Thực tiễn cạnh tranh gay gắt ở thị trường cả trong và ngoài nước chứng tỏ yêu cầu cấp bách của việc chế biến nông sản. Để chế biến nông sản của các trang trại, cần giải quyết hàng loạt các công việc sau:
-Trước hết, các chủ trang trại phải tự cải tiến cơ cấu kinh doanh, nâng cao kỹ thuật, công nghệ của khâu sản xuất nông nghiệp nguyên liệu. Hiện nay hàng loạt cơ sở chế biến phải đi nhiều nơi để thu gom nguyên liệu. Chi phí thu gom, vận chuyển nguyên liệu lớn, đầu vào tăng sẽ làm cho khả năng cạnh tranh giảm. Nên:
+ Nhanh chóng hình thành các vùng chuyên canh nguyên liệu trong các trang trại.
+ Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vừa chuyên canh vừa hình thành cơ cấu kinh doanh tổng hợp trong từng trang trại.
+ Hạ thấp chi phí, nâng cao năng suất và chất lượng nguyên liệu nông nghiệp.
-Phát triển công nghiệp chế tạo trong nước nhằm tạo ra những máy móc, thiết bị chế biến để cung cấp cho các chủ trang trại.
-Sau cùng, điều khó khăn nhất nhưng cũng rất quan trọng là mở rộng tiêu thụ nông sản chế biến để tạo điều kiện, động lực cho các chủ trang trại mở rộng chế biến nông sản.
94 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1397 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực trong các trang trại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u chủ trương, chính sách đất đai, tạo điều kiện cho quá trình tập trung đất diễn ra trên nhiều vùng, địa phương. Nhờ đó đất đai sử dụng ngày càng đầy đủ và hợp lý. Tuy nhiên, nguồn gốc đất khá phong phú và bố trí cây trồng, vật nuôi phải phù hợp với từng loại đất ở từng vùng. Theo số liệu năm 2002, diện tích đất trang trại được nhà nước giao chiếm 37%, diện tích đất nhận chuyển nhượng chiếm 10%, đất tự khai hoang khá cao chiếm tới 25%, còn lại là đất thầu, thuê, nhận khoán,...và mỗi vùng có một ưu thế cây trồng, vật nuôi khác nhau; vùng đồng bằng sông Cửu Long có ưu thế cây lương thực, nuôi trồng thuỷ sản; vùng Đông Nam Bộ có ưu thế cây lâu năm; Bắc Trung Bộ có ưu thế cây lâm nghiệp. Vì thế, sử dụng đất cho có hiệu quả luôn là vấn đề bức xúc của các chủ trang trại. Do đó, giải pháp về đất đai nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực này phải đạt được các mục đích sau:
-Bố trí cây trồng vật nuôi phù hợp với từng loại đất.
-Đưa đất đai còn hoang hoá vào phát triển kinh tế trang trại.
-Khuyến khích các trang trại khai thác sử dụng đất đai đầy đủ hợp lý, gắn khai thác với bảo vệ nâng cao chất lượng đất đai.
-Tạo điều kiện tập trung đất đai để hình thành mới các trang trại cũng như tạo quy mô hợp lý của các trang trại cũ.
-Tăng cường quản lý Nhà nước về đất đai.
Để đạt được mục tiêu trên, trong tình hình hiện nay cũng như trong sự chuyển biến kinh tế-xã hội trong những năm tới, cần tập trung giải quyết các vấn đề sau:
3.2.1.1)Bố trí các loại cây trồng, vật nuôi phù hợp với từng loại đất.
Sử dụng đất đai trang trại có hiệu quả là phải biết bố trí đất đai phù hợp với các loại cây trồng và nuôi trồng thuỷ sản. Cụ thể xin đưa ra giải pháp như sau:
a)Bố trí theo vùng.
- Vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ là vùng sử dụng đất hiệu quả nhất cả nước, giá trị sản lượng/1 ha đất năm 2001 là 20,2 triệu đồng, năm 2002 là 34,7 triệu đồng; thu nhập/ 1ha đất năm 2001 là 6,7 triệu đồng, năm 2002 là 13 triệu đồng/ 1 ha đất. Hiện nay, đất trồng cây hàng năm sử dụng nhiều nhất chiếm 41% tổng diện tích đất trang trại của vùng; đất trồng cây lâm nghiệp chỉ chiếm 6,2%, đất để chăn nuôi chiếm tỷ lệ thấp nhất chỉ 2,5%. Do đây là vùng nằm trên dãi đồng bằng nhỏ hẹp, nên với cơ cấu bố trí cây trồng như hiện nay là cũng tương đối hợp lý. Vùng cần phát huy hơn nữa để sử dụng đất hiệu quả hơn.
- Đồng bằng sông Cửu Long: Đây là vùng có đất trồng cây hàng năm và nuôi trồng thuỷ sản cao nhất cả nước. Vùng đã biết tận dụng được lợi thế tự nhiên của mình. Nhưng diện tích trồng cây lâu năm của vùng lại rất thấp chỉ chiếm 1,2% diện tích đất trang trại, đất trồng cây lâm nghiệp của chiếm 0,7% trong khi đất trồng cây hàng năm chiếm tới 53,6%. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của vùng rất thuận lợi cho trồng cây hàng năm và nuôi trồng thuỷ sản, nhưng vùng có thể tăng diện tích trồng cây lâu năm như các cây ăn quả ngắn ngày để cơ cấu cây trồng trong vùng phong phú hơn.
-Vùng Đông Nam Bộ: Đây là vùng có đất trồng cây lâu năm cao nhất cả nước. Giá trị sản luợng hàng hoá và thu nhập/ 1 ha đất của vùng bằng mức trung bình của cả nước, giá trị sản lượng hàng hoá/1 ha đất năm 2001 là 14,4 triệu đồng, năm 2002 là 14,8 triệu đồng; thu nhập/ 1ha đất năm 2001 là 5,6 triệu đồng, năm 2002 là 5,7 triệu đồng/ 1 ha đất. Đất trồng cây hàng năm chiếm 22,2% diện tích đất của vùng, cần tăng diện tích đất trồng cây hàng năm lên, vì điều kiện tự nhiên ở đây cũng tương đối thích hợp trồng cây hàng năm.
- Vùng Tây Nguyên, miền núi phía Bắc là những vùng sử dụng đất kém hiệu quả. Giá trị hàng hoá và thu nhập/ 1 ha đất của các vùng này luôn thấp hơn mức trung bình của cả nước. Đây lại là hai vùng miền núi nhưng diện tích đất trông cây lâm nghiệp và cây ăn quả chưa cao, miền núi phía Bắc đất trồng cây lâm nghiệp chỉ chiếm 34,5% đất trang trại của vùng, cây ăn quả 32,8%, Tây Nguyên đất trồng cây lâm nghiệp chỉ chiếm 4,8%. Như vậy ở hai vùng này cần phải đưa điện tích đất trồng cây lâm nghiệp và cây ăn quả lên nhiều hơn.
- Vùng Bắc Trung Bộ: Đây cũng là vùng sử dụng đất kém hiệu quả nhất nhì trong cả nước. Vùng có diện tích trồng cây lâm nghiệp cao nhất cả nước, năm 2001 chiếm 5,5% tổng diện tích đất trang trại, năm 2002 chiếm 5,5%, diện tích đất trồng cây lâm nghiệp chiếm tới 41% diện tích đất trang trại của vùng nhưng diện tích đất nuôi trồng thuỷ sản thấp chỉ chiếm 11% mặc dù vùng rất có tiềm năng về nuôi trồng thuỷ sản. Cần giảm diện tích đất trồng cây lâm nghiệp và tăng diện tích đất nuôi trồng thuỷ sản.
-Vùng đồng bằng sông Hồng: hiệu quả sử đất của vùng bằng mức trung bình chung của cả nước. Đây là vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi nhưng diện tích đất có hạn, dân số lại đông nên ở vùng này các trang trại đặc thù là phù hợp nhất. Vì vậy, tăng thêm các trang trại đặc thù, giảm các trang trại sản xuất kinh doanh chiếm nhiều đất như trồng cây lâu năm, cây lâm nghiệp.
b)Bố trí theo từng loại cây.
