Luận văn Nông thôn trong phóng sự văn học Việt Nam 1930 - 1945

MS: LVVH-VHVN015 SỐ TRANG: 98 NGÀNH: VĂN HỌC CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM NĂM: 2008 CẤU TRÚC LUẬN VĂN LỜI CẢM ƠN MỞ ÐẦU 1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3. Lịch sử vấn đề 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 5. Kết cấu của luận văn CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỂ VĂN PHÓNG SỰ 1.1. Sự xuất hiện và phát triển của thể phóng sự 1.1.1. Bối cảnh xã hội 1.1.2. Những tiền đề báo chí và văn học 1.1.3. Sơ lược quá trình phát triển của thể phóng sự 1.2. Phóng sự bao chí và phóng sự văn học 1.2.1. Phóng sự báo chí 1.2.2. Phóng sự văn học 1.3. Mảng phóng sự viết về đề tài nông thôn CHƯƠNG 2: NỘI DUNG HIỆN THỰC VÀ CẢM HỨNG TƯ TƯỞNG TRONG CÁC PHÓNG SỰ VỀ NÔNG THÔN 2.1. Hiện thực nông thôn Việt Nam trong các phóng sự 2.1.1. Bức tranh phong cảnh và phong tục 2.1.2. Bức tranh hiện thực xã hội nhức nhối 2.1.3. Hiện thực con người 2.2. Cảm hứng, tư tưởng trong các tác phẩm phóng sự 2.2.1.Thẳng thắn vạch trần, tố cáo và phê phán 2.2.2. Niềm thương cảm sâu sắc 2.2.3. Ca ngợi vẻ đẹp làng quê với những phong tục truyền thống 2.2.4. Những hạn chế trong cái nhìn hiện thực CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT CỦA CÁC PHÓNG SỰ VỀ NÔNG THÔN 3.1. Nghệ thuật khám phá hiện thực và khai thác tư liệu 3.1.1. Tinh tế trong tuyển chọn thực tại 3.1.2. Năng động trong tiếp cận hiện thực 3.1.3. Sáng tạo trong khai thác tư liệu 3.1.4. Cung cấp thông tin kịp thời, chính xác 3.2. Nghệ thuật trần thuật 3.2.1. Nghệ thuật kết cấu 3.2.2. Nghệ thuật thuật kể 3.2.3. Điểm nhìn trần thuật 3.3. Phong cách ngôn ngữ, giọng điệu 3.3.1. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ 3.3.2. Giọng điệu trần thuật KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO

pdf98 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2287 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nông thôn trong phóng sự văn học Việt Nam 1930 - 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thực cần phản ánh. 3.2.3.2. Sự di chuyển và biến hoá các điểm nhìn Di chuyển điểm nhìn trần thuật là việc chuyển điểm nhìn: từ tác giả sang nhân vật, từ nhân vật này sang nhân vật khác, từ bên ngoài vào bên trong … Tác dụng của sự di chuyển điểm nhìn trần thuật là làm cho vấn đề được soi rọi dưới những góc độ khác nhau, tạo nên những sắc thái mới, những giọng điệu mới, khiến ý nghĩa của tác phẩm phong phú mới mẻ và có chiều sâu hơn. Có thể xem phóng sự Cơm thầy cơm cô là dẫn chứng tiêu biểu nhất cho sự di chuyển và kết nối các điểm nhìn trần thuật. Truyện mở đầu với điểm nhìn chủ quan, khi tác giả xưng Tôi, nguỵ trang thành nhân vật của giới cơm thầy cơm cô để kể lại câu chuyện được chứng kiến vào một đêm ở hàng cơm: “Tôi không cần nói rõ hàng cơm nào, ở phố nào làm gì….” (62, tr107). Đến chương V, điểm nhìn chủ quan của nhân vật Tôi được chuyển sang điểm nhìn khách quan khi tác giả để cho sen Đũi thuật lại chính cuộc đời của mình. Từ chỗ là người chứng kiến, người tham gia các sự kiện, tác giả tách ra khỏi nhân vật, giữ khoảng cách với nhân vật, để nhân vật tự bộc lộ bằng giọng điệu của chính mình: “U tôi vẫn đi cày cấy thuê ở làng, còn thầy tôi hiện giờ thì kéo xe….” [62, tr.126] Sự chuyển giao điểm nhìn một