Luận văn Những đóng góp của Tuệ Trung thượng sĩ cho thơ thiền Việt Nam

MS: LVVH-VHVN043 SỐ TRANG: 132 NGÀNH: VĂN HỌC CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM NĂM: 2009 CẤU TRÚC LUẬN VĂN LỜI CẢM ƠN KÝ HIỆU CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: 2. Lịch sử vấn đề: 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 4. Đóng góp của luận văn: 5. Phương pháp nghiên cứu: 6. Cấu trúc luận văn: Chương 1: THỜI ĐẠI LÝ TRẦN VÀ TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ 1.1. Bối cảnh lịch sử – xã hội thời Lý Trần 1.2. Phật giáo Thiền tông thời Lý Trần 1.3. Tuệ Trung Thượng sĩ – thân thế và hành trạng Chương 2: NHỮNG ĐÓNG GÓP VỀ NỘI DUNG – TƯ TƯỞNG CỦA TUỆ TRUNG CHO THƠ THIỀN VIỆT NAM 2.1. Tư tưởng “tuỳ duyên” 2.2. Tinh thần phá chấp triệt để 2.3. Tinh thần tự tin vào bản thân 2.4. Tinh thần dung hợp Tam giáo Chương 3: NHỮNG ĐÓNG GÓP VỀ NGHỆ THUẬT CỦA TUỆ TRUNG CHO THƠ THIỀN VIỆT NAM 3.1. Về ngôn ngữ 3.2. Về hình tượng nghệ thuật 3.2.1. Con người 3.2.2. Thiên nhiên 3.2.3. Không gian nghệ thuật 3.2.4. Thời gian nghệ thuật 3.3. Về giọng điệu 3.4. Về thể loại và kết cấu KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO THƯ MỤC TÁC PHẨM CỦA TUỆ TRUNG

pdf132 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3410 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những đóng góp của Tuệ Trung thượng sĩ cho thơ thiền Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ven biển xuân về mê lũ én. Xóm quê mưa xuống khuất đồng xanh. (Lui về) Phong độ ấy, lối nhận thức ấy ta thường thấy trong thơ thiền mà ít thấy trong văn học của các giai đoạn sau. Thế kỉ XVIII, người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn cảm nhận thời gian qua sự hoài vọng, nhớ thương nên thực – mộng, quá khứ – hiện tại – tương lai cứ đan xen vào nhau. Nàng sống trong thực tại chia lìa mà tâm không ngừng hồi tưởng lại quá khứ hạnh phúc: Tìm chàng thưở Dương Đài lối cũ, Gặp chàng khi Tương Phố bến xưa. Sum vầy mấy lúc tình cờ, Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân. Lại có không ít lần nàng chìm vào trạng thái mơ màng về tương lai để tìm niềm an ủi, vỗ về: Xin vì chàng xếp bào, cởi giáp Xin vì chàng rũ lớp phong sương. Vì chàng tay chuốc chén vàng, Vì chàng điểm phấn, đeo hương não nùng. Gần hơn nữa, thời gian trong văn học hiện đại lại như một nỗi ám ảnh, đặc biệt là đối với những cái “Tôi” nhạy cảm trong thơ mới. Hàn Mặc Tử trước sự đau đớn của bệnh tật, sự ghẻ lạnh của người đời đã thảng thốt tự hỏi mình: “Có chở trăng về kịp tối nay?” (Đây thôn Vĩ Dạ). Còn với Xuân Diệu “nhà thơ mới nhất trong các những nhà thơ mới” (Hoài Thanh), thời gian dường như không đồng hành cùng cuộc sống mà tách ra để vận động với tốc độ riêng của nó: “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua; xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”. Vì thế nhà thơ vội vàng giục giã mình, kêu gọi người: Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm. (Vội vàng) Tuệ Trung không phải không thấy những điều các nhà thơ sau này thấy, có điều với lối ứng xử “dĩ bất biến ứng vạn biến”, Thượng sĩ đã chế ngự nỗi lo lắng của con người trước sự chóng vánh của cuộc đời nhằm đạt đến cách sống tự tại, an nhiên. Trong thơ của Tuệ Trung còn xuất hiện dạng thời gian phi hiện thực, thời gian bất biến. Trong cảm thức này, thời gian như đứng yên, mọi vật không thay đổi. Điều này được Thượng sĩ thể hiện qua các câu thơ sau: - Tạc dạ nguyệt minh kim dạ nguyệt, Tân niên hoa phát cố niên hoa. (Đốn tỉnh) Dịch thơ: Trăng rọi tối nay: trăng hôm trước Hoa cười năm mới: hoa năm kia. (Chợt tỉnh – Huệ Chi dịch) - Tự đắc nhất triêu phong giải đống, Bách hoa nhưng cựu lệ xuân đài. (Nhập trần) Dịch thơ: Rồi một ngày mai băng giá hết, Trăm hoa như cũ, gió xuân nồng. (Vào vòng cát bụi– Huệ Chi dịch) Thời gian ấy còn tồn tại trong khoảng lặng – lúc con người giác ngộ được điều cốt lõi của Thiền: Đường trung đoan tọa tịch vô nghiên (ngôn), Nhàn khán Côn Luân nhất lũ yên. (Ngẫu tác) Dịch nghĩa: Ngồi ngay ngắn giữa nhà lặng lẽ không nói, Thảnh thơi nhìn một tia khói trên núi Côn Luân. (Chợt hứng làm thơ) Hay: Trường không chỉ kiến cô luân nguyệt, Sát hải trừng trừng dạ mạn thu. (Thị tu Tây phương bối) Dịch nghĩa: Bầu trời bát ngát chỉ thấy vầng trăng cô đơn, Bể Phật trong suốt, đêm chuyển dần vào thu. (Gợi bảo những người tu Tây phương) Thời gian bất biến, phi hiện thực này không mâu thuẫn với thời gian hiện thực. Nó chỉ là khoảng thời gian bất biến chuyển hóa từ thời gian hằng biến. Trở lại bài Đốn tỉnh, ta thấy trăng của tối nay cũng là trăng của tối qua; hoa của năm nay cũng là hoa của năm ngoái. Vì nó chỉ là hiện tượng lặp lại của một bản chất. Nếu giác ngộ được bản chất ấy thì sẽ không còn bị chi phối bởi những hiện tượng cụ thể. Nói như Lê Trí Viễn, “cái tâm của con người khi đã giác ngộ sự vô thường của vạn vật, cởi bỏ những mê lầm của giác quan và ý thức... là giác ngộ, là ngộ đạo. Đạt tới đó thì không gian thời gian vừa hữu hạn vừa vô hạn, vô thường và hằng thường, trong cái vi mô có cái vĩ mô, trong cái khoảnh khắc có cái vĩnh cửu...” [37, tr.90]. Bông hoa, vầng trăng mà Tuệ Trung nhắc đến trong bài thơ chính là đại diện cho Phật tính hằng thường vốn có trong tâm con người, nhưng do con người cứ phân biệt hôm qua – hôm nay, năm mới – năm cũ mà tạo nên sự thay đổi. Thực ra cái vô thường ấy cũng là những cái rất hằng thường: ba sinh chỉ giống như ngọn đuốc trước gió, tuần hoàn chín cõi tưởng là rộng dài nhưng kết cục chỉ như cái miệng cối xay đối với con kiến. Nếu giữ được cái tâm an nhiên thì con người sẽ không cố phân biệt đâu là hiện thực, đâu là siêu thực. Qua cách cảm nhận về thời gian như trên, có thể nhận thấy điểm đáng quý ở Tuệ Trung là dù có đề cập đến dạng thời gian nào, cuối cùng Thượng sĩ cũng thể hiện tinh thần lạc quan, xây dựng lối nhìn, lối nghĩ tự tin giúp con người sống vui, sống đẹp với đời. 3.3. Về giọng điệu Thi pháp học hiện đại đã xác định: “Giọng điệu trong văn học là một hiện tượng nghệ thuật toát ra từ bản thân tác phẩm và mang nội hàm tư tưởng thẩm mĩ... Giọng điệu là biểu hiện của thái độ, cảm xúc của chủ thể đối với đời sống” [91, tr.248]. Nó “vừa biểu hiện ở phương diện ngữ âm: Trầm, bổng, đục, trong... vừa biểu hiện ở phương diện phong cách: nóng, lạnh, nhu, cương...” [97, tr.64]. “Giọng điệu còn được bộc lộ qua cách miêu tả và các hiện tượng, các tính cách hoàn