MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong những năm qua, nước ta liên tục đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, điều đó không chỉ dựa vào yếu tố nội sinh, mà còn có sự tác động của yếu tố bên ngoài. Để đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong điều kiện tiết kiệm trong nước còn hạn chế, các nước đang phát triển thường thu hút các nguồn vốn nước ngoài bằng nhiều cách khác nhau, trong đó vay nợ là một phương thức phổ biến. Vay nợ nước ngoài bao gồm vay nợ dưới hình thức vay vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) có tính chất ưu đãi và vay thương mại theo các điều kiện thị trường. Chính nguồn vốn bổ sung từ bên ngoài đã giúp nhiều quốc gia khắc phục tình trạng chậm phát triển và chuyển sang phát triển bền vững. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, khủng hoảng tiền tệ luôn đe dọa các nền kinh tế, việc vay nợ nước ngoài luôn gắn với các rủi ro tài chính qua các yếu tố tỷ giá, chi phí sử dụng nợ, lạm phát, đây là vấn đề mà nhiều nhà kinh tế đã cảnh báo. Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát cao, giá trị đồng nội tệ ngày càng suy giảm so với ngoại tệ vay nợ, thì quy mô nợ và gánh nặng trả nợ ngày càng lớn. Thực tế các nước cho thấy, việc vay nợ và sử dụng nợ kém hiệu quả đã dẫn nhiều nước đến tình trạng “vạ nợ”, chìm đắm trong khủng hoảng nợ. Như vậy, có thể xem nợ nước ngoài như là một “con dao hai lưỡi”, vừa giúp các nước đang “thiếu vốn” tăng cường và đẩy mạnh phát triển kinh tế, ngược lại sẽ gây ra những tác động tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế của nước vay nợ. Để tìm hiểu vấn đề này, đã có các nghiên cứu trong nước về tác động của các biếnkinh tế vĩ mô đến tăng trưởng và phần nhiều nghiên cứu thuộc về nhóm nghiên cứu định tính, một số ít nghiên cứu sử dụng mô hình định lượng nhưng không có biến trực tiếp giải thích mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế, chưa có các nghiên cứu phân tích sâu nguyên nhân gia tăng nợ nước ngoài, kết hợp giữa phân tích định tính và phân tích định lượng để giải thích tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế. Để bổ sung cho vấn đề này, tác giả quyết định chọn đề tài “Nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, làm cho nợ công và nợ nước ngoài trở thành vấn đề sống còn của nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước Châu âu đang chìm đắm trong nợ và quan tâm đặt biệt ở Việt Nam hiện nay. Bởi vì, nợ nước ngoài là một biến kinh tế vĩ mô tác động mạnh đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Những năm gần đây, nợ nước ngoài của Việt Nam tăng lên rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng kinh tế, điều này đã gây nhiều quan ngại cho những nhà kinh tế, nhà hoạch định chính sách và Chính phủ Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu sâu hơn sự tác động này trong thực trạng của nền kinh tế Việt Nam là hết sức cần thiết, để rút kinh nghiệm và đề xuất những biện pháp , những chính sách quản lý vay nợ nước ngoài một cách có hiệu quả nhất, đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế bền vững trong tương lai.
Ngoài việc tập trung phân tích nguyên nhân gia tăng nợ nước ngoài ở hai góc độ thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách, nghiên cứu còn đo lường một số yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam bằng kỹ thuật phân tích đồng liên kết và mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM -Error correction model). Đây là kỹ thuật được rất nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài ứng dụng khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế, vì nó phù hợp với đặc điểm dữ liệu chuỗi thời gian. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu, song luận văn cũng không thể nào tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được được sự góp ý chân thành của thầy cô và bạn đọc nhằm giúp cho đề tài được hoàn thiện hơn.
106 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2320 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hà nước.
Cần phải giám sát chặt chẽ công tác tổ chức đấu thầu đầu tư và xây dựng,
đấu thầu chọn tư vấn, thiết kế,.. kể cả đấu thầu mua sắm, đảm bảo công khai minh
bạch, công bằng đúng pháp luật và quy luật cạnh tranh, từ đó mới giảm được chi phí
đầu tư. Bởi vì, thực trạng đấu thầu hiện nay phần lớn mang hình thức, không đảm
bảo tính cạnh tranh, đây là mãnh đất màu mỡ cho tham nhũng và ảnh hưởng nghiêm
trọng đến hiệu quả đầu tư khu vực nhà nước. Đây là việc cần làm từ trước khi quyết
định đầu tư tới lúc chọn dự án, thực hiện và giám sát, duy trì hiệu quả của dự án đầu
tư.
Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho đầu tư công, quản lý nợ công ;
Cần thiết cải thiện việc phối hợp giữa trung ương và địa phương. Các địa
phương cần ngồi lại với nhau và dùng phương pháp tiếp cận ở quy mô vùng để đưa
ra quyết định lựa chọn đầu tư nhằm tránh chồng chéo và lãng phí;
Tiết kiệm khu vực tư nhân là một yếu tố quan trọng trong các yếu tố tác động rất
lớn đến tăng trưởng kinh tế. Để khuyến khích tiết kiệm khu vực tư nhân nên hoàn
thiện chính sách và hệ thống thuế. Với sự điều chỉnh mức thuế suất thuế thu nhập cá
nhân và ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp chính phủ có khuyến khích gia tăng tiết
kiệm nhiều hơn đối với khu vực tư.
Bên cạnh những biện pháp kiểm soát chặt chẽ đầu tư công, kêu gọi sự tiết kiệm của
người dân, của doanh nghiệp để giảm sự thâm hụt ngân sách, Chính phủ cũng cần
hướng đến các biện pháp tăng thu ngân sách. Trong đó:
Cải thiện các nguồn thu ngân sách từ thuế, phí lệ phí bao gồm nâng cao
68
hiệu quả thu, tránh tình trạng ngân sách phụ thuộc quá nhiều vào các nguồn thu
không bền vững từ dầu mỏ và thuế nhập khẩu như hiện nay. Cải cách thuế, đặc biệt
thuế bất động sản, thực hiện các biện pháp chống thất thu thuế ;
Hoàn thiện các hình thức thu từ hoạt động kinh tế và hoạt động khác trong
nước vào NSNN bao gồm: thu từ hoạt động góp vốn của NSNN vào các doanh
nghiệp trong và ngoài nước, thu từ nguồn tài sản công ;
Như vậy, nếu thực hiện tốt những biện pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công, nhất là
khu vực nhà nước và cải thiện các nguồn thu sẽ góp phần cân đối giữa tiết kiệm và
đầu tư, giảm vay nợ nước ngoài, tạo tiền để tăng trưởng kinh tế bền vững, không tạo
gánh nặng nợ công cho quốc gia.
4.3- Tăng cường quản lý việc vay nợ nước ngoài không được bảo lãnh.
Việc vay nợ nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh với hình thức “tự vay, tự
trả”, không bị chi phối bởi Luật quản lý nợ công có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2010,
và Chính phủ cũng không chịu trách nhiệm thanh toán các khoản vay này, bên đi
vay phải chịu trách nhiệm thanh toán. Tuy nhiên, theo thông lệ quốc tế thì họ vẫn
tính vào tổng nợ nước ngoài của quốc gia, nếu Việt nam tính khoản nợ này vào thì
tổng nợ nước ngoài quốc gia rất lớn, có thể vượt rất xa ngưỡng an toàn nợ.
Cho đến nay, hình thức tự vay, tự trả vẫn chưa được Chính phủ kiểm soát. Theo tác
giả, các đơn vị vay nợ nước ngoài cùng đầu tư trong nước Việt Nam, nếu kinh
doanh thua lỗ, dẫn đến phá sản, mất khả năng thanh toán thì sẽ tác động rất nghiêm
trọng đến tòan bộ nền kinh tế. Và với vị thế chính trị trên trường quốc tế, Việt nam
không thể chối bỏ trách nhiệm thanh toán, lý do là nhà nước không thể hay khó
lòng về mặt chính trị xóa trách nhiệm đối với nợ của các doanh nghiệp do chính
chính phủ dựng lên. Nợ công là thước đo hành xử về chính sách của nhà nước. Do
đó, để đảm bảo an ninh tài chính quốc gia, Chính phủ nên ban hành các quy phạm
pháp luật để quản lý, kiểm soát loại hình này.
69
Chính phủ quản lý vay nước ngoài tự vay, tự trả trong khuôn khổ quản lý nợ nước
ngoài của quốc gia, bảo đảm an toàn nợ trong giới hạn được cấp có thẩm quyền phê
duyệt, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia và cân đối vĩ mô của nền kinh tế.
