Kiểm toán là một lĩnh vực còn rất non trẻ đối với nước ta. Ra đời được hơn 10 năm, hoạt động kiểm toán ngày càng phát triển và khẳng định vị trí quan trọng của nó. Trong điều kiện nước ta hiện nay, việc tăng cường hoạt động và nâng cao chất lượng công tác kế toán và kiểm toán được quan tâm bởi vai trò quan trọng và sự cần thiết của hoạt động kiểm toán. Đặc biệt, Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá cho nên càng cần thiết phải tạo điều kiện phát triển cho hoạt động kiểm toán.
Trong thời gian thực tập tại Công ty AASC và lựa chọn đề tài: “Những giải pháp chủ yếu hoàn thiện quy trình kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán (AASC) thực hiện” để nghiên cứu, em đã được tiếp cận và phần nào hiểu được thực tế một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính nói chung và kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền nói riêng. Được trực tiếp tham gia vào cuộc kiểm toán tại các khách hàng, em đã nhận biết được sự khác biệt giữa lý luận và thực tế thực hiện kiểm toán. Em cũng đã được nghiên cứu chương trình kiểm toán mẫu của Công ty AASC, việc áp dụng chương trình vào quá trình kiểm toán tại các khách hàng.
Do đó, trong bài viết này em đã trình bày được các vấn đề:
I. Lý luận chung về kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính
II. Thực trạng kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền do Công ty AASC thực hiện
III. Phương hướng và những giải pháp chủ yếu hoàn thiện kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính tại AASC
Kết thúc bài viết này, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của TS.Đinh Trọng Hanh và sự giúp đỡ, chỉ bảo của các anh chị trong phòng Đào tạo và hợp tác quốc tế trong quá trình đi thực tế, để em có thể hoàn thiện bài viết này.
120 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1301 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những giải pháp chủ yếu hoàn thiện quy trình kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán (AASC) thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
(theo cả nguyên tệ và đồng tiền hạch toán) và nhận thấy rằng tại thời điểm cuối năm tài chính 2005, XYZ chưa tiến hành đánh giá lại công nợ phải thu theo tỷ giá liên ngân hàng tại ngày 31 tháng 12 năm 2005.
Sau khi kiểm tra chi tiết một số nghiệp vụ phát sinh công nợ và thanh toán công nợ, kiểm toán viên lập trang kết luận kiểm toán đối với khoản mục phải thu khách hàng:
Bảng 2.13: Kết luận kiểm toán
công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm Toán
Khách hàng: Công ty XYZ
Niên độ kế toán: 2005
Tham chiếu: ES
Người thực hiện: TTL
Kết luận kiểm toán
Công việc đã tiến hành
Công việc thực hiện đối với phần Phải thu khách hàng đã tiến hành theo chương trình kiểm toán từ E1 đến E9
Các vấn đề phát sinh và kiến nghị:
Công ty chưa tiến hành đánh giá lại công nợ phải thu theo tỷ giá liên ngân hàng tại ngày 31 tháng 12 năm 2005.
Kiến nghị: Hạch toán bổ sung khoản chênh lệch tỷ giá do đánh giá lại các khoản phải thu có gốc ngoại tệ với số tiền: 760.918
Nợ TK131: 760.918
Có TK 515: 760.918
Kết luận:
Dựa vào kết quả công việc và ngoại trừ (các) vấn đề trên, theo ý kiến tôi:
Cơ sở dẫn liệu cho phần Phải thu khách hàng thích hợp trên các khía cạnh trọng yếu và tổng số dư 580.365.550VNĐ là trung thực theo đúng các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung và được lập nhất quán với các năm trước.
* Thực hiện thử nghiệm cơ bản đối với tiền mặt và tiền gửi:
Đối với tiền mặt và tiền gửi ngân hàng, kiểm toán viên thực hiện tương tự như đối với Công ty ABC. Kiểm toán viên cũng tiến hành đối chiếu số liệu, kiểm tra chi tiết một số nghiệp vụ thu chi tiền mặt. Tiền gửi ngân hàng được theo dõi và đối chiếu hàng tháng với ngân hàng cho nên kiểm toán viên đã đưa ra kết luận rằng không có vấn đề trọng yếu nào phát sinh đối với khoản mục tiền của Công ty XYZ.
2.2.2.5. Kết thúc kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền
Đây là giai đoạn cuối của cuộc kiểm toán. Trong giai đoạn này kiểm toán viên phải tiến hành soát xét lại hồ sơ kiểm toán trước khi rời khỏi văn phòng của khách hàng, tổng hợp kết quả công việc đã thực hiện, lập tài liệu soát xét 3 cấp, tổng hợp các sai sót đề nghị khách hàng điều chỉnh, gửi bản dự thảo cho khách hàng, họp thông qua kết quả kiểm toán sau khi thống nhất và phát hành báo cáo kiểm toán chính thức.
* Soát xét lại hồ sơ kiểm toán trước khi rời khỏi văn phòng của khách hàng:
Để đảm bảo chất lượng của cuộc kiểm toán thì sau khi đã hoàn tất công việc cần thực hiện đối với chu trình bán hàng và thu tiền, trưởng đoàn kiểm toán sẽ tiến hành soát xét giấy tờ làm việc mà các kiểm toán viên đã thực hiện.
Việc soát xét giấy tờ làm việc để đảm bảo rằng các bằng chứng thu thập được cung cấp đầy đủ cho kiểm toán viên những thông tin cần thiết về hoạt động bán hàng và thu tiền của khách hàng nói riêng và hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung. Đảm bảo quá trình kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền đã được thực hiện theo đúng kế hoạch, chương trình kiểm toán và tuân thủ theo các Chuẩn mực kiểm toán được thừa nhận.
Trưởng đoàn kiểm toán phải đảm bảo rằng các giấy tờ làm việc đã chứa đựng đủ thông tin để chứng minh cho kết luận trong Báo cáo kiểm toán, đảm bảo cho các mục tiêu kiểm toán đối với chu trình bán hàng và thu tiền đã được thoả mãn.
Trong quá trình soát xét hồ sơ kiểm toán, nếu trưởng đoàn kiểm toán phát hiện những điểm chưa đầy đủ và những vấn đề mới phát sinh có ảnh hưởng tới cuộc kiểm toán thì trưởng đoàn kiểm toán sẽ thảo luận và yêu cầu kiểm toán viên thực hiện phần kiểm toán đó sửa chữa và bổ sung cho hoàn thiện.
Đối với quá trình kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền tại công ty ABC và công ty XYZ, sau khi soát xét hồ sơ kiểm toán, trưởng đoàn kiểm toán đánh giá công việc kiểm toán đã được thực hiện một cách đầy đủ, các thông tin thu được đảm bảo cung cấp cho kiểm toán viên những hiểu biết về chu trình bán hàng và thu tiền cũng như những bằng chứng đầy đủ và đáng tin cậy làm cơ sở cho việc ra các kết luận kiểm toán.
* Tổng hợp kết quả công việc đã thực hiện:
Sau khi đã soát xét lại hồ sơ và file làm việc, kiểm toán viên sẽ tiến hành tổng hợp kết quả chung cho chu trình bán hàng và thu tiền thông qua các trang kết luận kiểm toán đối với những khoản mục có liên quan.
Các kiểm toán viên thực hiện chu trình bán hàng và thu tiền cùng trưởng nhóm kiểm toán thảo luận trước khi lập biên bản kiểm toán để nêu ra các sai phạm cũng như các kiến nghị và bút toán điều chỉnh.
Biên bản kiểm toán sẽ được gửi cho kế toán trưởng. Nếu có sự bất đồng ý kiến nào giữa hai bên thì kiểm toán viên sẽ đưa ra bằng chứng chứng minh cho kết luận của mình và kế toán trưởng sẽ đưa ra những giải trình cho ý kiến của mình để cùng đi đến kết quả thống nhất, phù hợp với chế độ, chuẩn mực kế toán được thừa nhận. Sau khi đã thảo luận với kế toán trưởng, biên bản kiểm toán sẽ được thống nhất giữa bên kiểm toán và Ban Giám đốc đơn vị khách hàng với đầy đủ chữ ký của hai bên.