cách hết sức tự nhiên này đã làm cho “cuốn tiểu thuyết về cuộc đời của Sen Đũi” chân thật và khách quan hơn. Người trần thuật lúc đó không hề biết trước sự việc, hiện tượng mà mình miêu tả. Rồi từ điểm nhìn khách quan, câu chuyện lại quay về điểm nhìn chủ quan: “Tôi nhìn kỹ cái Đũi thì mới biết là trông nó cũng đẹp, cũng có mẻ con người. Trước sự thuật lại một việc bất bình đã xa lắc xa lơ, tôi cũng thấy nóng cả mặt mày lên như đương trông thấy sự bất bình ấy vậy” [62, tr.128]. Đó là lúc tác giả trở về điểm nhìn chủ quan để bộc lộ thái độ của mình trước hiện tượng được miêu tả. Đến cuối phóng sự, tác giả quay lại là chính mình: “Thưa các ngài, bây giờ Tôi lại là Tôi” rồi thẳng thắn đưa ra những lời phán xét về nhân vật của mình, thậm chí tranh luận với ngay cả độc giả: “Nhưng bây giờ tôi có thể nói với hết thảy (các ngài nhớ cho là hết thảy) các độc giả yêu quí của tôi rằng xin các ngài cứ điều tra ngay các ngài”. [62, tr.167]. Sự đan xen, di chuyển các điểm nhìn một cách tự nhiên được Vũ Trọng Phụng biến hoá hết sức linh hoạt, tài tình. Có khi tác giả hướng điểm nhìn khách quan vào từng cá nhân, tập trung xoáy vào cuộc đời của sen Đũi, nhưng có khi điểm nhìn khách quan lại hướng vào tập thể các nhân vật, như đoạn các đầy tớ nói xấu chủ nhà, tác giả tách hẳn ra để tổ chức cho các nhân vật thay nhau tự đối thoại, tự kể với nhau một cách tự nhiên. Sự chuyễn đổi linh hoạt các điểm nhìn này thể hiện sự đan cài, giao thoa giữa các ý thức khác nhau trong thế giới nhân vật. Sự gia tăng các điểm nhìn trần thuật không chỉ mở rộng trường nhìn mà còn phong phú thêm các giọng điệu trần thuật. Trong phóng sự này, sự di chuyển các điểm nhìn: từ tác giả sang nhân vật, từ nhân vật này sang nhân vật khác, từ bên ngoài vào bên trong để mở rộng khả năng bao quát, đánh giá của trần thuật và để tái hiện các quá trình diễn biến tâm hồn của nhân vật. Đây cũng chính là những thành công nghệ thuật của phóng sự Cơm thầy cơm cô. Sự linh hoạt trong việc tổ chức điểm nhìn đã làm cho cấu trúc bố cục câu chuyện biến hoá sinh động và hấp dẫn. 3.3. Phong cách ngôn ngữ, giọng điệu Sức chinh phục của phóng sự viết về nông thôn 1930 – 1945 một phần đáng kể là do nghệ thuật kể chuyện. Trong đó, phong cách ngôn ngữ, giọng điệu là một trong những yếu tố quan trọng làm nên sức hấp dẫn trong các phóng sự của giai đoạn này. Vì thế, chúng tôi mở ra một hướng tiếp cận nữa về phong cách ngôn ngữ, giọng điệu nhằm tìm ra những nét độc đáo trong phong cách diễn dạt và giọng điệu trần thuật của các nhà phóng sự ở một thể văn xuôi mới mẻ này. 3.3.1. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ Theo M. Gorki: “Ngôn ngữ là yếu tố trước tiên của văn học”, là nghệ thuật của ngôn từ. Cũng giống như các tác phẩm văn học khác, giá trị về nội dung và nghệ thuật của những thiên phóng sự viết về nông thôn 1930 – 1945 có được là do sự gợi ra từ các lớp ngôn ngữ của tác phẩm. Ngôn ngữ không chỉ là những kí hiệu nghệ thuật, là phương tiện biểu đạt của văn học mà còn thể hiện tài năng và phong cách của nhà văn. Ngôn ngữ cũng là một nét nghệ thuật đặc sắc tạo nên sức hấp dẫn của những thiên phóng sự. Điểm nổi bật làm nên giá trị về mặt ngôn ngữ của các phóng sự này là có sự kết hợp ngôn ngữ truyền thống và ngôn ngữ hiện đại, ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ văn chương. 