Việc quản lý hình thức tự vay, tự trả thông qua đầu mối Ngân hàng Nhà nước, đảm
bảo phù hợp với chính sách quản lý tín dụng trong nước, đảm bảo thống nhất mục
tiêu của chính sách tiền tệ, chính sách quản lý ngoại hối trong từng thời kỳ, kể cả
Các khoản vay nước ngoài của doanh nghiệp dưới hình thức phát hành trái phiếu
quốc tế phải tuân thủ quy định hiện hành của pháp luật về phát hành trái phiếu quốc
tế.
4.4- Cải thiện thể chế và chính sách để hướng đến xây dựng một chiến lược
quản lý nợ thích nghi với bối cảnh hiện nay.
Qua kết quả đánh giá theo sức mạnh thể chế và chất lượng chính sách quản lý nợ
nước ngoài, cho thấy thể chế và chính sách quản lý nợ nước ngoài của Việt Nam
xếp vào chỉ số CPIA ≤3, tức là ở mức kém. Do đó, cần phải cải thiện thể chế và
chính sách quốc gia (CPIAs) nhằm ngăn chặn cú sốc từ bên ngoài đối với những
nước có thu nhập trung bình như Việt Nam.
Cách tiếp cận này dựa vào khuôn khổ chi tiết của từng quốc gia trên nền tảng thể
chế và chính sách nhằm hướng đến phân tích nợ năng động và định lượng các
ngưỡng ổn định nợ dựa vào cơ sở chất lượng của chính sách và thể chế. Nghĩa là,
các quốc gia có chính sách và thể chế tốt thì có thể chống đỡ được mức nợ cao hơn
so với mức ổn định nợ cơ bản. Ngược lại, quốc gia nào mà thể chế và chính sách
yếu kém thì mức độ và quy mô nợ công cần được khống chế trong giới hạn ngưỡng
của các nước HIPCs.
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập đang tiến dần đến chính sách tự do hóa tài chính
và trong đó có tự do hóa tài khoản vốn. Đồng thời. do tính phức tạp ngày càng lớn
của danh mục nợ bao gồm nợ trong nước và nước ngoài, cần thiết phải cải thiện thể
chế và chính sách quốc gia để ứng phó với những bất ổn định của nợ công và nợ
70
nước ngoài.Trong đó, thể chế và chính sách quốc gia cần được đổi mới và cải thiện
nhằm vào các tiêu chí sau:
- Thứ nhất: Quản lý kinh tế
Quản lý kinh tế vĩ mô: Yêu cầu chính sách tỷ giá và tiền tệ phải hướng đến ổn định
giá cả; chính sách tổng cầu của Chính phủ không gây chèn lấn đầu tư của khu vực
vực tư.
Chính sách tài khóa: Cân bằng cơ bản cần được kiểm soát để đảm bảo sự ổn định
của tài chính công; thu, chi công cần được điều chỉnh để ngăn chặn các cú sốc khi
cần thiết; và sự cung cấp hàng hóa công phải thống nhất trong khuôn khổ trung hạn.
Thứ hai: Chính sách cơ cấu
- Thương mại: Xem xét khuôn khổ chính sách hỗ trợ phát triển thương mại. Có hai
lĩnh vực cần quan tâm đó là, (a) những giới hạn của chế độ thương mại mà chủ yếu
là tập trung vào độ cao của hàng rào thuế quan và phi thuế quan cũng như tính minh
bạch và tiên liệu của chế độ thương mại; (b) mức độ tạo điều kiện cho hoạt động
thương mại của chính sách hải quan.
- Khu vực tài chính: Có 3 vấn đề cần quan tâm, (a) sự ổn định tài chính; (b) tính
hiệu quả và độ sâu tài chính, sức mạnh huy động nguồn lực; và (c) tiếp cận các dịch
vụ tài chính.
- Môi trường luật pháp kinh doanh.
Thứ ba: Chính sách xã hội và công bằng xã hội
- Công bằng về giới: Tiêu chí này đánh giá mức độ mà quốc gia tăng cường và đưa
vào các chương trình và thể chế (a) nhằm đẩy mạnh sự tiếp cận của phụ nữ đối với
các nguồn lực kinh tế và sản xuất; (b) nâng cao địa vị của phụ nữ trong xã hội…
- Công bằng sử dụng nguồn lực công: Thu chi tài khóa phải tác động đến người
nghèo và thống nhất với các ưu tiên giảm nghèo quốc gia.
71
- Phát triển nguồn nhân lực: Quy mô và chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia là
yếu tố quan trọng cho sự phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế. Tiêu chí được
đánh giá qua (a) chất lượng dịch vụ y tế và dinh dưỡng; (b) chất lượng của hệ thống
giáo dục và đào tạo; (c) công tác phòng chống và điều trị HIV/AIDS…
- Lao động và đảm bảo xã hội: Tiêu chí này đánh giá chính sách của Chính phủ
trong việc giảm thiểu rủi ro trở nên nghèo, giúp cho người nghèo quản lý tốt các rủi
ro và đảm bảo mức độ phúc lợi tối thiểu cho tất cả mọi người, như: (a) chương trình
mạng lưới an toàn xã hội; (b) bảo vệ các tiêu chuẩn lao động cơ bản; (c) quy định
thị trường lao động; (d) lương hưu và các chế độ đảm bảo cho người già…
- Chính sách và thể chế ổn định môi trường: Đánh giá mức độ chính sách bảo vệ
môi trường và sử dụng ổn định nguồn tài nguyên thiên nhiên và quản lý ô nhiễm.
Thứ tư: Thể chế và quản lý khu vực công
- Quyền tài sản và quản lý dựa vào pháp luật: Tiêu chí này đánh giá mức độ tạo điều
kiện cho khu vực kinh tế tư nhân tham gia vào hoạt động kinh doanh. Có các tiêu
chí cần xem xét, (a) nền tảng pháp lý về quyền tài sản và hợp đồng; (b) tính tiên
liệu, minh bạch và công bằng của luật pháp tác động đến hoạt động kinh tế …
- Chất lượng quản lý tài chính và lập ngân sách: Được đánh giá qua các tiêu chí (a)
ngân sách đáng tin cậy và tổng thể có gắn kết với các ưu tiên chính sách; (b) hệ
thống quản lý tài chính hiệu quả để đảm bảo ngân sách được thực hiện có hiệu quả
và hiệu lực; (c) kế toán và báo cáo tài chính chính xác và kịp thời.
- Hiệu quả huy động nguồn thu: (a) chính sách thuế; (b) quản trị thuế với chi phí
thấp nhất.
- Chất lượng quản trị công: (a) hợp tác chính sách và trách nhiệm; (b) cung cấp dịch
vụ và hiệu quả hoạt động…
- Tính minh bạch, trách nhiệm và tham nhũng của khu vực công.
Các tiêu chí CPIAs được xây dựng ở chừng mực nhất định nó tạo ra khuôn khổ hỗ
trợ tăng trưởng ổn định, giảm nghèo và sử dụng có hiệu quả nợ công.
72
4.5- Hoàn thiện cơ chế quản lý nợ nước ngoài:
- Xây dựng chiến lược vay nợ an toàn.
Việt Nam đã có Luật quản lý nợ công, cơ sở pháp lý quan trọng để tiến tới một
chiến lược quản lý nợ công, nợ nước ngoài hoàn chỉnh. Tuy nhiên, Luật quản lý nợ
công Việt Nam không đề cập việc xây dựng chiến lược quản lý nợ mà chỉ quy định
chung là Quốc hội quyết định “mục tiêu, định hướng huy động, sử dụng vốn vay và
quản lý nợ công trong từng giai đoạn 5 năm”. Do đó, cần xây dựng kế hoạch chiến
lược về vay nợ công trên cơ sở và phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội,
kế hoạch thu, chi ngân sách nhà nước trong từng giai đoạn, thời kỳ. Kế hoạch chiến
lược về vay nợ công xác định rõ mục đích vay (vay nợ để tài trợ thâm hụt ngân
sách, tái cơ cấu nợ và cho vay lại hoặc vay để tài trợ cho các chương trình, dự án
đầu tư quan trọng, hiệu quả, vay nhằm bảo đảm an ninh tài chính quốc gia), mức
huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn theo từng đối tượng vay trong nước và
ngoài nước, với hình thức huy động vốn và lãi suất thích hợp.