* Lập tài liệu soát xét 3 cấp, tổng hợp các sai sót đề nghị điều chỉnh, dự thảo phục vụ cho việc kiểm soát chất lượng:
Để đảm bảo chất lượng cho cuộc kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền, đảm bảo cho ý kiến kết luận của kiểm toán viên đối với chu trình này là phù hợp và đáng tin cậy thì tại AASC luôn thực hiện soát xét của 3 cấp quản lý. Đó là kiểm toán viên chính phụ trách kiểm toán chu trình, trưởng phòng kiểm toán và Ban Giám đốc. Bảng chi tiết về soát xét của 3 cấp đã được AASC thiết kế thành mẫu chuẩn hướng dẫn thực hành.
* Gửi các bản dự thảo cho khách hàng và họp thông báo kết quả kiểm toán:
Kiểm toán viên dựa trên Biên bản kiểm toán, tài liệu soát xét 3 cấp để đưa ra bản dự thảo báo cáo kiểm toán. Bản dự thảo này sẽ được gửi cho khách hàng xem xét sau đó họp để thông qua kết quả kiểm toán.
* Thông qua các bản dự thảo và phát hành báo cáo chính thức:
Tài liệu về soát xét báo cáo và bản dự thảo báo cáo cuối cùng được gửi cho Ban Giám đốc công ty xem xét lần cuối trước khi phê duyệt phát hành báo cáo kiểm toán chính thức.
2.3. Đánh giá chung về việc thực hiện kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền của Công ty AASC
Qua việc nghiên cứu quá trình kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền đối với hai khách hàng ABC và XYZ có thể nhận thấy rằng phương pháp kiểm toán của AASC đối với hai khách hàng là tương đối giống nhau. Để đảm bảo chất lượng của một cuộc kiểm toán, AASC luôn tuân thủ Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, Chuẩn mực kiểm toán quốc tế được thừa nhận rộng rãi cũng như các Quyết định, Thông tư và những văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính... khi tiến hành kiểm toán. Quy trình kiểm toán của Công ty được xây dựng dựa trên quy trình kiểm toán chung của quốc tế và dựa trên đặc trưng riêng có của AASC.
AASC đã xây dựng một chương trình kiểm toán mẫu chi tiết và khoa học phục vụ cho kiểm toán. Đối với tất cả các cuộc kiểm toán được tiến hành thì kiểm toán viên đều phải dựa trên chương trình kiểm toán mẫu của Công ty. Tuy nhiên do mỗi một khách hàng thì có những đặc trưng riêng có, cho nên kiểm toán viên thực hiện cuộc kiểm toán phải có sự đánh giá linh hoạt và vận dụng sáng tạo chương trình kiểm toán để có thể tiến hành cuộc kiểm toán một cách có hiệu quả nhất, vừa đảm bảo chất lượng cho cuộc kiểm toán, vừa đảm bảo tiết kiệm chi phí kiểm toán...
Công ty ABC là khách hàng truyền thống của AASC, chuyên sản xuất, lắp ráp phần cứng và phần mềm của các hệ thống tổng đài điện tử, sản xuất, lắp ráp các loại điện thoại di động và cố định,... nghiệp vụ bán hàng và thu tiền phát sinh nhiều và với giá trị lớn. Do quy mô lớn và số lượng khách hàng đông đảo cho nên mặc dù hàng năm đã được tư vấn bởi AASC nhưng việc kiểm soát khâu bán hàng và thu tiền mới chỉ đạt mức tương đối chứ chưa thật sự chặt chẽ. Còn đối với XYZ, là khách hàng mới tuy nhiên lĩnh vực kinh doanh là các dịch vụ về đào tạo... không phức tạp trong khâu hạch toán cho nên đánh giá ban đầu của kiểm toán viên về kiểm soát đối với bán hàng và thu tiền là hiệu quả.
ABC là khách hàng truyền thống do đó kiểm toán viên có thể giảm bớt khối lượng công việc và thời gian trong giai đoạn khảo sát đánh giá khách hàng. Phần hành kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền thường được kiểm toán hàng năm bởi một kiểm toán viên cho nên kiểm toán viên đó nắm bắt rất rõ những thông tin về khách hàng như thông tin về loại hình kinh doanh, nghĩa vụ pháp lý, hệ thống kiểm soát nội bộ... liên quan đến chu trình này qua kinh nghiệm kiểm toán hàng năm và hồ sơ kiểm toán thường niên.
Khác với ABC, XYZ là khách hàng mới lại kiểm toán năm đầu tiên do đó kiểm toán viên phải thu thập thật đầy đủ và chính xác các thông tin về tình hình kinh doanh nhằm đánh giá và phân tích được các sự kiện, nghiệp vụ và thực tiễn hoạt động của đơn vị được kiểm toán. Do đó kiểm toán viên đã phải thu thập đầy đủ thông tin về quy trình bán hàng, quy trình hạch toán, ...của XYZ.
Do khác nhau về đặc điểm loại hình kinh doanh cho nên kiểm toán viên xác định công việc thực hiện kiểm toán đối với hai công ty là khác nhau. Đối với ABC, nghiệp vụ bán hàng và thu tiền phát sinh nhiều và thường xuyên, số lượng khách hàng lớn cho nên kiểm toán viên cần tiến hành kiểm tra chi tiết doanh thu cũng như các khoản phải thu vì khả năng xảy ra sai sót đối với những khoản mục này đều cao. Còn đối với XYZ, các khoản phải thu thường không lớn do phải thu chỉ phát sinh đối với doanh thu Coporate thông qua các hợp đồng ký với một số Công ty lớn. Do vậy việc xảy ra sai sót đối với các khoản phải thu tại XYZ là thấp. Tại XYZ, kiểm toán viên cần tiến hành kiểm tra chi tiết với số lượng lớn đối với doanh thu và đặc biệt chú ý tới TK 3387 – Doanh thu ghi nhận trước, xem xét sự khớp đúng đối với số lượng giờ học còn lại của từng lớp học do bộ phận bán hàng theo dõi. Ngoài ra kiểm toán viên còn phải kiểm tra tính có thật của doanh thu tư vấn du học nước ngoài vì nó có liên quan tới sự xác nhận của bên nước ngoài.
Trên đây là những điểm khác nhau khi tiến hành kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền tại 2 khách hàng ABC và XYZ. Mặc dù có sự khác biệt nhưng thực chất cuộc kiểm toán vẫn phải tuân theo quy trình chung tại Công ty.
Có thể nhận xét khái quát về quy trình kiểm toán bán hàng và thu tiền do AASC thực hiện như sau:
* Giai đoạn tiếp cận khách hàng và lập kế hoạch kiểm toán:
Với uy tín ngày càng cao trên thị trờng, AASC ngày càng mở rộng mối quan hệ với khách hàng. Đối với những khách hàng truyền thống Công ty tiến hành gửi thư mời kiểm toán còn đối với những khách hàng mới thì Công ty sẽ thực hiện đấu thầu kiểm toán. Nhờ công tác tiếp cận khách hàng nhanh chóng, hiệu quả cho nên vừa tiết kiệm được thời gian và chi phí, vừa ngày càng mở rộng được thị phần kiểm toán cho Công ty.
