Luận văn Những giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

Lời nói đầu Chương I: Hoạt động của ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng thương mại I. Vài nét về NHTM 1. Sự ra đời và phát triển của NHTM 2. Khái niệm về ngân hàng thương mại 3. Các hoạt động cơ bản của NHTM 3.1. Hoạt động tạo lập vốn 3.2. Hoạt động sử dụng và khai thác vốn 3.3. Hoạt động dịch vụ trung gian 4. Vai trò của NHTM 5. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM 5.1. Khái niệm về rủi ro 5.2. Các loại rủi ro thường gặp trong hoạt động kinh doanh ngân hàng 5.2.1. Rủi ro tín dụng 5.2.2. Rủi ro lãi suất 5.2.3. Rủi ro hối đoái 5.2.4. Rủi ro mất khả năng thanh toán 5.2.5. Rủi ro về nguồn vốn 5.2.6. Các rủi ro khác trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng II. Rủi ro tín dụng và sự cần thiết phải phòng ngừa rủi ro tín dụng 1. Rủi ro tín dụng và dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM) 1.1. Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 1.2. Phân loại rủi ro tín dụng 2. Sự cần thiết phải phòng ngừa rủi ro tín dụng III. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng và một số chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng 1. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng 1.1. Nguyên nhân từ phía ngân hàng 1.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng 1.3. Các nguyên nhân khác 2. Một số chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam I. Vài nét về Sở Giao Dịch – NH NN & PTNT Việt Nam 1. Quá trình hình thành và phát triển của Sở Giao Dịch NH NN & PTNT Việt Nam 1.1. Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch 1.2. Một số kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Sở giao dịch trong thời gian vừa qua II. Thực trạng rủi ro tín dụng trong thời gian vừa qua tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn 1. Thực trạng rủi ro tín dụng trong thời gian vừa qua 1.1.Tình hình hoạt động tín dụng tại Sở giao dịch 1.2.Thực trạng rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch 2. Đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch 2.1. Một số kết quả đạt được trong công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng 2.2. Những tồn tại trong hoạt động cho vay vốn dẫn tới rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch 2.3. Nguyên nhân của những tồn tại trên 2.3.1. Nguyên nhân chủ quan 2.3.2. Nguyên nhân khách quan 2.3.3. Các nguyên nhân khác Chương III: Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn I. Định hướng hoạt động của Sở giao dịch NHNN&PTNT VN trong thời gian tới II. Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch NHNN&PTNTVN 1. Nghiên cứu khách hàng để sớm nhận ra các dấu hiệu rủi ro 2. Xây dựng và thực hiện tốt chiến lược khách hàng 3. Các giải pháp phòng ngừa, phân tán và bù đắp rủi ro 3.1. Cho vay đồng tài trợ 3.2. Tránh dồn vốn 3.3. Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ 3.4. Lập quỹ dự phòng rủi ro 3.5. Bảo hiểm tiền gửi 3.6. Thực hiện quy chế bảo đảm tiền vay 4. Đào tạo và bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ, nâng cao phẩm chất của cán bộ tín dụng. 5. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ III. Kiến nghị một số biện pháp hỗ trợ để phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch NHNN&PTNTVN 1. Về phía Nhà Nước 2. Về phía Ngân hàng nhà nước KẾT LUẬN

doc70 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1452 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i ro tín dụng đã đạt được những kết quả khả quan trong thời gian gần đây. 2.2 Những tồn tại trong hoạt động cho vay dẫn tới rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Mặc dù Sở giao dịch đã tiến hành nhiều biện pháp để phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng nhưng nó vẫn xảy ra trong hoạt động cho vay của Sở. Có thể xem xét tới những tồn tại như sau : Trước hết phải nói tới những khó khăn phát sinh từ chính nhiệm vụ của sở giao dịch. Do sở vừa thực hiện chức năng kinh doanh như một ngân hàng thương mại đồng thời lại phải thực hiện nhiệm vụ của một sở giao dịch đầu mối cho toàn hệ thống trong khi số cán bộ không đủ đáp ứng, mỗi cán bộ phải quản lý nhiều việc nên ảnh hưởng tới chất lượng công việc. Khối lượng công việc của Sở giao dịch tăng lên nhiều nhưng biên chế lao động được bổ sung chưa tương xứng, nhiều phòng chuyên môn hiện nay thiếu cán bộ làm việc, mặt bằng chật hẹp, đã hạn chế chất lượng giao dịch phục vụ khách hàng. Thứ hai là trình độ cán bộ còn chưa được đào tạo bồi dưỡng kịp thời dẫn tới những bất cập, không theo diến biến kinh tế nên mắc một số sai lầm trong công tác xử lý tài sản thế chấp và tài sản đảm bảo hoặc coi nhẹ việc thẩm định tình hình tài chính cũng như phương án kinh doanh trước khi cho khách hàng vay. Thứ ba, do công tác kiểm tra, kiểm soát của ngân hàng còn chưa kịp thời, nhiều khi lơ là chỉ quan tâm tới khâu thẩm định trước khi cho vay dẫn tới không phát hiện để ngăn chặn các hành vi kinh doanh sai pháp luật hoặc sai mục đích. Một số cán bộ tín dụng tránh né, sợ chịu trách nhiệm đối với những món vay mà nếu xử lý tài sản thế chấp khi thu hồi không đủ nợ gốc tiền vay. Hệ thống luật và các cơ chế chính sách chưa đáp ứng được nhứng yêu cầu thực tế của đời sống. Biểu hiện còn chưa đồng bộ, có điểm thừa có điểm thiếu hoặc chồng chéo nhau ,nhất là trong công tác xử lý tài sản thế chấp hoặc đảm bảo. Năm 2001, Sở giao dịch đã tập trung nhiều công sức để giải quyết nợ quá hạn, nợ tồn đọng tuy nhiên kết quả thu nợ quá hạn còn thấp, tình hình tài chính những đơn vị có nợ quá hạn rất khó khăn, không có nguồn trả nợ, tài sản đảm bảo tiền vay có nhiều tranh chấp, không đầy đủ yếu tố pháp lý nên rất khó khăn trong việc xử lý tài sản để thu nợ. Tiềm ẩn nợ quá hạn của một bộ phận dư nợ đang trong hạn rất lớn như khoản nợ trung và dài hạn của Xí nghiệp xây lắp đường dây và trạm điện : 3,5 tỷ và 146 ngàn USD, dư nợ vay vốn chỉ định của công ty LICOLA là 7,9 tỷ, dư nợ vay dài hạn của Tổng công ty mía đường I là 4620 ngàn USD... Tỷ giá ngoại tệ trong năm liên tục biến động tăng cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động tín dụng của Sở, nhất là những khoản tín dụng xuất nhập khẩu và gián tiếp ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của Sở giao dịch. 2.3 Nguyên nhân của những tồn tại trên. 2.3.1 Nguyên nhân chủ quan Hàng năm, Sở giao dịch có phân loại rủi ro tín dụng theo các nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng hầu hết rủi ro tín dụng gây ra bởi các nguyên nhân khách quan. Tuy nhiên, không phải vì thế mà không thừa nhận rằng chính bản thân Sở giao dịch cũng gây nên rủi ro, mà có thể tổng kết lại do các nguyên nhân sau đây: Nguyên nhân từ các cán bộ tín dụng Các cán bộ tín dụng phải là người có kiến thức, phân tích tốt thị trường, xác định tốt giá trị, cung cầu, hiểu biết và có thể tư vấn cho khách hàng, tính được