1.3.1.1 Sử dụng ngôn từ giàu chất khẩu ngữ Có thể nói, những trang phóng sự viết về nông thôn tươi rói một thứ ngôn ngữ đời sống. Sự đậm đặc của tính chất khẩu ngữ thể hiện ở tần số xuất hiện các khẩu ngữ, các dạng khẩu ngữ, lượng thành ngữ tục ngữ, các từ địa phương. Khẩu ngữ xuất hiện đậm đặc trong phóng sự của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Trần Ai, Phi Vân… đã làm cho những phóng sự viết về nông thôn luôn ngân vang những thanh âm của cuộc sống, luôn có sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với người đọc. Trong mỗi trang phóng sự, ta thấy khẩu ngữ xuất hiện với tần số cao. Ở bất cứ trang phóng sự nào, người đọc cũng bị lôi cuốn bởi những khẩu ngữ thân quen của cuộc sống hằng ngày. Các tác giả phóng sự cũng rất chú ý sử dụng các lớp khẩu ngữ tự nhiên phù hợp với từng loại nhân vật. Chỉ trong một đoạn văn ngắn nhưng khẩu ngữ hằng ngày xuất hiện với tần số cao làm cho lời văn mang phong cách khẩu ngữ đậm nét. Chẳng hạn, trong lời kể lể của một người nông dân than vãn về hủ tục, có hàng loạt các khẩu ngữ được Ngô Tất Tố sử dụng: “Một bữa ăn này ít ra anh tôi cũng tiêu đến năm, sáu chục đồng. Vì kiêng tiếng làm thịt lợn, sợ rằng làng nước cho là hung mỡ, nên mới đi chợ mua thịt. Sự thực, mua thịt lại quá giết lợn. Sáng ngày đi lấy vừa lòng lợn vừa thịt lợn tất cả mười một đồng bạc, đáng lẽ cũng đủ chàn chát nhưng cụ chưởng lễ thích ăn thịt cầy, nên ông lý trưởng bắt giết thêm con cầy” [53, tr.20]. Là một nhà Nho nhưng ngôn ngữ của Ngô Tất Tố không thủ cựu mà hoà hợp với hiện tại, là một nhà văn của làng quê, khẩu ngữ của ông mang hơi thở, sự sống của sinh hoạt nông thôn nhưng không tự nhiên, thô thiển mà gợi cảm, sắc sảo, chắt lọc. Lời văn trong phóng sự của “ông vua phóng sự Bắc kì” cũng đậm đặc khẩu ngữ. Ở câu nói mộc mạc của cô bé quê ra thành thị kiếm sống, những lời ăn tiếng nói hằng ngày cứ “tuôn” ra một cách tự nhiên : “Khốn nạn, nào tôi có tài giỏi gì mà dám nếm cơm ai! Tôi chỉ cầu vào một cửa đãi mình cho vừa phải, đừng bắt mình làm quá sức, đừng đánh chửi mình như cái nhà tôi vừa bỏ đi thì khốn nạn, nó năm cha ba mẹ quá, ai cũng đánh chửi được mình. Người này sai chưa xong việc này, người khác lại ới. Thành ra mình là cái thân ba vạ”… [62, tr.111]. Các lớp khẩu ngữ trong các phóng sự cũng hết sức phong phú. Có khẩu ngữ của những tên seo, tên phu tuần chuyên đi “chấn lột” của cải từ những người không đủ tiền nộp thuế: Dạ cái cày và cái bừa của thằng đĩ Ba. Nó cứ chối lên đây đẩy rằng nhà nó nghèo không chịu được bài tráng. Đồng rưỡi nó nộp bữa trước là hết rồi. Chúng tôi tìm tòi xiết được chừng nấy. Mà lấy được của nó cũng dư khốn. Vợ nó với nó chạy ra tríu mãi. Chúng tôi ẩu tả chúng mới chịu thả cho mà mang đi đấy. Còn cái vại của thằng xã Trung, nhà thằng ni đang còn một cái khăn nhiễu mà tức quá, chưa lột được. [4, tr.28] Có khẩu ngữ của người nông dân Nam Bộ chân chất thật thà: “Nguy lắm rồi mầy năm ơi! Nghe đằng nhà ông Bá bị cướp, tao tốc mùng vác cây roi tre ra tiếp cứu, không dè ba chớp ba nhoáng, đập nhằm con gái ổng gần chết, tao lật đật cõng về đây!” [89, tr.33] Bên cạnh ngôn ngữ thường ngày, khẩu ngữ nghề nghiệp được các nhà phóng sự sử dụng khá nhuần nhuyễn. Trong Túp lều nát, Nguyễn Trần Ai sử dụng khá nhiều ngôn ngữ của nghề