Sau khi ký được hợp đồng với một khách hàng, tuân thủ theo Chuẩn mực kiểm toánViệt Nam số 300 – Lập kế hoạch kiểm toán, Công ty tiến hành lập kế hoạch kiểm toán. Kiểm toán viên thu thập các thông tin cần thiết liên quan đến khách hàng để có thể lập kế hoạch kiểm toán cụ thể và phù hợp với từng khách hàng. AASC thường tiến hành lập kế hoạch một cách chi tiết và đầy đủ bao gồm những thông tin như: thông tin chung về khách hàng, mục tiêu kiểm toán, phạm vi công việc kiểm toán, thời gian thực hiện, địa điểm thực hiện, nội dung thực hiện kiểm toán và nhân sự của cuộc kiểm toán... Do đó, kiểm toán viên tiếp nhận cuộc kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán viên thực hiện kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền sẽ có những điều kiện thuận lợi trong quá thực hiện kiểm toán nhờ kế hoạch kiểm toán đã được thiết kế rất đầy đủ và kỹ lưỡng.
Tại AASC, chương trình kiểm toán được thiết kế theo mẫu sẵn và được thực hiện trong tất các cuộc kiểm toán. Điều này tạo điều kiện cho kiểm toán viên trong hướng dẫn thực hiện kiểm toán tuy nhiên chương trình này lại quá rập khuôn do được áp dụng đối với tất cả các khách hàng. Vì vậy, để đảm bảo một cuộc kiểm toán hiệu quả và không cứng nhắc thì kiểm toán viên cần linh hoạt trong quá trình thực hiện kiểm toán, tìm hiểu kỹ về hoạt động kinh doanh của khách hàng để từ đó có thể tiến hành bổ sung các thủ tục kiểm toán cần thiết hỗ trợ cho kiểm toán viên trong quá trình thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính nói chung và kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền nói riêng.
* Giai đoạn thực hiện kiểm toán:
Đây là giai đoạn mà kiểm toán viên sử dụng các phương pháp kiểm toán phù hợp với từng đối tượng kiểm toán cụ thể để thu thập bằng chứng kiểm toán.
Trong quá trình thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên luôn tuân thủ theo chương trình kiểm toán đã xây dựng và các Chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam và của quốc tế được thừa nhận tại Việt Nam. Kiểm toán viên cũng linh hoạt trong việc áp dụng các văn bản, thông tư hướng dẫn về các vấn đề có liên quan như về thuế thu thập cá nhân, thuế nhà thầu... cần thiết đối với cuộc kiểm toán.
Thời gian thực hiện kiểm toán thường bị giới hạn tuy nhiên kiểm toán viên vẫn phải kết hợp các phương pháp kỹ thuật kiểm toán để thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và đáng tin cậy cho việc đưa ra các kết luận kiểm toán về chu trình bán hàng và thu tiền và về báo cáo tài chính của khách hàng.
* Giai đoạn kết thúc kiểm toán:
Đây là giai đoạn cuối cùng của cuộc kiểm toán để tổng hợp công việc kiểm toán và phát hành các báo cáo kiểm toán.
AASC chỉ đạo việc thực hiện soát xét rất kỹ lưỡng kết quả của kiểm toán viên và trợ lý kiểm toán thực hiện cuộc kiểm toán đó để đảm bảo chất lượng của cuộc kiểm toán. Để đưa ra ý kiến cuối cùng thì phải được soát xét bởi 3 cấp: kiểm toán viên chính, Trởng phòng kiểm toán và Ban Giám đốc.
Có thể khái quát quy trình kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền tại các khách hàng của AASC thông qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.4: Quy trình thực hiện kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền do AASC thực hiện
Khảo sát, đánh giá khách hàng
Lập kế hoạch kiểm toán và thiết kế chương trình
kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền
Tìm hiểu hoạt động kinh doanh của khách hàng
Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý
Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ
Đánh giá mức độ trọng yếu và rủi ro
Thiết kế chương trình kiểm toán bán hàng và thu tiền
Thực hiện kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền
Thực hiện thử nghiệm cơ bản đối với nghiệp vụ bán hàng
Thực hiện thử nghiệm cơ bản đối với các khoản phải thu
Thực hiện thử nghiệm cơ bản đối với tiền mặt, tiền gửi
Kết thúc kiểm toán
Soát xét lại hồ sơ kiểm toán trước khi rời khỏi văn phòng khách hàng
Tổng hợp kết quả công việc đã thực hiện
Gửi các bản dự thảo cho khách hàng và họp thông báo kết quả kiểm toán
Thông qua các bản dự thảo và phát hành báo cáo chính thức
Lập tài liệu soát xét ba cấp, tổng hợp các sai sót đề nghị điều chỉnh, dự thảo phục vụ cho việc kiểm soát chất lượng
ASC Công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán
Tên khách hàng: Công ty ABC
Niên độ kế toán: 01/01/2005 – 31/12/2005
Khoản mục: Tiền mặt
Bước công việc: Đối chiếu số liệu
Tham chiếu: R
Người thực hiện: NTD
Ngày thực hiện: 29/02/2006
Dư đầu kỳ:
Phát sinh trong kỳ:
Dư cuối kỳ:
Nợ
Có
Ly: Khớp đúng với Báo cáo tài chính đã được kiểm toán năm trước
Ag: Khớp đúng với Bảng cân đối kế toán năm 2005
F: Đã kiểm tra cộng dồn đúng
Người thực hịên:
Người kiểm tra:
Chương III: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu hoàn thiện quy trình kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính tại AASC
3.1. Sự cần thiết và Phương hướng hoàn thiện quy trình kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền
3.1.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang có những chuyển biến mạnh mẽ, tích cực được bạn bè quốc tế thừa nhận và đánh giá cao. Cùng với sự phát triển đó, hoạt động kiểm toán đã và đang không ngừng phát triển và được công nhận như là một nhân tố không thể thiếu trong nền kinh tế năng động này.
Với khoảng thời gian 15 năm hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tư vấn kế toán, kiểm toán AASC đã tạo được uy tín và ngày càng khẳng định hiệu quả hoạt động của mình. Tuy nhiên, so với bề dày lịch sử ngành nghề kiểm toán trên thế giới thì hoạt động kiểm toán ở Việt Nam còn rất non trẻ, hoạt động kiểm toán vẫn còn những hạn chế trên cả góc độ lý luận và thực tế. Đây chính là tất yếu khách quan đối với các công ty kiểm toán Việt Nam nói chung và AASC nói riêng trong quá trình hoạt động và phát triển. Hơn nữa, sự xuất hiện của các công ty kiểm toán Việt Nam cùng quá trình hội nhập quốc tế và khu vực càng tạo nên sự cạnh tranh, đòi hỏi AASC phải ngày càng nâng cao chất lượng của dịch vụ và không ngừng hoàn thiện hoạt động kiểm toán của mình.
Thêm vào đó, bước vào kế hoạch 5 năm 2006 – 2010, nhiệm vụ đối với các Công ty kế toán và kiểm toán đặt ra hết sức nặng nề. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kế toán, kiểm toán, tăng động lực thúc đẩy phát triển Công ty bền vững, đòi hỏi AASC phải nâng cao chất lượng quản lý, chất lượng hoạt động nói chung và chất lượng của cuộc kiểm toán nói riêng.
Trước hết, trong bất kỳ một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính nào thì chu trình bán hàng và thu tiền cũng là một phần hành quan trọng đòi hỏi tập trung nhiều thời gian và chi phí của Công ty kiểm toán. Chu trình bán hàng và thu tiền là giai đoạn cuối của chu kỳ kinh doanh của một doanh nghiệp, phản ánh hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp. Bản thân nó chứa đựng những khoản mục quan trọng được phản ánh trên các báo cáo tài chính và đó cũng là những chỉ tiêu quan trọng nhất thu hút sự quan tâm của những người sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính. Cũng chính vì những lí do đó mà chu trình này chứa đựng nhiều rủi ro, đòi hỏi kiểm toán viên và Công ty kiểm toán phải có kế hoạch, chương trình kiểm toán thích hợp. Kết quả kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền có ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng chung của cuộc kiểm toán, do đó đòi hỏi công tác kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền phải ngày càng hoàn thiện. Căn cứ trên những thông tin đã thu thập và những bằng chứng phát hiện, kiểm toán viên có thể đưa ra kết luận kiểm toán và những ý kiến tư vấn cho doanh nghiệp trên giác độ quản lý, đáp ứng được mong muốn và yêu cầu của doanh nghiệp.