thiệt hại trong kinh doanh, tiền vay của Ngân hàng mới tránh được rủi ro. Vấn đề đạo đức và tinh thần trách nhiệm của cán bộ tín dụng cũng ảnh hưởng tới việc quản lý rủi ro. Nếu cán bộ tín dụng có trình độ mà tư cách đạo đức kém sẽ dẫn đến khả năng thông đồng với kẻ gian lừa đảo Ngân hàng. Thông thường, rủi ro tín dụng thuộc về trách nhiệm của cán bộ tín dụng có thể xuất phát từ các nguyên nhân sau đây: Thứ nhất, do số lượng cán bộ tín dụng trong Sở giao dịch còn thiếu Hiện tại Sở giao dịch có quan hệ tín dụng với khoảng 40 TCKT, trong đó chủ yếu là DNNN và một số doanh nghiệp cổ phần như công ty Phương Đông, một số công ty TNHH như công ty TNHH Hồng Hải Bình, công ty trách nhiệm hữu hạn Minh Phượng...trong khi đó số cán bộ của Sở Giao Dịch còn thiếu, lại chuyên trách nhiều công việc nên cường độ làm việc căng thẳng đôi khi làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Thứ hai, đó là do cho vay không đúng nguyên tắc. Do cán bộ tín dụng không thực hiện đúng quy trình tín dụng, mặc dù việc cho vay phải được thực hiện theo đúng nguyên tắc, quy định của NHNN nhưng thực ra những quy tắc này đôi khi còn mơ hồ. Chẳng hạn, để được cấp tín dụng thì người vay phải có phương án kinh doanh khả thi, nhưng thế nào là khả thi thì lại tuỳ thuộc vào việc thẩm định và đánh giá của cán bộ tín dụng, người này cho rằng khả thi nhưng người khác lại thấy là không. Cũng chính bởi vậy mà có khi do cán bộ tín dụng vô tình hoặc do thiếu khả năng mà cấp tín dụng cho các khách hàng có phương án kinh doanh viển vông không hiệu quả, dẫn tới không trả nợ được cho Sở. Do tư tưởng chủ quan dẫn tới việc kiểm tra, kiểm soát không tốt: Hoạt động tín dụng là hoạt động rất nhạy cảm và phức tạp, không phải cứ thực hiện tốt các nguyên tắc trước khi cho vay là xong mà còn phải theo dõi quá trình sử dụng vốn có đúng mục đích hay không, doanh nghiệp gặp phải những khó khăn gì trong sản xuất kinh doanh để tìm cách tháo gỡ. Do vậy cán bộ tín dụng vừa phải kiểm tra xem xét quá trình hoạt động, đôi lúc phải góp ý và tư vấn cho khách hàng. Nhưng do thiếu cán bộ, lại có tư tưởng chủ quan khi cho rằng các khách hàng quen không cần giám sát chặt chẽ, nhiều khi cho vay chỉ dựa vào thông tin khách hàng cung cấp, nên dẫn tới việc khi rủi ro xảy ra thì đã quá muộn. Do trình độ tín dụng còn hạn chế, phân tích thẩm định dự án chưa chính xác nên nhiều khi cho vay mà không đánh giá được tính khả thi của dự án hoặc do không biết năng lực thực sự của khách hàng. Hoặc do kiến thức xã hội, thị trường còn hạn chế cũng gây nên những món cho vay rủi ro. Do tư tưởng tránh né, sợ chịu trách nhiệm của cán bộ tín dụng. Đôi khi việc kỷ luật những cán bộ tín dụng sai phạm làm ảnh hưởng tới tâm lý chung của của các cán bộ tín dụng khác. Hoặc do sự thiếu tinh thần trách nhiệm của cán bộ tín dụng cũng gây hậu quả nghiêm trọng. Do thiếu thông tin về khách hàng, hoặc thông tin sai lầm. Thông tin về khách hàng là một nguồn thông tin rất quan trọng đối với công tác tín dụng, nguồn thông tin này bao gồm thông tin về tình hình tài chính, các báo cáo thể hiện kết quả kinh doanh, tình hình công nợ, quy mô vốn và tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp do thông tin sai lệch dẫn tới nhận định sai về khách hàng và dẫn tới rủi ro đã xảy ra. NHNN&PTNTVN rất chú trọng tới công tác thông tin và đã thành lập phòng quản lý rủi ro. Nhiệm vụ của phòng là thu thập thông tin của các đối tượng khách hàng để cung cấp cho toàn hệ thống. Tuy nhiên ở Việt Nam, tính chính xác của thông tin do các doanh nghiệp cung cấp ra không được đảm bảo vì những lý do khác nhau, trong khi đó công tác kiểm tra, kiểm toán doanh nghiệp chưa được chú trọng đúng mức. Thêm vào đó, để có thể vay được từ Sở giao dịch nhiều khách hàng cố tình cung cấp thông tin sai sự thật, hoặc tìm cách che giấu thông tin khi doanh nghiệp gặp khó khăn. Do sự cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực ngân hàng Hiện nay trên địa bàn Hà Nội có rất nhiều Ngân hàng đang hoạt động với mức độ cạnh tranh khá gay gắt, địa bàn không lớn trong khi đó sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng phụ thuộc vào việc mở rộng quy mô và chất lượng tín dụng. Bởi vậy các ngân hàng sử dụng các biện pháp khác nhau để thu hút khách hàng, nhất là những khách hàng lớn có tình hình tài chính tốt, trong đó có nhiều biện pháp không lành mạnh. Một số ngân hàng vì muốn lôi kéo khách hàng đã nới lỏng điều kiện tín dụng, chính điều này sẽ mang đến rủi ro hơn cho bản thân ngân hàng đó. Do ngân hàng quá tin tưởng vào tài sản thế chấp Sở giao dịch cần phải lựa chọn kỹ lưỡng khách hàng vì có nhiều khách hàng cố tình lừa đảo TCTD bằng cách dùng một tài sản thế chấp đi vay vốn nhiều ngân hàng khác nhau, hoặc thông đồng để khai man giá trị tài sản thế chấp. Tuy nhiên vì yếu tố cạnh tranh nên nhiều thông tin quan trọng về khách hàng được các ngân hàng giữ bí mật riêng cho mình để có thể cạnh tranh trong việc cung cấp tín dụng. Và việc giải quyết tài sản thế chấp khi khách hàng không trả được nợ cũng rất khó khăn, khi đem phân chia tài sản gặp rất nhiều rắc rối cho ngân hàng. 2.3.2 Nguyên nhân khách quan Nguyên nhân khách quan phải kể đến đầu tiên là các nguyên nhân từ phía doanh nghiệp – khách hàng của Sở giao dịch. Hầu hết các rủi ro tín dụng phát sinh chủ yếu là từ phía người đi vay gây nên cho Sở. Để phân tích kỹ hơn phải xem xét các nguyên nhân nhỏ sau: Do năng lực người đi vay yếu kém Các khách hàng của Sở giao dịch hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước. Trong tình hình hiện nay, chỉ có khoảng 300 công ty lớn thuộc về tổng công ty 90, 91 và một số công ty thuộc các Tổng công ty khác có nguồn vốn trên 1 tỷ đồng, số lượng công ty có nguồn vốn trên 10 tỷ không phải là nhiều. Lý do là nền kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn đang trong thời kỳ tích luỹ, vốn của các doanh nghiệp quốc doanh chủ yếu do Nhà Nước cấp từ trước rất nhỏ và nghèo nàn. Với số lượng vốn ít ỏi cộng thêm với tư tưởng ỷ lại không xoá hết từ thời còn bao cấp nên nhiều doanh nghiệp thường thiếu khả năng chủ động trong sản xuất kinh doanh, thiếu vốn đổi mới công nghệ. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam hiện nay cũng trong tình trạng tương tự, hầu hết các doanh nghiệp đều có quy mô nhỏ, vốn ít, làm ăn theo thời vụ lúc được lúc mất. Thêm vào đó là công nghệ sản xuất hiện nay của các doanh nghiệp đã quá cũ và lạc hậu làm cho năng suất lao động thấp và chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao, trong khi đó nhu cầu của người tiêu dùng lại ngày càng được tăng thêm, do vậy các doanh nghiệp khó có thể cạnh tranh được với các mặt hàng nước ngoài để tìm chỗ đứng trên thị trường. Những khoản tín dụng được cấp không phải là liều thuốc hữu hiệu cho mọi doanh nghiệp, tác dụng của nó đến đâu lại phụ thuộc vào bản thân người vay sử dụng nó như thế nào. Vì phát triển muộn hơn, lại trải qua nhiều năm chiến tranh nên trình độ công nghệ và khả năng kinh doanh của các doanh nghiệp Việt nam kém hơn nước bạn, các doanh nghiệp thường bế tắc không tìm ra hướng đi cho mình, bởi vậy không thể sử dụng đồng vốn vay có hiệu quả nhất. Do tư cách người vay kém Đôi khi rủi ro mà khách hàng gây ra cho Sở giao dịch không phải bởi trình độ của người đi vay yếu kém mà do yếu kém về tư cách đạo đức. Mặc dù người vay thường có cam kết là sẽ trả nợ đúng hạn và thực hiện theo cam kết. Song cũng có những khách hàng có ý định lừa đảo ngay khi lập hồ sơ vay vốn, mặc dù cam kết sẽ thực hiện đúng mục đích vay nhưng khi được cấp vốn thì số vốn này lại ” rơi ” vào túi của một số cá nhân, hoặc thực hiện sai mục đích khoản vay như buôn lậu, chơi hụi... Trong thời gian gần đây, khách hàng có nhiều thủ đoạn lừa đảo tinh vi hơn như: Lập cân đối kế toán sai, phương án kinh doanh và hợp đồng kinh tế giả. Giả mạo giấy tờ, chữ ký giả, con dấu giả để lừa ngân hàng. Kết hợp với cán bộ có thẩm quyền để lừa đảo bằng cách làm nhiều chứng từ sở hữu nhà đất hợp pháp của một ngôi nhà để đi thế chấp nhiều Ngân hàng khác nhau. Do công nợ còn chưa thu hồi được Đây là một hiện tượng khá phổ biến trong nền kinh tế thị trường do hiện tượng mua bán chịu, trao hàng trước trả tiền sau của các doanh nghiệp làm ăn với nhau. Một số công ty khi đã trao hàng nhưng bị đối tác dây dưa hoặc tình hình tài chính khó khăn đột ngột dẫn tới việc không trả được tiền hàng. Và do vật người vay cũng không thu hồi kịp số vốn vay để trả nợ ngân hàng. Do doanh nghiệp thiếu thông tin trong kinh doanh Trong nền kinh tế thị trường, việc quản lý kinh doanh không thể thiếu thông tin, thậm chí thông tin được coi là đối tượng lao động của người điều hành quản lý doanh nghiệp. Trên thực tế các doanh nghiệp nước ta lại đang hoạt động trong trạng thái thiếu thông tin hoặc thông tin họ có được lại không chính xác, lạc hậu. Chính vì vậy doanh nghiệp đã không nắm bắt được tình hình diễn biến nền kinh tế, nhu cầu của dân cư... làm cho sản phẩm sản xuất ra không phù hợp thị hiếu dẫn tới không tiêu thụ được. Trên phạm vi quốc tế, thông tin của doanh nghiệp lại càng thiếu do đó việc mở rộng thị trường tiêu thụ ra nước ngoài gặp khó khăn. Trong một số trường hợp doanh nghiệp vay vốn ngân hàng nhập máy móc từ nước ngoài do thiếu thông tin dẫn tới giá thì cao nhưng máy móc lại lạc hậu, năng suất lao động thấp nên khó thu hồi vốn đầu tư để trả nợ cho Sở giao dịch. Do sự ưu tiên, ưu đãi đối với DNNN Thông thường các doanh nghiệp Nhà Nước được Sở ưu ái trong vấn đề cấp vốn tín dụng hơn là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, một số doanh nghiệp được vay theo vốn chỉ định của Nhà Nước như trường hợp công ty LICOLA nhưng năm nào cũng phát sinh nợ quá hạn. Các doanh nghiệp Nhà Nước đôi khi không cần tài sản thế chấp mà chỉ dựa vào uy tín để vay, khi gặp khó khăn tạm thời thậm chí được tiếp tục cấp thêm vốn để khôi phục sản xuất. Bởi vậy khi các doanh nghiệp này làm ăn thua lỗ thì thiệt hại là điều không tránh khỏi. Một số doanh nghiệp được Nhà Nước đặc biệt quan tâm , đây là những đơn vị phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế xã hội nên hiệu quả kinh tế không cao, ít khả năng hoàn vốn. 2.3.3 Các nguyên nhân khác Do môi trường pháp lý Việt Nam chưa thuận lợi Hệ thống pháp lý ban hành chưa đáp ứng được yêu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường dẫn tới tình trạng các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân đã lợi dụng sơ hở để cố tình làm sai gây thất thoát của ngân hàng. Ngành ngân hàng đã ra đời từ lâu và được coi là một ngành kinh doanh mạo hiểm nhất vậy mà đến tận cuối năm 1997, luật ngân hàng mới chính thức được ban hành. Ngay cả trong công tác tín dụng- một mũi nhọn của ngành ngân hàng, các quy chế cho vay cũng chưa hoàn thiện, hay thay đổi và nhiều khi không đồng bộ giữa quy chế của NHNN và các văn bản hướng dẫn của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Hiện nay, quy chế cho vay đang được áp dụng là quy chế do NHNN ban hành năm 2001, là mới nhất. Ngoài ra hiện nay rào cản lớn nhất ngăn trở Sở giao dịch cho vay vốn là vấn đề đảm bảo tiền vay. Theo nghị định về đảm bảo tiền vay thì khách hàng vay vốn tại Ngân hàng phải thế chấp tài sản có nguồn gốc xác định. Trong khi đó hầu hết tài sản mà khách hàng đem đi thế chấp để vay vốn của Sở giao dịch là đất đai trong khi đó thì việc cấp sổ đỏ tài sản này cho tới bây giờ vẫn chưa được hoàn tất gây khó khăn cho cả Sở và cả người vay. Trong quy chế cho vay thì các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản phải được công chứng nhưng thủ tục công chứng còn rườm rà mất nhiều thời gian gây khó khăn cho cả khách hàng và ngân hàng. Về vấn đề xử lý tài sản đảm bảo, theo quy định khi người vay không trả được nợ thì ngân hàng có quyền phát mãi, bán đấu giá tài sản. Nhưng trong trường hợp phát sinh khiếu kiện thì thủ tục tiến hành xét xử rất phiền hà gây cho Sở tổn thất về thời gian và chi phí. Nếu ngân hàng có thắng kiện buộc khách hàng phải trả cả gốc và lãi trong thời gian nhất định thì việc thi hành án gặp rất nhiều khó khăn đôi khi kéo dài hàng mấy năm gây tổn thất cho Sở giao dịch. Các quy định về thành lập giải thể, sát nhập, phá sản doanh nghiệp chưa rõ ràng. Nhiều khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ lại sát nhập vào một doanh nghiệp khác dẫn đến việc thu hồi nợ của Sở gặp rất nhiều khó khăn. Trong trường hợp doanh nghiệp phá sản thì khoản nợ của ngân hàng rất khó thu hồi vì chưa có quy định cụ thể. Do môi trường kinh tế Việt Nam chưa ổn định Đại hội Đảng 6/1986 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong nền kinh tế đất nước ta, từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước. Công cuộc đổi mới đã mang lại nhiều thành tựu đáng khích lệ, đóng góp vào sự phát triển mạnh mẽ trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên bên cạnh các thành tích đạt được, nền kinh tế nước ta còn nhiều yếu kém như tỷ lệ tích luỹ đầu tư nhỏ, trình độ quản lý còn non yếu,còn nhiều sơ hở và thiếu sót thể hiện rõ ở sự ra đời ồ ạt các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH nhưng lại phá sản sau đó ít lâu. Sự phối hợp giữa các ngành các cấp còn thiếu đồng bộ trong việc xử lý các vấn đề nảy sinh trong thu nợ làm cho Sở giao dịch gặp không ít khó khăn. Các nguyên nhân bất khả kháng khác Nền kinh tế Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ của diễn biến tình hình kinh tế thế giới và khu vực. Trong vài năm gần đây, diễn biến nền kinh tế thế giới khá biến động, chẳng hạn cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Thái Lan hay mới đây là vụ khủng bố ngày 11/9/2001 tại Mỹ đã tác động tới kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Tỷ giá USD cũng liên tục biến động gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động tín dụng bằng