thu thuế như : ba tăng (thẻ môn bài), tiền xã thương (tiền công ích), phù thu lạm bổ (thu trội lên phần thuế), bài tráng (thẻ sưu), thẻ bần (thẻ sưu hạng bần), yếu lược (chứng chỉ tốt nghiệp), phụ canh (ruộng của người khác cày thêm)…Vũ Trọng Phụng dùng nhiều những từ ngữ của bọn cơm thầy cơm cô như ăn chực nằm chờ, con ong cái kiến, ăn đói nằm no, nếm cơm thiên hạ, khổ tuyệt trần đời, cơm thừa canh cặn, năm cha năm mẹ, chết rã họng, trầm luân khổ ải. Phi Vân thì lại dùng những từ ngữ của một gánh hát: hát bộ, bầu, lên giàng, rạp, gióng trống xây chầu, chọn tuồng, đào kép, đá giáp, chiêng y, cầm chầu... Các lớp khẩu ngữ này tạo nên tính hiện thực sinh động cho tác phẩm, làm cho phóng sự gần hơn với đời sống. Việc sử dụng khẩu ngữ tự nhiên phù hợp với từng loại nhân vật và từng nghề nghiệp chứng tỏ sự am hiểu tinh tường của tác giả với từng loại nhân vật đồng thời góp phần đắc lực vào việc cá thể hoá nhân vật. Khẩu ngữ không chỉ đóng vai trò là nguồn nuôi dưỡng mà còn làm nên thần thái, khí sắc và đặc tính mỹ học của văn xuôi nói chung, của phóng sự nói riêng. Một điểm nổi bật về ngôn ngữ nữa là các nhà phóng sự đã sử dụng đậm đặc các từ địa phương vào “đứa con tinh thần” của mình. Điều này phần nào thể hiện ý thức trân trọng ngôn ngữ của vùng đất quê hương. Túp lều nát của Nguyễn Trần Ai sẽ mất đi biết bao nhiêu sức quyến rũ nếu không có những âm thanh đời sống của nông thôn xứ Nghệ. Hàng loạt những từ của mảnh đất miền Trung chỉ cần đọc lên là cảm thấy nghộ nghĩnh, sống động nhưng tất cả đều được Nguyễn Trần Ai cho điềm nhiên “bước thẳng” vào trang văn mà không một chút gia công, tỉa tót: bay (mày), choa (tao), mô (đâu), mi (mày), rứa (thế), tui (tôi), cho (thấy), ngã mô (đường nào), ra răng (như thế nào), chi (gì), in như (giống như), méng (miếng), ve (bày), nhè (đè), tá hoả (hoảng hốt), lưa (còn), méng (miếng), huề (hoà), trự (chữ), mầm thinh (im lặng), tríu (níu), ni (này), rứa (thế), truất (bỏ), lần đân (chần chừ), túa vào (ùa vào), rặt (ngặt nỗi), quở (trách), có trở (có tang), đâm bổ ra (xông ra), nhớp (bẩn), tắp lự (tráo trở), tương (đánh), xán (tiến lại), hăm (doạ), rác tai (không thích nghe), chun (dồn), biểu (bảo), bị (bao), chước (bớt), truất (bỏ), tợ tợ (tựa như), thiêm (thăm), trẹt bè le (thấp), tầm bậy (không hay), nờ (này), ém (im), in hệt (giống như), lặt (nhặt), chưn (chân), tiệm tặn (tiết kiệm) … Những âm thanh “ngồ ngộ” này trong đời sống của nông thôn xứ Nghệ đã xuất hiện “nguyên đai nguyên kiện” qua cách nói năng của nhân vật và chính người kể. Nó lấp lánh sức sống của một ngôn ngữ từ những cuộc đời vật lộn với những khắc nghiệt gió mưa, với thiên tai, lũ lụt. Trong khi Túp lều nát của Nguyễn Đổng Chi trình làng với sự xuất hiện đậm đặc các từ ngữ địa phương mang đậm bản sắc Trung Bộ làm người đọc thích thú thì Đồng quê của Phi Vân lại chinh phục người đọc bởi những từ địa phương xuất hiện trong cách ăn nói thành thực mà hữu duyên của người nông dân vùng sông nước Nam Bộ. Những từ dùng đặc Nam Bộ được ông chọn lựa không hề tỏ ra quê mùa, trái lại, có vị trí thật đắt, làm nổi bật phong tục, nếp sống cảnh vật thiên nhiên, đặc biệt là tính cách con người địa phương ông miêu tả: miệt trên, quyên biệt, ôm đại, ngất lịm, học rành, nằm lòng, một dọc con dài, nằm thở dốc, khó gần sức hơi, máu trên