-Cây lương thực và cây công nghiệp ngắn ngày.
Đây là các loại cây trồng cần nhiều nước, canh tác nhiều vụ trong năm và chiếm diện tích khá lớn đối với trang trại chuyên môn hoá. Vì vậy, cần bố trí liền khoảnh để tiện xây dựng các công trình thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu, để thuận tiện cho cơ giới hoá trong làm đất. Các loại cây màu và cây công nghiệp ngắn ngày bố trí ở nơi đất cao dễ tưới nước, nhưng cũng dễ thoát nước, ở các loại đất có thành phần cơ giới nhẹ để thuận tiện làm đất và chăm sóc. Vì vậy, các loại cây này cần được trồng ở vùng Đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, Duyên Hải Nam Trung Bộ.
-Cây rau.
Rau có thời gian sinh trưởng ngắn nên có cường độ hấp thụ các chất dinh dưỡng cao. Vì vậy, một mặt phải tăng cường bón phân, mặt khác phải bố trí đất có chất lượng tốt để trồng rau. Rau được sản xuất nhiều vụ trong năm nên phải chăm sóc thường xuyên, đặc biệt là làm cỏ, vun xới và tười nước. Vì thế phải bố trí rau ở các loại đất có thành phần cơ giới nhẹ, trung bình (đất cát pha, thịt nhẹ hoặc thịt trung bình). Nếu bố trí ở đất cát hoặc đất thịt nặng, đất sét sẽ phải bón nhiều phân, tưới nhiều nước, làm đất sẽ khó khăn, rau bị úng khó tiêu nước. Nên bố trí rau ở những nơi thuận tiện cho việc tưới nước, tương đối bằng phẳng, đầy đủ độ ẩm và ánh sáng. Đất phù sa ven sông, suối là loại đất phù hợp nhất đối với trồng rau, vì vậy các vùng phù sa ven sông Hồng và hầu hết các con sông khác ở những nơi có nhu cầu đều được bố trí để trồng rau.
-Cây ăn quả và cây lâu năm.
Đặc tính chung của các loại cây trồng này là có giá trị kinh tế cao, có thời gian kinh doanh dài, đặc biệt là nhưng cây có tán lớn, bộ rễ dài và ăn sâu vào đất. Vì vậy, đất để trồng các loại cây ăn quả phải là đất có lớp đất mặt dầy và mặt nước ngầm sâu (thường trên 1 m), ở nơi có độ cao vừa phải với độ dốc không quá 15-200. Đất trồng cây lâu năm thường là đất vườn (vì đất vườn gắn với đất làm nhà nên thường ở chỗ cao của vùng đồng bằng hoặc ỏ chỗ thấp của vùng núi), đất ở các vùng đồi. Loại cây này cần trồng ở vùng Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ, miền núi phía Bắc.
-Bố trí đất làm nơi chăn thả gia súc, trồng cây thức ăn gia súc. Đối với các trang trại lấy chăn nuôi gia súc làm hướng kinh doanh chủ yếu thường phải chọn đất làm nơi chăn thả gia súc, trồng cây thức ăn gia súc. Khi bố trí đất vào các nục đích này cần lưu ý: khu chăn thả nên lựa chọn nơi cao ráo, thoát khí, đầy đủ ánh sáng. Nếu không có hoặc có ít cỏ phải trồng cỏ có thể tận dụng các bờ đê, bờ đường thuộc địa phận của trang trại. Trường hợp không giải quyết được phải dành riêng đất để trồng cây thức ăn gia súc.
Đất để trồng cây thức ăn gia súc nên bố trí liền khoảnh, chia thành từng ô để tiện chăm sóc và khai thác. Các vùng như Duyên hải Nam Trung Bộ, Bắc trung Bộ phù hợp với chăn nuôi và trồng cây thức ăn gia súc.
-Cây lâm nghiệp: Đất trồng cây lâm nghiệp phù hợp là loại ở trung du và miền núi. Vì vậy, cần trồng nhiều ở các vùng miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ.
Bố trí đất đai cho phù hợp với từng loại cây trồng vật nuôi là một trong những vấn đề quan trọng trong việc sử dụng hiệu quả nguồn lực đất.
3.2.1.2). Khuyến khích các trang trại khai thác, sử dụng đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá, bãi bồi ven sông, ven biển theo các hướng sau:
Những vùng như miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ là những vùng miền núi, trung du có tiềm năng về đất. Nhưng diện tích đất trang trại của hai vùng chiếm tỷ lệ thấp so với cả nước chỉ chiếm 4% và 13% tổng diện tích đất trang trại cả nước. Đặc biệt là vùng miền núi phía Bắc có diện tích đất trang trại thấp nhất trong cả nước. Vì vậy, phải khuyến khích hai vùng này sử dụng nhiều hơn nữa tiềm năng đất- một lợi thế của vùng. Bên cạnh đó cũng đồng thời khuyến khích các vùng khác tăng cường sử dụng đất trống, đồi núi trọc, các bãi bồi ven sông, ven biển. Để đạt được điều này, xin kiến nghị các biện pháp sau:
-Đối với đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá, bãi bồi ven sông, ven biển có nhiều khó khăn khai thác và sử dụng ít người muốn nhận làm, những cá nhân có nguyện vọng thiết tha muốn làm trang trại có khả năng về vốn, kinh nghiệm sản xuất và kinh nghiệm quản lý thì cho họ nhận không thu tiền, với diện tích có thể cao hơn mức hạn điền.
-Đối với vùng đất đai có ít khó khăn, có nhiều người muốn nhận để sản xuất thì tuỳ theo diện tích đât đai và số người muốn nhận mà quyết định cụ thể.
-Đối với vùng đất tương đối thuận lợi trong khai thác và sử dụng, có khả năng cho hiệu quả cao và nhiều người muốn nhận, có quỹ đất thì tổ chức cho đấu thầu.
Với cả ba trường hợp trên, trong quá trình sử dụng đất nếu sử dụng có hiệu quả thì cho tiếp tục sử dụng. Nếu sử dụng đất không có hiệu quả, không đúng mục đích sử dụng, thậm chí làm cho đất đai bị suy thoái và ảnh hưởng đến môi trường thì thu hồi lại.
-Đối với các trang trại đã được chính quyền địa phương cho phép đầu tư khai phá và sử dụng đất hoang, bãi bồi ven biển, ven sông đề nghị Nhà nước giao đất và cho thuê đất theo luật định.
3.2.1.3). Cải tạo, bảo vệ, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đất đai.
Đất đai là nguồn tài nguyên quý giá, trong quá trình khai thác sử dụng đất con người đã tác động và đất làm thay đổi địa hình, cơ cấu, chất lượng đất. Vì vậy, cải tạo, bảo vệ, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đất đai là nội dung quan trọng của sử dụng đất nói chung và trong các trang trại nói riêng. Để thực hiện được công việc này cần:
-Thực hiện chế độ canh tác hợp lý trên các loại đất với các điều kiện cụ thể
-áp dụng rộng rãi các thành tựu khoa học công nghệ của cuộc cách mạng sinh học và sản xuất nông nghiệp. Trong đó có việc cải tạo, bảo vệ và nâng cao chất lượng đất đai như: tăng cường bón các loại phân vị sinh, bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý để vừa khai thác hết các tiềm năng của đất, vừa bồi dưỡng cải tạo đất.