ngoại tệ của Sở giao dịch. Ngoài ra những trận thiên tai, bão lụt, hạn hán xảy ra liên miên đã ảnh hưởng trầm trọng tới lĩnh vực nông nghiệp nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung, như đợt lũ lụt miền Trung vào tháng 11 năm 1998, đợt lũ lụt xảy ra ở các tỉnh miền Trung tháng 12 năm 1999...Những rủi ro này nằm ngoài khả năng của Sở giao dịch mà phụ thuộc vào công tác phòng ngừa thiên tai của bản thân địa phương gặp thiên tai CHƯƠNG III Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Sở Giao Dịch Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam. 1. Định hướng hoạt động của Sở Giao Dịch NHN0&PTNTVN trong thời gian tới. Năm 2002 là thời kỳ thực hiện Nghị Quyết của Bộ Chính Trị về phương hướng nhiệm vụ phát triển thủ đô Hà Nội trong thời kỳ 2001- 2010 đồng thời thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế của thành phố và của ngành ngân hàng 5 năm 2001-2005, chính vì vậy đã tạo tiền đề và định hướng hoạt động của các ngân hàng thương mại nói chung cũng như NHN0&PTNTVN và Sở giao dịch nói riêng. Sở giao dịch luôn nhận thức và đánh giá đầy đủ những thuận lợi cơ bản cũng như những khó khăn thách thức và cơ hội của bản thân mình, nhất là những cơ hội và khó khăn mà xu thế mở cửa và hội nhập kinh tế thế giới mang lại. Bởi vậy để tồn tại và phát triển đồng thời luôn giữ vững danh hiệu là một trong 4 ngân hàng lớn nhất Việt Nam, toàn hệ thống NHNN&PTNTVN cũng như Sở giao dịch luôn xây dựng phương hướng chiến lược và mục tiêu cụ thể trong từng thời kỳ nhất định, qua đó có những biện pháp thực hiện những mục tiêu đó. Bên cạnh mục tiêu chung là tăng trưởng dư nợ trên cơ sở nâng cao chất lượng tín dụng, xây dựng chiến lược khách hàng, đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng...Sở giao dịch còn đề ra các biện pháp cụ thể sau : Mục tiêu, nhiệm cụ kinh doanh cụ thể năm 2002 : Luôn thực hiện tốt các nhiệm vụ do Tổng giám đốc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn giao cho. Phấn đấu tăng trưởng nguồn vốn đạt 17% so với năm 2001, đảm bảo đủ nguồn vốn yêu cầu vay vốn của khách hàng kể cả nội tệ và ngoại tệ. Dư nợ tăng 475 so với năm 2001. Phấn đấu giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống dưới 1% trong tổng dư nợ. Lợi nhuận tăng từ 3 – 5% so với cuối năm 2991. Mở rộng và nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ như mua bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế, thanh toán chuyển tiền, dịch vụ thanh toán thẻ ... Để thực hiện những mục tiêu trên, Sở giao dịch đề ra những biện pháp cụ thể để thực hiện như sau: Thực hiện tốt nhiệm vụ mở rộng hoạt động kinh doanh, tăng trưởng thị phần nguồn vốn trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đối với nhuồn vốn của khách hàng tiền gửi là tổ chức kinh tế, Sở giao dịch cố gắng thực hiện tốt cơ chế ưu đãi khách hàng, mở rộng quan hệ với các đơn vị có tiền gửi lớn, thường xuyên để duy trì và mở rộng nguồn như Kho Bạc Nhà Nước, quỹ hỗ trợ phát triển, bảo hiểm tiền gửi đồng thời tích cực mở rộng, đa dạng và nâng cao chất lượng các loại hình dịch vụ để thu hút các nguồn tiền gửi tạm thời nhàn rỗi. Thực hiện tốt nhiệm vụ tăng trưởng thị phần tín dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội bằng cách tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của trụ sở chính để tiếp tục tiếp cận các dự án lớn, phối hợp tốt với các NHTM khác tham gia các dự án đồng tài trợ hoặc chủ động làm đầu mối thu xếp tài chính cho các dự án lớn. Chủ động tiếp cận và mở rộng quan hệ tín dụng, thanh toán. Củng cố bộ máy tổ chức của Sở giao dịch đảm bảo đủ mạnh, cải tiến lề lối làm việc, tổ chức phối hợp chặt chẽ các phòng nghiệp vụ để nâng cao chất lượng nghiệp vụ, đáp ứng tốt nhất dịch vụ cho khách hàng, kể cả khách hàng gửi tiền, khách hàng vay vốn cũng như các khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế, tăng cường khả năng cạnh tranh với các NHTM khác về chất lượng dịch vụ. Tập trung và kiên quyết xử lý nợ qúa hạn, nợ khó đòi bằng nhiều biện pháp như đông đốc tổ thu nợ, phối hợp với các ban ngành liên quan sử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Tăng cường công tác kiển tra, kiểm toán nội bộ nhằm phát hiện tồn tại thiếu sót để khắc phục kịp thời. Đồng thời thực hiện chấn cyhinhr sửa sai sau thanh tra theo những kiến nghị của thanh tra NHNN và ddoanhthanh ra của NHN0&PTNTVN. Tiếp tục phát động, tổ chức thực hiện các phong trào thi đua xây dựng đơn vị trong sạch vững mạnh.Triển khai tốt kế hoạch đào tạo cán bộ đã xây dựng để đảm bảo đội ngũ cán bộ có trình độ nghiệp vụ gioỉ, đạo đức tốt, đội ngũ lao động luôn được củng cố và bồi dưỡng trình độ quản lý góp phần nâng cao chất lượng công việc chung. Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch. Là Sở giao dịch đầu mối, ngoài nhiệm vụ quản lý và lưu chuyển nguồn vốn nội ngoại tệ và thực hiện một số nhiệm vụ khác cho toàn hệ thống ngân hàng nông nghiệp do tổng giám đốc NHNN&PTNT giao, Sở giao dịch còn là một chi nhánh NHTM. Cũng như các ngân hàng thương mại khác, hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động chủ yếu đem lại phần lớn thu nhập cho Sở giao dịch hay nói cách khác, hoạt động tín dụng là hoạt động chính quyết định kết quả kinh doanh của Sở. Chính bởi tầm quan trọng của hoạt động này mà công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng luôn được Sở giao dịch quan tâm và thực hiện. Tuy nhiên, do rủi ro tín dụng phát sinh muôn màu muôn vẻ nên mặc dù vậy nợ quá hạn vẫn luôn tồn tại, giải quyết được nợ quá hạn cũ, nợ quá hạn mới lại phát sinh. Điều này đòi hỏi bên cạnh việc thực hện tốt các biện pháp đã có, Sở giao dịch luôn phải nghiên cứu tìm tòi các biện pháp phòng ngừa mới để có thể phòng ngừa tối đa rủi ro tín dụng phát sinh. Có thể xem xét một số biện pháp phòng ngừa sau: Nghiên cứu khách hàng để sớm nhận ra các dấu hiệu rủi ro Hoạt động tín dụng của ngân hàng là hoạt động vay mượn giữa ngân hàng và khách hàng, do đó mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng là mối quan hệ không thể tách rời trong suốt quá trình cho vay. Đã gọi là tín dụng thì đầu tiên mối quan hệ này phải dựa trên sự tín nhiệm và tin cậy lẫn nhau, mà để có được điều đó thì hai bên đều phải nghiên cứu, phân tích để hiều biết rõ về nhau Tuy nhiên trên thực tế mối quan hệ này thường bị vi phạm mà hầu hết do khách hàng vay vốn gây ra. Bởi vậy phải nhìn nhận lại rằng việc nghiên cứu khách hàng thường xuyên đã không được quan tâm đúng mức nên đã không phát huy hết tác dụng của nó. Nghiên cứu khách hàng để có cái nhìn tổng quan về khách hàng: lĩnh vực hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính, uy tín của khách hàng trên thương trường... đồng thời xem xét tính khả thi của dự án vay mà khách hàng đã xây dựng. Qua đó Sở giao dịch đánh giá khả năng và uy tín của khách hàng cũng như khả năng sinh lời từ dự án đó để có thể hoàn trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng được đúng hạn. Phân tích tài chính khách hàng vay vốn: Để phục vụ công tác nghiên cứu khách hàng, Sở giao dịch phải xem xét thật kỹ và phân tích hoạt động của doanh nghiệp qua các tài liệu kế toán, báo cáo tài chính, bảng cân đối tài sản...Nhưng để cho khách quan, Sở giao dịch nên tìm kiếm các thông tin về khách hàng từ các nguồn khác như các thông tin thu lượm từ thị trường về chất lượng mặt hàng sản phẩm, khả năng cạnh tranh, hoặc từ các bạn hàng và đối tác của khách hàng hay từ kết quả kiểm toán tình hình tài chính của khách hàng. Để đánh giá được uy tín của khách hàng, Sở giao dịch phải căn cứ vào quan hệ tín dụng giữa khách hàng với bản thân Sở giao dịch hay với các ngân hàng khác trong thời gian gần đây, thể hiện ở việc vay trả sòng phẳng không phát sinh nợ quá hạn, hoặc tư cách người vay: sử dụng vốn có đúng mục đích không, có hiện tượng tham nhũng hay lạm dụng vốn vay hay không. Thông thường phân tích tài chính của người vay để đánh giá : Đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn Khả năng tài chính của khách hàng vay vốn . Đánh giá năng lực sản xuất kinh doanh của khách hàng. Qua đó xếp loại khách hàng theo thứ tự A, B, C để tiện cho việc quản lý. Sở giao dịch xếp loại khách hàng theo 5 tiêu thức: Về doanh thu: + Doanh nghiệp có doanh thu năm nay cao hơn năm trước: 10 điểm. + Doanh nghiệp có doanh thu năm nay bằng năm trước : 1 điểm. + Doanh nghiệp có doanh thu năm nay thấp hơn năm trước: 0 điểm. Về lợi nhuận: + Doanh nghiệp có lãi trong năm tài chính gần nhất : 10 điểm. + Doanh nghiệp không có lãi hoặc hoà vốn : 1 điểm. + Doanh nghiệp thua lỗ trong năm tài chính gần nhất : 0 điểm. Về quan hệ với các ngân hàng khác: + Nếu có nợ quá hạn > 6 tháng : 0 điểm. + Nếu không có nợ quá hạn trên 6 tháng : 10 điểm. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu: Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp để có các mức cho điểm khác nhau. Nếu là DNNN tỷ lệ này từ 40% trở lên : 10 điểm. Từ 30 – 40 % : 7 điểm. Dưới 30 % : 5-0 điểm. Hệ số thanh toán ngắn hạn + Nếu tỷ lệ này lớn hơn 1: 10 điểm. + Nếu bằng 1: 5 điểm Thông qua đánh giá cho điểm theo các tiêu thức, Sở giao dịch xếp loại như sau: + Doanh nghiệp xếp loại A : 40 điểm trở lên. + Doanh nghiệp xếp loại B: 30-40 điểm. + Doanh nghiệp xếp loại C: dưới 30 điểm. Khách hàng loại A được đánh giá là doanh nghiệp có hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định và lành mạnh, có quan hệ thanh toán sòng phẳng với bạn hàng cũng như trong quan hệ vay mượn các tổ chức tín dụng. Việc mỏ rộng dư nợ đồng nghĩa với việc thu hút thêm nhiều khách hàng loại này. Khách hàng loại B được đánh giá là những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chưa ổn định, năm thì lỗ, năm thì lãi. Với những khách hàng này Sở giao dịch chưa có sự tín nhiệm cao do vật chỉ nên cho vay đối với những dự án khả thi và có tài sản thế chấp hay bảo lãnh của bên thứ ba. Còn đối với khách hàng loại C là những khách hàng có tình hình sản xuất kinh doanh thua lỗ, không trả được nợ cũ. Sở giao dịch cần từ chối ngay những khách hàng này hoặc nếu đã cho vay thì cần gấp rút thu hồi nợ. Phân tích dự án vay : Phân tích dự án vay vốn hay còn gọi là khâu thẩm định dự án là một khâu quan trọng trong quy trình tín dụng mà các ngân hàng hiện nay đều áp dụng, mục đích của khâu này là để đánh giá xem dự án có khả thi hay không. Một dự án được coi là khả thi có nghĩa là có khả năng sinh lời, hàng hoá sản xuất ra phù hợp nhu cầu thị trường về giá cả, mẫu mã, chất lượng. Ngoài ra lợi nhuận của dự án đem lại, tuổi thọ của dự án và thời gian khấu hao của dự án cũng là những yếu tố quan trọng tác động đến khả năng hoàn trả ngân hàng đúng hạn. Một dự án có khả năng sinh lời nhưng tốc độ hoàn vốn chậm, không thu hồi đúng thời gian để hoàn trả ngân hàng thì vẫn không được chấp nhận. Điều này đòi hỏi Sở phải lựa chọn các phương pháp thẩm định phù hợp cũng như đòi hỏi cán bộ tín dụng nghiên cứu một cách khách quan dự án để có một quyết định đúng đắn. Giám sát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng: Nếu mục đích của việc nghiên cứu tình hình tài chính và thẩm định dự án vay của khách hàng để quyết định có cho vay hay không thì giám sát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng để xem khách hàng có thực hiện đúng những cam kết trước khi vay hay không. Trên thực tế, đôi khi khách hàng cố tình gian lận hoặc cho dù sử dụng đúng mục đích nhưng có những rủi ro bất khả kháng xảy ra khiến khách hàng mất khả năng trả nợ cho ngân hàng. Đối với những rủi ro bất khả kháng, Sở chỉ có thể tìm các biện pháp tháo gỡ hoặc hạn chế tối đa hậu quả, còn trong các trường hợp khác, việc giám sát khách hàng thường xuyên rất có hiệu quả trong việc phát hiện sớm các dấu hiệu rủi ro để có thể ngăn chặn và phòng ngừa. Trong trường hợp người vay sử dụng vốn sai mục đích hoặc Sở thấy rằng khoản vay này chắc chắn sẽ dẫn tới nợ quá hạn thì SDG nên thu hồi vốn ngay lập tức cả nợ gốc và lãi. Để việc thu hồi nhanh chóng, Sở nên có các biện pháp sau đây: Khuyến khích người vay thu hồi các khoản đầu tư chưa đến hạn hoặc công nợ. Giảm kho bằng việc cải tiến phương thức bán, hạ giá bán nhằm tăng doanh thu bán hàng. Xử lý tài sản thế chấp của người vay. Tuy nhiên nếu người vay chỉ gặp khó khăn tạm thời nhưng có thể giải quyết được thì không Sở giao dịch nên tìm các biện pháp linh hoạt để khôi phục sản xuất: Nếu người vay cần một khoản vay thêm mà khoản này có thể giải quyết được những khó khăn tạm thời thì Sở có thể cho vay, tuy nhiên cần phải nghiên cứu thật kỹ lưỡng trước khi quyết định, để cho an toàn có thể yêu cầu thêm tài sản thế chấp . Sở có thể khuyến khích người vay hợp nhất vốn với doanh nghiệp khác, điều này chỉ được đề nghị sau khi nghiên cứu và định giá cẩn thận tất cả các yếu tố ảnh hưởng. Kêu gọi người bảo lãnh cho doanh nghiệp như các cổ đông chủ chốt, người cung ứng hay tiêu thụ sản phẩm cho công ty vay dài hạn. Cán bộ tín dụng có thể khuyên hay tư vấn cho doanh nghiệp tìm ra chiến lược kinh doanh mới, ví dụ : giảm bớt kế hoạch phát triển dài hạn để tăng cường vốn kinh doanh...