Kế hoạch chiến lược về vay nợ công cũng cần chỉ rõ đối tượng sử dụng các khoản
vay, hiệu quả dự kiến; xác định chính xác thời điểm vay, số vốn vay từng giai đoạn,
tránh tình trạng tiền vay không được sử dụng trong thời gian dài hoặc chưa thực sự
có nhu cầu sử dụng. Đồng thời, lựa chọn hợp lí các nguồn vay nước ngoài nhằm
hướng tới nâng cao chất lượng nguồn vay. Bởi vì, mỗi nguồn vốn có đặc điểm
riêng, cần phối hợp các nguồn vay nợ nước ngoài một cách thích hợp nhất theo mục
đích sử dụng trên nguyên tắc khai thác triệt để các nguồn vốn ưu đãi có thời gian
dài, thời gian ân hạn dài, lãi suất thấp, tỷ lệ ưu đãi cao như viện trợ phát triển chính
thức để đầu tư phát triển cơ sở hạn tầng, vì cần vốn đầu tư lớn, tác động đến tăng
trưởng lâu dài, bền vững.
Chính sách nợ công hiệu quả cần xem xét liệu chiến lược quản lý nợ công có hấp
thu tốt các khoản vay cho tăng trưởng kinh tế hay không; có giảm thiểu rủi ro tài
khóa và đảm bảo ổn định nợ dài hạn hay không; nợ công phải hướng đến duy trì ổn
định nợ và mức độ phối hợp giữa quản lý nợ công và chính sách vĩ mô; trong chiến
73
lược quản lý nợ công, thông tin phải được cập nhật đầy đủ và kịp thời; bộ phận
quản lý nợ công có đủ năng lực kiểm soát các khoản nợ mới nhằm đảm bảo ổn định
nợ.
- Nâng cao hiệu quả và tăng cường kiểm soát việc sử dụng vốn vay, vốn được Chính
phủ bảo lãnh..
Đây là vấn đề cốt yếu bảo đảm cho khả năng trả nợ và tính bền vững của nợ công.
Chính phủ là người đứng ra vay nợ, nhưng không phải là người sử dụng cuối cùng
các khoản vốn vay, mà là các chủ dự án, các đơn vị thụ hưởng ngân sách, các doanh
nghiệp; trong mọi trường hợp, ngân sách nhà nước phải gánh chịu hậu quả, rủi ro
trong toàn bộ quá trình vay nợ.
Để bảo đảm hiệu quả trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay cần phải tuân thủ 2
nguyên tắc cơ bản là: không vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn, vay thương mại nước
ngoài chỉ sử dụng cho các chương trình, dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và
bảo đảm khả năng trả nợ; đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ, thường xuyên quá
trình sử dụng các khoản vay nợ, các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh, nhất là tại
các đơn vị sử dụng trực tiếp vốn vay như: tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước,
ngân hàng thương mại, các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng.
Cần chú ý đến khả năng chịu đựng nợ nước ngoài của Việt Nam, không nên chủ
quan khi chỉ dựa vào ngưỡng an toàn cho nợ nước ngoài theo tập quán quốc tế là
50% GDP. Trong thực tế, theo tiêu chuẩn phân loại mức độ nợ của Ngân hàng Thế
giới, cho rằng tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP trong khoảng 30% - 50% có nghĩa là quốc
gia đó đang ở mức độ khó khăn. Với tình hình ngân sách luôn bị thâm hụt, nếu công
tác kiểm soát nợ không chặt chẽ và hiệu quả thì khả năng vượt ngưỡng an toàn sẽ
rất gần. Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải tính đến tổng nợ nước ngoài phải trả với
tổng các khoản vay mới, tránh tình trạng tổng phải trả lớn hơn tổng khoản vay vì
các năm qua con số trả nợ thấp do các khoản vay mới chưa đến hạn nhưng những
năm sắp tới đây chúng ta sẽ chịu áp lực trả nợ khi hạn thanh toán đã đến và cũng
74
theo thông tin từ Bộ Tài chính, trong giai đoạn 2006- 2010, Việt N am phải trả nước
ngoài l0 - 11 tỷ USD, tính bình quân mỗi năm phải trả 2 tỷ USD.
Để sử dụng nợ nước ngoài có hiệu quả, cần phải xem xét một cách độc lập, khách
quan và đánh giá cẩn trọng các phương án kinh doanh, năng lực và tiềm năng của
các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn, cần định giá được lợi nhuận ròng trong
phương án này phải cao hơn lãi suất đi vay. Phân chia rủi ro cho việc phân bố các
khoản vay vào các dự án đầu tư nên phân vốn vay này vào các dự án đầu tư trong
các lĩnh vực ngành nghề khác nhau nhưng chủ yếu tập trung vào ngành kinh tế đang
là mũi nhọn. Có các biện pháp chế tài mạnh không chỉ dành riêng cho doanh nghiệp
được vay lại nguồn vốn từ trái phiếu mà cả với các vị trí lãnh đạo liên quan từ khâu
đề nghị, xét duyệt dự án, điều hành và thực hiện dự án, có như vậy mới ràng buộc
được trách nhiệm tài chính.
- Kiểm soát mức nợ phù hợp với nền kinh tế, giám sát hệ thống tài chính tiền tệ,
thắt chặt chính sách tài khoá.
Vay nợ để đầu tư cho tăng trưởng kinh tế là điều bình thường. Tuy vậy, nợ bao
nhiêu là an toàn lại là một bài toán khó giải. Nợ hơn 100% GDP đã đủ làm sập nền
kinh tế Hy Lạp nhưng nợ 200% GDP như Nhật Bản lại vẫn chưa bị coi là nguy
hiểm. Tuy nhiên, bài toán chi tiêu vốn không dễ với các nước giàu, lại càng khó với
các nước đang phát triển có nền kinh tế hạn chế. Không thể vì mục tiêu phát triển
trước mắt mà thiếu tính toán về dài hạn.
Đối với Việt Nam, là phải vay mượn, nhất là vay vốn nước ngoài dưới nhiều hình
thức, thì mới có nguồn đầu tư cho tăng trưởng. Do đó, không lúc nào được lãng
quên vấn đề sử dụng vốn vay sao cho hiệu quả, bởi đó là những đồng tiền vay
mượn, phải trả lãi và đến hạn sẽ phải trả nợ. Nếu sử dụng các khoản vay không hiệu
quả, tham nhũng gây thất thoát và thu không nghiêm (trốn thuế) hay thu không đủ,
nợ nần có thể chồng chất và rất dễ lâm vào tình trạng vỡ nợ.
Việt Nam rất cần sự giám sát chặt chẽ đối với hệ thống tài chính và các doanh
nghiệp lớn trong nền kinh tế, giảm thiểu các khoản cho vay kém chất lượng và loại
75
bỏ những doanh nghiệp nhà nước lớn kém hiệu quả càng sớm càng tốt để tránh đến
khi một doanh nghiệp quá lớn để đổ vỡ bị lâm vào nguy cơ sụp đổ thì Nhà nước
phải đứng ra bảo lãnh và cứu trợ. Nếu vẫn tiếp tục chạy theo tăng trưởng, bỏ mặc an
toàn hệ thống và dung túng những doanh nghiệp có quy mô quá lớn nhưng thực tế
chỉ còn các vỏ bọc bên ngoài thì rủi ro khủng hoảng tài khóa và nợ công sẽ ngày
một tăng lên. Vì vậy, trường hợp của Ireland hàm chứa những kinh nghiệm và cũng
là một lời cảnh báo cần được chú ý.
- Công khai minh bạch thông tin về nợ nước ngoài của quốc gia.
Việc công khai, minh bạch nhằm tăng cường trách nhiệm trong quản lý, sử dụng
các khoản nợ nước ngoài và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nợ. Việc
công bố thông tin và minh bạch chính sách liên quan đến ngân sách và nợ nước
ngoài là hết sức cần thiết và quan trọng. Đây là xu hướng tất yếu mà Chính phủ Việt
Nam, và cụ thể là Bộ Tài chính phải thực hiện. Tuy nhiên, công bố thông tin không
nhất quán cũng có thể trở thành con dao hai lưỡi, gây ra tâm lý nghi ngờ và bất ổn
cho các nhà đầu tư cũng như thị trường. Do vậy, trong thời gian tới, Bộ Tài chính
cần phải đưa ra những thông điệp nhất quán, rõ ràng, có cơ sở hỗ trợ giải thích phù
hợp (với thông lệ quốc tế và tiêu chuẩn thị trường) về vấn đề nợ công, thâm hụt
ngân sách, và các chính sách tài chính có liên quan của Việt Nam để tránh gây tâm
lý bất ổn và nghi ngờ cho thị trường. Như trường hợp của Hy Lạp là điển hình cho
việc công bố thông tin không nhất quán, sai lệch trong bối cảnh đã đầy các bất ổn
và nghi ngờ, làm cho khủng hoảng ở nước này càng trở nên trầm trọng.