-Thực hiện các biện pháp thâm canh hợp lý, trong đó chú trọng các chế độ làm đất như làm đất không phá kết cấu đất nhưng vẫn làm cho đất tơi xốp; chế độ bón phân hợp lý dựa trên cơ sở các phân tích nông hoá thổ nhưỡng để nắm chắc lượng chất dinh dưỡng trong đất và yêu cầu dinh dưỡng của từng loại cây trồng để xác định loại phân, lượng phân cần bón. Cần kết hợp các loại phân để có thể cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho cây và không làm suy kiệt đất. Khôi phục lại các chế độ bón phân cổ truyền thôgn qua việc nuôi bèo dâu, trồng các loại cây phân xanh, hạn chế dùng các loại hoá chất trừ sâu, diệt cỏ làm ô nhiễm đất, thực hiện chế độ tưới tiêu khoa học,...
3.2.1.4) Hoàn thiện quy hoạch đất đai.
Quy hoạch đất đai là cơ sở quan trọng thực hiện bố trí sản xuất theo hướng khai thác các lợi thế của vùng và để các địa phương giao giao đất cho các tổ chức và đơn vị kinh tế, trong đó có trang trại. Trong điều kiện phát triển kinh tế trang trại, quy hoạch đất sẽ giúp cho các chủ trang trại khai thác có hiệu quả đất đai và các vùng đất còn hoang hoá sẽ đưa vào sản xuất theo yêu cầu của kinh tế trang trại, tránh tình trạng khai thác đất bừa bãi dẫn đến lãng phí đất, phá hoại môi trường sinh thái.
Hiện nay, hầu hết các địa phương đã có quy hoạch tổng thể đất đai, một số địa phương đã có quy hoạch chi tiết sử dụng đất, nhưng theo yêu cầu chung của phát triển kinh tế, cũng như của phát triển kinh tế trang trại cần rà soát lại quy hoạch ở từng địa phương, hoàn thiện quy hoạch chi tiết, định hình quy mô các vùng chuyên môn hoá tập trung đã có, thực hiện quy hoạch các vùng chuyên môn hoá mới, đặc biệt là vùng cây ăn quả, cây công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản...
3.2.1.5) Khuyến khích tập trung, tích tụ đất đai.
Để trở thành trang trại, các nông hộ phải tích tụ, tập trung đất đai đến quy mô nhất định. Tuy nhiên việc việc tập trung đất đai phải được tiến hành một cách thận trọng, đặc biệt đối với vùng đồng bằng. Việc tập trung đất đai phải được quản lý, kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước, tránh tự phát.
Việc giao đất phải đảm bảo yêu cầu tập trung, đồng thời phải phù hợp với từng vùng có đất đai nhiều ít khác nhau, thuận lợi và khó khăn khác nhau.
3.2.1.6) Xúc tiến nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho trang trại.
Các trang trại được hình thành từ nhiều nguồn đất khác nhau: nhận khoán, thuê mướn, chuyển nhượng...Đối với đất chuyển nhượng, vừa qua Nhà nước chưa kiểm soát hết được, vì vậy, một mặt cần tăng cường giám sát chặt chẽ quá trình chuyển nhượng theo luật, mặt khác để tạo sự ổn định cần xử lý dứt điểm theo hướng cấp giấy quyền sử dụng đất đối với đất chưa cấp và sang tên cho chủ đất mới đối với đất cấp giấy cho chủ cũ. Đối với đất khai hoang phù hợp với quy định của pháp luật, cần hợp pháp hoá ngay bằng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để tiếp tục khuyến khích các trang trại hoang. Đối với đất nhận khoán, thầu của nông lâm trường, hợp tác xã... cần tuỳ theo từng trường hợp cụ thể để có hướng xử lý thích hợp, một số trường hợp có thể xử lý theo hướng chuyển cho chính quyền để giao hẳn cho trang trại nếu ho có yêu cầu, chuyển cho nông lâm trường thành các đơn vị làm chức năng chế biến và dịch vụ.
Như vậy, xử lý theo hướng trên sẽ tạo điều kiện cho các chủ trang trại sử dụng đất đầy đủ và hợp lý hơn.
Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực lao động trang trại ở Việt Nam.
3.2.2.1) Phân công, tổ chức nhóm lao động trong trang trại hợp lý.
Dựa theo số liệu điều tra của trường ĐH Kinh tế Quốc dân, Tổng cục Thống kê, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, số lao động bình quân của trang trại năm 1999 là 5,58 lao động, năm 2001 là 6,0 sang năm 2002 là 8,87 lao động. Như vậy, xu hướng sử dụng lao động trong trang trại ngày càng nhiều. Vì vậy, phân công, tổ chức lao động trong trang trại lại càng quan trọng. Đối với trang trại trồng cây lâm nghiệp, cây lâu năm cần phải sử dụng lao động thường xuyên nhiều, ngược lại các trang trại trồng cây hàng năm sử dụng nhiều lao thời vụ, các trang trại chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, cây lâm nghiệp cần có phải lao động có chuyên môn. Việc lựa chọn hình thức phân công và tổ chức nhóm lao động trong các trang trại phải dựa trên những căn cứ sau:
-Phương hướng sản xuất và quy mô sản xuất kinh doanh của trang trại.
-Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành sản xuất, đặc biệt là ngành sản xuất chính trong trang trại.
-Trình độ tổ chức quản lý của chủ trang trại và trình độ kỹ năng của người lao động.
-Trình độ và quy mô trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống công cụ lao động được áp dụng.
Phân công, tổ chức nhóm lao động trong trại có vai trò rất quan trọng trong việc sử dụng nguồn lực này có hiệu quả.
3.2.2.2) Tổ chức hợp lý quá trình lao động.
Quá trình lao động là sự tổng hợp của một số bước công việc (hay bộ phận công việc) có liên quan với nhau mà một người hay một số người có liên hệ hữu cơ với nhau tiến hành trong khi lao động. Tổ chức hợp lý quá trình lao động là công việc của chủ trang trại. Chủ trang trại phải biết bố trí công viêc cho hợp lý, phải biết kết hợp giữa lao động gia đình, lao động thuê thường xuyên, lao động thuê thời vụ, lao động kỹ thuật để các khâu công việc liên tục nhau.
Khi tiến hành quá trình lao động phải tổ chức hợp lý đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:
-Bảo đảm chất lượng công việc theo đúng yêu cầu kỹ thuật. Đối với ngành trồng trọt đặc biệt phải làm đúng lịch thời vụ.
-Sử dụng hợp lý các công cụ và sức lao động để nâng cao năng suất lao động.
-Cải thiện điều kiện lao động và đảm bảo an toàn lao động.
-Tổ chức hợp lý quá trình lao động phải đảm bảo tính cân đối, phối hợp nhịp nhàng và liên tục.
+ Cân đối: Cân đối giữa người và công cụ lao động; cân đối giữa khối lượng công việc và số lượng người lao động; cân đối giữa các cá nhân, nhóm lao động trong một dây chuyền sản xuất theo tỷ lệ nhất định,..
+Phối hợp nhịp nhàng có nghĩa là các bộ phận công việc trong một quá trình lao động hoặc các quá trình lao động khác nhau nhưng có quan hệ với nhau phải phối hợp được và ăn khớp với nhau.
+Liên tục có nghĩa là các bước công việc trong một quá trình lao động, hoặc trong những quá trình lao động phải được tiến hành một cách liên tục, không gián đoạn.
Việc theo dõi, quản lý lao động và hoạt động lao động của các nhóm nhằm mục tiêu sử dụng hợp lý lao động trong quá trình sản xuất của trang trại.
3.2.2.3) Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của trang trại.
Hiện nay vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của trang trại còn nhỏ bé như ở Thái Nguyên là 30,7% tổng vốn đầu tư của tỉnh, Hà Tây 24,3%, Khánh Hoà 21%, Đồng Nai 13,6%, Bà Rịa-Vũng Tàu 9,4%, Kom Tum 8%, Ninh Bình 3,5%...Nhưng cơ sở vật chất kỹ thuật lại là biện pháp cơ bản để thực hiện thâm canh ngày càng cao, tạo ra khả năng vừa giảm nhẹ cường độ lao động, vừa nâng cao năng suất lao động.