đâù bụt ra, vặn họng, không dè, con mẻ, mớ mốc gì mậy (cái gì mày), bảnh (đẹp), bắt trớn, lèng èng, dòm lom lom (nhìn chăm chú)… Không thể không nhắc đến sự trân trọng ngôn ngữ của vùng đất Nam Bộ thể hiện qua cây bút của Phi Vân. Với sự có mặt của những từ địa phương, Đồng quê thực sự trở thành đặc sản của ngôn ngữ Nam Bộ. Nếu Hồ Biểu Chánh còn để cho cái thô nhám của khẩu ngữ làm mất vẻ đẹp của hình ảnh, hình tượng được miêu tả thì Phi Vân đã có những sáng tạo vượt xa lối viết của Hồ Biểu Chánh khi biết phát triển, nâng cao khẩu ngữ cho nó tiến gần đến chuẩn mực của văn viết. Khẩu ngữ trong phóng sự của Phi Vân không trau chuốt cầu kì mà vẫn mộc mạc, chất phác, không tỉa tót công phu nhưng vẫn tươi tắn đầy sức gợi tả là nhờ cách sử dụng hợp lý theo từng hoàn cảnh và từng loại nhân vật. Chính M. Gorki gọi “khẩu ngữ là máu của văn xuôi nghệ thuật”. Như vậy, khẩu ngữ không chỉ đóng vai trò là nguồn nuôi dưỡng mà còn làm nên thần thái, khí sắc và đặc tính mỹ học của văn xuôi nói chung và của phóng sự nói riêng. Những lời văn tươi rói lớp khẩu ngữ tự nhiên, mang hơi thở nóng hổi của sự sống không chỉ làm cho phóng sự gần với người đọc đương thời mà còn rất gần gũi với độc giả hôm nay. 3.3.1.2. Sử dụng thành ngữ, tục ngữ linh hoạt, sáng tạo Được hiện lên với những phong cách hết sức đa dạng và đầy tài năng, các phóng sự viết về nông thôn không chỉ thể hiện bằng những lời văn giàu chất khẩu ngữ, phong phú từ địa phương mà còn đậm đặc các thành ngữ, tục ngữ. Các nhà phóng sự đã sử dụng linh hoạt vốn ngôn ngữ dân gian này. Họ không chỉ sử dụng nguyên vẹn các thành ngữ một cách hợp lý, linh hoạt để tạo những giá trị biểu cảm cao mà còn tỏ ra sáng tạo khi chỉ dùng một vế hoặc sử dụng ý của thành ngữ để vẽ nên bức tranh hiện thực với tất cả sự sinh động như cuộc đời vốn có. Chẳng hạn, Vũ Trọng Phụng sử dụng thành ngữ: Ăn đói làm no. cơm thừa canh cặn, con ong cái kiến, thay hình đổi dạng, bán trời không văn tự, thiên phương bách kế, biết rõ mười mươi…(Cơm thầy cơm cô), Ngô Tất Tố thì dùng thành ngữ gắn với sinh hoạt làng quê như : cày sâu cuốc bẫm, buôn ngược bán xuôi, nghèo xác nghèo xơ, bất đắc kỳ tử, vắt cổ chày ra nước…(Việc làng), Nguyễn Đổng Chi trong Túp lều nát cũng dùng khá hiệu quả một lượng thành ngữ lớn như: ăn to nói nậy, tâm địa bẩn thỉu, tơ bờ tất bật, bán cốt lột xương, vu oan giá hoạ, giây mơ rễ má… Phi Vân dùng những thành ngữ mang màu sắc Nam Bộ khá nhuần nhuyễn như: đầu đuôi gốc ngọn, không ăn mà chịu, kỳ công bất hủ, nhơn tình thế thái, chó ăn đá gà ăn sỏi, ruột thắt gan bào…(Đồng quê). Sự có mặt của các thành ngữ, tục ngữ này trong lời văn phóng sự một phần làm câu văn dễ hiểu, dễ cảm nhận, một phần còn tăng sắc thái biểu cảm, khiến cho ý nghĩa câu chuyện sâu sắc hơn. Làm một thống kê nhỏ về số lượng các thành ngữ, tục ngữ có trong một số phóng sự viết về nông thôn, ta thấy: Cơm thầy cơm cô (64 trang), số lượng thành ngữ, tục ngữ là 44-1, Một huyện ăn Tết (20 trang) là 25-6, Việc làng (98 trang) là 19-1, Túp lều nát (132 trang) là 20-1, Đồng quê (198 trang) là 37-1. (Con số thống kê của Cơm thầy cơm cô, Một huyện ăn Tết và Việc làng trích trong Luận án Tiến si văn học của của TS Nguyễn Hoài Thanh.) Qua những con số thống kê trên, một vấn đề đặt ra là vì sao các nhà phóng sự lại khai thác triệt để