Thêm vào đó, việc thực hiện kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền tại AASC tuy được tuân theo quy trình chuẩn mà Công ty đã quy định, phù hợp với các Chuẩn mực kiểm toán quốc tế và Việt Nam nhưng từng bước công việc mà kiểm toán viên tiến hành vẫn chưa đầy đủ, trọn vẹn theo quy định.
Với những vai trò quan trọng như đã nêu trên, hoàn thiện quy trình kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền là điều cần thiết đối với các Công ty kiểm toán nói chung và đối với AASC nói riêng.
3.1.2. Những phương hướng hoàn thiện quy trình kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền
AASC là một trong những Công ty kiểm toán hàng đầu, được thành lập sớm nhất tại Việt Nam do đó trong quá trình hình thành và phát triển, AASC đã xây dựng riêng cho mình một quy trình kiểm toán và chương trình kiểm toán mẫu khoa học, phù hợp với Chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế và Việt Nam. Quy trình kiểm toán tại AASC bao gồm 5 bước: khảo sát, đánh giá khách hàng, ký hợp đồng cung cấp dịch vụ, lập kế hoạch kiểm toán và thiết kế chương trình kiểm toán, thực hiện kiểm toán, soát xét chất lượng và phát hành báo cáo kiểm toán, được xây dựng dựa trên quy trình kiểm toán theo Chuẩn mực kiểm toán quốc tế và Việt Nam. Tuy nhiên, để một cuộc kiểm toán thực sự có hiệu quả thì kiểm toán viên khi thực hiện kiểm toán cần phải tiến hành một cách đồng bộ và tuân theo quy trình quy định trên.
Chương trình kiểm toán mẫu được xây dựng tại AASC từ năm 2001 và cho đến năm 2005 vừa qua đã được thay đổi và hoàn thiện. Chương trình kiểm toán mẫu được áp dụng cho các khách hàng và thay đổi tuỳ theo giai đoạn tiếp cận, khảo sát khách hàng ban đầu. Tuy nhiên, việc xây dựng chương trình kiểm toán riêng cho từng khách hàng thường mất nhiều thời gian do đó kiểm toán viên thường sử dụng chương trình kiểm toán mẫu chung và trong quá trình thực hiện sẽ áp dụng các thủ tục kiểm toán phù hợp, thực hiện các thủ tục này nhiều và hạn chế các thủ tục kia…
Như vậy, để ngày càng khẳng định vị trí của mình trên thị trường kiểm toán trong nước và mở rộng sang các nước trong khu vực, AASC cần phải thường xuyên hoàn thiện công tác kiểm toán nói chung và quy trình, chương trình kiểm toán nói riêng sao cho có tính khả thi và hiệu quả cao.
Để có được điều đó phương hướng đặt ra đó là:
Thứ nhất các Quyết định và quy định ban hành trong việc thực hiện kiểm toán tại AASC nói chung và kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền nói riêng phải phù hợp với các chính sách, yêu cầu quản lý của Nhà nước, Bộ Tài chính, phù hợp với các Chuẩn mực kế toán, kiểm toán đã ban hành cũng như các thông lệ và chuẩn mực kiểm toán quốc tế…
Thứ hai, trong quá trình thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên cần linh hoạt và sáng tạo trong việc áp dụng các quy định kiểm toán tại Công ty, tránh rập khuôn máy móc. Tuy nhiên, kiểm toán viên lại không thể bỏ qua bất cứ giai đoạn, thủ tục kiểm toán nào nhằm đạt được mục tiêu của cuộc kiểm toán một cách có hiệu quả nhất.
3.2. Những giải pháp chủ yếu để hoàn thiện quy trình kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền
Qua quá trình nghiên cứu lý luận và được tiếp cận thực tế quy trình kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền do AASC thực hiện tại các khách hàng, với vốn kiến thức có hạn, em xin đưa ra một số giải pháp chủ yếu để hoàn thiện đối với quy trình kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền như sau:
3.2.1. Hoàn thiện giai đoạn tiếp cận khách hàng và kế hoạch tiếp cận khách hàng
Sau sự xuất hiện của Nghị định 105/2004/NĐ - CP ngày 30/3/2004 do Bộ Tài chính ban hành quy định bắt buộc phải tiến hành kiểm toán đối với một số loại hình doanh nghiệp, thị trường kiểm toán thực sự mở rộng. Tuy nhiên, gắn liền với nó là sự ra đời của hàng loạt các công ty kiểm toán Việt Nam cũng như sự thâm nhập của các Công ty kiểm toán quốc tế vào thị trường Việt Nam. Do đó, đòi hỏi AASC phải cạnh tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ để tạo chỗ đứng cũng như ngày càng mở rộng thị phần kiểm toán của mình.
AASC có đội ngũ kiểm toán viên có kinh nghiệm, chuyên môn cao và sự nhiệt tình trong công việc cho nên trong những năm qua AASC luôn cung cấp dịch vụ với chất lượng cao và ngày càng có vị thế trên thị trường. Chính vì vậy mà khách hàng của Công ty không ngừng tăng trưởng trong những năm qua. Công ty luôn duy trì được số lượng khách hàng truyền thống và thu hút được những khách hàng mới.
Tuy nhiên, để ngày càng thu hút được nhiều khách hàng hơn nữa và tạo được sự tin cậy từ phía khách hàng thì AASC cần coi trọng hơn nữa công tác tiếp cận khách hàng.
Việc tiếp cận khách hàng mới của Công ty được thực hiện rất tốt và tuân theo đúng Chuẩn mực kiểm toán số 300 – Kế hoạch kiểm toán. Nhưng với những khách hàng cũ thì việc tiếp cận này lại không được chú trọng. Do những thông tin về khách hàng đều được lưu trong hồ sơ kiểm toán năm trước và do hạn chế về quỹ thời gian nên các kiểm toán viên thường dựa vào những thông tin có sẵn đó mà không tập trung thu thập những thông tin bổ sung trên báo chí, tin tức… Do đó kiểm toán viên có thể bỏ sót những thông tin quan trọng có ảnh hưởng tới kết quả của cuộc kiểm toán.
Do vậy kiểm toán viên cần phải linh hoạt trong việc tiếp cận với những khách hàng lâu năm để thu thập được những thông tin bổ sung, đảm bảo rằng không bỏ qua những thông tin quan trọng ảnh hưởng đến Báo cáo tài chính và kết luận của mình. Đối với chu trình bán hàng và thu tiền, kiểm toán viên cần phải xem xét xem trong năm tài chính hiện hành đơn vị có thay đổi gì trong quy chế nội bộ, bộ máy kế toán, chính sách bán hàng, chính sách giá và nguyên tắc hạch toán...thông qua phỏng vấn nhân viên kế toán và những người phụ trách phần hành này. Như vậy kiểm toán viên có thể vừa đảm bảo tiết kiệm được chi phí kiểm toán lại vẫn đảm bảo hiệu quả trong công việc. Còn đối với những khách hàng mới thì việc thu thập những thông tin về khách hàng là điểm khởi đầu quan trọng nhất và cần thiết để đạt được thành công trong một cuộc kiểm toán.
Tăng cường thực hiện thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán:
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 520 – Quy trình phân tích, ‘‘Quy trình phân tích là việc phân tích các số liệu, thông tin, các tỷ suất quan trọng qua đó tìm ra những xu hướng, biến động và tìm ra những mối quan hệ có mâu thuẫn với các thông tin liên quan khác hoặc có sự chênh lệch lớn so với dự kiến’’.
Quy trình phân tích bao gồm việc so sánh các thông tin tài chính như :
- So sánh thông tin tương ứng trong kỳ này với các kỳ trước.