cảnh. Giọng có thể thể hiện trực tiếp trong ngôn ngữ, có giọng nằm sau các chữ, trong các chỗ phi ngôn ngữ như các dấu câu, những chỗ ngắt đoạn” [32, tr.153]. Chung quy lại, chúng ta có thể xác nhận giọng điệu là cái thể hiện ra nội lực, bản chất cũng như quan niệm của người sáng tác với cuộc sống. Giọng điệu mang tính phức hợp, đồng thời cũng là yếu tố riêng khó lẫn của mỗi tác giả. Hiểu giọng điệu với tính chất như thế, ta thấy giọng điệu mà Tuệ Trung đóng góp cho thơ thiền Việt Nam là một thứ giọng phong phú, đa thanh. Đó là chất giọng triết lí khi cần thuyết giáo về giáo lí, kinh Phật hay khi bàn về vấn đề cần suy ngẫm. Con người sống trên đời thường lo sợ nhiều nhất về lẽ sống chết. Riêng với Thượng sĩ vấn đề đó không hề đáng ngại. Ông triết lí về nó thật dứt khoát: Sinh tự vọng sinh, tử vọng tử. Tứ đại bản không tòng hà khỉ (khởi)? Mạc vi khát lộc sấn dương diễm, Đông tẩu Tây trì vô tạm dĩ.” (Sinh tử nhàn nhi dĩ) Dịch thơ: Sống là sống dối, chết: chết dối, Tứ đại vốn không, từ đâu nổi. Đừng như hươu khát rượt “bóng sông”, Chạy quàng không nghỉ, khắp Tây Đông. (Sống chết là lẽ thường thôi – Huệ Chi dịch) Hình ảnh con hươu khát chạy theo ảo ảnh (dương diễm) là hình ảnh có tính triết lí, bất ngờ. Nó cụ thể hóa sự lầm lạc của con người có cái tâm vọng niệm và cái nhìn nhị kiến. Triết lí ấy được Tuệ Trung chắt lọc từ những điều đơn giản: “Đến nhà chớ hỏi đường; thấy trăng, còn tìm gì ngón tay” [58, B.105]. Những cái cần tìm vốn từ trong tâm ta, nhưng con người không tự biết nên buộc mình vào ảo ảnh: Cầu chân như đoạn vọng niệm, Tự dương thanh chỉ hưởng tâm nan. Xả phiền não như thủ nê hoàn, Như nhật ảnh đào hình ban loại. (Trữ từ tự cảnh văn) Dịch thơ: Cầu chân như mà dứt niềm vọng, Tựa hét to để át tiếng vang. Bỏ phiền não mà giữ niết bàn, Như sợ bóng chạy vào nắng trốn. (Bài văn trữ tình tự răn – Huệ Chi và Đỗ Văn Hỷ dịch) Nhằm đả phá mạnh mẽ hơn sự mê lầm, ảo tưởng đó của con người, đôi lúc giọng triết lí của Tuệ Trung trở nên quyết liệt, thậm chí trào lộng, nhạo báng. Con người lúc mới tham Thiền luôn xác định trì giới và nhẫn nhục để đạt đạo. Bản thân của việc trì giới và nhẫn nhục là phù hợp với giáo lí, nhưng trong khi thực hành con người luôn để tâm đến chúng, không từ bỏ được sự “tham sinh, úy tử” thì quả đáng phê phán. Vì thế Tuệ Trung chỉ trích thật gay gắt: Trì giới kiêm nhẫn nhục, Chiêu tội bất chiêu phúc. Dục tri vô tội phúc, Phi trì giới nhẫn nhục. (Trì giới kiêm nhẫn nhục) Dịch thơ: Trì giới và nhẫn nhục, Chuốc tội chẳng chuốc phúc. Muốn biết không tội phúc, Đừng trì giới nhẫn nhục. (Trì giới và nhẫn nhục – Huệ Chi dịch) Học trò của Thượng sĩ trong khi tham vấn, học hỏi có không ít người tự trói mình vào sự câu chấp, phụ thuộc vào các khái niệm. Trong phần Tụng cổ có dẫn câu chuyện: Có một thiền tăng hỏi sư Trương Sa Sầm: “Con giun bị chém làm hai đoạn, hai phía đều động, vậy Phật tính ở phía nào?”. Sư trả lời: Hai phía đều không động, Động ở phía nhà ngươi. Tâm đắc với lời đáp của người xưa, Tuệ Trung viết bài tụng: Chặt đứt con giun thành hai khúc, Hai đầu đều động có ai ngờ. Hỏi rằng Phật tính không hề biết, Mổ bụng cất rùa, uổng phí chưa? Trong Đối cơ và Tụng cổ rất nhiều lần Thượng sĩ sử dụng lối nói nhạo báng như thế. Ông cố ý dồn người đối thoại vào chân tường bằng thái độ hết sức gay gắt. Thông thường câu trả lời của Thượng sĩ khiến vấn đề được đặt ra trở nên tối nghĩa hơn, làm cho người đang nung nấu suy nghĩ về nghi án cảm thấy bất lực trong việc đi tìm lời giải đáp. Lúc này mọi suy nghĩ, suy luận theo lôgic thông thường không còn hữu dụng. Từ trạng thái đó, người hỏi từ bỏ được tư duy luận lí, thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn tự trói mình vào, sau đó là giây phút bừng ngộ. Cách nói quyết liệt ấy của Tuệ Trung thể hiện tinh thần tự tin của con người thời đại – con người biết lấy mình làm điểm tựa, không cầu xin hay lệ thuộc vào bất kì sức mạnh siêu nhiên nào. Tuy nhiên không phải lúc nào thuyết pháp về đạo, Tuệ Trung cũng triết lí khô khan. Trong thơ của ông còn có sự xuất hiện khá đậm của giọng điệu trữ tình. Nhiều lúc truyền đạt tư tưởng Thiền học, Thượng sĩ sử dụng cách nói như lời tâm tình: Đằng thử vô đoan tiệm tiệm xuân, Quy lai chung lão quý sơn lâm. Sài môn mao ốc cư tiêu sái, Vô thị, vô phi tự tại tâm. (Tự tại) Dịch nghĩa: Dây leo và loài chuột không dưnng dần dần lấn tới, Trở về gửi thân nơi núi rừng đến trọn tuổi già. Cửa liếp nhà tranh, ăn ở thảnh thơi, Không “thị”, không “phi”, lòng ung dung tự tại. Hay: Mộng trung tạo tác, Giác hậu đô vô. Mộng trung tác sinh tế sinh thô, Giác hậu vô tuyệt tiêm tuyệt hào. (Trữ từ tự cảnh văn) Dịch nghĩa: Sự tạo tác trong giấc chiêm bao, Sau khi tỉnh dậy đều là không cả. Trong giấc mộng sinh nhỏ sinh to, Sau khi tỉnh không tơ không tóc. (Bài văn trữ tình tự răn) Tính chất trữ tình trong giọng điệu của Tuệ Trung được đề cập ở đây, hẳn nhiên không phải là tiếng nói yêu đương, là chất men say rạo rực trong tình cảm đắm say trần tục, mà là sắc thái tình cảm trong trẻo, nguyên sơ của thơ thiền. Trong thơ của thiền gia lỗi lạc này, không ít lần xuất hiện những giây phút êm đềm cũng như những khoảnh khắc xao động trong tâm hồn khi đứng trước cảnh vật, cuộc sống. Chẳng hạn như giây phút nhà thơ đứng trước cảnh vật ở Phúc Đường: Phúc Đường cảnh trí dĩ lang đang, Lại hữu thiền phong tập tập lương. Ly lạc tiêu sơ trừu duẩn sấu. Môn đình u thúy tịch tùng hoang. (Phúc Đường cảnh vật) Dịch nghĩa: Phong cảnh Phúc Đường thật là thoáng đãng, Nhờ có ngọn gió thiền vi vu mát rượi. Giậu đổ tiêu điều, nảy chồi măng gầy, Sân cổng thâm u kề gốc thông hoang. (Cảnh vật Phúc Đường) Nếu không có cảm xúc tinh tế, nhạy bén, sâu sắc thật khó nắm bắt được vẻ thoáng đãng của cảnh vật Phúc Đường với cơn gió thiền thổi lao xao. Càng không thấy được sức sống mới của măng võ đang trỗi dậy nơi giậu đổ tiêu điều, vẻ thâm u của sân cổng hài hòa với vẻ hoang sơ của gốc thông hoang. Giọng trữ tình với niềm say mê thiên nhiên cảnh vật thể hiện rõ hơn trong bài Giang hồ tự thích (B.91): Chí xưa hồ hải chửa từng khuây, Tên vút, thoi đưa tháng lại ngày. Gió mát trăng thanh sinh kế đủ, Non xanh, nước biếc thú vui đầy. Giương buồm, sáng sớm băng mù thẳm, Nâng sáo, chiều hôm giỡn khói mây. (Huệ Chi dịch) Trở về với thế giới thiên nhiên hoang sơ, tâm hồn của Tuệ Trung trở nên thanh thoát. Bài thơ một mặt đạt đến tính triết lí khi truyền đạt lối sống “tùy