Đối với trang trại chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản cơ sở vật chất rất quan trọng không những tăng năng suất lao động mà còn đảm bảo kỹ thuật. Như các trang trại trồng cây hàng năm sản phẩm chủ yếu là tươi, sống nên sơ chế là rất quan trọng. Vì vậy cần phải tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trong trại không những về số lượng mà còn về chất lượng.
Trong thực hiện đầu tư, mua sắm hay xây dựng, chủ trang trại cần ưu tiên cho các yếu tố cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ các khâu của quá trình sản xuất ngành sản phẩm chính, ngành chuyên môn hoá của trang trại. Có như vậy trang trại mới có điều kiện tổ chức lao động khoa học và nâng cao năng suất lao động.
3.2.2.4) Thực hiện thường xuyên công việc vệ sinh, an toàn trong lao động trang trại.
Đảm bảo vệ sinh, an toàn lao động là một biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả sử dụng lao động trong trang trại trên hai phương diện: sử dụng triệt để lực lượng lao động tham gia hoạt động sản xuất và giảm thiểu những chi phí hay tổn thất do không đảm bảo an toàn lao động gây ra. Hơn nữa đảm bảo vệ sinh và an toàn lao động còn là nghĩa vụ của trang trại với tính cách là người sử dụng lao động. Điều 95 của Bộ luật lao động quy định : “Người sử dụng lao động có trách nhiệm trang bị đầy đủ phương tiện bảo hộ lao động đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh lao động và cải thiện điều kiện lao động cho người lao động..”. trong điều kiện hiện nay ở nước ta, phần lớn người lao động nông nghiệp rất ít hiểu biết về an toàn lao động thậm chí coi thường vấn đề này thì vai trò của chủ trang trại không chỉ dừng lại ở việc trang bị đầy đủ cá phương tiện đảm bảo vệ sinh an toàn lao động cho người lao động, mà hơn thế nữa, cần theo dõi người lao động sử dụng các thiết bị đó trong quá trình lao động để bảo vệ cho họ. (Ví dụ: người lao động không đeo khẩu trang, không mặc quần áo bảo hộ lao động khi phun thuốc sâu v.v...)
Khi xảy ra tai nạn trong quá trình, bất kể với nguyên nhân như thế nào thì chủ trang trại cũng phải tìm mọi biện pháp khắc phục có hiệu quả nhất như sơ cứu, đưa đến viện nơi gần nhất...Với tính cách là người sử dụng lao động, chủ trang trại phải xác định việc để xảy ra tai nạn lao động là trách nhiệm thuộc về mình để có biện pháp xử lý tích cực nhất.
3.2.2.5). Không ngừng đào tạo, bồi dưỡng cho lao động của trang trại.
Lao động của trang trại bao gồm cả lao động của gia đình chủ trang trại và lao động làm thuê trong trang trại. Vì vậy để nâng cao hiệu quả sử dụng lao động thì trước hết phải nâng cao năng lực cho chủ trang trại.
a).Nâng cao năng lực cho chủ trang trại.
Theo số liệu năm 2002(1), chủ trang trại là nông dân chiếm tới 80%. Điều này chứng tỏ trình độ của chủ lao động trang trại còn rất thấp. Trong bối cảnh đó thì đầu tiên chính bản thân chủ trang trại phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, trình độ khoa học kỹ thuật của mình.
Thực tế nhiều trang trại hoạt động mang lại hiệu quả cao cho thấy, chủ trang trại phải là người có ý chí làm giàu, chịu khó học hỏi. Do vậy, họ có trình độ khoa học kỹ thuật, có khả năng quản lý, có hiểu biết nhất định về thị trường và biết kết hợp sức lao động của gia đình và thuê mướn thêm lao động để sản xuất kinh doanh. Để nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh và trình độ khoa học kỹ thuật của chủ trang trại xin kiến nghị một số vấn đề cụ thể sau:
-Về đối tượng đào tạo.
Đối tượng đào tạo không chỉ là các chủ trang trại, mà còn bao gồm những người có nguyện vọng tha thiết và có khả năng trở thành các chủ trang trại. Các chủ trang trại có nguyện vọng học tập đều được khuyến khích.
-Về nội dung đào tạo.
Những nội dung mà các chủ trang trại sẽ được học tập là những vấn đề chung về kinh tế trang trại như: vị trí, vai trò, xu hướng phát triển, các chủ trương đường lối chính sách về phát triển kinh tế trang trại đã ban hành, các kiến thức về quản trị kinh doanh trong các trang trại, các kiến thức về kỹ thuật sản xuất,...Những nội dung trên sẽ được các địa phương tổ chức đào tạo qua các lớp huấn luyện phù hợp ở mỗi nơi.
-Về hình thức đào tạo.
Tuỳ theo điều kiện cụ thể ở địa phương mà có các hình thức rất phong phú như mở lớp tập trung, tham quan, tập huấn chuyển giao tiến bộ kỹ thuật v.v...Điều quan trọng là các chủ trang trại và những người muốn trở thành chủ trang trại phải lựa chọn được hình thức học tập phù hợp cho mình.
-Về kinh phí đào tạo.
Nguồn kinh phí chủ yếu sẽ được đầu tư từ ngân sách nhà nước. Tuy nhiên tuỳ điều kiện cụ thể ở mỗi địa phương sẽ có huy động sự đóng góp một phần của người học với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm trong việc đào tạo chủ trang trại. Để tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động đào tạo cho chính bản thân mình, các chủ trang trai nên hưởng ứng tích cực chủ trương này.
b).Nâng cao tay nghề cho lao động trang trại.
Cần quan tâm và có kế hoạch tổ chức đào tạo nghề cho lao động, kể cả lao động làm thuê nhất là bộ phận lao động kỹ thuật.
-Đối với lao động gia đình.
Hiện nay trong các trang trại gia đình ở nước ta, hầu hết các chủ trang trại vừa là người quản lý vừa là người trực tiếp lao động. Trong số đó các chủ trang trại hầu hết chưa qua đào tạo tối thiểu về kinh tế và kỹ thuật nông nghiệp. Trước mắt, các chủ trang trại cần quan tâm nâng cao trình độ cho lao động gia đình chủ yếu dựa vào các tổ chức quần chúng (đoàn thanh niên, phụ nữ, hội nông dân,...) và các tổ chức khuyến nông cơ sở, với các hình thức hoạt động phong phú ngay tại địa phương. Chủ trang trại cần coi trọng hình thức bồi dưỡng cho lao động gia đình dưới hình thức truyền nghề.
-Đối với lao động làm thuê.
Mặc dù các trang trại ở nước ta tuy còn nhỏ bé, tuỳ theo quy mô và quá trình sản xuất kinh doanh, phần lớn các trang trại đều sử dụng lao động làm thuê. Chủ trang trại cần quan tâm đến hình thức hướng dẫn kỹ thuật và “làm thử” trước khi chính thức giao nhiệm vụ cho lao động làm thuê. Trong tương lai, khi trang trại đã phát triển phổ biến, các địa phương có tổ chức hình thành thị trường lao động ở nông thôn thì các chủ trang trại có thể thuê mướn lao động qua các trung tâm giới thiệu việc làm hoặc một hình thức thuê mướn qua trung tâm nào đó. Khi đó nhu cầu thuê mướn lao động có chất lượng theo nhu cầu của chủ trang trại sẽ được đáp ứng dễ dàng hơn. Để đặt được điều đó, trước hết cần quan tâm giải quyết những vấn đề sau:
-Cần thừa nhận về pháp lý sức lao động làm thuê cho trang trại là hàng hoá. Trên bình diện chung đã chấp nhận thị trường sức lao động, thì lao động làm thuê trong các trang trại cũng phải được thừa nhận là hàng hoá. Có như vậy, lao động trong nông nghiệp, nông thôn mới thực sự được phân công và sử dụng một cách có hiệu quả hơn. Thừa nhận về pháp lý việc thuê mướn trong nông, lâm, ngư nghiệp như đang áp dụng đối với các ngành kinh tế khác sẽ tạo thêm môi trường cho các chủ trang trại – kể cả chủ trang trại là đảng viên, hoạt động có hiệu quả và tạo ra nhiều việc làm, góp phần phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Vì vậy, người đảng viên ở nông thôn không phải là người ngoài cuộc mà phải tham gia lãnh đạo quá trình phát triển kinh tế trang trại, khi có điều kiện, họ có thể trở thành những người chủ trang trại thực thụ để vừa là tấm gương có sức lôi cuốn các hộ khác ở nông thôn, vừa là những hạt nhân thúc đẩy quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn.