- So sánh giữa thực tế với kế hoạch của đơn vị.
- So sánh giữa thực tế với ước tính của kiểm toán viên.
- So sánh giữa thực tế của đơn vị với các đơn vị trong cùng ngành có quy mô hoạt động hoặc với số liệu thống kê, định mức cùng ngành.
Theo Chuẩn mực thì các thủ tục phân tích được áp dụng trong tất cả các cuộc kiểm toán và thường được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của cuộc kiểm toán. Tuy nhiên, trên thực tế tại các Công ty kiểm toán Việt Nam nói chung và tại AASC nói riêng thì thủ tục này không được sử dụng nhiều. Kiểm toán viên thường chỉ thực hiện thủ tục phân tích đối với những khoản mục quan trọng như doanh thu, chi phí, giá vốn... và chỉ được sử dụng trong giai đoạn thực hiện kiểm toán.
Như vậy, để ngày càng tăng chất lượng của dịch vụ kiểm toán cung cấp và giúp kiểm toán viên dễ dàng phát hiện những sai sót thì AASC nên tăng cường sử dụng thủ tục phân tích trong cuộc kiểm toán, thực hiện thủ tục này trong tất cả các giai đoạn kiểm toán theo như quy định của Chuẩn mực kiểm toán quốc tế và Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam về thủ tục phân tích. Kiểm toán viên cũng cần sử dụng thủ tục phân tích một cách linh hoạt hơn chứ không chỉ dừng ở việc tiến hành so sánh ngang, đối chiếu giữa kỳ này với các kỳ trước… Kiểm toán viên có thể sử dụng các tỷ suất để phân tích và sử dụng số liệu thống kê, định mức của các đơn vị hoạt động cùng ngành… để có thể phản ánh một cách đúng đắn tình hình hoạt động kinh doanh của đơn vị.
Hoàn thiện công tác đánh giá tính trọng yếu và rủi ro kiểm toán:
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 – Tính trọng yếu trong kiểm toán thì khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên phải xác định mức trọng yếu có thể chấp nhận được để làm tiêu chuẩn phát hiện những sai sót trọng yếu về mặt định lượng. Còn Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 - Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ thì kiểm toán viên phải sử dụng khả năng xét đoán chuyên môn của mình để đánh giá rủi ro kiểm toán và xác định các thủ tục kiểm toán nhằm giảm rủi ro kiểm toán xuống mức có thể chấp nhận được. Trọng yếu và rủi ro là những khái niệm rất quan trọng tuy nhiên trên thực tế lại chưa có bất kỳ sự hướng dẫn cụ thể nào về cách thức xác định trọng yếu và rủi ro từ phía Bộ Tài chính. Do đó mà mỗi một Công ty kiểm toán lại có cách thức xác định trọng yếu và rủi ro khác nhau.
AASC là một trong hai Công ty kiểm toán nhà nước thành lập sớm nhất do đó trong quá trình phát triển của mình, vận dụng các Chuẩn mực kiểm toán quốc tế cũng như những Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, AASC đã xây dựng lên cách xác định trọng yếu trong kiểm toán Báo cáo tài chính cho Công ty mình. Điều đó khẳng định tính sáng tạo cũng như chất lượng của dịch vụ kiểm toán mà Công ty cung cấp cho khách hàng. Tuy nhiên để dịch vụ kiểm toán cung cấp ngày càng đảm bảo chất lượng và việc đánh giá trọng yếu và rủi ro phù hợp với yêu cầu của mỗi cuộc kiểm toán thì AASC nên tham khảo cách thức đánh giá mức trọng yếu và rủi ro từ các công ty kiểm toán Việt Nam khác như VACO, ACPA,… tham khảo những căn cứ mà các công ty kiểm toán quốc tế thường dùng khi xác định mức trọng yếu như ở KPMG, PWC...
Tại KPMG, trong phương pháp kiểm toán của mình, KPMG rất quan tâm đến việc đánh giá rủi ro và dựa trên mức độ rủi ro để thực hiện kiểm toán. Kiểm toán viên thực hiện phân tích rủi ro theo hai hướng là rủi ro kinh doanh chiến lược và rủi ro các nhóm nghiệp vụ trọng yếu.
Rủi ro kinh doanh chiến lược liên quan đến các yếu tố bên ngoài như chính trị, xã hội và các nhân tố bên ngoài khác ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của khách hàng và các yếu tố nội lực khác như các chiến lược, mục tiêu, các chỉ tiêu đánh giá hoạt động và các rủi ro cũng như kiểm soát.
Rủi ro các nhóm nghiệp vụ trọng yếu được KPMG xác định qua việc kiểm tra các quy trình nghiệp vụ chủ yếu của khách hàng, sử dụng để kiểm soát các rủi ro trọng yếu và đánh giá rủi ro tiềm ẩn trong các quy trình này cũng như các kiểm soát hiện có để khắc phục các rủi ro đó.
KPMG sử dụng chương trình phần mềm kiểm toán để xác định mức trọng yếu. Chương trình dựa trên cơ sở Tổng tài sản hoặc tổng doanh thu của đơn vị được kiểm toán để xác định mức sai sót trọng yếu toàn Công ty. Dựa vào kết quả này, kiểm toán viên có thể đánh giá mức sai phạm phân bổ cho từng khoản mục trên Báo cáo tài chính và từ đó xác định được công việc cần thực hiện. Các khoản có số dư nhỏ sẽ được tập hợp trong phần các nhóm nghiệp vụ không trọng yếu để kiểm tra riêng. Như vậy, việc sử dụng phần mềm này giúp kiểm toán viên tiết kiệm được thời gian cũng như giảm bớt được khó khăn trong quá trình kiểm toán.
Còn tại VACO, hệ thống phương pháp kiểm toán AS/2 (Auditing System/2) cho phép việc đánh giá mức độ trọng yếu được thực hiện theo chương trình. Kiểm toán viên chỉ tiến hành nhập số liệu và chương trình sẽ tự động tính toán rồi đưa ra kết quả. Theo chương trình này thì mức độ trọng yếu cho từng loại hình doanh nghiệp là khác nhau.
- Đối với các Công ty cổ phần tham gia thị trường chứng khoán: Kiểm toán viên sẽ sử dụng chỉ tiêu thu nhập sau thuế trên Báo cáo tài chính để xác định mức độ trọng yếu. Kiểm toán viên tiến hành ước tính thu nhập sau thuế vào ngày lập Báo cáo tài chính và tính 5 – 10% tổng thu nhập sau thuế đối với mức độ trọng yếu.
- Đối với các Công ty không tham gia thị trường chứng khoán: Kiểm toán viên xác định mức độ trọng yếu thông qua:
+ 2% tổng tài sản hoặc vốn chủ sở hữu
+ 10% thu nhập sau thuế
+ 0.5% - 3% doanh thu dựa trên bảng tỷ lệ quy định sau:
Doanh thu ($)
Tỷ lệ
Doanh thu ($)
Tỷ lệ
Đến 500.000
0.03
10.000.000
0.012
600.000
0.025
15.000.000
0.01
700.000
0.023
30.000.000
0.009
800.000
0.02
50.000.000
0.008
900.000
0.018
100.000.000
0.007
1.000.000
0.017
300.000.000
0.006
2.000.000
0.016
Trên 1.000.000.000
0.005
6.000.000
0.015
- Đối với các Công ty là chi nhánh của Công ty xuyên quốc gia mà hãng cũng được bổ nhiệm làm kiểm toán viên: mức độ trọng yếu thường được xác định trên cơ sở doanh thu và ở mức độ cao hơn hai bậc so với doanh thu không tham gia thị trường chứng khoán ngang bậc. Tuy nhiên mức độ trọng yếu phải nhỏ hơn mức độ trọng yếu được xác định cho công ty mẹ.