duyên” của đạo Phật, mặt khác toát lên niềm say sưa yêu cuộc sống, sự lạc quan của một tâm hồn tự do, phóng khoáng. Mặc dù cũng như nhiều thiền sư khác, tác giả không có chủ đích tả cảnh thiên nhiên, nó chỉ được sử dụng chủ yếu như một phương tiện thể hiện quan điểm Thiền học, song nó vẫn là thiên nhiên tự thân khách quan, là hình ảnh tự nó có sức lay động. Vì vậy đọc thơ của Tuệ Trung, ta vẫn thấy ngấm ngầm tình cảm ông dành cho vạn vật. Đôi khi giọng điệu trữ tình thể hiện qua tâm sự riêng tư, ít nhiều nhuốm màu tục lụy: Tiêu đầu lạn ngạch bị kim bào, Ngũ thất niên gian thị xưởng tào. Túng dã siêu quần kiêm bạt tụy, Nhất hồi phóng hạ nhất hồi cao. (Chiếu thân) Dịch thơ: Cháy đầu bỏng trán mặc kim bào, Xay giã bao năm ai biết nào. Nếu thực siêu quần và xuất chúng, Mỗi lần hạ xuống một lần cao. (Soi mình – Đỗ Văn Hỷ dịch) Song nỗi u uẩn ấy chỉ thoáng qua một đôi lần, Tuệ Trung xem điều đó như một phần tất yếu của cuộc đời, giống như quy luật “người đời có thịnh thì có suy, hoa kia có tươi thì có héo” [58, B.109]. Thượng sĩ bình thản chấp nhận nó để từ đó sống đẹp hơn, phù hợp hơn với cuộc đời. Tuệ Trung giống như anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi về sau đều lấy cây tùng làm biểu tượng cho mình và chọn nơi “hoa nhàn cỏ nội” để “dưỡng chân”. Chỉ khác là Nguyễn Trãi lánh đời với tâm trạng “bất đắc chí”, còn sự “thoát thế” của Tuệ Trung bắt nguồn từ nhận thức ít nhiều mang hơi hướng Lão Trang: cuộc đời như một cuộc chơi, rốt cuộc mọi cái đều là hư ảo. Thơ của ông phần nhiều nói về cuộc sống tự do, gần gũi, hài hòa cùng vạn vật, “cam làm người chăn trâu trong chốn hoang vu” [58, B.75]. Đó là chất trữ tình trong sáng của một con người biết sống theo lẽ “tùy duyên”, không còn vướng bận vào giải thoát hay trần tục. Giọng điệu đa dạng, vừa triết lí sâu sắc, vừa bàng bạc chất trữ tình, vừa thể hiện tư tưởng phóng khoáng, trào lộng, vừa mang phong thái nhẹ nhàng tiêu dao của Lão Trang... đã góp phần làm nên một Tuệ Trung xứng đáng là một nhà thơ theo đúng nghĩa. Giọng điệu phong phú này khiến nhiều bài thơ của Tuệ Trung vừa có chiều sâu tư tưởng, vừa đạt đến sự rung động thẩm mĩ cao. 3.4. Về thể loại và kết cấu Cũng như hầu hết sáng tác của các tác giả thời Lý Trần, tác phẩm của Tuệ Trung phần lớn được viết theo thể Đường luật như: ngũ ngôn tứ tuyệt (1/49 bài), thất ngôn tứ tuyệt (21/ 49 bài), thất ngôn bát cú (19/49 bài), một số ít viết theo lối cổ phong. Việc lựa chọn thể thơ Đường luật vào giai đoạn này là một việc làm không mang ý nghĩa đặc biệt, vì ở thời điểm này chưa có các thể loại mới như ở giai đoạn sau. Điều đặc biệt là trên nền tảng chung đó, Tuệ Trung đã có cách thể hiện riêng trong việc vận dụng thể thơ năm, bảy chữ cũng như kết hợp các câu thơ, đoạn thơ trong một bài thơ dài. Nhằm trình bày cô đọng, bất ngờ một phạm trù triết lí, Tuệ Trung sử dụng thể thơ năm chữ với câu thơ ngắn, nhịp thơ mạnh gây sự chú ý. Đặc biệt là ở thể ngũ ngôn tứ tuyệt: Kiến giải trình kiến giải, Tự niết mục tác quái. Niết mục tác quái liễu, Minh minh thường tự tại. (Kiến giải) Đây là bài thơ duy nhất của Thượng sĩ thuộc loại thơ này (trên tổng số 49 bài thơ). Sử dụng không nhiều, nhưng nhờ vận dụng kết cấu trùng lặp nên vấn đề đặt ra đã được tác giả giải quyết dứt khoát. Bài thơ chỉ có hai mươi chữ, nhưng có sáu chữ được lặp lại (“kiến giải”, “niết mục tác quái”) có tác dụng liên kết, hô ứng cho nhau nhằm mục đích lí giải vấn đề: “Kiến giải” là trình bày những điều trông thấy, “niết mục tác quái” là ấn tay làm cho mắt mình nhìn vật thành kì quái – nhìn thấy cái giả danh, cái hiện tượng bên ngoài. Qua cách thể hiện đó, Tuệ Trung nhấn mạnh con người cần vượt qua cái nhìn thông thường bằng thị giác để nhận ra bản thể đích thực. Ba bài thơ năm chữ còn lại (Mê ngộ bất dị, Trì giới kiêm nhẫn nhục, Thị đồ) cũng là những bài học được diễn đạt ngắn gọn. Ở bài Trì giới kiêm nhẫn nhục, Thượng sĩ viết: …Trì giới kiêm nhẫn nhục, Chiêu tội bất chiêu phúc. Dục tri vô tội phúc, Phi trì giới nhẫn nhục. Bằng lối kết cấu nêu giả thiết để kết luận, ông đã đơn giản hóa bài học bằng công thức: A thì B  Không B thì không A Không cần phải giải thích nhiều, kết cấu ấy kết hợp với việc lặp lại những từ ngữ cần thiết, tác giả đã truyền đạt được cái tâm dứt khoát, tự do, không câu chấp của mình. Thể thơ ngũ ngôn này được các thiền sư đời Lý sử dụng khá nhiều, đặc biệt là thể ngũ ngôn tứ tuyệt (33/66 bài thơ). Điều này phù hợp với dạng thơ thiên về triết lí của thời này. Song đến Tuệ Trung, với lối viết thiên về chất trữ tình – triết học (như đã đề cập ở phần giọng điệu), nên phần lớn tác phẩm của ông thuộc dạng thơ thất ngôn (40/49 bài, chiếm 81.6 %) nhằm đạt được yêu cầu giãi bày chi tiết vấn đề cũng như thể hiện được tâm hồn tự do, phóng khoáng của Thượng sĩ. Ở thể thơ thất ngôn này, các dạng kết cấu được Tuệ Trung vận dụng khá linh hoạt. Trong các bài thất ngôn tứ tuyệt, kết cấu được sử dụng nhiều nhất là nêu những ví dụ bằng hình ảnh so sánh, ẩn dụ để đi đến kết luận hoặc từ giả thiết đi đến kết luận vấn đề. Ví dụ như một số bài thơ sau: Bài Thủ nê ngưu: Nhất thân độc thủ nhất nê ngưu, Đặng tỵ khiên lai vị khẳng lưu. Tương đáo Tào Khê đô phóng hạ, Mang mang thủy cấp đả viên cầu. Dịch nghĩa: Một mình riêng giữ con trâu đất, Xỏ mũi dắt về chưa từng chịu nghỉ. Đem đến Tào Khê thì thả ra, Mênh mông nước chảy cuốn quả cầu tròn. (Giữ con trâu đất) Hoặc bài Điệu tiên sư: Nhất khúc vô sinh xướng liễu thì, Đảm hoành tất lật cố hương quy. Thượng đầu đả quá hồ hà hữu, Nhất cá nê ngưu nhậm đảo ki. Dịch nghĩa: Khi hát xong khúc vô sinh, Thì cầm ngang ống sáo trở về làng cũ. Bỏ qua cái trước đây không có gì cả, Mặc sức cưỡi ngược con trâu đất. (Thương xót bậc thầy xưa) Cả hai bài thơ trên, Tuệ Trung đều đưa ra những hình ảnh ẩn dụ “độc thủ nhất nê ngưu”, hát “khúc vô sinh”, “đảm hoành tất lật” để đi đến lời kết luận mang tính chất hàm ẩn. Kết luận hàm ẩn này sẽ được ngộ ra ở những mức độ khác nhau tùy vào căn cơ của từng người người tiếp nhận. Đó là dạng kết cấu mở tạo sự thú vị, sức hấp dẫn cho bài thơ. Hay nói như Đoàn Thị Thu Vân “giá trị thẩm mĩ của nó là ở chỗ giống như chưa hoàn chỉnh, buộc người đọc không thể không động não để cùng tham gia vào quá trình hoàn thành bài thơ. Nó tránh cho người đọc rơi vào cảm giác nhạt nhẽo trống rỗng khi thưởng thức trọn vẹn một cái gì đó – nếm xong, biết vị ngay, và thế là hết.” [13, tr.113]. Với