-Việc thuê mướn lao động của trang trại trong thời gian qua được thực hiện thông qua thoả thuận giữa chủ trang trại và lao động làm thuê, chưa có quy định về hợp đồng và ký kết hợp đồng giữa hai bên. Vì vậy, trên cơ sở Bộ luật Lao động đã ban hành, đề nghị Bộ Lao động-Thương binh và xã hội cần nghiên cứu ban hành quy chế sử dụng lao động đối với các trang trại, hướng dẫn các chủ trang trại xây dựng các hợp đồng lao động giữa chủ sử dụng lao động và người làm thuê để bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người lao động và xác định trách nhiệm cụ thể của chủ trang trại.
-Số lao động hiện làm thuê ở các trang trại đã và sẽ có xu hướng ngày càng tăng lên cùng với quá trình hình thành và phát triển trang trại. Vì vậy, chính quyền địa phương có trách nhiệm quản lý số lao động tự do kiếm việc làm, kể cả làm thuê theo mùa vụ và thường xuyên, để kịp thời phát hiện, ngăn ngừa và giải quyết những hành vi không lành mạnh, vi phạm pháp luật trong việc sử dụng lao động của các chủ trang trại.
c) Đào tạo các cán bộ quản lý, khuyến nông ở nông thôn để nâng cao trình độ cho lao động trang trại.
Hiện nay, cả nước đã có các trường trung học và dạy nghề, các trường quản lý nông nghiệp và một số trường đại học gắn liền với quá trình đào tạo cán bộ cho nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng phân tán, chưa có kế hoạch thống nhất về chương trình, nội dung đào tạo. Vì vậy, cần thống nhất chương trình, nội dung đào tạo các chủ trang trại và các hộ nông dân nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho các địa phương là vấn đề lớn đòi hỏi phải đầu tư ngân sách và tập trung trí tuệ để xây dựng một hệ thống giáo trình, bài giảng thích hợp và đào tạo miễn phí cho cán bộ địa phương và các chủ trang trại.
Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực vốn trang trại ở Việt Nam.
Trong các nguồn lực phát triển kinh tế trang trại vốn là nguồn lực hết sức quan trọng . Nó là chìa khoá ban đầu, là khâu then chốt để hình thành trang trại. Thực tế cho thấy vốn đầu tư cho các trang trại nhìn chung còn chưa lớn, nguồn vốn hầu hết là vốn tự có của các trang trại, một phần nhỏ là vốn Nhà nước thông qua các chương trình dự án, còn lại là vốn cho vay. Theo điều tra 3044 trang trại của trường ĐH Kinh tế Quốc dân năm 1999 trong cơ cấu vốn đầu tư của trang trại thì vốn tự có của chủ trang trại chiếm tới 91,3%, vốn vay chỉ chiếm 8,93% trong đó vốn vay trực tiếp từ ngân hàng chiếm 45%. Còn theo điều tra 62450 trang trại năm 2001 của Tổng cục Thống kê vốn tự có chiếm 85% tổng vốn đầu tư, 15% tổng vốn đầu tư còn lại là vốn vay. Theo báo cáo năm 2002 của 57 tỉnh thành phố thì 83,4% tổng vốn đầu tư là vốn tự có, vốn vay từ các tổ chức và cá nhân chiếm 13,6% còn lại là các nguồn vốn khác chiếm 3,1%. Trong cơ cấu vốn vay, vốn ngân hàng chiếm tỷ lệ rất hạn chế (khoảng 30% tổng số vốn vay). Vốn đầu tư giữa các vùng cũng không hợp lý.Bình quân 1 trang trại vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ có vốn đầu tư là 380 triệu đồng nhưng miền núi phía Bắc lại chỉ có 65,8 triệu đồng. Để sử dụng nguồn lực này có hiệu quả, xin đưa ra một số giải pháp sau:
3.2.3.1).Xác định đúng phương hướng sản xuất kinh doanh.
Xác định đúng hướng đầu tư kinh doanh có quan hệ hết sức chặt chẽ đối với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Trước hết, hướng đầu tư kinh doanh được xác định đúng sẽ tránh được những tổn thất do những khoản đầu tư không phù hợp phải bỏ đi để đầu tư lại. Việc xác định phương hướng đầu tư phù hợp sẽ giúp cho các khoản đầu tư nhanh phát huy tác dụng, nhất là trong việc đầu tư kiến thiết các tài sản cố định sinh học có thể lớn hơn nhiều so với tổng vốn đầu tư cơ bản. Phương hướng đầu tư kinh doanh phù hợp, năng suất chất lượng sản phẩm tạo ra cũng cao hơn làm cho hiệu quả sản xuất mang lại lớn hơn.
Như đối với các trang trại thuỷ sản, lâm nghiệp, cây lâu năm vốn đầu tư phải lớn, các trang trại cây hàng năm vốn đầu tư ít hơn. Vùng đồng bằng sông Cửu Long có giá trị sản lượng hàng hoá, thu nhập/ 1 đồng vốn cao nhất trong cả nước trong khi vốn đầu tư trung bình 1 trang trại chỉ có 66 triệu đồng. Các trang trại của vùng sử dụng vốn khá hiệu quả là nhờ vùng biết xác định đầu tư vốn vao hướng kinh doanh phù hợp.Vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ sử dung đất và lao động khá hiệu quả nhưng lại là vùng sử dụng vốn ở mức trung bình. Vốn đầu tư trung bình 1 trang trại của vùng cao nhất cả nước năm 2002 là 380 triệu đồng. Vì vậy, vùng cần xém xét lại cách thức sử dụng vốn của mình.
3.2.3.2) Lựa chọn các phương án đầu tư có hiệu quả.
Có nhiều phương án đầu tư, các phương án đầu tư có thể khác nhau về tổng lượng tiền vốn đầu tư và thời gian đầu tư kiến thiết cơ bản. Nếu đầu tư một lượng vốn lớn, tập trung ngay từ những năm đầu thì thời gian kiến thiết cơ bản có thể rút ngắn. Nếu đầu tư với một lượng vốn ít, rải ra làm nhiều kỳ đầu tư dần dần thì tiêu tốn ít vốn song thời gian kiến thiết cơ bản lại kéo dài. Trong trường hợp đó, chủ trang trại phải tính toán để lựa chọn được phương án đầu tư nào có hiệu quả hơn.
3.2.3.3) Tiết kiệm vốn lưu động.
Vốn lưu động dưới các hình thức là vật tư và chi phí sản xuất thường xuyên, là yếu tố không thể thiếu đối với việc duy trì các tài sản cố định sinh học và sản xuất ra sản phẩm mới. Nếu thiếu các loại vật tư sản xuất sẽ ngừng trệ thậm chí có thể gây tổn thất lớn đến tồn tại cuả các tài sản cố định sinh học. Ngược lại, nếu dự trữ dư thừa các loại vật tư sản xuất sẽ dẫn đến sự ứ đọng vốn, gây lãng phí vốn và tất yếu làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Do vậy, việc xác định chính xác nhu cầu dự trữ vật tư sản xuất nhằm tiết kiệm vốn lưu động là một biện pháp quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
3.2.3.4) Nhà nước cần hỗ trợ một phần vốn.