Hiện tại, Bộ Tài chính mới công bố trên cổng thông tin điện tử Bản tin Nợ nước
ngoài với chu kỳ 6 tháng một lần, với độ trễ là 6 tháng Bản tin Nợ nước ngoài này
không bao gồm các khoản nợ nước ngoài còn lại của khu vực công, khu vực tư nhân
và đặc biệt là nợ trong nước với xu thế ngày một tăng cả về trị số tuyệt đối và tỷ
trọng trong tổng số nợ.
Theo điều 47- Luật Quản lý nợ công quy định Bộ Tài chính phải công khai thông
tin về nợ công, bao gồm : “Tổng số dư nợ, cơ cấu nợ trong nước, nợ nước ngoài của
76
Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của chính quyền địa phương, số liệu
vốn vay thực nhận và trả nợ hàng năm, các chỉ tiêu giám sát nợ chính phủ, nợ công,
nợ nước ngoài của quốc gia”. Tuy nhiên, cho đến nay việc tiếp cận thông tin của
công chúng về nợ nói chung, nợ công nói riêng ở nước ta hiện nay rất hạn chế.
Những khỏan mục nợ nước ngoài của quốc gia, cơ cấu nợ trong nước, nợ của chính
quyền địa phương,... vẫn chưa được công bố.
- Đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước.
Để giảm bớt tình trạng tham nhũng cần:
(i) minh bạch, công khai đầy đủ các thông tin như thông tin liên quan đến tài chính
và thủ tục hành chính bởi vì khi có tình trạng thông tin bất đối xứng thì người nắm
giữ thông tin sẽ được lợi nhờ giảm được chi phí còn người thiếu thông tin sẽ phải
gia tăng chi phí để có được thông tin. Điều này dễ nảy sinh tình trạng nhũng nhiễu
và hối lộ. Do vậy, các quy hoạch, định mức, tiêu chuẩn chi tiêu sử dụng ngân sách
nhà nước phải công khai, phải phù hợp với mặt bằng giá cả trong từng thời kỳ nhất
định. Mọi thông tin liên quan đến quy trình thực hiện các thủ tục phải niêm yết công
khai trên các bản thông báo, trên mạng hoặc phương tiện thông tin đại chúng để
người dân có thể tiếp cận;
(ii) cải cách hành chính, giảm bớt các khâu, các thủ tục không cần thiết gây phiền
hà cho dân. Các chính sách, văn bản đưa ra phải sát với thực tế, rõ ràng và có thể
thực hiện; tránh tình trạng văn bản vừa đưa ra đã hủy bỏ hoặc một nội dung được
hiểu theo nhiều ý;
(iii) định mức thời gian hoặc thiết lập một quy trình nghiệp vụ chuẩnn cho tất cả
mọi công việc từ công việc sự vụ hàng ngày đến việc thực hiện các dự án lớn; chấm
dứt tình trạng quy hoạch treo hoặc đầu tư kéo dài;
(iv) giảm bớt hội họp, phong bì, thay thế việc hội họp bằng phân công phân nhiệm
rõ ràng; thay thế các cuộc họp mặt truyền thống bằng các cuộc họp thông qua mạng
viễn thông; sử dụng hình thức liên lạc thông qua mạng nội bộ và mạng toàn cầu
thay vì sử dụng văn bản giấy nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí;
77
(v) gắn quyền lợi với trách nhiệm. Quyền lợi và trách nhiệm phải cụ thể hóa đối với
từng cá nhân; trong quy chế tài chính về khen thưởng được cụ thể hóa bằng vật chất
thì đối lại cũng phải có các quy định về đền bù thiệt hại khi sai phạm chứ không
phải cứ sai là sử dụng công quỹ để đền bù thiệt hại về vật chất,
(vi) tránh tinh trạng có luật mà không ai thi hành. Việc thanh tra, giám sát hiện nay
mang nặng tính hình thức, thiếu chuyên nghiệp, cung cách xử lý còn nặng tình cảm.
Việc giám sát phát hiện sai phạm phải thể hiện tính chuyên nghiệp, không giám sát
một cách tự phát hoặc tình cờ mà phải có chuyên môn, phải có chiến thuật hay nói
cách khác là phải có một cung cách làm việc hiệu quả. Cá nhân, cơ quan thực hiện
giám sát phải thực sự có quyền và phải được đảm bảo an toàn về tính mạng và tài
sản. Thực quyền này đòi hỏi phải phân cấp và cụ thể hóa bằng luật.
Cho đến nay, chưa một quốc gia nào có thể chứng tỏ đã thành công hoàn toàn trong
việc chống tham nhũng, nhất là trong quá trình sử dụng nguồn vốn ODA. Tuy
nhiên, ở những góc nhìn khác nhau, có thể cho thấy ở quốc gia này hay quốc gia kia
đạt được những kết quả nhất định trong việc hạn chế các tác nhân gây nên nạn tham
nhũng, hoặc có những công cụ hữu hiệu cho việc phòng ngừa tham nhũng.
Trong cơ cấu nợ của một quốc gia, nợ nước ngoài là danh mục nợ lớn. Đây là một
cơ cấu tài chính rất phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro tiềm năng ảnh hưởng đến sự
ổn định tài chính trong nước, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Do vậy,
nâng cao hiệu quả quản lý nợ quốc gia nói chung và quản lý nợ nước ngoài nói
riêng hiện được Chính phủ rất quan tâm. Thời gian qua, Việt Nam thành công trong
việc thực hiện chính sách quản lý nợ thận trọng, kiểm soát quy mô nợ công ở mức
khá an toàn. Phù hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, VN cần hoàn thiện thể
chế và chính sách để qua đó chuyển chính sách quản lý nợ công từ chiến lược
phòng thủ sang chiến lược thích nghi với xu thế hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
toàn cầu hiện nay.
78
KẾT LUẬN
Vay nợ nước ngoài là một nguồn vốn cần thiết cho phát triển kinh tế, tuy nhiên
không nên vay nợ nước ngoài bằng mọi giá, càng không thể coi việc vay nợ nước
ngoài là một cứu cánh để tăng trưởng trong hiện tại mà không chú ý đến sự phát
triển bền vững trong quá trình phát triển của nền kinh tế.
Qua phân tích thực trạng vay nợ nước ngoài của Việt Nam, nghiên cứu nhận thấy
mặc dù nợ nước ngoài ở Việt Nam đang gia tăng mạnh trong những năm gần đây
nhưng so với các tiêu chí đánh giá trong nước và các tổ chức tài chính quốc tế thì
tình trạng nợ nước ngoài của Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an toàn. Nghiên cứu
cũng cho thấy sử dụng nợ chưa được như mong đợi, hiệu quả sử dụng nợ nói riêng
và sử dụng vốn nói chung còn thấp, nếu dùng chỉ số ICOR để đánh giá hệ số này ở
Việt Nam cao hơn nhiều so với các quốc gia khu vực Châu Á. Quản lý nợ cũng còn
nhiều điểm cần hoàn thiện để vay nợ không còn là gánh nặng quốc gia.
Ngoài ra nghiên cứu còn phân tích mối quan hệ định lượng giữa GDP, nợ nước
ngoài, đầu tư nội địa, dịch vụ nợ và độ mở nền kinh tế, trong đó mục đích chính là
tìm ra mối quan hệ trong ngắn hạn và dài hạn giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi của nền kinh tế từ 1986-2010. Kết
quả cho thấy trong dài hạn, nợ nước ngoài, đầu tư nội địa, độ mở nền kinh tế, xuất
khẩu đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam hiện nay. Trong đó, gánh
nặng nghĩa vụ nợ phải trả cho nước ngoài tác động ngược chiều đến tăng trưởng
kinh tế.
Trên cơ sở phân tích nghiên cứu có nêu ra một số khuyến nghị về chính sách quản
lý vay nợ nước ngoài. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng
như hiện nay, thách thức đặt ra cho Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển
khác nói chung là cần nhận thức đúng đắn vai trò vay và trả nợ như thế nào để vừa
khai thác nguồn vốn vay nước ngoài sao cho hiệu quả để biến việc vay mượn thành
một đòn bẩy phát triển kinh tế, vừa không làm gia tăng những nguy cơ đối với an
79
ninh tài chính và không phụ thuộc vào những can thiệp về kinh tế chính trị từ nước
ngoài.
HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng theo tác giả, đề tài vẫn còn một số hạn chế.