Điều này không chỉ giúp cho doanh nghiệp thoát khỏi khó khăn và phòng ngừa rủi ro tín dụng mà còn làm mối quan hệ giữa Sở và khách hàng trở nên thân thiết hơn. Xây dựng và thực hiện tốt chiến lược khách hàng. Đối với khách hàng gửi tiền: Huy động vốn và sử dụng vốn là hai hoạt động cơ bản của một ngân hàng thương mại, có huy động được vốn thì mới có vốn để cho vay. Xem xét cơ cấu huy động vốn thấy rằng nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động, nếu xét cơ cấu nguồn vốn huy động theo thời gian thì vốn huy động trên 12 tháng chỉ xấp xỉ 30% tổng nguồn vốn. Như đã biết tín dụng trung và dài hạn rủi ro tuy cao hơn tín dụng ngắn hạn nhưng lợi nhuận mang lại cũng cao hơn, tuy nhiên có rất nhiều các dự án trung và dài hạn rất có giá trị và hứa hẹn khả năng sinh lời cao, mức độ an toàn cũng cao, trong đó có nhiều dự án của Nhà Nước. Những dự án này đòi hỏi khoản vay lớn, thời gian vay dài mà nếu bù đắp bằng các khoản huy động ngắn hạn thì Sở có thể có thể đối mặt vơí rủi ro mất khả năng thanh toán. Bởi vậy Sở giao dịch một mặt cần tăng cường huy động tiền gửi tiết kiệm từ dân cư với lãi suất tiền gửi dài hạn hợp lý, mặt khác duy trì số dư cao trên tài khoản tiền gửi của các tổ chức kinh tế vì như đã biết, nguồn này tuy là nguồn huy động với chi phí thấp nhất, khối lượng lớn nhưng tính ổn định không cao lại phụ thuộc vào chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp nên không thể sử dụng vào mục đích cho vay trung và dài hạn. Để thu hút các tổ chức kinh tế gửi tiền và khuyến khích số dư cao và ổn định trên tài khoản tiền gửi của họ, Sở giao dịch nên nghiên cứu mức lãi suất hợp lý đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ : tính tiện ích và nhanh chóng khi thanh toán hộ, hoặc có thể cung cấp thông tin cần thiết trong lĩnh vực ngân hàng, tư vấn miễn phí... cho khách hàng. Như vậy, khách hàng mới tin cậy lựa chọn Sở giao dịch. Đối với khách hàng vay tiền: Những khách hàng loại A bao giờ cũng là mối quan tâm hàng đầu của Sở giao dịch. Trong những năm tới, bên cạnh việc duy trì quan hệ tốt với các khách hàng có uy tín cũ, Sở có mục tiêu thu hút thêm các tổng công ty thuộc TCT 90, 91 đó là các tổng công ty có quy mô lớn, vốn lớn, tình hình tài chính lành mạnh, có uy tín. Tuy nhiên là thế nào để thu hút được những khách hàng này lại phụ thuộc vào uy tín của Sở giao dịch, chất lượng phục vụ và những ưu đãi mà Sở dành cho họ. Theo quy định thì những khách hàng nào được coi là có tình hình tài chính tốt, quan hệ vay trả sòng phẳng sẽ được vay với lãi suất thấp hơn, lượng vay lớn hơn mà đôi khi không đòi hỏi phải có tài sản thế chấp cầm cố... Vậy dựa vào thế mạnh của mình, Sở giao dịch có thể đề nghị với NH Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và NH NN cho phép hạ mức lãi suất cho vay nếu ở mức lãi suất này không vi phạm khung lãi suất do NHNN ban hành mà vẫn có thể có lợi nhuận. Trong 2 năm gần đây, Sở giao dịch có tăng cả về số tương đối và tuyệt đối dư nợ NQD, điều đó thể hiện các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang dần lấy lại lòng tin của Sở giao dịch. Với thành phần này, các quy định về cho vay có chặt chẽ hơn đối với thành phần KTQD, nhưng không nên quá khắt khe làm mất đi cơ hội kinh doanh của Sở. Điều quan trọng là cán bộ tín dụng phải đánh giá tính khả thi của dự án, mức độ chính xác và trung thực của các giấy tờ sở hữu tài sản thế chấp, cầm cố và giám sát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng để có thể phòng ngừa tối đa rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Các giải pháp phòng ngừa, phân tán và bù đắp rủi ro Hoạt động tín dụng luôn gắn với rủi ro, rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng cao. Do đó Sở giao dịch nên thực hiện cho vay trên nhiều lĩnh vực cũng như chủ động thực hiện các biện pháp bù đắp và phân tán rủi ro như sau: 3.1. Cho vay đồng tài trợ Trước đây, SGD chỉ đồng tài trợ với các ngân hàng quốc doanh nhưng hiện nay với quy chế mới, SGD còn có thể đồng tài trợ với các ngân hàng cổ phần và ngân hàng liên doanh. Hình thức cho vay này được sử dụng trong trường hợp nhu cầu về vốn của khách hàng quá lớn mà một mình SGD không thể đảm đương được, hoặc do SGD chủ động phân tán rủi ro tín dụng, theo đó mọi vấn đề về mức vốn góp, lợi nhuận, trách nhiệm, quyền hạn và tổn thất đều được chia sẻ cho nhiều bên tham gia đồng tài trợ tuỳ thuộc vào cam kết của các bên. Như vậy gánh nặng khi cho vay của Sở sẽ giảm bớt do việc giám sát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng sẽ được tất cả các bên tham gia đồng tài trợ chịu trách nhiệm. 3.2 Tránh dồn vốn Đặc điểm của các ngân hàng Việt Nam hiện nay là địa bàn kinh doanh nhỏ hẹp nhất là trong địa bàn Hà Nội dẫn đến sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trở nên gay gắt hơn. Thông thường các ngân hàng hầu như chỉ chú trọng đến các lĩnh vực, dự án được coi là có khả năng sinh lời cao. Để khắc phục tình trạng này, ngoài lĩnh vực hoạt động chính của Sở là Nông nghiệp, Sở còn có thể cho vay các lĩnh vực khác như công nghiệp, lâm nghiệp... Hiện nay, dệt may và chế biến thuỷ sản là 2 ngành phát triển nhất cũng như đem lại nhiều ngoại tệ nhất cho VN, Sở nên quan tâm tới 2 lĩnh vực trên. 3.3. Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ Đây là hướng đi cần thiết trong các NHTM hiện nay, thể hiện đúng bản chất của NHTM là kinh doanh đa năng. Tuy nhiên các NHTM ở Việt Nam lại chưa chú trọng đúng mức tới các hoạt động trung gian mà hầu như chỉ chú trọng tới hoạt động tín dụng nên kết quả kinh doanh của ngân hàng thường rất phụ thuộc vào hoạt động vốn dĩ mang nhiều rủi ro này. Bởi vậy, Sở giao dịch nên đa dạng hoá các hoạt động nghiệp vụ như thực hiện tín dụng thuê mua, thực hiện kiên doanh liên kết, bảo lãnh hay đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Có như vậy, SGD mới có thể tồn tại và phát triển trong tình hình mới và hội nhập với thế giới. 3.4 Lập quỹ dự phòng rủi ro Đây là biện pháp theo đó Sở giao dịch trích ra từ thu nhập theo một tỷ lệ quy định để trang trải một phần hoặc toàn bộ các khoản vốn trên cơ sở đánh giá mức độ rủi ro đối với từng loại cho vay. 3.5 Bảo hiểm tiền gửi Bảo hiểm tiền gửi mang tính nguyên tắc cần phải có trong kinh doanh tín dụng, được rất nhiều nước trên thế giới áp dụng, nhất là các nước phát triển. ở Việt Nam hiện nay hình thức này còn khá mới mẻ và chưa được quan tâm đúng mức bởi các ngân hàng thương mại e ngại phải trả thêm một khoản phí nữa, đó là phí bảo hiểm. Sở giao dịch nên nhận rõ tầm quan trọng của bảo hiểm tiền gửi trong trường hợp có rủi ro xảy ra, bảo hiểm tiền gửi sẽ bồi thường một phần theo quy định. Ngoài ra, BHTG còn có nhiệm vụ phối hợp với các ngành hữu quan tổ chức các biện pháp đề phòng, ngăn chặn, hạn chế những tổn thất xảy ra nhằm đảm bảo an toàn cho các NHTM. 3.6 Thực hiện quy chế bảo đảm tiền vay Như đã biết, các khoản vay đều phải có đảm bảo, đó có thể là bảo đảm đối vật hoặc bảo đảm đối nhân: Bảo đảm đối vật bao gồm : cầm cố và thế chấp. Bảo đảm đối nhân bao gồm : bảo lãnh và tín chấp. Trong 4 công cụ trên thì tài sản thế chấp được coi là công cụ đắc lực nhất để ngân hàng có khả năng thu hồi nợ khi một khách hàng không còn khả năng trả nợ, còn tín chấp chỉ là biện pháp cho phép khi ngân hàng và khách hàng có quan hệ lâu bền, thường xuyên và có sự tin tưởng lẫn nhau. Khi xem xét cơ cấu nợ quá hạn theo thành phần kinh tế phải thấy rằng nợ quá hạn của thành phần kinh tế quốc doanh chiếm tỷ lệ chủ yếu trong tổng dư nợ quá hạn qua các năm. Sở dĩ như vậy vì hiện nay Sở vẫn cho thành phần này vay là chủ yếu và ưu đãi hơn hẳn thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Một số khách hàng là thành phần KTQD được vay theo chỉ định chính phủ, một số không cần tài sản đảm bảo, một số dù đang thua lỗ nhưng vẫn tiếp tục được vay, do đó nợ quá hạn vẫn liên tục phát sinh. Để khắc phục tình hình này, Sở cần phải có các quy định chặt chẽ hơn về tài sản đảm bảo cũng như tính chính xác trong các giấy tờ sở hữu tài sản của khách hàng để tránh khách hàng dùng một tài sản đi thế chấp ở nhiều nơi. Đào tạo và bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ, nâng cao phẩm chất của cán bộ tín dụng. Hiện nay ở Sở giao dịch, do số lượng cán bộ tín dụng còn thiếu lại phải đảm trách nhiều công việc nên đã ảnh hưởng đến công tác tín dụng của Sở. Theo quy chế của NHNN&PTNT, trách nhiêm của từng vị trí được xác định rất cụ thể. Đối với cán bộ tín dụng, trách nhiệm gắn với toàn bộ quy trình cho vay, từ thu thập thông tin nghiên cứu khách hàng, thẩm định dự án, giám sát khách hàng sử dụng vốn đến quá trình thu nợ. Thông thường mỗi cán bộ tín dụng tại Sở đảm nhiệm từ 5 đến 6 khách hàng, như vậy lượng công việc là quá nhiều lại không được chuyên môn hoá nên để hoàn thành tốt công việc, cán bộ tín dụng phải có kiến thức toàn diện và phải có tinh thần trách nhiệm với công việc. Để có thể bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng, ngoài việc lựa chọn đầu vào, NHNN&PTNT cũng như Sở giao dịch cần phải tổ chức thường xuyên các lớp đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ trong Sở, bởi do yêu cầu công việc cán bộ tín dụng phải cập nhật thông tin, nắm bắt được những thay đổi của thị trường. Nên gắn trách nhiệm của cán bộ tín dụng với trách nhiệm công việc được giao, như vậy có thể tránh được rủi ro đạo đức trong hoạt động tín dụng. Cán bộ tín dụng phải chịu trách nhiệm trong tất cả các khâu của quá trình cho vay, đồng thời Sở giao dịch nên có các hình thức kỷ luật và khen thưởng để răn đe các trường hợp sai trái và khuyến khích nâng cao chất lượng công việc. Đạo đức và phẩm chất nghề nghiệp là yếu tố vô cùng quan trọng để ngăn ngừa rủi ro tín dụng, bởi việc cấu kết và thông đồng giữa cán bộ tín dụng với khách hàng có ý đồ lừa đảo có mức độ phá hoại nghiêm trọng. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ Một trong những bài học sâu sắc của hệ thống ngân hàng nước ta trong thời gian qua dẫn đến chất lượng tín dụng kém là chúng ta chưa coi trọng hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Hoạt động này có vai trò quan trọng đối với công tác quản trị và điều hành ngân hàng trong điều kiện kinh doanh đa dạng, sự cạnh tranh quyết liệt nhằm giúp phát hiện kịp thời những vi phạm và những phương hướng xử lý thích hợp góp phần đảm bảo vốn vay. Do vậy, thực hiện tốt hoạt động giám sát, kiểm tra, kiểm soát nội bộ kết hợp với kiểm toán bắt buộc từ bên ngoài theo thông lệ quốc tế và hoạt động thanh tra ngân hàng là tiền đề để nâng cao và phát triển đối với Sở giao dịch. II. Kiến nghị một số biện pháp hỗ trợ để phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch NHNN&PTNT VN. 1. Về phía Nhà Nước Để hoạt động tín dụng của ngân hàng trở nên an toàn hơn, trước tiên, Nhà Nước phải tạo lập một môi trường kinh doanh lành mạnh thông qua đẩy mạnh hơn nữa quá trình đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp Nhà Nước. Hiện nay có rất nhiều DNNN làm ăn thiếu hiệu quả, kinh doanh thua lỗ triền miên, cần phải có hướng đi cho các doanh nghiệp trên thông qua giải thể, cổ phần hoá, cải tổ hay sát nhập với các doanh nghiệp khác tuỳ theo đặc điểm riêng của từng doanh nghiệp. Bên cạnh quy chế mới về điều kiện thành lập doanh nghiệp, Nhà Nước cần phải quản lý chặt chẽ hơn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp đó tránh tình trạng doanh nghiệp thành lập ra để lợi dụng danh nghĩa lừa đảo vốn của ngân hàng hay tiến hành các hoạt động kinh doanh mờ ám khác. Nhà Nước cần nhanh chóng hoàn thiện pháp lệnh kế toán thống kê và hệ thống kiểm toán vững mạnh để lành mạnh hoá môi trường kinh doanh, đảm bảo một môi trường kinh tế công bằng, ổn định cho các doanh nghiệp hoạt động. Với tư cách là người tạo lập môi trường vĩ mô, Nhà Nước cần hoàn thiện hệ thống pháp lý để tạo ra cơ sở cho hoạt động tài chính, tín dụng ngân hàng. Đối với các doanh nghiệp, Nhà Nước cần hoàn thiện hơn các luật doanh nghiệp, luật kinh tế, luật đầu tư nước ngoài... để phù hợp với tình hình mới và tạo hành lang pháp lý lâu dài cho hoạt động của doanh nghiệp. Cần ban hành luật tín dụng thương mại để bảo vệ quyền lợi của người bán chịu hàng hoá vì hiện nay luật tín dụng thương mại chưa có luật điều chỉnh nên quyền lợi của người của người bán chịu hàng hoá không có gì làm bảo đảm. Định hướng phát triển kinh tế của Nhà Nước cần đồng bộ tránh tình trạng thường xuyên thay đổi các chính sách dẫn đến những khó khăn tổn thất của doanh nghiệp. Các cơ quan chức năng cần kiểm tra, chấn chỉnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản, chỉ cấp một bản duy nhất nhằm ngăn chặn việc dùng một tài sản thế chấp để vay nhiều ngân hàng gây thất thoát vốn cho ngân hàng. Đồng thời hoàn thiện pháp luật về công chứng , chứng thực hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản để khi rủi ro xảy ra ngân hàng phải là người sở hữu tài sản thế chấp đó. Ngày 5/10/2001, Thủ Tướng Chính Phủ đã ban hành quyết định số 149/2001/QĐ-TTg phê duyệt đề án xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại. Qua đó các NHTM, công ty xử lý nợ và khai thác tài sản của NHTM được chủ động xử lý các tài sản đảm bảo nợ vay ( tài sản thế chấp, cầm cố, gán nợ, tài sản toà án giao cho ngân hàng ) kể cả tài sản là bất động sản: tự bán công khai trên thị trường bán qua trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản, bán cho công ty mua bán nợ của Nhà Nước. Đối với những tài sản đảm bảo nợ vay thuộc những vụ án đã được toà án phán quyết nhưng chưa giao cho ngân hàng, các ngân hàng tập hợp trình ban chỉ đạo cơ cấu lại tài chính, NHTM đề nghị cơ quan thi hành án hanh chóng xử lý. Đối với những tài sản đảm bảo nợ vay chưa đầy đủ thủ tục pháp lý thì tổ chức NHTM xem xét, đề nghị TTCP yêu cầu các cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền hoàn thiện thủ tục pháp lý để các NHTM, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của NHTM bán tài sản thu nợ. Đây là một bước ngoặt có ý nghĩa trong việc thu nợ quá hạn bằng xử lý tài sản thế chấp của ngân hàng, giải quyết những khó khăn và phiền hà trong việc xử lý tài sản đảm bảo trước kia. Từng bước xây dựng và hoàn thiện cơ chế hoạt động của cơ quan bảo hiểm cho phù hợp vơí thực tế nền kinh tế và phát huy được hiệu quả. Nhà Nước cần phải có chế độ bắt buộc mua bảo hiểm tín dụng đối với các tổ chức tín dụng và có chế độ khuyến khích đối với người gửi tiền và người vay tiền, mức phí bảo hiểm sẽ được quy định tỷ lệ phần trăm trên số tiền gửi có kỳ hạn tại tổ chức tín dụng. II. Về phía