Vốn ngân sách hỗ trợ trang trại tập trung vào xây dựng các công trình hạ tầng như thuỷ lợi, giao thông, điện...Các công trình này được đầu tư xây dựng ở bên ngoài trang trại nhưng là cơ sở quan trọng cho việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực như đất đai, vốn. Nhà nước hỗ trợ đầu tư là chủ yếu, tuy nhiên, trong điều kiện nguồn vốn ngân sách còn co hẹp, nhu cầu xây dựng lớn, cần tính toán đầu tư có trọng điểm.
3.2.3.5) Có các chương trình, dự án vay vốn cho chủ trang trại.
Nhà nước cần thực hiện cơ chế cho các chủ trang trại vay theo chương trình, dự án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Cơ chế cho vay đó, một mặt đảm bảo tính khả thi trong sản xuất kinh doanh và hiệu quả của trang trại, mặt khác gắn nhiệm vụ của chủ trang trại với việc tạo ra sản phẩm hàng hoá, nguồn nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp chế biến và tạo nhiều việc làm cho người lao động. Thời hạn cho vay phải phù hợp với đặc điểm của sản sản xuất nông nghiệp, tức là cho vay theo chu kỳ sản xuất kinh doanh của từng loại sản phẩm. Thậm chí, có thể thời hạn vay lớn hơn chu kỳ sản xuất kinh doanh, vì chủ trang trại phải mua sắm vật tư trước, lựa chọn thời điểm thích hợp bán sản phẩm. Vì vậy, thời điểm vay vốn có thể trước chu kỳ kinh doanh chứ không phải khi bắt đầu chu kỳ kinh doanh và ngay sau khi kết thúc chu kỳ kinh doanh.
3.2.3.6) Giải pháp đối với vốn tín dụng.
a)Tăng thêm nguồn vốn cho vay trung hạn và dài hạn.
Tăng quỹ cho vay của ngân hàng để kinh tế trang trại vay vốn, không biệt giữa kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh. Nhà nước cần tăng thêm nguồn vốn đầu tư cho vay trung hạn và dài hạn để đáp ứng nhu cầu của kinh tế trang trại. Lượng vốn vay của từng trang trại phụ thuộc vào quy mô sản xuất, yêu cầu của từng loại cây trồng, vật nuôi, nhu cầu sử dụng vốn và lượng vốn tự có. Không nên xác định mức cho vay thống nhất giữa các trang trại.
b)Có chính sách lãi suất ưu đãi.
Cần phải có chính sách cho vay lãi suất thấp để khuyến khích phát triển đối với kinh tế trang trại, vì sản xuất nông nghiệp có nhiều rủi ro do thiên tai mang lại, năng suất thấp, đời sống nông thôn còn nhiều khó khăn.
ở các vùng sâu, vùng xa và vùng cao, đối với các hộ nông dân nghèo, hộ đồng bào dân tộc có nguyện vọng tha thiết, có ý chí và khả năng sản xuất với quy mô lớn nhưng thiếu vốn để sản xuất kinh doanh. Cần có chính sách lãi suất ưu đãi tạo điều kiện cho họ vay vốn bước đầu tạo lập trang trại, từ đó mới sử dụng hiệu quả nguồn lực vốn.
c) Cần linh hoạt hơn đối với thủ tục cho vay.
Hiện nay thủ tục cho vay vốn còn nhiều rườm rà, gây nhiều khó khăn cho người đi vay. Ví dụ như : một trong những điều kiện cho vay vốn tín dụng Ngân hàng là khách hàng phải được xác nhận hộ khâủ thường chú tại địa phương, thực tế có nhiều chủ trang trại là người ở tỉnh khác chuyển đến mua quyền sử dụng đất, khai hoang thành lập trang trại nhưng hộ khẩu thường trú không có, đây cũng là vấn đề cần được chính quyền quan tâm tháo gỡ. Rồi thủ tục cho vay phải qua nhiều cơ quan trung gian, nhiều giấy tờ con dấu. Vì vậy các tổ chức tín dụng cần linh hoạt hơn, thủ tục cho vay cần được cải tiến theo hướng đơn giản hơn.
Giải pháp về khoa học công nghệ.
Đây là giải pháp vừa có tính chất trước mắt, vừa có ý nghĩa lâu dài để đảm bảo cho trang trại sử dụng hiệu quả nguồn lực, phát triển ổn định, đạt hiệu quả cao. Trong thời gian tới chúng ta cần giải quyết các vấn đề sau:
-Định hướng công tác khuyến nông: cần sớm quy hoạch hệ thống khuyến nông và xác định những nội dụng cụ thể của từng tổ chức khuyến nông. Coi trọng việc nâng cao trình độ và đẩy đẩy nhanh việc áp dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho các trang trại thông qua việc tổ chức tốt công tác khuyến nông, khuyến lâm để hướng dẫn chủ trang trại áp dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất. Đồng thời, thông qua các chủ trang trại chuyển giao những tiến bộ kỹ thuật tới các hộ nông dân trên địa bàn.
-Đầu tư ngân sách xây dựng và phát triển các viện, trung tâm khoa học kỹ thuật nông nghiệp theo các vùng lớn và kích thích các nhà khoa học, kỹ thuật nông học nghiên cứu chọn lọc, lai tạo các cây giống, con có giá trị, thích nghi với từng vùng cùng với quy trình canh tác, chăm sóc, thu hoạch, chế biến, bảo quản, cung cấp và hướng dẫn cho nông dân thực hiện thông qua hợp đồng nghiên cứu và chuyển giao công nghệ.
-Đầu tư xây dựng các vườn ươm gắn với các tiểu vùng sinh thái để nhân giống các loại cây ăn quả, các loại cây rừng, đầu tư xây dựng các xí nghiệp sản xuất giống tôm, cá và các loại đặc sản khác nhằm cung cấp đủ giống cho các hộ nông dân.
3.2.5. Giải pháp về thị trường.
Làm tốt vấn đề thị trường là vấn đề rất cần thiết để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực trang trại. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng hiện nay thị trường đã và đang là vấn đề gây rất nhiều khó khăn cho các trang trại.
Để giải quyết triệt để tình trạng này, trong thời gian tới chúng ta cần làm tốt các công việc sau:
3.2.5.1) Đối với thị trường các yếu tố đầu vào.
Để khuyến khích kinh tế trang trại phát triển, trong lĩnh vực thị trường các yếu tố vật tư đầu vào cho các trang trại, cần củng cố vị thế của Nhà nước thông qua việc củng cố hệ thống tín dụng, ngân hàng, hệ thống các doanh nghiệp xuất khẩu vật tư nông nghiệp, hệ thống các doanh nghiệp bán buôn vật tư của Nhà nước. Đặc biệt lưu ý ở các vùng mà kinh tế trang trại đã, đang và sẽ phát triển nhiều. Mục đích chủ yếu của việc củng cố hệ thống này là để chống lũng đoạn thị trường vật tư đầu vào của sản xuất nông nghiệp, làm thiệt hại tới lợi ích của các trang trại nói riêng và nông dân nói chung.
3.2.5.2) Đối với thị trường các yếu tố đầu ra.
Nhà nước có thể tạo điều kiện theo hai hướng sau:
Thứ nhất, Nhà nước cần tập trung xây dựng mới, mở rộng và nâng cấp các doanh nghiệp chế biến ở những vùng chuyên canh lớn. Đây là cách giải quyết vấn đề thị trường đầu ra một cách thiết thực và căn bản cho các trang trại trồng cây công nghiệp và cây ăn quả.
Để tạo thị trường ổn định và vững chắc cho các sản phẩm đầu ra của các trang trại, Nhà nước cần đầu tư hơn nữa cho việc xây dựng hệ thống các xí nghiệp chế biến nông sản. Đồng thời qua đó nhà nước có thể thực hiện hỗ trợ kinh tế cho các trang trại bằng phương thức đầu tư ứng trước vật tư cho các trang trại , hỗ trợ các dịch vụ sản xuất.