Như đã trình bày, số liệu thống kê tài chính trong nước không đầy đủ và rất khó tiếp
cận nên nhiều chỉ tiêu, bảng biểu không trình bày đầy đủ số liệu xuyên suốt từ năm
1986 đến nay. Số liệu được tổng hợp từ nhiều tổ chức khác nhau trong và ngoài
nước;
Nghiên cứu sử dụng số liệu hằng năm nên số quan sát chưa đủ lớn để thực hiện
kiểm định đồng liên kết theo phương pháp Johansen và Juselius (1990) để so sánh
kết quả với phương pháp đã thực hiện;
Vì hạn chế thời gian và dữ liệu nên nghiên cứu chỉ tập trung vào chỉ tiêu ICOR ở
gốc độ cơ bản nhất để đánh giá hiệu quả đầu tư, chưa so sánh với các chỉ tiêu khác.
Để hoàn chủ đề nghiên cứu nợ nước ngoài, theo quan điểm của tác giả có thể thực
hiện thêm các chủ đề như:
Thiết lập mô hình xác định ngưỡng nợ nước ngoài;
Biện pháp kiểm soát và sử dụng hiệu quả vốn ODA;
Hoàn thiện khuôn khổ luật quản lý nợ công của Việt Nam.
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
Sách, Công trình nghiên cứu và tạp chí:
Nguyễn Ngọc Sơn, Trần Thị Thanh Tú (2007), Nguồn tài chính trong nước và
nước ngoài cho tăng trưởng ở Việt Nam, Diễn đàn phát triển Việt Nam, NXB
Lao Động – Xã Hội;
Nguyễn Trọng Hoài (2009), Dự báo và phân tích dữ liệu trong kinh tế và tài
chính, NXB Thống Kê ;
Phạm Trí Cao, Vũ Minh Châu (2009), Kinh tế lượng ứng dụng, NXB Thống Kê
;
PGS.TS. Trần Ngọc Thơ, Nguyễn Ngọc Định (2008), Tài chính Quốc Tế, NXB
Thống Kê ;
PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang (2007), Tài chính Doanh nghiệp Hiện đại, NSX
Thống Kê ;
GS.TS. Dương Thị Bình Minh & PGS.TS. Sử Đình Thành (2008), “ Phương
pháp tiếp cận đánh giá hiệu quả nợ công”, Tạp chí kinh tế Phát triển số 215;
Ths. Đoàn Kim Thành – Viện nghiên cứu phát triển Tp.Hồ Chí Minh (HIDS)
(2008):” Vốn vay ODA và khả năng trả nợ của Việt Nam”, trình bày tại Hội
nghị nhóm các nhà tư vấn tài trợ cho Việt Nam, ngày 4/12/2008 ;
Ths. Nguyễn Hoàng Phương với đề tài “ Ước lượng hiệu quả của vốn ODA đối
với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam”, đăng trên tập Nguồn tài chính trong nước
và nước ngoài cho tăng trưởng ở Việt, Nam, Diễn đàn Phát triển Việt Nam,
NXB Lao động Xã hội, năm 2007 ;
TS. Mai Thu Hiền và Nguyễn Thị Như Nguyệt (2010)”Tình hình nợ công và
quản lý nợ công ở Việt Nam”;
Các Bản tin nợ nước ngoài số 1,2,3,4,5,6 và 7- Bộ Tài chính;
Luật quản lý nợ công của Quốc hội khóa XII số 29/2009/QH12 ngày 17 tháng 6
năm 2009, hiệu lực 01/01/2010; và các Nghị định , thông tư hướng dẫn;
Nguy cơ từ ICOR tăng vọt! ngày 3/11/2009 tại
81
nguy-co-tu-icor-tang-vot.chn.
Tiếng Anh
Krugman, Paul, (1988), “Financing versus forgiving a debt overhang,” Journal
of Development Economics, Washington;
Catherine Pattillo, Hélène Poirson and Luca Ricci (2002):” External Debt and
Growth”, Magazine Finance and Development of the IMF, June 2002, Volume
39, Number 2;
Frimpong, J. M. and Oteng-Abayi, E. F., (2006) “The Impact Of External Debt
On Economic Growth In Ghana: A Cointegration Analysis”;
Elbadawi, A. I., J. B. Ndulu, and N. Ndung'u (1996) ‘Debt Overhang and
Economic Growth in Sub-Saharan Africa’. Paper presented at the IMF/World
Bank Conference on External Financing for Low-income Countries, December.
Washington, DC: IMF/World Bank ;
Mehmet Caner, North Carolina State University, Thomas Grennes, North
Carolina State University, Fritzi Koehler-Geib, World Bank (). “Finding the
Tipping Point - When Sovereign Debt Turns Bad”;
Shahnawaz Malik , Muhammad Khizar Hayat và Muhammad Umer Hayat
(2010): “External Debt and Economic Growth: Empirical Evidence from
Pakistan”, International Research Journal of Finance and Economics - Issue 44
(2010)
Krishna Prasad Regmi (2008): “A Study on Public Debt and its Impact on
Economic Growth in Nepal”, World Bank;
Were, Maureen, (2001), “The Impact of External Debt on Economic Growth and
Private Investment in Kenya: An Empirical Assessment”, Kenya Institute for
Public Policy Research and Analysis ;
Reinhart, Carmen and Kenneth Rogoff ( 2010) “Growth in a Time of Debt”.
American Economic Review, May forthcoming;
82
Mehmet Caner, Thomas Grennes và Koehler Fritzi-Geib (2010), “Finding the
Tipping Point—When Sovereign Debt Turns Bad”, Policy Research Working
Paper 5391, World Bank;
Theo Engle,R.F and Granger, C.W.J (1983 và 1986) :“Cointe-gration and Error
Correction Representation. Estimation and Testing. Econometrica, 55: 251-76;
Adepoju, Adenike Adebusola, Salau,Adekunle Sheu and Obayelu, Abiodun
Elijah (2007), “The effects of External Debt Management on Sustainable
Economic Growth and Development: Lessons from Nigeria”, Munich Personal
RePEc Archive.
Cohen, D. (1989). ‘How to Cope with Debt Overhang: Cut Flows rather than
Stocks’, in I. Diwan and I. Husain (eds), Dealing with the Debt Crisis.
Washington, DC: World Bank.
83
PHỤ LỤC SỐ 1
Tóm tắt các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ tác động của nợ nước
ngoài đến tăng trường kinh tế.
1- Đánh giá tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Pakistan.
Nghiên cứu của đồng tác giả Shahnawaz Malik (Chairman Department of
Economics, Bahauddin Zakaryia University, Multan, Pakistan), Muhammad Khizar
Hayat (Corresponding Author Department of Economics, Bahauddin Zakaryia
University, Multan, Pakistan) và Muhammad Umer Hayat University Science
Sociale Toluse, France, với bài viết : “External Debt and Economic Growth:
Empirical Evidence from Pakistan” , do Tạp chí Nghiên cứu Tài chính và Kinh tế
Quốc tế, số ISSN 1450-2887 Phát hành 44 (2010). Trọng tâm của nghiên cứu này là
khám phá mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ở Pakistan cho
giai đoạn năm 1972 – 2005, từ đó đưa ra những nhận xét và khuyến nghị về nợ
nước ngoài của Pakistan.
Mặc dù, tình hình chính trị thường xuyên bất ổn nhưng Pakistan có tốc độ tăng
trưởng kinh tế rất cao. Tuy nhiên, Pakistan lại thường xuyên phải đối mặt với vấn
đề nghiêm trọng trong cán cân thanh toán do thâm hụt ngân sách. Để giải quyết
thâm hụt cán cân thanh toán quốc gia họ dựa vào nợ nước ngoài. Do quá phụ thuộc
vào nguồn lực bên ngoài và trở nên không kiểm soát được. Ngân hàng Thế giới
phân loại Pakistan là quốc gia mắc nợ nghiêm trọng của Nam Á vào năm 2001. Nợ
nước ngoài của Pakistan bình quân trên 50% GDP. Pakistan đã được sắp xếp lại nợ
nước ngoài hai lần giữa năm 1998 và 2001 bởi vì nước này không thể trả nợ nước
ngoài. Trong đó nợ nước ngoài năm 1972-1973 là 4.385 triệu USD đã tăng lên
29.630 triệu USD (năm 2005-2006). Dữ liệu cho thấy một sự gia tăng liên tục nợ
nước ngoài. Trong nghiên cứu này tác giả sử dụng mô hình như sau.
GDP = α0 + α1 ED + α2 DS + ut
Trong đó : Biến GDP là biến phụ thuộc đại cho tổng sản phẩm quốc nội ; “ED” là
biến tổng nợ nước ngoài và “DS” là biến dịch vụ nợ.
84
Để đo lường các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế trong mô hình thực
nghiệm, tác giả đã sử dụng phương pháp Augmented Dickey-Fuller (ADF) để kiểm
định tính dừng và không dừng (unit roots or non-stationary tests) của các chuỗi thời
gian sử dụng trong mô hình thực nghiệm. Sau đó, áp dụng phương bình phương bé
nhất (OLS) để hồi qui mộ hình và kết luận và nhận xét đề xuất.