những bài thơ dài 8 câu, Tuệ Trung thường sử dụng lối kết cấu bậc thang: Nhận định – chứng minh – kết luận. Hai câu đầu ông nêu nhận định khái quát về vấn đề, tiếp theo là những dẫn chứng minh họa có trong tự nhiên, phần cuối ông khẳng định kết luận của mình để người tiếp nhận tự rút ra bài học. An định thời tiết là bài thơ tiêu biểu cho dạng kết cấu này: Sinh tử do lai bãi vấn trình, Nhân duyên thời tiết tự nhiên thành. Sơn vân dã hữu xuất sơn thế, Giản thủy chung vô đầu giản thanh. Tuế tuế hoa tùy tam nguyệt tiếu, Triêu triêu kê hướng ngũ canh minh. A thùy hội đắc nương sinh diện, Thủy tín nhân tiên tổng giả danh. Vấn đề mà Tuệ Trung đặt ra trong bài thơ là không nên hỏi về lai lịch của con đường sống và chết (Sinh tử do lai bãi vấn trình). Để thuyết phục, Thượng sĩ đưa ra hai cặp hình ảnh: cái luân chuyển (mây – nước) và cái tuần hoàn (hoa nở – gà gáy). Như vậy có thể thấy tác giả đã đồng nhất sống và chết với những hiện tượng tự nhiên. Nghĩa là nó cũng trở nên vô thường và hằng biến. Từ đó Thượng sĩ đi đến kết luận “người và trời đều giả danh” (Thủy tín nhân tiên tổng giả danh), con người đừng nhọc công tìm kiếm. Đây cũng là cấu trúc của các bài Thị chúng, Thế thái hư huyễn, Vật bất năng dung. Dạng kết cấu này một mặt khiến bài thơ như lời trữ tình gần gũi, mặt khác là những triết lí sâu sắc. Đó là những lời khuyên gợi lại những trải nghiệm của người đi trước. Sự đan xen chất trữ tình và triết lí như vậy tạo cho thơ thiền của Tuệ Trung nét độc đáo, đồng thời dễ đi vào lòng người. Trong dạng thơ thất ngôn bát cú này, Tuệ Trung còn vận dụng thành công kiểu kết cấu vận động, chuyển hóa giữa các mặt đối lập. Mỗi sự vật hiện tượng trong bài thơ thường được ông quan sát và thể hiện trong tác phẩm thông qua hai mặt đối lập như: thực – giả, nhanh – chậm, vĩnh cửu – nhất thời… Kiểu kết cấu này được tác giả vận dụng trong bài Vạn sự quy như, nhưng đặc biệt thành công ở bài Đốn tỉnh: Đoán tri không hữu bất tương sa, Sinh tử nguyên tòng nhất phái ba. Tạc dạ nguyệt minh kim dạ nguyệt, Tân niên hoa phát cố niên hoa. Tâm sinh thúc hốt chân phong chúc, Cửu giới tuần hoàn thị nghĩ ma. Hoặc vấn như hà vi cứu cánh, Ma – ha bát – nhã tát – bà – ha. Bài thơ gồm tám câu, nhưng có tới sáu câu nêu lên sự vận động, chuyển hóa của sáu cặp đối lập. Cặp đối lập ở câu một là không và có; Cặp đối lập ở câu hai là sống và chết, cặp đối lập ở câu 3, 4 là cái nhất thời trong một dạng vật chất cụ thể và cái hằng thường của quy luật; cặp đối lập ở câu 5 là lâu dài và khoảnh khắc; cặp đối lập ở câu 6 là cái lớn lao và cái nhỏ bé. Sáu cặp đối lập này không đưa tới kết luận làm nổi bật một trong hai mặt đối lập hay chỉ sự hữu hạn của cuộc đời con người như vẫn quen gặp trong thơ Đường mà nhấn mạnh vào sự biện chứng chuyển hóa giữa các mặt đối lập để khẳng định tính nhất nguyên của nó (Ma – ha bát – nhã tát – bà – ha tức là như thị, như thế ấy). Kiểu kết cấu này đặc biệt phù hợp với tinh thần phá chấp triệt để của Tuệ Trung. Ông đả phá mạnh mẽ những con người có đầu óc chấp nê cứ bám vào các hiện tượng nhìn thấy được rồi giữ mãi tri kiến hẹp hòi đó mà bỏ mất cơ hội tìm ra bản thể chân như. Ở thể loại cổ phong phóng khoáng tự do, Tuệ Trung đã phối hợp các câu dài ngắn trong một đoạn thơ nhằm mục đích nhấn mạnh và gây sự chú ý. Sự phối hợp này thường đi kèm với kết cấu lặp cấu trúc và kết cấu vòng tròn. Ví dụ như ở bài Phật tâm ca, trừ khổ thơ mở đầu, 11 khổ còn lại có chung một dạng kết cấu: Hai câu đầu (mỗi câu 3 chữ) có tác dụng cô đúc ý chính của khổ, những câu còn lại triển khai rõ ý chính này. Việc lặp lại như thế có tác dụng nhấn mạnh kết luận: con người hãy từ bỏ cả tâm và Phật, đừng bám vào cái này hoặc cái kia thì sẽ đạt đến trạng thái vi diệu, mở được “con mắt huệ”. Kiểu kết cấu vòng tròn trong bài thơ được thể hiện ở chỗ: mở đầu tác giả nêu lên hai vấn đề Phật không thể thấy, tâm không thể nói và mối quan hệ biện chứng giữa Phật và tâm (“Khi tâm sinh thì Phật sinh, khi tâm diệt thì Phật diệt”). Những khổ thơ còn lại là những lí lẽ chứng minh cho hai vấn đề đó. Riêng khổ thơ cuối là lời cảnh tỉnh đối với người học đạo: Tỉnh! Tỉnh! Tỉnh! Thức! Thức! Thức! Bàn chân dẫm đất đừng chống chếnh. Ai người tin tưởng ở nơi đây, Bước lên đầu Phật trèo lên đỉnh. Hét! (Huệ Chi dịch) Đây cũng là dạng kết cấu được sử dụng trong bài Trữ từ tự cảnh văn. Lối kết cấu vòng tròn ở tác phẩm này dẫn dắt người đọc trở về điểm khởi đầu của bài thơ để phát hiện thấu đáo vấn đề, cũng như khẳng định vấn đề bằng cách thực hành sáng suốt. Kết cấu này càng phát huy tác dụng khi Thượng sĩ kết hợp nó với nhịp thơ mạnh cùng với tiếng hét có tác dụng cảnh tỉnh: Chắp tay trân trọng, Bè bạn thân tình. Hoặc ai người có thánh có linh, Mở tầm mắt ta cùng tiến tới. Hét! (Huệ Chi – Đỗ Văn Hỷ dịch) Trong phần Đối cơ của Thượng sĩ ngữ lục, Tuệ Trung vận dụng thành công kiểu kết cấu theo hình thức đối cơ. Đây là phương thức mẫu mực, độc đáo của Thiền tông, hàm súc tất cả khí phách hùng hồn qua một cuộc đối thoại, vượt hẳn ra ngoài suy diễn luận lí và các khái niệm vọng tưởng. Căn cứ vào Thiền uyển tập anh thì dạng kết cấu này đã xuất hiện từ thời Pháp Hiền (?- 626) và được thịnh hành vào thời Lý khi Viên Chiếu viết Tham đồ hiển quyết với những công án nhằm dạy cho những người tham Thiền. Thực tế, các thiền sinh thường là những người thụ động với những lí luận, khái niệm ngôn từ giả hợp. Thay vì giải thích cặn kẽ các nghi ngờ, thiền sư lại “ra đòn” khiến người hỏi choáng ngợp. Con đường duy nhất để thoát khỏi tình huống đó là thiền sinh cần vượt ra ngoài các khái niệm, tự hóa giải mâu thuẫn nội tại để ngộ ra thiền ý. Kiểu kết cấu Đối cơ mà Tuệ Trung vận dụng tuy theo mô thức truyền thống, nhưng ở ông vẫn có nét đặc sắc riêng. Thượng sĩ thường lật ngược hẳn ý của câu hỏi vốn là những điều cốt lõi của kinh điển để người tham vấn sững sờ và khuất phục, sau đó nói bài kệ ngắn có tác dụng khai tâm. Chẳng hạn như hội thoại thứ bảy trong phần Đối cơ: Lại hỏi: Trong giáo lí nói “không tức là sắc, sắc tức là không”, ý nghĩa thế nào? Sư im lặng giây lâu, hỏi: Đã hiểu chưa? Đáp lại: Chưa hiểu. Sư nói: Ngươi có sắc thân không? Đáp lại: Có. Sư nói: Vậy sao nói “sắc tức là không”? Lại hỏi tiếp: Ngươi có nhìn thấy cái “không” có diện mạo gì không? Đáp lại: Không. Sư nói: Vậy sao nói “không tức là sắc”? Lại hỏi: Rốt cuộc là thế nào? Sư nói: Sắc vốn chẳng phải không, Không vốn không