ứng dụng công nghệ thông tin để hoàn thiện chương trình kiểm toán:
Chương trình kiểm toán là những dự kiến chi tiết về các công việc kiểm toán cần thực hiện, thời gian hoàn thành và sự phân công lao động giữa các kiểm toán viên cũng như những dự kiến chi tiết về những tư liệu, thông tin liên quan cần sử dụng và thu thập. Trọng tâm của chương trình kiểm toán là các thủ tục kiểm toán cần thực hiện đối với từng khoản mục hay bộ phận được kiểm toán.
AASC đã xây dựng riêng cho Công ty một chương trình kiểm toán mẫu và hàng năm thường được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu kiểm toán và những Chuẩn mực, quy định mới, do đó, cho đến nay chương trình kiểm toán của AASC đã ngày càng hoàn thiện. Chương trình kiểm toán tại AASC được xây dựng theo khoản mục bao gồm những nội dung như: mục tiêu kiểm toán đối với khoản mục đó, thủ tục phân tích, thủ tục kiểm tra chi tiết, kết luận kiểm toán... Đây là chương trình chuẩn của AASC. Theo như Quyết định ban hành kèm theo Chương trình kiểm toán thì Chương trình kiểm toán mẫu của AASC chỉ có tính chất hướng dẫn, tuỳ thuộc vào giai đoạn khảo sát và đánh giá khách hàng mà chương trình kiểm toán có thể thay đổi để phù hợp với những đặc điểm riêng của các đơn vị được kiểm toán. Chương trình kiểm toán của AASC được xây dựng rất khoa học và hiệu quả, tuy nhiên việc thay đổi chương trình kiểm toán chỉ được áp dụng đối với một số khách hàng lớn như: Bưu chính viễn thông, lương thực, bảo hiểm… còn chương trình kiểm toán mẫu vẫn được áp dụng đối với tất cả các khách hàng. Điều này là không phù hợp vì mỗi một khách hàng có những đặc thù riêng của mình. Do đó chương trình kiểm toán mẫu có thể thích hợp với khách hàng này nhưng lại không thích hợp với khách hàng khác. Kiểm toán viên khi thực hiện kiểm toán theo chương trình sẵn có phải vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo cho mỗi một khách hàng khác nhau nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất cho cuộc kiểm toán.
Do đó, AASC nên tiếp tục hoàn thiện hơn chương trình kiểm toán của mình, xây dựng chương trình kiểm toán sao cho có thể thay đổi linh động, áp dụng cho các khách hàng khác nhau sẽ cho những chương trình kiểm toán khác nhau và phù hợp với đặc điểm của từng khách hàng. Để thực hiện được điều đó, AASC cần xây dựng cho mình một phần mềm kiểm toán riêng, vừa đảm bảo tính hiệu quả lại tiết kiệm về mặt thời gian. Tại các Công ty kiểm toán quốc tế cũng như một số Công ty kiểm toán Việt Nam đã áp dụng phần mềm kiểm toán trong quá trình hoạt động.
Tại KPMG, chương trình kiểm toán được xây dựng dựa trên cơ sở các phần hành kinh doanh thích ứng cụ thể với các hoạt động và thị trường của khách hàng. Từ đó, bảo đảm rằng kiểm toán viên sẽ tập trung kiểm toán vào những chu trình chính mà đơn vị khách hàng sử dụng và phát hiện được đầy đủ các rủi ro.
Còn tại VACO, việc sử dụng hệ thống phương pháp kiểm toán AS/2 làm chất lượng dịch vụ cung cấp của VACO ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. Về nguyên tắc, hệ thống kiểm toán AS/2 bao gồm: phương pháp kiểm toán AS/2, hệ thống hồ sơ kiểm toán và phần mềm kiểm toán AS/2. Hệ thống phương pháp kiểm toán AS/2 được khái quát thành 6 bước:
Những công việc thực hiện trước khi kiểm toán
Lập kế hoạch kiểm toán tổng quát
Lập kế hoạch kiểm toán cụ thể
Thực hiện kế hoạch kiểm toán
Kết thúc công việc kiểm toán và lập báo cáo
Công việc thực hiện sau kiểm toán
Hệ thống hồ sơ kiểm toán bao gồm: hồ sơ kiểm toán thông minh (được hỗ trợ bởi phần mềm kiểm toán AS/2) và hồ sơ kiểm toán thông thường
Cùng với phương pháp kiểm toán và hệ thống hồ sơ kiểm toán, hệ thống AS/2 còn bao gồm chương trình phần mềm kiểm toán tương ứng. Chương trình này sẽ trợ giúp đắc lực cho kiểm toán viên, giảm bớt được khối lượng tính toán và các công việc mà khi thực hiện bằng tay sẽ mất thời gian.
Phòng Công nghệ thông tin tại AASC đã thực sự rất phát triển với chức năng nghiên cứu, xây dựng và cài đặt cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội các chương trình phần mềm như: phần mềm kế toán thương mại dịch vụ, phần mềm kế toán đơn vị hành chính sự nghiệp… và các chương trình phần mềm ứng dụng khác. Như vậy, nhiệm vụ đặt ra cho Ban lãnh đạo AASC, các kiểm toán viên và đặc biệt là Phòng Công nghệ thông tin là xây dựng thành công cho AASC một phần mềm kiểm toán khoa học, hiệu quả, phù hợp với đặc điểm riêng của AASC, nhằm hỗ trợ cho cuộc kiểm toán. Có như vậy, AASC mới ngày càng phát triển, nâng cao chất lượng dịch vị cung cấp và ngày càng khẳng định vị trí của mình trên thị trường kế toán, kiểm toán trong nước cũng như mở rộng thị trường hoạt động ra các nước trong khu vực và thị trường kế toán, kiểm toán quốc tế.
3.2.2. Hoàn thiện giai đoạn thực hiện kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền
Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán đối với chu trình bán hàng và thu tiền, thực chất kiểm toán viên tiến hành kiểm toán đối với từng khoản mục có liên quan đến chu trình: doanh thu, các khoản phải thu và tiền của doanh nghiệp.
Thực tế, trong quá trình thực hiện kiểm toán, AASC thường thực hiện nhiều thủ tục kiểm tra chi tiết hơn là các thử nghiệm kiểm soát.
Kiểm toán viên tiến hành kiểm toán theo chương trình kiểm toán đối với các khoản mục bao gồm các bước như: đối chiếu số liệu, thực hiện thủ tục phân tích, thực hiện kiểm tra chi tiết chứng từ... Kiểm toán viên tiến hành thực hiện các thử nghiệm cơ bản đối với doanh thu, các khoản phải thu, tiền mặt và tiền gửi.
Đối với doanh thu, kiểm toán hướng tới mục tiêu hiệu lực và trọn vẹn...do vậy kiểm toán viên ngoài thực hiện thủ tục phân tích để xem xét sự biến động và những yếu tố bất thường thì sẽ tiến hành kiểm tra chi tiết chứng từ là chủ yếu.
Còn đối với các khoản phải thu, tiền mặt và tiền gửi, ngoài kiểm tra số phát sinh kiểm toán viên còn phải chú trọng tới tính có thật của số dư đầu năm và cuối năm tài chính. Việc xác định số dư đầu kỳ của các khoản phải thu, các khoản tiền của khách hàng là rất quan trọng. Nếu là khách hàng truyền thống của Công ty thì kiểm toán viên có thể tin cậy được số đã kiểm toán năm trước này. Còn đối với những khách hàng mới, kiểm toán viên có thể sử dụng kết quả của kiểm toán viên tiền nhiệm. Tuy nhiên, để khẳng định tính chính xác của số dư này thì AASC cần xây dựng một chương trình để kiểm tra số dư các khoản phải thu và tiền của khách hàng. Kiểm toán viên có thể thu thập Biên bản xác nhận công nợ, Biên bản kiểm kê quỹ, Bảng đối chiếu ngân hàng cuối năm trước...
