà Nội 2000.
39. Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên): Biển học vô bờ. NXB Thanh Niên 2000.
40. Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên): Học và dạy cách học. NXB ĐHSP Hà Nội
2000 và nghiên cứu khoa học. NCGD 9-1996.
41. Nguyễn Cảnh Toàn: Phương pháp giáo dục tích cực- Bàn về học và
nghiên cứu khoa học. NCGD 9-1996.
42. Nguyễn Cảnh Toàn: Tuyển tập bàn về giáo dục Việt Nam. NXB Lao Động
2002.
43. Lê Khánh Tùng: Hình thành năng lực nghiên cứu cho học sinh trung học
phổ thông. Luận văn Thạc sĩ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
73
44. Nguyễn Trí- Nguyễn Trọng Hoàn- Đinh thái Dƣơng: Một số vấn đề đổi
mới phướng pháp dạy học văn- Tiếng Việt ở nhà trường phổ thông.
NXB Giáo dục 2001.
45. Thái duy Tuyên: Vấn đề lựa chọn PP dạy học. NCGD 6- 1991.
46. Trịnh Xuân Vũ: Phương pháp dạy học Văn ở bậc trung học. NXB TP Hồ
Chí Minh.
47. Phạm Kim Xuyến: Rèn luyện năng lực tự học cho học sinh THPT qua bài
VHS. Luận văn Thạc sĩ- 2000.
48. Vụ Giáo dục phổ thông cấp 3: Hướng dẫn phát huy tính chủ động và sáng
tạo của học sinh trong dạy và học bộ môn Văn. Tạp trí GD cấp 3, 1-
1980.
49. Vụ Giáo dục cấp 3: Tình hình giảng dạy Văn học trong nhà trường phổ
thông cấp 3. Tạp chí GD cấp 3, 2-1980.
50. Phạm Viết Vƣợng: Bàn về phương pháp tích cực, NCGD, 10-1995.
51. Văn kiện Đại hội Đảng VIII- NXB Chính Trị Quốc Gia.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 164LV09_SP_LLampPPDHTaThiThuHa.pdf