phải sắc. Môn tăng lễ tạ. Sư bảo: Nghe kệ ta đây: Sắc tức là không, không tức sắc, Ba đời chư Phật quyền biến đặt. Không vốn không sắc, sắc không không, Thể tính sáng lâu, chẳng được mất. Trong cuộc hội thoại trên, Tuệ Trung bác bỏ một mệnh đề nổi tiếng của kinh Phật được nhiều người nhắc đến và nghiễm nhiên thừa thận: “không tức là sắc, sắc tức là không”. Lần thứ nhất, khi thiền sinh đồng ý mình có sắc thân, Tuệ Trung đã hỏi dồn: Vậy sao nói “sắc tức là không”? Lí trí không cho phép thiền sinh khẳng định điều này. Lần thứ hai, khi được hỏi: Ngươi có nhìn thấy cái “không” có diện mạo gì không? Thiền sinh với suy nghĩ lí trí buộc phải phủ nhận. Tuệ Trung tiếp tục hỏi dồn: Vậy sao nói “không tức là sắc”?. Đó quả là câu hỏi nan giải mà người tham vấn với suy nghĩ theo lôgic thông thường không thể trả lời. Như thế cả hai lần, bằng cách vận dụng kết cấu Đối cơ, Thượng sĩ đã bác bỏ vấn đề mà người học đạo đưa ra một cách hiệu quả. Từ đó ông đi đến một mệnh đề mới, đối lập hoàn toàn với kinh điển Phật giáo, có tác dụng khơi mở tâm hồn những người còn vướng mắc vào khái niệm, chịu sự ràng buộc của cái nhìn “nhị kiến”. Người đọc có phong thái nho nhã, ưa sự trau chuốt ngôn từ sẽ khó thích lối nói này của Tuệ Trung. Nhưng đây là những đòn đánh cần thiết cho những ai còn mê lầm, chấp vào cực này hay cực kia. Đọc Đối cơ của Tuệ Trung, người đọc cần cái tâm tĩnh, nhưng phải có tinh thần phá chấp mạnh mẽ. Có như thế mới thấy được cái thâm hậu riêng của người sử dụng nó. Việc kết hợp các thể loại thơ với kiểu kết cấu hài hòa cho riêng từng bài, từng thể loại đã khiến cho thơ Thiền của Tuệ Trung trở nên sinh động hơn. Nó vừa gây ấn tượng, vừa “đốn tỉnh” người học đạo và phần nào thể hiện được phong thái riêng của Thượng sĩ. KẾT LUẬN Từ việc đề cập đến những đóng góp của Tuệ Trung Thượng sĩ cho thơ thiền Việt Nam, người viết đi đến một số kết luận như sau: 1. Lý Trần là một trong những thời đại để lại dấu ấn rực rỡ nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Đây là thời đại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước với hào khí vang dội từ những cuộc chiến chống giặc ngoại xâm. Đồng thời cũng là thời đại phục hưng những giá trị tinh thần của dân tộc. Vượt qua những khó khăn thử thách của giai đoạn đầu khôi phục đất nước sau gần mười một thế kỉ bị lệ thuộc, dưới thời đại Lý Trần, Đại Việt đã tạo dựng nên nhiều thành tựu về kinh tế, chính trị, giáo dục, hệ tư tưởng... Đặc biệt, đây là giai đoạn hưng thịnh bậc nhất của Phật giáo trong lịch sử Việt Nam. Trải qua một thời gian dài, đến thời đại Lý Trần, Phật giáo với tông phái chính là Thiền tông đã bắt nhịp với cuộc sống, hòa vào hào khí của thời đại, trở thành hệ tư tưởng tiến bộ làm thăng hoa những giá trị tinh thần cao đẹp của một dân tộc đang vươn lên để khẳng định nền độc lập tự chủ của mình. Đó là thứ tôn giáo nhập thế, phù hợp với đòi hỏi của thời đại và tín ngưỡng dân gian của người Việt nam. Yếu tố thời đại kết hợp với sự phát triển của Phật giáo ở giai đoạn này đã tạo nên những con người có hành trạng và cách hành xử đặc biệt. Bên cạnh những nhà sư tu Thiền tại chùa, còn có không ít bậc cư sĩ đi theo đường lối tu Phật nhưng không xuất gia, vừa tham vấn Thiền học vừa hành đạo giúp đời. Tuệ Trung là một mẫu người như thế. Ông vừa hoàn thành sứ mệnh của con người thời đại, góp phần đánh giặc cứu nước, đồng thời là đỉnh cao trong giới thiền gia đời Trần. Con người ấy có hành trạng đặc biệt và đạo học uyên thâm. Sáng tác của ông còn lại được tập hợp trong bộ Thượng sĩ ngữ lục. Đây là bộ sách có giá trị tư tưởng đặc sắc, đồng thời cũng là thi phẩm nghệ thuật được nhiều người đánh giá cao. 2. Dấu ấn thời đại và ảnh hưởng của hào khí dân tộc đã thể hiện khá rõ nét trong thơ của Tuệ Trung. Ngược lại, đến lượt mình Thượng sĩ đã góp phần xây dựng nên cho thời đại chủ nghĩa nhân văn cao đẹp. Điều đó thể hiện qua những đóng góp của thơ thiền Tuệ Trung cho thơ thiền Việt Nam về nội dung – tư tưởng. Tiếp nối hành động dấn thân vào cõi phàm trần để phụng sự chúng sinh của các vị Bồ tát, phát huy tư tưởng “tùy tục” của thiền sư Trường Nguyên, Thường Chiếu đời Lý, Tuệ Trung mang đến cho thơ thiền Việt Nam tư tưởng “tùy duyên” tiến bộ. Đề xuất quan điểm “hòa quang đồng trần”, ông muốn mỗi người tham Thiền không xa lánh trần tục mà đi vào đời, góp phần làm đời thêm sáng tươi. Tinh thần “tùy ngộ nhi an” đến Tuệ Trung đã được thực thi hiệu quả. Cội nguồn của lối sống Thiền tích cực đó chính là tinh thần phá chấp triệt để. Tuệ Trung chỉ cho con người thấy nếu vượt lên trên mọi ràng buộc của khái niệm, của cái nhìn sai biệt chia thế giới làm hai, con người dù ở đâu, lúc nào cũng có thể sống an nhiên, tự tại. Khi không còn sự phân biệt trong tâm thì sẽ không cần tìm thánh, cầu Phật, vì tâm Phật cũng chính là tâm ta. Thượng sĩ đã tạo cho con người niềm tin mạnh mẽ vào bản thân khi chỉ rõ Phật tính vốn có trong tâm họ, đức Phật tồn tại ngay trong đời sống hàng ngày. Ông đồng thời cũng là người góp công trong việc dung hòa tinh hoa của các hệ tư tưởng Nho – Phật – Đạo. Nhận thức đúng yếu chỉ Thiền tông, con người trong thơ Tuệ Trung tự do hành xử theo triết lí hành tàng của Nho gia, ung dung rong chơi trong cõi thế với tinh thần vô vi, phóng nhiệm của Lão – Trang. Những tư tưởng tiến bộ trong thơ thiền của Tuệ Trung đã góp phần mở ra một lối đi tích cực cho Thiền tông Việt Nam. Đó là lối đi xuất phát từ chủ nghĩa nhân văn và rất gần gũi với những giá trị văn hóa dân gian, tín ngưỡng của dân tộc. Lối đi ấy phù hợp với lối tư duy và tinh thần năng động, sáng tạo của con người thời đại. 3. Với 49 bài thơ cùng với các câu, các đoạn trong cả hai phần Đối cơ và Tụng cổ, Tuệ Trung đã mang lại cho thơ Thiền Việt Nam những sắc màu mới. Ngôn ngữ trong sáng tác của Tuệ Trung không đơn thuần là những điển tích, điển cố, Thiền ngữ... mà là hệ thống ngôn ngữ sinh động. Ngôn ngữ thơ của ông có khi mang tính chất vô ngôn, nghịch ngôn tiêu biểu của thơ thiền nói chung, khi gần gũi đẫm chất khẩu ngữ, lúc lại đằm thắm, trữ tình. Đó chính là thứ ngôn ngữ phức hợp của nhà thơ có tâm hồn phong phú. Thế giới hình tượng trong tác phẩm của Thượng sĩ từ hình ảnh con người, thiên nhiên đến không gian và thời gian nghệ thuật đều rất đa dạng. Bên cạnh những phần mang phong vị Thiền là những phần phản ánh cuộc sống đa hương, đa sắc. Sự kết hợp nhuần nhị này khiến nhiều sáng tác của Tuệ Trung