Kết quả thực nghiệm cho thấy: Nợ nước ngoài tác động tiêu cực và đáng kể đến
tăng trưởng kinh tế. Bằng chứng cho thấy khi tăng nợ nước ngoài là nguyên nhân
chính của suy giảm trong đầu tư sẽ dẫn đến suy giảm tăng trưởng kinh tế. Nghĩa vụ
nợ cũng đã tác động đáng kể và tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Tình trạng nợ nước ngoài tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế của Pakistan là
do Pakistan đang phải đối mặt với nhiều vấn đề như bất ổn chính trị, khủng bố, dẫn
đến công tác quản lý nợ của Chính phủ quá yếu kém, trong khi chi tiêu công quá
lớn không kiểm soát được, phải chấp thuận các điều kiện không thuận lợi từ WB và
IMF. Cuối cùng phải thu hẹp hoạt động thương mại để tiết kiệm cán cân thanh toán
đáp ứng nghĩa vụ nợ của đất nước.
2- Đánh giá tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Nepal.
Nghiên cứu của tác giả Krishna Prasad Regmi trong bài viết : “A Study on Public
Debt and its Impact on Economic Growth in Nepal” năm 2008. Mục tiêu chính của
nghiên cứu này là đánh giá tác động của nợ nước ngoài và dịch vụ nợ đến tăng
trưởng kinh tế của Nepal. Tác giả đã sử dụng dữ liệu từ năm 1986 - 2006, để tiến
hành các bước thực nghiệm.
Nợ nước ngoài đại diện cho một nguồn tài chính quan trọng ở Nepal, nơi mà nó bổ
sung tiết kiệm thấp, kim ngạch xuất khẩu thu hẹp, và các căn cứ tính thuế mỏng.
Trong sự chênh lệch của khoảng cách tiết kiệm-đầu tư liên tục, khoảng cách xuất
nhập khẩu, và thâm hụt tài chính, quản lý nợ công là một vấn đề cần thiết cho sự ổn
định vĩ mô nền kinh tế Nepal.
Nepal liên tục thâm hụt ngân sách lớn và kéo dài trong những thập kỷ gần đây, vay
nợ để giải quyết với đói nghèo. Trong cơ cấu nợ công của Nepal, bao gồm nợ trong
85
nước và nợ nước ngoài. Nợ trong nước chiếm bình quân 38,6% (1986-1987) và tăng
lên 47,7% (2005-2006), tỷ lệ tăng bình quân 13,6%/năm. Nợ nước ngoài chiếm
63,6% trong 1986-1987 đến năm 2005/06 chiếm 71,4 % trong tổng số thâm hụt tài
chính, tỷ lệ tăng bình quân là 16,5%/năm. Mặc dù, nợ công có xu hướng tăng nhanh
bình quân 62,58% GDP (1986-2006), và dịch vụ nợ cũng tăng nhanh trung bình
hàng năm là 15,9%, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao bình quân
12,45%/năm. Trong nghiên cứu này tác giả sử dụng mô hình cụ thể nhu sau:
GDPGR = a0 + a1 DEDTGD + a2 DSR + a3 DSFCR + a4 TDGDP + a5 GDEIV +a6
GDERV + a7INF + ut
Trong đó : GDPGR biến phụ thuộc đại diện cho tốc độ tăng trưởng kinh tế thực;
biến DEDTGD là tỷ lệ nợ trên GDP; biến DSR là tỷ lệ dịch vụ nợ trên thu nhập
xuất khẩu; biến DSFCR là dịch vụ nợ trên dự trữ ngoại hối; biến TDGDP tỷ lệ tổng
dịch vụ nợ trên GDP; biến GDEIV tỷ lệ chi phí phát triển GDERV trên GDP; biến
GDERV là tỷ lệ chi thường xuyên trên GDP và biến INF là tỷ lệ lạm phát.
Để đo lường các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế trong mô hình thực
nghiệm, tác giả đã sử dụng phương pháp bình phương bé nhất (OLS) hồi qui mô
hình.
Kết quả thực nghiệm từ mô hình cho thấy sự gia tăng nợ nước ngoài và dịch vụ nợ
đã tác động tiêu cực, gây khó khăn trở ngại tăng trưởng kinh tế. Bởi những nguyên
nhân chính mà tác giả phát hiện đưa ra: Vay nợ mới để trả nợ cũ và lãi, việc chi tiêu
vào các lĩnh vực không hiệu quả, tình trạng tham nhũng là khá phổ biến, tiền vay
đầu tư không đúng mục đích nhằm hoạt động tạo việc làm và phát triển cơ sở hạ
tầng, công tác quản lý nợ nước ngoài rất kém, làm tăng thêm gánh nặng nợ cho
quốc gia. Cuối cùng, nợ nước ngoài phải trả và các khoản dịch vụ của nó đã tăng
lên gây khó khăn trở ngại cho tăng trưởng kinh tế.
Tỷ lệ nợ công cao là 58% của GDP (2005-2006), nếu nó tiếp tục tăng rất nhanh
trong những năm tới, sẽ tăng nguy cơ của một cuộc khủng hoảng tài chính, và chi
86
phí đi vay cao, lãi suất trong nước cao sẽ không khuyến khích đầu tư tư nhân, dẫn
đến hạn chế sự linh hoạt của chính sách tài khóa.
3- Đánh giá tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Kenya.
Nghiên cứu của tác giả Maureen Were trong bài viết : “The Impact of External Debt
on Economic Growth in Kenya” năm 2001. Trọng tâm của nghiên cứu này là đánh
giá cơ cấu, độ lớn, thành phần và yếu tố quyết định nợ nước ngoài tác động đến
tăng trưởng kinh tế của Kenya. Tác giả đã sử dụng bộ dữ liệu thời gian từ năm
1970-1995, để tiến hành các bước thực nghiệm.
Trong cơ cấu nợ nước ngoài của Kenya, những năm 1970, chủ yếu là nợ song
phương. Từ đầu năm 1980 trở đi, chủ yếu là nợ dài hạn khu vực công, nợ đa
phương chính thức,. Kể từ đầu những năm 1990, tỷ lệ nợ nước ngoài trên GNP rất
cao 39% (1970-1980), 67% (1981-1990) và 89% (1991-1999). Tỷ lệ tăng trưởng
kinh tế bình quân 5,1% (1970-1980), 4.2% (1981-1990) và 2.3% (1991-1999). Tỷ lệ
nợ nước ngoài trên xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ bình quân 121% (1970-1980),
260% (1981-1990) và 268% (1991-1999).
Để đo lường các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế trong mô hình thực
nghiệm, tác giả đã sử dụng phương pháp Dickey-Fuller (DF) và Augmented
Dickey-Fuller (ADF) để kiểm định tính dừng và không dừng (unit roots or non-
stationary tests) của các chuỗi thời gian sử dụng trong mô hình thực nghiệm, và tiếp
tục sử dụng phương pháp phân tích đồng tích hợp (Cointegration) của Engle –
Granger (1987) để đo lường các mối quan hệ trong dài hạn giữa các biến (quan hệ
đồng liên kết). Cuối cùng, tác giả sử dụng mô hình điều chỉnh sai số ECM (Error
Correction Model) để thực hiện khảo sát mối quan hệ động trong ngắn hạn giữa các
biến vĩ mô. Từ đó, rút ra kết luận, nhận xét và đề xuất. Mô hình nghiên cứu cụ thể
như sau.
GRATE = a0 + a1 DEDGDP + a2 DDSR + a3 FFDC + a4 PINV + a5 DTOT +a6 SER + a7
INFL + a8 GPUIV + a9 DRER + ut
87
Trong đó : GRATE là biến phụ thuộc đại diện cho tăng trưởng kinh tế thực; biến
EDGDP là tỷ lệ của nợ nước ngoài trên GDP; biến DSR dịch vụ nợ trên giá trị xuất
khẩu; biến FFDC là tài trợ nước ngoài ròng bù đấp thâm hụt; biến PINV tỷ lệ đầu tư
tư nhân trên GDP; biến TOT là các điều khoản thương mại (tỷ giá trao đổi thương
mại); biến SER tỷ lệ nhập học tiểu học như đào tạo phát triển nguồn nhân lực ; biến
INFL là tỷ lệ lạm phát ; biến RER là tỷ giá hối đoái thực và biến GPUIV là tỷ lệ đầu
tư công trên GDP
Kết quả thực nghiệm chỉ ra rằng sự gia tăng nợ nước ngoài đã tác động tiêu cực
tăng trưởng kinh tế thực, nợ hiện tại ngăn chặn tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn.