Đối với số dư cuối niên độ này, kiểm toán viên cũng căn cứ vào Biên bản xác nhận công nợ, Biên bản kiểm kê quỹ, Bảng đối chiếu ngân hàng để khẳng định tính chính xác của số dư. Trường hợp đơn vị chưa thực hiện đối chiếu công nợ thì kiểm toán viên phải tiến hành gửi thư xác nhận đối với khách hàng. Tuy nhiên do hạn chế về thời gian cho nên kiểm toán viên không thể thực hiện gửi xác nhận đối với nhiều khách hàng mà thường thực hiện thủ tục kiểm tra phát sinh các nghiệp vụ thanh toán sau niên độ. Chính vì vậy, để thu thập các thông tin khách quan kiểm toán viên nên thực hiện gửi thư xác nhận.
Kết hợp các phương pháp chọn mẫu trong quá trình thực hiện kiểm tra chi tiết chứng từ:
Theo Chuẩn mực kiểm toán số 530, Lấy mẫu kiểm toán và các thủ tục lựa chọn khác “Khi thiết kế thủ tục kiểm toán, kiểm toán viên phải xác định các phương pháp thích hợp để lựa chọn các phần tử thử nghiệm nhằm thu thập bằng chứng kiểm toán thoả mãn mục tiêu thử nghiệm kiểm toán”
Kiểm tra chi tiết là việc làm hết sức quan trọng không thể bỏ qua nhưng lại chiếm rất nhiều thời gian. Do đó, trong kiểm toán báo cáo tài chính nói chung và kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền nói riêng, kiểm toán viên không thể thực hiện kiểm tra chi tiết 100% đối với cả tổng thể mà chỉ thực hiện đối với mẫu chọn. Theo Chuẩn mực kiểm toán số 530, “Lấy mẫu kiểm toán là áp dụng các thủ tục trên số phần tử ít hơn 100% tổng số phần tử của một số dư tài khoản hay một loại nghiệp vụ, sao cho mọi phần tử đều có cơ hội để được chọn. Lấy mẫu sẽ giúp kiểm toán viên thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán về các đặc trưng của các phần tử được chọn, nhằm hình thành hay củng cố kết luận về tổng thể”.
Tại AASC, kiểm toán viên tiến hành chọn mẫu theo quy luật số lớn. Kiểm toán viên thường chỉ chú trọng tới các nghiệp vụ có số phát sinh lớn để đối chiếu, kiểm tra. Tuy nhiên, sai phạm có thể xảy ra đối với những số phát sinh nhỏ nhưng mang tính hệ thống. Do đó để đảm bảo chất lượng của cuộc kiểm toán, kiểm toán viên nên kết hợp các phương pháp chọn mẫu (Chọn mẫu ngẫu nhiên, chọn mẫu ngẫu nhiên theo chương trình máy vi tính, chọn mẫu hệ thống, chọn mẫu phi xác suất, chịn mẫu theo khối, chọn mẫu theo nhận định nhà nghề…)
Tăng cường thực hiện thủ tục phân tích trong giai đoạn thực hiện kiểm toán:
Thủ tục phân tích thực sự có vai trò quan trọng đối với việc kiểm toán nhưng trên thực tế, tại các Công ty kiểm toán Việt Nam trong đó có AASC thủ tục phân tích chưa được thực hiện nhiều. Do đó, để đảm bảo hiệu quả kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền thì kiểm toán viên cần thực hiện thường xuyên thủ tục phân tích trong tất cả các giai đoạn của quá trình kiểm toán.
3.2.3. Hoàn thiện giai đoạn kết thúc kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán
Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán, theo Chuẩn mực kiểm toán 560 – Các sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài chính, kiểm toán viên cần phải xem xét một cách chi tiết các sự kiện sau ngày lập Báo cáo tài chính để đảm bảo kết luận kiểm toán là thực sự đáng tin cậy. Kiểm toán viên cũng cần xem xét về khả năng hoạt động kinh doanh liên tục của doanh nghiệp...
Đoạn 02, VSA số 500 - Bằng chứng kiểm toán, nêu rõ: "Kiểm toán viên phải thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp cho mỗi loại ý kiến của mình về BCTC của đơn vị được kiểm toán". Bởi vậy, trong giai đoạn kết thúc quá trình kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền kiểm toán viên phải đánh giá tính đầy đủ của bằng chứng thu thập được.
Trước tiên, các giấy tờ làm việc (bao gồm cả các bằng chứng kiểm toán) thu thập được trong quá trình kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền được tập hợp lại cho trưởng nhóm kiểm toán. Trưởng nhóm kiểm toán tiến hành soát xét toàn bộ giấy tờ làm việc liên quan đến các mục đích kiểm toán và đánh giá các bằng chứng kiểm toán. Công việc này cần được tiến hành ngay trong quá trình kiểm toán, tại khách hàng nhằm kịp thời giải quyết những tồn tại cũng như bổ sung các thủ tục kiểm toán cần thiết khác và cần được trưởng nhóm kiểm toán thực hiện theo các bước sau:
- Kiểm tra tính tuân thủ trong cách trình bày các giấy làm việc;
- Kiểm tra tính đầy đủ của các bằng chứng kiểm toán và chương trình kiểm toán chương trình bán hàng và thu tiền;
- Đối chiếu sự phù hợp về số liệu giữa các bằng chứng thu được với giấy làm việc, sổ kế toán các khoản mục có liên quan hoặc báo cáo liên quan;
- Đối chiếu sự phù hợp về số liệu giữa sổ kế toán với các biên bản kiểm kê, thư xác nhận...;
- Kiểm tra lại các chứng từ gốc phát sinh trước và sau ngày kết thúc niên độ để khẳng định tính đúng kỳ là thoả mãn;
- Kiểm tra tính chính xác của số liệu và các thuyết minh về doanh thu, các khoản phải thu...trình bày trong BCTC;
Cùng với việc đưa ra ý kiến đánh giá đối với chu trình bán hàng và thu tiền, trưởng nhóm kiểm toán cũng tiến hành tập hợp ý kiến đánh giá đối với các phần hành khác trên BCTC. Thông qua các bằng chứng thu thập được đối với tất cả các phần hành này, kiểm toán viên khẳng định các mục tiêu đề ra đối với từng phần hành này đều thoả mãn. Trên cơ sở các bằng chứng thu được, trưởng nhóm kiểm toán diễn giải những sai phạm của khách hàng và đưa ra các bút toán điều chỉnh và phát hành báo cáo kiểm toán.
Ngoài những giải pháp nêu trên về quy trình kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền, theo em AASC cũng cần chú ý tới việc nâng cao trình độ, phổ biến các Chuẩn mực, Nghị định mới cho các nhân viên trong Công ty. Duy trì nâng cao và quan tâm tới việc khen thưởng đãi ngộ để khuyến khích tinh thần làm việc cho các nhân viên cũng như những hình thức kỷ luật, phê bình, tự phê bình đối với những sai phạm để đảm bảo nguyên tắc hoạt động của Công ty. Thêm vào đó, Công ty cũng nên có những khuyến khích, tài trợ, tạo điều kiện cho nhân viên tham gia học nâng cao trình độ nghiệp vụ: học cao học, học ACCA...cũng như học ngoại ngữ để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao tiếp, ký kết hợp đồng đối với các đối tác nước ngoài nhằm nâng cao hiệu quả công việc cũng như việc mở rộng thị phần vì trên thực tế hoạt động kiểm toán các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam còn hạn chế, chưa phát triển tương xứng với quy mô của Công ty hiện nay.
Bên cạnh đó, do bị hạn chế trong vấn đề trả lương vì đơn giá tiền lương Bộ giao thấp nên Công ty gặp khó khăn trong việc giữ chân người lao động khi họ tìm được chỗ làm việc khác có thu nhập cao hơn, đặc biệt là sức thu hút của các Công ty kiểm toán nước ngoài hay các Tổng Công ty lớn đối với một số kiểm toán viên, nhân viên có trình độ, kinh nghiệm kiểm toán của Công ty. Do đó, Ban lãnh đạo Công ty cần có sự chỉ đạo xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện đào tạo quy hoạch cán bộ tạo nguồn, thực hiện luân chuyển cán bộ, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ và thực hiện chính sách cán bộ theo đúng quy trình quy định để vừa đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng cán bộ, vừa giảm bớt được sự thuyên chuyển công tác của các kiểm toán viên, nhân viên giỏi.