trở thành những bài thơ trữ tình với ngụ ý, ẩn ngôn sâu sắc, tinh diệu. Giọng điệu trong thơ của ông cũng biến đổi linh hoạt. Giọng điệu ấy lúc trầm, lúc bổng, khi gay gắt, trào lộng, triết lí nhưng có khi lại đằm thắm, trữ tình như lời tâm tình của một con người lấy chính cuộc đời mình thể nhập để phát hiện ra sự diệu kì trong giáo lí Thiền tông. Tuệ Trung không chỉ sử dụng thể thơ ngũ ngôn như nhiều thiền sư đời Lý, ông sử dụng rất nhiều thể thơ để bày tỏ tư tưởng và tình cảm của mình. Bên cạnh những bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt, thất ngôn tứ tuyệt diễn đạt ngắn gọn giáo lí kinh điển của Phật giáo là những bài thơ thất ngôn bát cú hoặc cổ phong giãi bày cặn kẽ những vấn đề uyên áo hay giây phút chứng ngộ và tâm hồn tự do, phóng khoáng của thiền gia đạt đạo. Các thể thơ ấy phát huy tác dụng hơn khi Thượng sĩ kết hợp với nhiều dạng kết cấu như: kết cấu vòng tròn; kết cấu vận động, chuyển hóa giữa các mặt đối lập; kết cấu bậc thang; kết cấu lặp lại; kết cấu nêu ví dụ để đi đến kết luận... Từ những giá trị nghệ thuật được đúc kết, có thể khẳng định Tuệ Trung là nhà thơ theo đúng nghĩa với phong cách thơ trữ tình – triết học. Tác phẩm của ông không chỉ nhằm truyền giảng đạo lí, nó còn chuyên chở bao tâm tình, cảm xúc của một thiền sư – cư sĩ theo đạo mà không lánh đời. Nói như tác giả Nguyễn Duy Hinh: “Thơ thiền của Tuệ Trung thoát tục mà không xuất thế, cuồng mà không say” [47, tr.254]. Nó xây dựng một thế giới thiền lung linh, huyền ảo, nhưng cũng rất gần với cuộc đời. Nói cách khác các tác phẩm của Tuệ Trung đã hoàn thành nhiệm vụ văn học của mình trước khi thực hiện chức năng truyền giảng đạo. Đó là những bài thơ mang dấu ấn cá nhân. Vì thế khi tiếp xúc với thơ của Tuệ Trung, trước khi giác ngộ ra bài học về đạo, chúng ta đã được tiếp xúc với thông điệp truyền cảm của một nghệ sĩ. Với những đóng góp tích cực ấy, thơ thiền của Tuệ Trung rất xứng đáng được coi trọng và nghiên cứu như những bông hoa trong vườn thiền đa hương sắc. Với những điều đã trình bày trong luận văn, người viết hi vọng góp phần đưa Tuệ Trung đến gần hơn với bạn đọc chưa có dịp tiếp cận thơ thiền Việt Nam nói chung và thơ thiền của Tuệ Trung nói riêng. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cảm ơn Kí hiệu các từ viết tắt trong luận văn Mục lục MỞ ĐẦU Chương 1: THỜI ĐẠI LÝ TRẦN VÀ TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ 1.1. Bối cảnh lịch sử – xã hội thời Lý Trần ..................................................16 1.2. Phật giáo Thiền tông thời Lý Trần .........................................................21 1.3. Tuệ Trung Thượng sĩ – thân thế và hành trạng......................................28 Chương 2: NHỮNG ĐÓNG GÓP VỀ NỘI DUNG – TƯ TƯỞNG CỦA TUỆ TRUNG CHO THƠ THIỀN VIỆT NAM 2.1. Tư tưởng “tuỳ duyên”.............................................................................35 2.2. Tinh thần phá chấp triệt để .....................................................................40 2.3. Tinh thần tự tin vào bản thân..................................................................48 2.4. Tinh thần dung hợp Tam giáo ................................................................54 Chương 3: NHỮNG ĐÓNG GÓP VỀ NGHỆ THUẬT CỦA TUỆ TRUNG CHO THƠ THIỀN VIỆT NAM 3.1. Về ngôn ngữ ...........................................................................................61 3.2. Về hình tượng nghệ thuật .......................................................................69 3.2.1. Con người ........................................................................................69 3.2.2. Thiên nhiên ......................................................................................81 3.2.3. Không gian nghệ thuật.....................................................................86 3.2.4. Thời gian nghệ thuật........................................................................89 3.3. Về giọng điệu .........................................................................................95 3.4. Về thể loại và kết cấu ...........................................................................102 KẾT LUẬN ........................................................................................................111 TÀI LIỆU THAM KHẢO THƯ MỤC TÁC PHẨM CỦA TUỆ TRUNG KÝ HIỆU CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN 1. NXB : Nhà xuất bản 2. PTS : Phó Tiến sĩ 3. TCVH : Tạp chí văn học 4. Ths : Thạc sĩ 5. Tp. Hồ Chí Minh : Thành phố Hồ Chí Minh 6. tr : trang 7. Ts : Tiến sĩ 8. Ví dụ [54, tr.128] : tài liệu số 54 ở mục tài liệu tham khảo, trang thứ 128 trong tài liệu này. 9. Ví dụ [58, B.62] : tài liệu số 58 ở mục tài liệu tham khảo, bài thứ 62 theo sắp xếp trong tài liệu này. 10. (Giang hồ tự thích, B.82) : Giang hồ tự thích bài số 82, phân biệt với bài Giang hồ tự thích bài số 91 (áp dụng cho hai bài thơ khác nhau có cùng tựa đề). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Andrew Skillton (2004), Đại cương lịch sử Phật giáo thế giới (Nguyễn Văn Sáu dịch), NXB Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh. 2. Ban Phật giáo Việt nam – Ban Phật giáo chuyên môn (1995), Thiền học đời Trần, NXB Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam. 3. Ban văn học Việt Nam (1971), Về việc nghiên cứu thơ văn Lý – Trần, TCVH, số 5, tr.117. 4. Bùi Duy Tân chủ biên (2004), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (thế kỉ X –XIX), tập 1, NXB Giáo Dục. 5. Bùi Văn Nguyên – Phạm Sĩ Tấn (1961), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, tập II, NXB Giáo Dục, Hà Nội. 6. Bùi Văn Nguyên (1975), Bàn về một khía cạnh trong thơ trữ tình đời Trần, TCVH, số 1, tr.18. 7. Cao Hữu Đính (1971), Văn học sử Phật giáo, NXB Minh Đức, Sài Gòn. 8. Đinh Gia Khánh (1950), Văn học cổ Việt Nam, NXB Giáo Dục, Hà Nội. 9. Đinh Gia Khánh chủ biên (2000), Văn học Việt Nam (Thế kỉ X – nửa đầu thế kỉ XVIII), NXB Giáo Dục. 10. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đại học sư phạm Huế (2008), Vua Trần Nhân Tông và bài học giải phóng dân tộc, nguồn: http:// tuanvietnam.net. 11. Đoàn Thị Thu Vân (1992), Một vài nhận xét về thơ thiền Lý Trần, TCVH, số 2, tr.35. 