Thứ hai, tổ chức hệ thống các kênh lưu thông nông sản, trong đó Nhà nước cần củng cố hệ thống các doanh nghiệp thương mại làm nhiệm vụ xuất khẩu cho các trang trại. Qua hệ thống này để Nhà nước có thể vừa không ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ phẩm cho các trang trại, vừa có thể kiểm soát các quan hệ kinh tế theo hướng đảm bảo lợi ích hợp lý cho cả phía trang trại lẩn các doanh nghiệp thương mại, chống sự lũng đoạn thị trường của các doanh nghiệp thương mại phi Nhà nước.
-Đối với một số cây công nghiệp mà thị trường tiêu thụ chủ yếu ở nước ngoài, thì vai trò của hệ thống thương mại Nhà nước không chỉ là khâu trung gian tiêu thụ sản phẩm cho các trang trại mà cón là người đại diện cho nước ta trong việc tìm kiến và mở rộng thị trường tiêu thụ nôgn sản nước ngoài.
-Đối với trang trại trồng rừng cần làm rõ hơn một số vướng mắc trong thị trường tiêu thụ sản phẩm của rừng trồng. Trên thực tế, dù kinh doanh trong cơ chế thị trường nhưng các trang trại phải xin phép qua nhiều thủ tục mới đuực khai thác gỗ trồng và các sản phẩm đầu ra của rừng trồng. Những vướng mắc này cần làm rõ để các chủ trang trại yên tâm trong kinh doanh nghề rừng.
-Đối với trang trại trồng cây ăn quả. Khó khăn trong thị trường tiêu thụ hoa quả không phải ở chỗ có thị trường hay không, mà là ở chỗ sản phẩm của các trang trại có phù hợp với yêu cầu của thị trường hay không. do vậy, giải pháp về thị trường cho các trang trại loại này nên tập trung vào một số việc sau:
+Bố trí sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường
+Tiếp tục cải tiến công tác giống để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao.
+Đầu tư nghiên cứu để dãn vụ thu hoạch, kéo dài thời kỳ cung ứng sản
phẩm tươi ngon cho thị trường.
+Đa dạng hoá cơ cấu cây hao quả, để đáp ứng nhu cầu quả tươi thường
xuyên cho người tiêu dùng.
3.2.5.3) Nghiên cứu thị trường, dự báo và cung cấp thông tin thị trường.
Đây là công việc rất quan trọng của các chủ trang. Nếu thiếu thông tin, chủ trang trại quyết định lựa chọn phương hướng sản xuất thiếu cơ sở, dẫn đến sản phẩm sản xuất ra khó tiêu thụ. Xin kiến nghị một số giải pháp sau:
-Nhà nước cần tổ chức lại hệ thống thông tin thị trường trên cơ sở giao nhiệm vụ chính thức nghiên cứu và cung cấp một cách thướng xuyên những thông tin về thị trường tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài nước cho cơ quan nghiên cứu thị trường và giá cả.
-Phát hành riêng bản tin thị trường nông sản phẩm định kỳ để cung cấp thường xuyên và kịp thời cho các chủ trang trại.
3.2.5.4) Tổ chức mạng lưới tiêu thụ sản phẩm.
-Quy hoạch và xây dựng chợ nông thôn, các trung tâm giao dịch mua bán nôn lâm sản ở các địa bàn tập trung có trang trại phát triển
-Khuyến khích, tạo điều kiện và hướng dẫn chủ trang xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình, sản phẩm thu mua của trang trại khác, sản phẩm của các hộ nông dân trong vùng.
Giải pháp về chế biến.
Thực tiễn cạnh tranh gay gắt ở thị trường cả trong và ngoài nước chứng tỏ yêu cầu cấp bách của việc chế biến nông sản. Để chế biến nông sản của các trang trại, cần giải quyết hàng loạt các công việc sau:
-Trước hết, các chủ trang trại phải tự cải tiến cơ cấu kinh doanh, nâng cao kỹ thuật, công nghệ của khâu sản xuất nông nghiệp nguyên liệu. Hiện nay hàng loạt cơ sở chế biến phải đi nhiều nơi để thu gom nguyên liệu. Chi phí thu gom, vận chuyển nguyên liệu lớn, đầu vào tăng sẽ làm cho khả năng cạnh tranh giảm. Nên:
+ Nhanh chóng hình thành các vùng chuyên canh nguyên liệu trong các trang trại.
+ Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vừa chuyên canh vừa hình thành cơ cấu kinh doanh tổng hợp trong từng trang trại.
+ Hạ thấp chi phí, nâng cao năng suất và chất lượng nguyên liệu nông nghiệp.
-Phát triển công nghiệp chế tạo trong nước nhằm tạo ra những máy móc, thiết bị chế biến để cung cấp cho các chủ trang trại.
-Sau cùng, điều khó khăn nhất nhưng cũng rất quan trọng là mở rộng tiêu thụ nông sản chế biến để tạo điều kiện, động lực cho các chủ trang trại mở rộng chế biến nông sản.
Giải pháp về cơ sở hạ tầng nông thôn.
Hiện nay một mâu thuẫn lớn cần phải tập trung giải quyết là cơ sở hạ tầng nông thôn thấp kém, không đáp ứng được yêu cầu sản xuất hàng hoá. Để tạo điều kiện cho trang trại sản xuất hàng hoá, từ đó sẽ thúc đẩy sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn, cần thực hiện các biện pháp xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn như sau:
-Nhà nước hỗ trợ một phần, chủ yếu là kỹ thuật, huy động nguồn lực của các trang trại, thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” để xây dựng các cơ sở hạ tầng nông thôn như: điện, nước, giao thông,...
-Trong cơ cấu đầu tư những năm tới đối với nông nghiệp, nông thôn, thuỷ lợi phải được ưu tiên đầu tư hàng đầu nhằm nâng cao trình độ và hiệu quả thâm canh, mở rộng diện tích đất canh tác, phát triển nông nghiệp toàn diện. Hướng đầu tư vào thuỷ lợi là khôi phục, nâng cấp các công trình đã xây dựng lâu năm bị xuống cấp, xây dựng các công trình mới cần thiết, hoàn thành các công trình dở dang,...Nhà nước đầu tư các công trình đầu mối, còn hệ thống kênh dẫn thì Nhà nước hỗ trợ một phần, chủ yếu là kỹ thuật, còn nói chung là vốn đầu tư của các trang trại.
3.2.8. Giải pháp liên doanh liên kết các trang trại.
Một trong những vấn đề khá quan trọng là khuyến khích các trang trại liên kết với nhau, các trang trại liên kết với các thành phần kinh tế khác để hình thành các hình thức kinh tế hợp tác, để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Do đó:
-Sớm phát hiện, hướng dẫn và phổ biến các hình thức liên kết, hợp tác trong từng trang trại.
-Cần hỗ trợ, tạo điều kiện để trang trại liên doanh liên kết với nhau nhất là trong tiêu thụ nông sản.
-Tạo điều kiện thuận lợi để các trang trại liên doanh liên kết với các thành phần kinh tế khác, nhất là kinh tế Nhà nước.
3.2.9. Về các chính sách liên quan khác.
3.2.9.1) Chính sách thuế.
+ Cần có chính sách ưu đãi về thuế để nhập khẩu những sản phẩm cơ khí cho nông nghiệp mà trong nước chưa sản xuất hoặc sản xuất chưa đủ nhu cầu.
+ Có thể miễn toàn bộ tiền thuê đất đối với các trang trại thực hiện các dự án trồng rừngở những vùng khó khăn.
+ Đối với một số chủ trang trại trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản có giá trị hàng hoá trên 90 triệu đồng/năm và có thu nhập trên 36 triệu đồng/năm, phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho phần thu nhập trên 36 triệu đồng/ năm.ss
3.2.9.2) Các chính sách khác như chính sách lao động, chính sách đầu tư,...
Đối với những chính sách này cần phải hoàn thiện hơn để tạo điều kiện cho chủ trang trại yên tâm sản xuất kinh doanh.