nguồn thành ngữ tục ngữ nông thôn như vậy ? Trước hết, do thành ngữ và tục ngữ có tính hình tượng và khái quát cao, việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ không chỉ làm tăng sắc thái biểu cảm của câu văn mà còn lột tả hết bản chất của đối tượng miêu tả, làm cho người đọc hiểu hết tận ngọn nguồn của vấn đề. Thành ngữ tục ngữ phù hợp với sự diễn tả một cách sống động đối tượng vừa có khả năng làm rõ những vấn đề bị che lấp. Mặt khác, chất khẩu ngữ có trong thành ngữ, tục ngữ làm cho lời văn đời hơn, chất hiện thực của phóng sự cao hơn, phong phú hơn. Vì thế các nhà phóng sự ưa dùng và dùng thành thạo những thành ngữ, tục ngữ như là những phương tiện quí báu của ngôn ngữ dân tộc để tạo ra những lời văn, một lối phô diễn cực mạnh. Đây là sự lựa chọn khôn ngoan làm cho ngôn ngữ phóng sự “áp sát” đời sống hơn các thể loại khác như tiểu thuyết, truyện ngắn. Có thể nói, những trang phóng sự viết về nông thôn tươi rói một thứ ngôn ngữ đời sống. Khẩu ngữ hằng ngày, thành ngữ, tục ngữ, từ địa phương … xuất hiện đậm đặc trong phóng sự của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Trần Ai, Phi Vân… đã làm cho những phóng sự viết về nông thôn luôn ngân vang những thanh âm của cuộc sống, luôn có sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với người đọc. Thói quen ưa sử dụng và sử dụng thành thạo, sáng tạo những phương tiện ngôn ngữ tiếng Việt của những “tay ngôn luận xuất sắc” đã góp phần không nhỏ vào việc “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”. 3.3.1.3. Kết hợp nhuần nhuyễn ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ văn học Là những nhà văn chiếm lĩnh và sử dụng ngôn từ như một nghệ thuật, các phóng sự viết về nông thôn đã có sự kết hợp chặt chẽ giữa ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ văn học. Ngôn ngữ báo chí thể hiện tính chính luận, đảm nhiệm chức năng thông tin còn ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ nghệ thuật. Sự kết hợp nhuần nhị giữa ngôn ngữ báo chí ngắn gọn, giàu thông tin với ngôn ngữ văn học giàu hình ảnh, đậm sắc thái trữ tình chính là biểu hiện của tính hiện đại của ngôn ngữ văn học, bởi lẽ sự kết hợp độc đáo này chưa từng xuất hiện trong văn học xưa nay. Phóng sự Đồng quê của Phi Vân thực sự lôi cuốn người đọc nhờ sự kết hợp kì diệu những ngôn ngữ gợi cảm, giàu chất tạo hình của văn học với ngôn ngữ báo chí. Khung cảnh làng quê Nam Bộ qua ngôn ngữ miêu tả của Phi Vân vừa thanh bình, vừa lãng mạn và thi vị biết bao: Bên vàm, hàng dừa nước âm u lâu lâu thấy le lói một ánh đèn; bên bờ kia thình thoảng nghe tiếng chày giã gạo, tiếng chó sủa đêm. Đêm nay chỉ có vành trăng hai mưoi bốn, nhưng sao đầy trời góp ánh sáng lại làm cho cảnh vật thêm ảo huyền, thơ mộng. Một làn gió nhẹ thoảng qua, tâm thần tôi thêm khoái sảng. Vẳng xa, những giọng phù trầm êm ả của một điệu hò mê ly, đặc biệt chốn đồng quê, rõ lần trong lặng lẽ … [89, tr.72-73]. Những đoạn văn giàu chất văn này xuất hiện bên cạnh những thông tin có tính thời sự, nóng hổi đã làm dịu đi cảm giác căng thẳng, gai góc mà hiện thực cuộc sống đem lại, nó thanh lọc tâm hồn làm cho con người có những giây phút diệu kỳ và đáng yêu, đáng sống. Không chỉ ở Đồng quê, Túp lều nát của Nguyễn Trần Ai cũng là kết quả của sự kết hợp hoàn hảo, diệu kì của ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ báo chí. Giữa không khí nặng nề của những “Tiếng dân kêu” mà ngôn từ của báo chí đem lại, tác giả cũng dệt lên những áng văn với những ngôn từ văn học mượt mà, giàu cảm xúc: “trong lúc đi dạo bờ sông ngắm cảnh thì một tiếng hát ru em của một đứa trẻ từ trong nhà này văng vẳng đưa ra làm cho tôi để ý. Tiếng hát khô khan không cảm xúc mà bài hát là bài hát dặm Nghệ Tĩnh cứ kéo dài một điệu đều đều năm tiếng một, nó mới buồn làm sao.” [4, tr.72] Cùng với Phi Vân, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đổng Chi… Ngô Tất Tố nổi bật với những đóng góp nhất định về ngôn ngữ. Bên cạnh ngôn ngữ sự kiện vốn có của một bài báo, phóng sự của Ngô Tất Tố còn thành công nhờ sử dụng những ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc của văn học. Thử đọc một đoạn văn ông miêu tả cảnh một ngày hạn hán trong Tập án cái đình: Mới vắng mùa xuân bốn ngày, trời đất đã thấy khác hẳn. Hai tiếng “lò cừ” của Cung oán ngâm khúc có lẽ chỉ vào vũ trụ hôm nay. Hôm nay ông thần hạn bạt đã báo thù trần gian một cách tàn nhẫn. Mới già nửa ngày thiêu đốt, lá cây đều héo rũ như ngọn cờ tang, mặt đất tuy không chảy mỡ, nhưng hơi khét bốc lên ngào ngạt. Bãi cỏ vệ đường vệ đường lúc này đã thành ra vật cần dùng cho khách bộ hành. Nhờ nó, gót chân những người không dép không giày cũng bớt rát bỏng.” [3, tr.109-110] Với những từ ngữ miêu tả sinh động, hình ảnh phong phú, người đọc có cảm giác như đang đứng trước một khung cảnh khắc nghiệt của tiết trời vào những ngày hè nóng như nung chứ không phải đang đọc một thiên phóng sự. Ngoài lớp ngôn ngữ truyền thống, lớp ngôn ngữ mang tính hiện đại của văn học còn thể hiện ở những từ ngữ hiện đại, cú pháp hiện đại. Các nhà phóng sự sử dụng một cách năng động lớp từ vựng mới mẻ này nhằm tăng hiệu lực cho việc miêu tả, thuật kể hay bày tỏ tư tưởng tình cảm, sự đánh giá về hiện thực. Có khi các nhà phóng sự còn Việt hoá một số từ nước ngoài như: mốt Phi-lu-dốp, gác- măng-re (Cơm thầy cm cô)… Đây là biểu hiện của tính hiện đại trong lời văn phóng sự. Câu văn hiện đại cũng bắt đầu xuất hiện. Đó là những câu có sự gọt giũa theo kiểu của câu văn hiện đại, kết cấu nhiều thành phần nhưng chặt chẽ, sáng rõ, chứa đựng nhiều hàm lượng thông tin, nhưng không vần vè như câu khẩu ngữ, không gò bó như câu biền ngẫu. Chẳng hạn: - Chính ra, nó rất nhiều chuyện thương tâm...Nó đã cất tiếng gọi dân quê bỏ những nơi đồng khô cỏ héo đến đây để chết đói lần thứ hai, sau khi bỏ cửa bỏ nhà; nó đã làm cho giá con người phải ngang hàng với giá loài vật; nó đã làm cho một bọn trẻ đực vào nhà Hoả lò và bọn trẻ cái đi làm nghề mãi dâm!” [62, tr.115] - Nếu đứng giữa, ta nhìn được khắp xung quanh, đó là một câu phương ngôn Âu Tây. Tôi xin nói ngay rằng không phải Tôi đã đứng giữa huyện đường mà biết được một huyện ăn Tết [63, tr.545]. Bên cạnh những câu nhiều thành phần, xuất hiện nhiều câu mở rộng thành phần chêm xen, câu đảo trật tự cú pháp… Nguyễn Đổng Chi đã nhiều lần cho xuất hiện “thực đơn” mới trong cấu trúc câu đem lại những “món ăn khoái khẩu” cho người đọc: - Với tập phóng sự này tôi đã dụng công hơn năm tháng trời để nhìn, để nghe những cảnh tượng mà tôi không thể tin được là có xảy ra – và xảy ra luôn – ở trên dải đất có đến hai Chính phủ trị vì núp dưới bóng cờ ba sắc.