12. Đoàn Thị Thu Vân (1993), Quan niệm về con người trong thơ thiền Lý Trần, TCVH, số 3, tr.12 13. Đoàn Thị Thu Vân (1996), Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ thiền Việt Nam thế kỷ X – thế kỷ XIV, NXB Trung tâm nghiên cứu Quốc học và NXB Văn Học. 14. Đoàn Thị Thu Vân (1998), Khoảnh khắc “Quên” trong thơ thiền, TCVH, số 4, tr.90 15. Đoàn Thị Thu Vân chủ biên (2008), Văn học trung đại Việt Nam (Thế kỉ X – cuối thế kỉ XIX), NXB Giáo Dục. 16. Đoàn Trung Còn (1970), Các tông phái đạo Phật, NXB Trí Đức, Sài Gòn. 17. Đỗ Văn Hỷ (1975), Câu chuyện Huyền Quang và cách đọc thơ thiền, TCVH, số 5, tr.130. 18. Hà Quảng, Hiểu thêm tâm trạng của Tuệ Trung Thượng sĩ qua một số bài thơ thiền, http:// gio-o.com. 19. Huệ Thiên, Những dòng thơ đời của Tuệ Trung Thượng sĩ, nguồn: http:// www quangduc.com. 20. Huỳnh Công Bá (2006), Lịch sử Việt Nam, NXB Thuận Hóa. 21. Lê Anh Dũng (1994), Con đường tam giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỉ XIX, NXB Tp. Hồ Chí Minh. 22. Lê Anh Dũng, Con đường tam giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỉ XIX, www. Thienlibuutoa.com. 23. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điiển thuật ngữ văn học, NXB Đại học quốc gia Hà nội. 24. Lê Giang (2001), Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam, Luận án tiến sĩ ngữ văn. 25. Lê Mạnh Thát (2002), Lịch sử Phật giáo Việt Nam (từ Lý Thánh Tông đến Trần Thánh Tông), tập III, NXB T.p Hồ Chí Minh. 26. Lê Mạnh Thát (2000), Trần Nhân Tông toàn tập, NXB Tp. Hồ Chí Minh. 27. Lê Mạnh Thát (2001), Lịch sử Phật giáo Việt Nam (từ Lý Nam Đế đến Lý Thánh Tông), tập II NXB Tp. Hồ Chí Minh. 28. Lê Mạnh Thát (2001), Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, tập I, NXB Tp. Hồ Chí Minh. 29. Lê Mạnh Thát (2002), Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, tập II, NXB Tp. Hồ Chí Minh. 30. Lê Mạnh Thát (2002), Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, tập III, NXB Tp. Hồ Chí Minh. 31. Lê Mạnh Thát (2004), Trần Thái Tông toàn tập, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh. 32. Lê Ngọc Trà (1990), Lí luận và văn học, NXB Trẻ. 33. Lê Phạm Trung Dung, Về bài thơ thiền đời Trần, nguồn: leslauriers.word.com. 34. Lê Thiếu Nhơn, Thơ thiền của Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung, http:// lthieunhon.com. 35. Lê Thu Yến chủ biên (2000), Văn học Việt Nam – Văn học trung đại những công trình nghiên cứu, NXB Giáo Dục. 36. Lê Trí Viễn (1998), Quy luật phát triển lịch sử văn học Việt Nam, NXB Giáo Dục. 37. Lê Trí Viễn (2001), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, NXB Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh. 38. Lê Trí Viễn (2005), Đến với thơ hay, hai tập, NXB Giáo Dục (tái bản lần thứ bảy). 39. Lê Trí Viễn chủ biên (1997), Văn học trung đại Việt Nam, Trường đại học sư phạm Tp. Hồ Chí Minh (tài liệu lưu hành nội bộ). 40. Minh Chi (1992), Góp phần tổng kết Phật giáo đời Trần, TCVH, số 4, tr.27. 41. Ngô Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử kí toàn thư, tập I (Cao Huy Du dịch, Đào Duy Anh hiệu đính), NXB Văn hóa thông tin (tái bản lần 3). 42. Ngô Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử kí toàn thư, tập II (Cao Huy Du dịch, Đào Duy Anh hiệu đính), NXB Văn hóa thông tin (tái bản lần 3). 43. Ngô Tất Tố (1942), Văn Học Việt Nam: Văn học đời Lý, NXB Mai Lĩnh, Hà Nội. 44. Ngô Tất Tố (1967), Văn Học Việt Nam: Văn học đời Trần, NXB Khai Trí, Sài Gòn. 45. Nguyễn Công Lý (1997), Bản sắc dân tộc trong văn học Thiền tông thời Lý Trần, NXB Văn hóa thông tin. 46. Nguyễn Công Lý (2002), Văn học Phật giáo thời Lý Trần – Diện mạo và đặc điểm, NXB Đại học quốc gia Tp. Hồ chí Minh. 47. Nguyễn Duy Hinh (1992), Phật giáo với văn học Việt Nam, TCVH, số 4, tr.4. 48. Nguyễn Duy Hinh (1998), Tuệ Trung nhân sĩ – Thượng sĩ – Thi sĩ, NXB Khoa học xã hội. 49. Nguyễn Duy Hinh (2003), Người Việt Nam với Đạo giáo, NXB Khoa học xã hội. 50. Nguyễn Đăng Thục (1991), Lịch sử triết học phương Đông, bốn tập, NXB Tp. Hồ Chí Minh. 51. Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập IV, NXB Tp. Hồ Chí Minh. 52. Nguyễn Đăng Thục (1996), Thiền học Trần Thái Tông, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 53. Nguyễn Đăng Thục (1997), Thiền học Việt Nam, NXB Thuận Hoá. 54. Nguyễn Huệ Chi (1977), Trần Tung, một gương mặt lạ trong làng thơ thiền thời Lý – Trần, TCVH, số 4, tr.116. 55. Nguyễn Huệ Chi (1978), Các yếu tố Phật, Nho, Đạo được tiếp thu và chuyển hóa như thế nào trong đời sống tư tưởng và văn học thời Lý – Trần, TCVH, số 6, tr.76. 56. Nguyễn Huệ Chi (1992), Hiện tượng hội nhập văn hóa dưới thời Lý – Trần từ một trung tâm Phật giáo tiêu biểu: Quỳnh Lâm, TCVH, số 4, tr.13. 57. Nguyễn Huệ Chi (1994), Vài cảm nhận văn học Việt Nam, TCVH, số 2, tr.7. 58. Nguyễn Huệ Chi (1998), Thơ văn Lý Trần, tập II, quyển thượng, Uỷ ban KHXHVN, viện văn học, NXB khoa học xã hội, Hà Nội. 59. Nguyễn Huệ Chi (1998), Trung tâm Phật giáo Quỳnh Lâm và hiện tượng hội nhập văn hóa thời Lý – Trần, TCVH, số 8, tr.11. 60. Nguyễn Hùng Hậu (2000), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập I, Từ khởi nguyên đến thế kỉ XIV, NXB Khoa học xã hội. 61. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam – quan niệm con người và tiến trình phát triển, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 62. Nguyễn Khắc Thuần (1998), Thế thứ các triều đại Việt Nam, NXB Giáo Dục, Hà Nội. 63. Nguyễn Khắc Thuần (1998), Việt sử giai thoại, tập III – 71 giai thoại đời Trần, NXB Giáo Dục, Hà Nội. 64. Nguyễn Khắc Thuần (2000), Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam, ba tập, NXB Giáo dục, Hà Nội. 65. Nguyễn Khắc Thuần (2002), Nước Đại Việt thời Lý – Trần, NXB Thanh Niên, TP. Hồ Chí Minh. 66. Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập I, NXB Văn học – Công ty phát hành sách Hà Nội. 67. Nguyễn Phạm Hùng (1996), Văn học Lý – Trần nhìn từ thể loại, NXB Giáo Dục. 68. Nguyễn Phạm Hùng (1998), Thơ thiền Việt Nam – Những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật, NXB Đại học quốc gia Hà Nội. 69. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học trung đại, NXB Đại học quốc gia Hà Nội. 70. Nguyễn Quang Ngọc chủ biên (2002), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo Dục. 71. Nguyễn Văn Hầu (1957), Việt Nam tam giáo sử, NXB P. Văn Tươi, Sài Gòn. 72. Nguyễn Văn Hoàn (1975), Thơ văn Lý – Trần và hào khí của một thời đại anh hùng, TCVH, số 1, tr.12. 