Một sự gia tăng trong tỷ lệ dịch vụ nợ hiện tại ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư tư
nhân, điều này khẳng định hiệu ứng lấn át dịch vụ nợ trên đầu tư tư nhân. Những
yếu tố trên, xác nhận sự tồn tại của một vấn đề nợ ngưỡng nợ ở Kenya. Thâm hụt
ngân sách là một tỷ lệ thâm hụt tài chính tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Nhưng đầu tư tư nhân và đầu tư phát triển nguồn nhân lực lại có tác động tích cực
đến tăng trưởng kinh tế. Đầu tư công hiện tại thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng
không ngờ đầu tư công trong quá khứ (GPUIVt-1) đã được tìm thấy có một tác
động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ lạm phát hiện tại ngăn cản tăng trưởng
kinh tế trong khi tỷ lệ lạm phát (INFLt-1) kích thích tăng trưởng kinh tế.
Tóm lại, nguyên nhân gia tăng nợ nước ngoài ở Kenya có thể được truy nguồn từ cả
yếu tố bên trong và bên ngoài. Yếu tố nội bộ chủ yếu là quá chính sách mở rộng tài
khóa và chính sách thương mại bị bóp méo, đặc biệt là các chính sách đã tạo ra một
thành kiến nặng nề đối với xuất khẩu. Các yếu tố bên ngoài bao gồm sự suy giảm về
thương mại dẫn đến thâm hụt cán cân thanh toán, tỷ lệ lãi suất cao trên thế giới và
chủ nghĩa bảo hộ gia tăng bởi các nước phát triển, có xu hướng phân biệt đối xử
chống lại xuất khẩu nước kém phát triển. Ngoài những yếu tố này, tình trạng hạn
hán cũng đã góp phần vào gánh nặng nợ nước ngoài tại Kenya.
88
PHỤ LỤC SỐ 2
Thực trạng về nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 1986-2010
+ Nợ nước ngoài (EDT), dịch vụ nợ (TDS) và giá trị xuất khẩu (EX):
Giá trị xuất khẩu là nguồn thu ngoại tệ xuất khẩu thể hiện cho khả năng trả nợ của
một quốc gia. Thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập với kinh tế của khu vực và
thế giới, VN là một trong những nước có độ mở cửa thương mại lớn. Tổng giá trị
xuất khẩu của VN đã tăng 24 lần từ 2,4 tỷ USD năm 1990 lên 57 tỷ USD năm 2009,
năm 2010 tăng lên 72,2 tỷ USD và hơn gấp đôi tổng số nợ hiện hữu. Qua số liệu từ
đồ thị (Hình 3.2) cho thấy, mặc dù Việt Nam có tổng nợ lớn và có xu hướng tăng
mạnh trong những năm gần đây, tuy nhiên giá trị xuất khẩu tăng cao hơn gấp nhiều
lần so với số nợ phải trả hàng năm cho thấy khả năng thanh toán nợ nước ngoài qua
nguồn thu xuất khẩu là khá tốt. Tuy nhiên, tình trạng nhập siêu của Việt Nam nhiều
năm dẫn đến thâm hụt thương mại, cộng thêm thâm hụt ngân sách kéo dài dẫn đến
khả năng toán nợ nước ngoài cần phải được quan tâm đúng mức.
Hình : Nợ nước ngoài, dịch vụ nợ và xuất khẩu, giai đoạn 1990-2010.
0
10,000
20,000
30,000
40,000
50,000
60,000
70,000
80,000
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Năm
Triệu USD
EX EDS EDT
Nguồn : World Bank và Bộ Tài chính.
89
+ Cơ cấu nợ ngắn hạn,dài hạn so với tổng nợ nước ngoài.
Cơ cấu thời hạn vay nợ nước ngoài cũng là một nhân tố quan trọng đến mức độ rủi
ro tài chính. Nếu như một quốc gia chỉ dựa chủ yếu vào vốn vay ngắn hạn thì áp lực
trả nợ rất cao, nợ công và bảo lãnh công chiếm tỷ lệ cao sẽ tạo áp lực cho chính phủ
tạo nguồn để trả nợ.
Hình : Cơ cấu nợ nước ngoài ngắn hạn, dài hạn so với tổng nợ
0%
20%
40%
60%
80%
100%
120%
1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Năm
N
ợ
n
gắ
n
hạ
n
và
D
ài
h
ạn
/ t
ổn
g
nợ
Nợ dài hạn Nợ ngắn hạn
Nguồn : World Bank.
Qua số liệu cho thấy, tỉ lệ nợ ngắn hạn trên tổng nợ nước ngoài của Việt Nam hiện
nay có xu hướng tăng nhanh các năm gần đây từ 11% năm 2004 tăng lên 18% năm
2009. Tỷ lệ này ngày càng tăng đã tạo áp lực rất lớn cho Chính phủ trong việc chi
trả nợ gốc, chi phí và lãi vay. Mặt khác, các khoản vay trong những năm 90 sẽ đến
hạn, thời gian ân hạn cho những khoản vay trước đó sẽ dần kết thúc nghĩa vụ nợ
tăng lên sẽ gây những áp lực cho công tác trả` nợ trong những năm tới. Mặc dù,
trong cơ cấu nợ vay nước ngoài của Việt nam nợ trung và dài hạn chiếm tỷ trọng
khá cao bình quân trên 80%.
+ Các chủ nợ của chính phủ, cơ cấu lãi vay và đồng tiền vay.
90
Theo Bộ Tài chính, tính đến 31/12/2010, Việt Nam hiện đang vay nợ từ 25 quốc gia
(Song phương), 9 tổ chức quốc tế (Đa phương) và các chủ nợ tư nhân khác.
Trong đó :
- Nợ đa phương : vay nhiều nhất từ Hiệp hội Phát triển quốc tế (IDA) với số tiền
6.930,41 triệu USD, tiếp theo là Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) 4.174,74 triệu
USD; các chủ nợ tư nhân khác 2.437 triệu USD.
- Nợ song phương : nhiều Nhật Bản nhiều nhất (trên 9.547,79 triệu USD), tiếp theo
là Pháp (trên 1.167,06 triệu USD), Nga (568 triệu USD), Trung Quốc (551,74 triệu
USD)...Tuy nhiên, với Mỹ, Việt Nam chỉ nợ trên 83,8 triệu USD.
- Cơ cấu lãi vay nợ nước ngoài cũng là một nhân tố quan trọng đến mức độ rủi ro
tài chính, hiệu quả đầu tư cũng như khả năng trả nợ của Chính phủ.
Bảng : Cơ cấu dư nợ nước ngoài của Chính phủ theo lãi vay,
từ năm 2007-2010.
(ĐVT : Triệu USD, tỷ giá tại thời điểm cuối kỳ)
Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
Tổng cộng 17.270,60 (%) 18.916,05 (%) 23.942,51 (%) 27.857,76 (%)
Lãi suất cố định 16.839,67 98% 18.294,36 97 % 22.029,11 92 % 25.895,93 93 %
0% - 99% 299,07 2 % 257,82 1 % 281,73 1 % 563,17 2 %
1% - 2.99% 13.917,54 81% 15.553,96 82 % 19.325,39 81 % 21.289,85 76 %
3% - 5.99% 1.492,99 9 % 1.557,09 8 % 1.502,96 6 % 2.152,22 8 %
6% - 10% 1.130,07 7 % 925,49 5 % 919,09 4 % 1.890,69 7 %
Lãi suất thả nổi 430,93 2 % 621,69 3 % 1.913,40 8 % 1.961,83 7 %
Libor 6 tháng 369,91 2 % 508,26 3 % 1.728,66 7 % 1.798,86 6 %
Thả nổi của NIB 3,10 0,02 % - - -
91
Euro 6 tháng 57,92 0,34 % 113,42 0,6 % 184,74 0,7 % 162,97 0,6 %
Nguồn : Bộ tài chính.
Nếu không tính khoản nợ nước ngoài do Chính phủ bảo lãnh, thì tổng dư nợ nước
ngoài của Chính phủ chủ yếu là vay với lãi suất cố định bình quân trên 90% và 10%
lãi suất thả nổi. Trong đó : trên 80% vay với lãi suất ưu đãi dưới 3%; 8% vay lãi
suất 3-5,9% ; 7% vay lãi suất cao 6-10%/năm và còn lại vay với lãi suất Libor 6
tháng và Euro 6 tháng.