Tóm lại, kinh tế trang trại là một mô hình kinh tế hộ sản xuất hàng hoá cần được khuyến khích phát triển. Một trong những vấn đề đang rất bức xúc hiện nay là sử dụng nguồn lực trang trại như thế nào cho hiệu quả. Xin đóng góp một số ý kiến xung quanh vấn đề sử dụng hiệu quả các nguồn lực trang trại hiện nay, nhằm góp phần tháo gỡ khó khăn để thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển.
Kết luận
Sự hình thành và phát triển của kinh tế trang trại đã và đang được khẳng định phù hợp với tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Kinh tế trang trại phát triển khai thác hiệu quả các nguồn lực đất đai, vốn, lao động, tạo ra khối lượng nông sản hàng hoá lớn, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước. Kinh tế trang trại phát triển tạo công ăn, việc làm cho người lao động nông thôn, thu hút được nhiều người ở thành thị về nông thôn sản xuất kinh doanh theo mô hình trang trại. Kinh tế trang trại đã tăng thêm thu nhập cho Ngân sách Nhà nước nói chung và làm tăng thêm thu nhập cho người nông dân nói riêng, cuộc ssống của người lao động nông dân được nâng cao và cải thiện từng bước. Để trang trại phát triển tốt hơn nữa, chúng ta cần phải tiếp tục nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các giải pháp, chính sách cụ thể có liên quan đến sự phát triển của kinh tế trang trại, trong đó giữ vị trí quan trọng là giải pháp về nâng cao sử dụng hiệu quả nguồn lực. Luận văn này, trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu đã giải quyết những nội dung cơ bản sau:
-Khẳng định sự phát triển của kinh tế trang trại, vai trò của nguồn lực trang trại.
-Phân tích thực trạng việc sử dụng các nguồn lưc trang trại ở nước ta hiện nay.
-Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực trang trại ở nước ta hiện nay như các giải pháp về đất đai, lao động, vốn, khoa học công nghệ, thị trường, chế biến, cơ sở hạ tầng nông thôn, liên doanh liên kết,...
Các giải pháp trên đây nằm trong tổng thể của hệ thống giải pháp có mối quan hệ tương tác lẫn nhau, khai thác có hiệu quả hơn nữa các nguồn lực trang trại. Tuy nhiên để phát huy hiệu quả của các giải pháp nói trên thì cần thực hiện một số kiến nghị sau:
-Đối với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nâng cao việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế trang trại, tích cực hơn nữa trong công tác chỉ đạo xây dựng quy hoạch, kế hoạch và phối hợp các biện pháp hỗ trợ phát triển kinh tế trang trại.
-Đối với các Bộ, ngành co liên quan theo chức năng, nhiệm vụ được giao tiếp tục nghiên cứu và ban hành các văn bản hướng dẫn, thực hiện các chính sách đối với kinh tế trang trại nhằm tạo điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển.
-Đối với các sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần tăng cường trách nhiệm trong việc hướng dẫn các địa phương xây dựng quy hoạch phát triển trang trại, quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn, quy hoạch thuỷ lợi, tổ chức khuyến nông, khuyến lâm, thông tin thị trường, tổ chức tập huấn, ký thuật, quản lý cho trang trại.
-Các đơn vị thuộc UBND các địa phương cần tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo, kiểm tra đối với kinh tế trang trại, đảm bảo các chủ trang trại thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước, đảm bảo cho các trang trại được hưởng các chính sách của Nhà nước, đồng thời bảo vệ quyền lợi chính đáng của chủ trang trại về tài sản và lợi ích khác; phối hợp với Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tổ chức tổng kết đúc rút các mô hình trang trại tiến tiến để tuyên truyền phổ biến nhân rộng; tạo điều kiện để các chủ trang trại tham quan học tập lẫn nhau. Biểu dương, khen thưởng kịp thời những trang trại sản xuất kinh doanh giỏi, tạo thêm việc làm, hỗ trợ hộ nghèo đói, góp phần xây dựng nông thôn mới.
Một lần nữa em xin cảm ơn các thầy, cô trong khoa Kinh tế nông nghiệp và Phát triển nông thôn trường ĐH Kinh tế quốc dân, đặc biệt là cảm ơn thầy giáo PGS.TS Phạm Văn Khôi đã giúp em hoàn thành luận văn này.
Phụ lục I: Hiệu quả sử dụng vốn ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu năm 2002.
Đơn vị tính: triệu đồng
STT
Mô hình trang trại
Tổng vốn
Vốn lưu động
Vốn cố định
Giá trị sản lượng hàng hoá
Thu nhập
Thu nhập/vốn (lần)
Dung lượng vốn ổn định (lần)
Hệ số luân chuyển vốn lưu động (lần)
Tổng số
106431
29067.9
77363.1
38247.2
12771.7
0.12
2.01
0.76
1
Trồng trọt
72318.8
12848.8
59470
17131.7
8678.3
0.12
3.48
0.75
2
Trồng trọt kết hợp với chăn nuôi
13368.9
5339.7
8029.2
8612.4
2941.2
0.22
0.93
0.62
3
Nông-lâm kết hợp
4127
277.7
3849.3
1322.4
536.5
0.13
3.29
0.21
4
Nông-lâm kết hợp với nuôi trồng thuỷ sản
1270
917.1
352.9
623.9
25.4
0.02
0.56
1.47
5
Chăn nuôi
9517.3
7020.6
2496.7
7714.9
2189
0.23
0.32
0.91
6
Lâm nghiệp
1274
240
1034
240.0
89.2
0.07
4.32
1
7
Nuôi trồng thuỷ sản
2425
2027
398
1266.9
218.2
0.09
0.31
1.6
8
Làm muối
2020
380
1640
1727.3
303
0.15
0.98
0.22
9
Nông-lâm kết hợp với tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ
110
14
96
35.0
19.8
0.18
1.6
0.4
Nguồn : Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
Tài liệu tham khảo
(1): Báo cáo đánh giá tình hình phát triển kinh tế trang trại sau 3 năm thực hiện Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại năm 2002.
(2): Theo số liệu thống kê nhanh về nông nghiệp, nông thôn năm 2001của Tổng cục thống kê.
(3): Số liệu điều tra, khảo sát 3044 trang trại ở 15 tỉnh, thành phố trọng điểm do trường đại học Kinh tế quốc dân thực hiện năm 1999.
Sách: Tư liệu về kinh tế trang trại –Uỷ ban vật giá Chính phủ;Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh-2000.
Sách: Phát triển và quản lý trang trại trong kinh tế thị trường –PGS.TS Lê Trọng.
Sách: Giải pháp tài chính cho phát triển kinh tế trang trại –Bộ Tài chính, Hà Nội 1999.
Sách: Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam –Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-2000, GS.TS Nguyễn Đình Hương (chủ biên).
Sách: Quản lý sản xuất kinh doanh trong trang trại –Nhà xuất bản nông nghiệp-2000, PGS.TS Hoàng Việt (chủ biên).
Kỷ yếu hội thảo khoa học lần thứ nhất: Nguồn lực và các động lực phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa –Hà Nội, 2002.
Sách: Các chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn (2001-2010)-Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hà Nội-2001.
Sách: Trang trại gia đình –bước phát triển mới của kinh tế hộ nông dân-Nguyễn Đình Điền, Nông nghiệp 2000.
Sách: Giáo trình kinh tế nông nghiệp –Trường đại học kinh tế quốc dân.
Sách: Giáo trình quản trị doanh nghiệp nông nghiệp –Trường đại học kinh tế quốc dân.
Sách: Thống kê nông nghiệp –Trường đại học kinh tế quốc dân.
Tạp chí: Một số bài trong các tạp chí sau:
- Kinh tế phát triển.
- Kinh tế trang trại.
- Thị trường tài chính tiền tệ.
- Ngân hàng.
- Kinh tế và dự báo.
- Nông nghiệp và nông thôn.
15. Một số luận văn của các anh chị khoá trên.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37093.doc