AASC đã tổ chức công tác kiểm soát chất lượng một cách khoa học và ngày càng tăng cường, củng cố trong những năm qua. Công ty đã thực hiện kiểm soát hồ sơ kiểm toán đối với tất cả các phòng, chi nhánh theo kế hoạch và quán triệt đảm bảo quy trình soát xét 3 cấp theo đúng mẫu biểu mà Công ty đã ban hành. Tuy nhiên, công tác kiểm soát chất lượng cũng như việc phản ánh, nắm bắt, phát hiện các vướng mắc, sai sót trong quá trình kiểm toán còn chưa kịp thời. Do đó, trong những năm hoạt động tới, AASC cần nâng cao hơn nữa công tác kiểm soát chất lượng để có thể rút ra các bài học kinh nghiệm qua các năm kiểm soát, đảm bảo cho các báo cáo mà Công ty phát hành có thể hạn chế được tối đa những sai sót và những rủi ro có thể xảy ra.
3.3. Các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền
* Kiến nghị đối với các cơ quan chức năng:
Để hoạt động kiểm toán độc lập thực sự phát huy được vai trò của nó, Nhà nước ta cần hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động kiểm toán. Cho đến nay Luật kiểm toán độc lập vẫn chưa ra đời, ngoài những Nghị định của Chính phủ, các Quyết định và thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính, chưa có cơ quan nào ban hành những văn bản hướng dẫn thực hiện thống nhất về quy trình kỹ thuật kiểm toán báo cáo tài chính và các loại hình kiểm toán khác. Bộ Tài chính cũng chưa ban hành các văn bản hướng dẫn việc áp dụng các chuẩn mực kiểm toán và cũng chưa ban hành những văn bản quy định quản lý, kiểm tra, giám sát chất lượng hoạt động kiểm toán. Như vậy, Bộ tài chính cần phải sớm hoàn thiện các chính sách kế toán và kiểm toán, từ đó tạo môi trường pháp lý vững chắc cho hoạt động kiểm toán độc lập của các Công ty kiểm toán. Các Chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam đã ban hành cần có các Thông tư hướng dẫn cụ thể, đảm bảo tính khả thi đối với các doanh nghiệp. Hệ thống Chuẩn mực kế toán, kiểm toán được xây dựng và ban hành cần đảm bảo tính hội nhập quốc tế nhưng cũng phù hợp với đặc thù của nền kinh tế Việt Nam và phải tính đến xu hướng đổi mới cơ chế, chính sách tài chính trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Ngoài ra, Bộ Tài chính cần sớm xây dựng cơ chế giám sát chất lượng dịch vụ kiểm toán của các Công ty kiểm toán. Có như vậy thì các doanh nghiệp mới thực sự tin tưởng và nhận thức một cách đúng đắn về dịch vụ kiểm toán cũng như địa vị pháp lý của các Công ty kiểm toán độc lập tại Việt Nam.
* Kiến nghị đối với Hiệp hội kế toán, kiểm toán:
Hội kế toán Việt Nam (VAA) và Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) đã có thời gian hoạt động hơn 10 năm, là thành viên tổ chức của Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) và Hiệp hội kế toán Đông Nam á (AFA) nhưng cho đến nay chưa có vị trí và vai trò trong việc quản lý, kiểm tra, đánh giá chất lượng các hoạt động cung cấp dịch vụ kế toán – kiểm toán. Do đó, trong những năm tới Hiệp hội kế toán, kiểm toán Việt Nam cần tăng cường hoạt động, nâng cao hơn nữa vị trí và vai trò của mình trong sự phát triển của hoạt động kiểm toán độc lập nói riêng và hoạt động kiểm toán nói chung.
Kết luận
Kiểm toán là một lĩnh vực còn rất non trẻ đối với nước ta. Ra đời được hơn 10 năm, hoạt động kiểm toán ngày càng phát triển và khẳng định vị trí quan trọng của nó. Trong điều kiện nước ta hiện nay, việc tăng cường hoạt động và nâng cao chất lượng công tác kế toán và kiểm toán được quan tâm bởi vai trò quan trọng và sự cần thiết của hoạt động kiểm toán. Đặc biệt, Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá cho nên càng cần thiết phải tạo điều kiện phát triển cho hoạt động kiểm toán.
Trong thời gian thực tập tại Công ty AASC và lựa chọn đề tài: “Những giải pháp chủ yếu hoàn thiện quy trình kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán (AASC) thực hiện” để nghiên cứu, em đã được tiếp cận và phần nào hiểu được thực tế một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính nói chung và kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền nói riêng. Được trực tiếp tham gia vào cuộc kiểm toán tại các khách hàng, em đã nhận biết được sự khác biệt giữa lý luận và thực tế thực hiện kiểm toán. Em cũng đã được nghiên cứu chương trình kiểm toán mẫu của Công ty AASC, việc áp dụng chương trình vào quá trình kiểm toán tại các khách hàng...
Do đó, trong bài viết này em đã trình bày được các vấn đề:
I. Lý luận chung về kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính
II. Thực trạng kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền do Công ty AASC thực hiện
III. Phương hướng và những giải pháp chủ yếu hoàn thiện kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính tại AASC
Kết thúc bài viết này, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của TS.Đinh Trọng Hanh và sự giúp đỡ, chỉ bảo của các anh chị trong phòng Đào tạo và hợp tác quốc tế trong quá trình đi thực tế, để em có thể hoàn thiện bài viết này.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Thanh Diệp
Tài liệu tham khảo
Alvil A.Arens & Jame K.Loebbeck, Kiểm toán, NXB Thống kê, 2001.
GS.TS Nguyễn Quang Quynh, Lý thuyết kiểm toán, NXB Giáo dục, Tháng 11/1999.
GS.TS Nguyễn Quang Quynh, Kiểm toán tài chính, NXB Tài chính, Tháng 7/2001.
Bộ Tài chính, Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam, NXB Tài chính, 2002.
AASC, Các tài liệu đào tạo nội bộ, 2001.
AASC, Chương trình kiểm toán.
AASC, File kiểm toán của Công ty ABC, XYZ, 2005.
Nghị định 105/BTC.
Tạp chí kế toán, kiểm toán.
Danh mục sơ đồ, bảng biểu
Sơ đồ 1.1: Tổ chức chứng từ kế toán trong chu trình bán hàng và thu tiền 8
Sơ đồ 1.2: Sơ đồ hạch toán kế toán chu trình bán hàng và thu tiền 9
Sơ đồ 2.1: Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty 45
Sơ đồ 2.2: Quy trình kiểm toán tại Công ty AASC 53
Sơ đồ 2.3: Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty ABC 66
Sơ đồ 2.4: Quy trình thực hiện kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền do AASC thực hiện 100
Bảng 2.1: Bảng đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ 70
Bảng 2.2: Bảng đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ đối với bán hàng 73
Bảng 2.3: Mức trọng yếu áp dụng đối với Công ty ABC 75
Bảng 2.4: Phân tích doanh thu 77
Bảng 2.5: Kiểm tra chi tiết 78
Bảng 2.6: Kiểm tra chi tiết 79
Bảng 2.7: Kiểm tra chi tiết 80
Bảng 2.8: Kết luận kiểm toán 82
Bảng 2.9: Kiểm tra chi tiết 83
Bảng 2.10: Thư xác nhận công nợ 85
Bảng 2.11: Kết luận kiểm toán 87
Bảng 2.12: Kết luận kiểm toán 92
Bảng 2.13: Kết luận kiểm toán 93
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36421.doc