Riêng năm 2010, vay lãi suất 3-5,9% đã tăng từ 6% (2009) lên 8% (2010), tương
đương dư nợ tăng lên 649,26 triệu USD so với năm 2009 ; vay với lãi suất cao tăng
mạnh từ 4% (2009) tăng lên 7% (2010), tương đương dư nợ tăng lên 971,6 triệu
USD so với năm 2009; vay với lãi suất dưới 3% tăng lên 2.245,90 triệu USD so với
năm 2009; và vay lãi suất thả nỗi ít biến động từ năm 2009 sang năm 2010 vẫn giữ
ở mức 7% tổng nợ nước ngoài của Chính phủ.
Lãi suất vay tăng cao trong bối cảnh khủng hoảng nợ công hiện đang lan rộng tại
các nước Nam Âu là một tất yếu, dẫn đến việc vay nợ nước ngoài là rất khó khăn để
đáp ứng các khoản thâm hụt đầu tư trong nước. Nhưng điều này chưa đáng lo ngại
vì thường thì nợ của chính phủ từ các nguồn vay chính thức, từ các tổ chức quốc tế
và chính phủ các nước phát triển cao đều có lãi suất rất thấp và thời gian chưa phải
trả nợ có thể kéo dài đến 10 năm hay dài hơn nhiều. Nên áp lực chi trả nợ tương đối
thấp và có thể tính toán trước về khả năng trả vì lãi suất cố định. Trường hợp Việt
Nam là rất thuận lợi. Vào năm 2010, tỷ lệ vay chính thức lên tới 83,5 % và phần
vay tư nhân là 16,5 %. Hơn nữa, 86 % tổng số nợ này chịu lãi suất thấp dưới 6 %,
trong đó 78 % số nợ có lãi suất dưới 3 %.
Hình : Cơ cấu nợ nước ngoài của Chính phủ phân theo lãi suất,
tính đến 31/12/2010.
92
2.02%
0.59%
6.46 %
6.79%
7.73%
76.42 % Lãi suất 0%-99%
Lãi suất 1%-2.99%
Lãi suất 3%-5.99%
Lãi suất 6%-10%
Lãi suất Libor 6 tháng
Lãi suất Euro 6 tháng
Nguồn : Bộ Tài chính.
Bên cạnh cơ cấu lãi suất vay, đồng tiền vay cũng không kém phần quan trọng góp
phần mang lại hiệu quả đầu tư từ vốn vay và quyết định khả năng trả nợ vay của
Việt Nam. Hiện tại, cơ cấu đồng tiền trong nợ vay của Chính phủ cũng khá đa dạng,
vay bằng đồng Yên chiếm 38,83% (10.817,18 triệu USD), quyền rút vốn đặc biệt
SDR (Đồng tiền qui ước của một số nước thành viên IMF) chiếm 27.06 %
(7.538,65 triệu USD), vay bằng tiền USD chiếm 22,16% (6.174,17 triệu USD),
Euro chiếm 9.18% (2.558,54triệu USD) và phần còn lại vay bằng các đồng tiền
khác.
Hình : Cơ cấu dư nợ nước ngoài của Chính phủ phân theo loại tiền,
Tính đến 31/12/2010
Khác
2.77%
EUR
9.18%
USD
22.16%
SRD
27.06%
JPY
38.83%
JPY
SRD
USD
EUR
Khác
93
Nguồn : Bộ Tài chính.
Theo cơ cấu nợ như hiện nay thì phần lớn Việt Nam vay nợ bằng đồng tiền mạnh
(như đồng Yên, USD,..), làm tăng áp lực rủi ro về tỷ giá, việc này sẽ rất khó khăn
cho Việt Nam khi trả nợ. Bởi vì, khi đồng yên lên giá 5-10% thì tiền đi vay về đổi
ra tiền đồng để đầu tư bị mất 5-10%. Rồi khi kinh doanh xong thì muốn trả nợ thì
phải đổi ra tiền yên để trả nợ, nếu giá trị đồng yên mạnh thì tức là mình đổi được ít.
Cũng có trường hợp các công ty làm ăn tưởng có lời nhưng tới cuối năm tính toán
lại thấy lỗ do tỷ giá. Do đó, tỷ giá hối đoái ảnh hưởng rất lớn tới nợ nước ngoài của
các quốc gia vay nợ.
Do đó, trong thời gian tới, Việt Nam ngoài việc tính đến khả năng trả nợ khi vay,
cần tính toán kỹ việc vay bằng đồng tiền nào để tránh rủi ro tỉ giá, nhất là với đồng
yen và cả USD. Điều này làm giảm áp lực rủi ro về tỷ giá do vay bằng các đồng tiền
mạnh.
Năm 2010, cơ cấu đồng tiền cũng có thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng vay bằng
USD và giảm ở các đồng tiền mạnh khác. Tỷ trọng vay bằng USD từ mức gần 17%
vào cuối năm 2009 đã tăng lên xấp xỉ 22,16 % năm 2010.
Cùng thời gian này, các khoản vay bằng đồng Yên đã giảm tỷ trọng từ 39,63%
xuống còn 38,83%; SDR giảm từ 29,29% xuống 27,06%; vay bằng đồng Euro từ
10,78% còn 9,18%.
Theo báo cáo của Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại, năm 2010 khi Chính phủ
vay thêm 4.571,84 triệu USD thì sau khi trả nợ và phí (1.672,32 triệu USD) còn lại
2.899,52 triệu USD. Với số nợ và lãi suất hiện tại, trong những năm tới không vay
thêm thì số tiền Việt Nam phải bỏ ra mỗi năm để trả nợ sẽ cao nhất vào năm 2020
trên 2,380 tỉ USD (Trong đó: trả nợ gốc 2.134,62 triệu USD và trả lãi trên 245.71
triệu USD). Trước mắt, năm 2011 Việt Nam sẽ phải trả nợ khoảng 1.331,50 triệu
USD tính cả gốc lẫn lãi. Đến năm 2026, cũng còn phải trả 865 triệu USD/năm tiền
gốc và 110,23 triệu USD lãi.
94
Với số nợ hiện tại, dự kiến nghĩa vụ nợ hàng năm về nợ nước ngoài của chính phủ
năm 2010 đã tăng lên đáng kể so với năm 2009, nợ gốc tăng bình quân 19%, lãi và
phí tăng 45%, nếu tính đến năm 2025 thì nghĩa vụ nợ tăng bình quân 24% mỗi năm.
Điều này thật sự đáng lo ngại về khả năng trả nợ của Việt Nam trong tương lai, vì
dự kiến nghĩa vụ nợ năm vào 31/12/2009 chỉ là 1.101,57 triệu USD, thì năm 2010
thực tế trả nợ đã tăng lên đến 52% (1.673,32 triệu USD), trong khi số nợ nước
ngoài huy động thêm chỉ tăng lên 16,3% (từ 27,9 lến 32,5 tỷ).
95
PHU LỤC 3
Kết quả hồi quy mô hình (1)
Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob.
LnEDT 0.012641 0.005812 2.175192 0.0424
LnFDI 0.001061 0.002341 0.450751 0.6573
LnINV 0.024589 0.012225 2.011367 0.0587
LnTDS -0.008371 0.006184 -1.35362 0.1917
EXP 0.043041 0.034858 1.234723 0.2321
C 0.073177 0.018549 3.945125 0.0009
R-squared 0.591688 Mean dependent var 0.069
Adjusted R-
squared 0.484238 S.D. dependent var 0.017592
S.E. of regression 0.012634 Akaike info criterion -5.69925
Sum squared resid 0.003033 Schwarz criterion -5.40672
Log likelihood 77.24068 F-statistic 5.506614
Durbin-Watson
stat 1.254809 Prob(F-statistic) 0.002677
Nguồn: Kết quả từ Eview 5.1
Hình 4.2. Đồ thị giá trị thực tế và giá trị dự báo của mô hình (1)
96
Nguồn: Kết quả từ Eview 5.1
-.03
-.02
-.01
.00
.01
.02
.02
.04
.06
.08
.10
2 4 6 8 10 12 14 16 18 20 22 24
Phan du
Gia tri thuc te
Du bao
97
PHỤ LỤC 4
Kết quả chọn bước trễ của mô hình ECM
Lag LogL LR FPE AIC SC HQ
0 130.769 NA 1.54E-13 -12.4769 -12.17818 -12.4186
1 167.4177 47.64331 1.73E-13 -12.54177 -10.45073 -12.1336
2 910.0336 519.8311* 1.33e-43* -83.20336* -79.32000* -82.4452*
* indicates lag order selected by the criterion
LR: sequential modified LR test statistic (each test at 5% level)
FPE: Final prediction error
AIC: Akaike information criterion
SC: Schwarz information criterion
HQ: Hannan-Quinn information criterion
Nguồn : kết quả tính toán từ Eview 5.1
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- no_nuoc_ngoai_va_tang_truong_kinh_te_cua_viet_nam.pdf