ngân hàng Nhà Nước Ngân hàng Nhà Nước cần đưa ra khung lãi suất huy động và cho vay hợp lý: Tuỳ theo tình hình kinh tế từng thời kỳ, tuỳ theo nhu cầu đầu tư, tiêu dùng của xã hội mà khung lãi suất được thay đổi một cách linh hoạt, nói chung khung lãi suất phải được xác đinh trên cơ sở tín hiệu thị trường và sự điều chỉnh của Ngân hàng nhà nước tuỳ theo mục tiêu phát triển kinh tế đất nước trong từng thời kỳ. Xu hướng mở cửa và hội nhập kinh tế thế giới sẽ khiến Ngân hàng nhà nước dần dần tránh can thiệp qúa cứng nhắc vào tỷ giá hối đoái và để cung cầu thị trường quyết định mức lãi suất này nhưng do hiện nay hoạt động của các ngân hàng Việt Nam vẫn còn yếu kém nên NHNN cần phải tác động tới tỷ giá hối đoái để không có sự thay đổi quá lớn làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động tín dụng của ngân hàng. Thực tế năm 1999, nợ quá hạn tại Sở giao dịch rất cao mà chủ yếu là nợ quá hạn bằng ngoại tệ do những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực khiến tỷ giá ngoại tệ thay đổi tác động tới hoạt động tín dụng của Sở. Cần hoàn thiện văn bản pháp luật về tài sản thế chấp: Việc hoàn thiện này có ý nghĩa quan trọng đỗi với hoạt động tín dụng của ngân hàng, tạo ra sự an toàn cho hệ thống tiền tệ. Thực tế cho thấy khi tài sản đem đi thế chấp để vay nợ là hợp pháp, nhưng sau một thời gian do sự thay đổi trong các quy định của Nhà Nước thì nó lại trở thành không hợp pháp. Không những việc xác định tài sản thế chấp gặp nhiều khó khăn mà hiện nay việc xử lý tài sản thế chấp cũng gặp rất nhiều rắc rối. Tất cả cho thấy cần phải hoàn thiện tốt hơn luật thế chấp và những văn bản hướng dẫn việc xác định quyền sở hữu các tài sản dùng làm tài sản thế chấp. Mặt khác cần thực hiện tốt quyết định số 149/2001/QĐ- TTg trong việc thanh lý các tài sản thế chấp của doanh nghiệp, tư nhân có nợ quá hạn không trả được. NHNN cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát đối với Sở giao dịch: Hiện nay xu thế phát triển nền kinh tế theo hướng khu vực hoá, quốc tế hoá cùng với sự phát triển tiến bộ của khoa học kỹ thuật, hệ thống ngân hàng cũng phát triển rất mạnh. Các hoạt động của ngân hàng ngày càng đa dạng và phong phú nên nhiều khi ngân hàng cũng không thể tự kiểm soát hết được các hoạt động của mình, do đó thông qua các hoạt động thanh tra, giám sát mới có thể giúp cho ngân hàng kịp thời có những biện pháp chấn chỉnh hoạt động của mình và sẽ phòng ngừa, hạn chế rủi ro xảy ra, bảo vệ an toàn hoạt động của ngân hàng. Thực tế cho thấy rằng thanh tra ngân hàng thường chỉ tiến hành kiểm tra, thanh tra các sự việc đã rồi, nên việc kiểm tra tại chỗ chỉ có thể giảm bớt các tổn thất chứ không có biện pháp giám sát từ xa để ngăn ngừa các tổn thất. Những năm gần đây công tác kiểm tra từ xa đã được quan tâm chú trọng ở các cấp TW nhưng ở cấp điạ phương chỉ mang tính chiếu lệ nhiều hơn chứ chưa thực sự tích cực trong việc hạn chế, ngăn ngừa các rủi ro, tổn thất xảy ra cho các TCTD. Chính vì vậy NHNN cần tăng cường hiệu quả các hoạt động thanh tra giám sát đối với các NHTM bằng cách chỉ đạo các ngân hàng thương mại thực hiện một số tiêu chuẩn nhất định tạo điều kiện thực hiện giám sát từ xa có hiệu quả như : chế độ thông tin báo cáo, chế độ kiểm soát nội bộ...Thường xuyên phân tích nhận định tình hình đặc biệt khi trong nước và khu vực có những biến động kinh tế tài chính lớn nhằm thực hiện thanh tra các NHTM thuộc diện đáng ngờ. Những giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (LV; 15) MỤC LỤC Lời nói đầu Chương I: Hoạt động của ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng thương mại I. Vài nét về NHTM 1. Sự ra đời và phát triển của NHTM 2. Khái niệm về ngân hàng thương mại 3. Các hoạt động cơ bản của NHTM 3.1. Hoạt động tạo lập vốn 3.2. Hoạt động sử dụng và khai thác vốn 3.3. Hoạt động dịch vụ trung gian 4. Vai trò của NHTM 5. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM 5.1. Khái niệm về rủi ro 5.2. Các loại rủi ro thường gặp trong hoạt động kinh doanh ngân hàng 5.2.1. Rủi ro tín dụng 5.2.2. Rủi ro lãi suất 5.2.3. Rủi ro hối đoái 5.2.4. Rủi ro mất khả năng thanh toán 5.2.5. Rủi ro về nguồn vốn 5.2.6. Các rủi ro khác trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng II. Rủi ro tín dụng và sự cần thiết phải phòng ngừa rủi ro tín dụng 1. Rủi ro tín dụng và dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM) 1.1. Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 1.2. Phân loại rủi ro tín dụng 2. Sự cần thiết phải phòng ngừa rủi ro tín dụng III. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng và một số chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng 1. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng 1.1. Nguyên nhân từ phía ngân hàng 1.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng 1.3. Các nguyên nhân khác 2. Một số chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam I. Vài nét về Sở Giao Dịch – NH NN & PTNT Việt Nam 1. Quá trình hình thành và phát triển của Sở Giao Dịch NH NN & PTNT Việt Nam 1.1. Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch 1.2. Một số kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Sở giao dịch trong thời gian vừa qua II. Thực trạng rủi ro tín dụng trong thời gian vừa qua tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn 1. Thực trạng rủi ro tín dụng trong thời gian vừa qua 1.1.Tình hình hoạt động tín dụng tại Sở giao dịch 1.2.Thực trạng rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch 2. Đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch 2.1. Một số kết quả đạt được trong công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng 2.2. Những tồn tại trong hoạt động cho vay vốn dẫn tới rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch 2.3. Nguyên nhân của những tồn tại trên 2.3.1. Nguyên nhân chủ quan 2.3.2. Nguyên nhân khách quan 2.3.3. Các nguyên nhân khác Chương III: Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn I. Định hướng hoạt động của Sở giao dịch NHNN&PTNT VN trong thời gian tới II. Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch NHNN&PTNTVN 1. Nghiên cứu khách hàng để sớm nhận ra các dấu hiệu rủi ro 2. Xây dựng và thực hiện tốt chiến lược khách hàng 3. Các giải pháp phòng ngừa, phân tán và bù đắp rủi ro 3.1. Cho vay đồng tài trợ 3.2. Tránh dồn vốn 3.3. Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ 3.4. Lập quỹ dự phòng rủi ro 3.5. Bảo hiểm tiền gửi 3.6. Thực hiện quy chế bảo đảm tiền vay 4. Đào tạo và bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ, nâng cao phẩm chất của cán bộ tín dụng. 5. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ III. Kiến nghị một số biện pháp hỗ trợ để phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch NHNN&PTNTVN 1. Về phía Nhà Nước 2. Về phía Ngân hàng nhà nước

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNganHang 78.doc
Tài liệu liên quan