73. Nhiều tác giả (1973), Các tông phái đạo Phật (Tuệ sĩ dịch), Tu thư Vạn Hạnh, Sài Gòn. 74. Nhiều tác giả (1981), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 75. Nhiều tác giả (2000), Giảng văn văn học Việt Nam, NXB Giáo Dục. 76. Phạm Ngọc Lan (1986), Chất trữ tình trong thơ thiền đời Lý, TCVH, số 4, tr.92. 77. Phương Lựu (2002), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn chương cổ Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 78. Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng (1995), Các triều đại Việt Nam, NXB Thanh niên (tái bản lần 2). 79. Suzuki (1992), Thiền luận (Trúc Thiên dịch), quyển thượng, NXB Tp. Hồ Chí Minh. 80. Suzuki (1998), Lăng Già Đại thừa kinh (Thích Chơn Thiện và Trần Tuấn Mẫn dịch), NXB Tp. Hồ Chí Minh. 81. Tuệ Đạt, Những dặc trưng hình ảnh con người Lý Trần, nguồn: http:// hoalinhthoai.com. 82. Thích Đức Thắng, Con trâu đất – một biểu tượng độc đáo của Tuệ Trung, http:// www thuonghylenien.com. 83. Thích Đức Thắng, Pháp dạy người của Thượng sĩ Tuệ Trung, nguồn: www. daitangkinhvietnam.org. 84. Thích Mật Thể (1960), Việt Nam Phật giáo sử lược, NXB Minh Đức, Sài Gòn. 85. Thích Phước Sơn (1992), Nhìn khái quát Phật giáo đời Trần, TCVH, số 4, tr.22. 86. Thích Thái Hòa, Tuệ Trung Thượng sĩ với Nghĩa như kinh kim cương, tập san nghiên cứu Phật học pháp luận, nguồn: www.phatviet.com. 87. Thích Thanh Kiểm (1989), Lược sử Phật giáo Ấn Độ, Thành hội Phật giáo Việt Nam phát hành. 88. Thích Thanh Kiểm (1991), Lược sử Phật giáo Trung Quốc, Thành hội Phật giáo Việt Nam phát hành. 89. Thích Thanh Từ (1999), Thiền sư Việt Nam, Trung tâm Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh xuất bản. 90. Thích Thanh Từ, Tuệ Trung Thượng sĩ Ngữ lục giảng giải, nguồn: http:// www thuvienhoasen.com. 91. Trần Đình Sử (2002), Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục. 92. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại, NXB Đại học quốc gia Hà Nội. 93. Trần Đình Sử (2006), Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam – Văn học dân gian và văn học cổ cận đại, NXB Đại học quốc gia Hà Nội. 94. Trần Lý Trai (2008), Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm, Luận án tiến sĩ ngữ văn. 95. Trần Nghĩa (1974), Quan niệm văn học thời Lý – Trần, TCVH, số 6, tr.29. 96. Trần Nho Thìn (2002), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, NXB Giáo Dục. 97. Trần Thị Dư Khánh (1998), Phân tích tác phẩm từ góc độ thi pháp, NXB Giáo Dục. 98. Trần Trọng Kim (2006), Việt Nam sử luận (bản mới nhất), NXB Văn hóa thông tin. 99. Trần Văn Giáp (1942), Việt Nam Phật giáo sử lược, NXB Hà Nội. 100. Trần Văn Giàu (2000), Bản lĩnh Việt Nam, NXB Trẻ. 101. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tổng tập văn học Việt Nam (trọn bộ 42 tập), tập I, NXB Khoa học và xã hội. 102. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tổng tập văn học Việt Nam (trọn bộ 42 tập), tập II, NXB Khoa học và xã hội. 103. Trương Hữu Quýnh chủ biên (2000), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB Giáo Dục. 104. Trương Văn Chung – Doãn Chính đồng chủ biên (2008), Tư tưởng Việt Nam thời Lý – Trần, NXB Chính trị quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh. 105. Trương Văn Chung (1996), Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần, Luận án phó tiến sĩ. 106. Ủy ban Khoa học xã hội – Viện triết học (1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, NXB Khoa học xã hội – Hà Nội. 107. Viện khoa học xã hội – Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm (2000), Tuệ Trung Thượng sĩ với Thiền tông Việt Nam, NXB Đà Nẵng. 108. Viện văn học – Trần Thị Băng Thanh (1999), Những suy nghĩ từ văn học trung đại, NXB Khoa học xã hội. 109. Viện văn học (1999), Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn học, NXB Tp. Hồ Chí Minh 110. Vũ Khiêu (1992), Đọc văn học Lý – Trần, tập II, quyển thượng, TCVH, số 4, tr.80. 111. Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 112. Vũ Khiêu chủ biên (1980), Thơ văn Nguyễn Trãi (tuyển), NXB Văn học Hà Nội. 113. Vũ Quần Phương, Thơ thiền của Tuệ Trung Thượng sĩ, nguồn: http:// www daouduytue.com. THƯ MỤC TÁC PHẨM CỦA TUỆ TRUNG (Theo thứ tự trong cuốn Thơ văn Lý Trần – tài liệu số 58) 61. Kiến giải (Kiến giải) 62. Dưỡng chân (Nuôi dưỡng chân tính) 63. Thủ nê ngưu (Giữ con trâu đất) 64. Phỏng Tăng Đường đại sư (Thăm đại sư Tăng Điền) 65. Vấn Phúc Đường đại sư tật (Thăm bệnh đại sư Phúc Đường) 66. Hý Trí Viễn Thiền sư khán kinh tả nghĩa (Đùa thiền sư Trí Viễn xem kinh giảng nghĩa) 67. Điệu tiên sư (Thương xót bậc thầy xưa) 68. Thị chúng (Gợi bảo mọi người) 69. Thị học (Gợi bảo người học đạo) 70. Ngẫu tác (Chợt hứng làm thơ) 71. Giản đề tùng (Cây thông dưới khe) 72. Xuất trần (Ra khỏi bụi Trần) 73. Chí đạo vô nan (Đạo lớn không khó) 74. Tâm vương (Vua tâm) 75. Phóng ngưu (Thả trâu) 76. Đề tinh xá (Đề tinh xá) 77. Ngẫu tác (Chợt hứng làm thơ) 78. Chiếu thân (Soi mình) 79. Tự tại (Tự tại) 80. Thị tu Tây phương bối (Gợi bảo những người tu Tây phương) 81. Thoát thế (Thoát đời) 82. Giang hồ tự thích (Vui thích giang hồ) 83. Thị đồ (Gợi bảo học trò) 84. An định thời tiết (Thời tiết an định) 85. Nhập trần (Vào vòng cát bụi) 86. Vạn sự quy như (Muôn việc đều về cõi chân như) 87. Thế thái hư huyễn (Thói đời hư ảo) 88. Họa huyện lệnh (Họa thơ huyện lệnh) 89. Họa Hưng trí thượng vị hầu (Họa thơ Hưng trí thượng vị hầu) 90. Tụng Thánh Tông đạo học (Ca tụng đạo học của Thánh Tông) 91. Giang hồ tự thích (Vui thích giang hồ) 92. Vật bất năng dung (Vật không thể tùy theo mọi người) 93. Thướng Phúc Đường Tiêu Dao Thiền sư, I (Trình Thiền sư Tiêu Dao ở Phúc Đường, I) 94. Thướng Phúc Đường Tiêu Dao Thiền sư, II (Trình Thiền sư Tiêu Dao ở Phúc Đường, II) 95. Phúc Đường cảnh vật (Cảnh vật Phúc Đường) 96. Tặng Thuần Nhất pháp sư (Tặng pháp sư Thuần Nhất) 97. Khuyến thế tiến đạo (Khuyên đời và đạo) 98. Thị chúng (Gợi bảo mọi người) 99. Trụ trường tử (Chiếc gậy) 100. Tự đề (Tự đề) 101. Đốn tỉnh (Chợt tỉnh) 102. Thoái cư (Lui về) 103. Phật tâm ca (Bài ca Phật và tâm) 104. Phóng cuồng ngâm (Bài ngâm cuồng phóng) 105. Sinh tử nhàn nhi dĩ (Sống chết là lẽ thường mà thôi) 106. Phàm thánh bất dị (Phàm thánh chẳng có gì khác nhau) 107. Mê ngộ bất dị (Mê lầm và giác ngộ không có gì khác nhau) 108. Trì giới kiêm nhẫn nhục (Trì giới và nhẫn nhục) 109. Trừu thần ngâm (Bài ngâm bĩu môi) 110. Trữ tự từ cảnh văn (Bài văn trữ tình tự răn) 111. Đối cơ (Tùy theo cơ duyên mà ứng đối) 112. Tụng cổ (Tụng cổ)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHVHVN043.pdf