[4, tr.11]. Thành phần chêm xen xuất hiện trong câu có tác dụng làm sáng rõ hoặc nhấn mạnh hơn vấn đề cần tập trung diễn đạt. Phi Vân vượt xa lối viết của Hồ Biểu Chánh khi đoạn tuyệt với những câu văn biền ngẫu, sóng đôi để đến với những câu văn hiện đại hơn: “- Tắm, chúng muốn trấn nước thầy? Thầy là một con rái, hiên ngang hoạt động dưới nước nước như trên bờ!...” [89, tr.92]. Việc đảo cú pháp, trật từ từ làm cho câu văn mới lạ, hấp hẫn hơn. Hình thức hiện đại của các câu văn hàm chứa một tư duy mới mẻ, hiện đại. Chính cách nghĩ, nếp cảm hiện đại đã chi phối cách chọn từ, lập ý, cách diễn đạt trong lời văn. Được viết lên bởi những tên tuổi lớn trong văn xuôi thời kì hiện đại, giá trị bền vững của các phóng sự viết về nông thôn có phần đóng góp xứng đáng của nghệ thuật thể hiện, nghệ thuật ngôn từ. Những áng văn mượt mà, những ngôn từ mới lạ, giàu hình ảnh xuất hiện bên cạnh những vấn đề có tính thời sự, gai góc đã làm “mềm” đi mạch văn, làm cho người đọc say sưa, hứng thú. Chính điều này đã tạo nên chất văn cho các tác phẩm phóng sự. Với cách sử dụng ngôn ngữ có sự kết hợp nhuần nhị giữa ngôn ngữ báo chí giàu thông tin và ngôn ngữ văn chương giàu hình ảnh như vậy, nghệ thuật miêu tả trong các thiên phóng sự đã đạt đến mức hoàn hảo xứng đáng là những mẫu mực của văn học một thời. 3.3.2. Giọng điệu trần thuật Giọng điệu cần thiết cho việc sắp xếp liên kết các yếu tố hình thức khác nhau, làm cho tác phẩm có cùng một âm hưởng, một khuynh hướng nào đó. Giọng điệu của một tác phẩm thể hiện thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của người kể chuyện với các hiện tượng sự kiện được miêu tả. Mỗi tác phẩm, mỗi tác giả, mỗi nhân vật trong các phóng sự về nông thôn 1930 – 1945 có một giọng điệu riêng tạo nên một bản hợp xướng đa giọng điệu. Đây là điểm nổi bật nhất trong giọng điệu trần thuật của các phóng sự giai đoạn này. 3.3. 2.1 Giọng mỉa mai, châm biếm Khi phải chứng kiến những cảnh tượng chướng tai gai mắt đến mức “không thể chịu nổi”, giọng mỉa mai châm biếm mới bật lên trên từng trang phóng sự. Giọng điệu gai góc này đã “tung ra” những ngón đòn bí hiểm để lột mặt nạ những tiêu cực, những quái gở còn tồn tại. Chẳng hạn, trong chương Những người thay mặt công chúng (Túp lều nát), Nguyễn Trần Ai kể về một tấn tuồng bi thảm, về nỗi nhục của các tổng lý khi đến tiễn biệt một quan đồn Pháp đổi đi nơi khác. Những cái bắt tay, nụ cười, bó hoa, những cái nghiêng mình chào đón, những bộ trang phục chỉnh tề, tinh tươm, tiếng xilôxila của thông ngôn dịch …“nếu chỉ có thế thì cuộc tiễn đưa nó đẹp đẽ, nhã nhặn biết bao nhiêu”, giọng văn bắt đầu nhen nhóm điệu mỉa mai khó chịu. Khung cảnh lịch lãm nhường chỗ cho sự nhố nhăng vô văn hoá khi vị quan binh bất thình lình ném ra những vật huỷ bỏ như cái lược, hộp thuốc nhỏ, và cả chiếc quần cộc đen. “Thế là cả chục người đại diện của dân đều bỏ ghế ngồi, xúm lại bên ngoài cửa sổ, cánh tay giơ lên trời nhâu nhâu lên như, than ôi! Thế bất đắc dĩ, như một bầy…chó”[4, tr.95]. Họ giằng xé nhau, mừng rú lên khi nhặt được của quí rồi bỏ túi liền trước mấy chục con mắt thèm thuồng. “người ta chen lấn nhau, người ta toá mồ hôi, người ta toạc áo. Cảnh tượng diễn ra in hệt như cảnh tượng một bọn trẻ con liếm le liếm chảo trong ngày hội Cát-tó”. Họ giằng cướp nhau, quan đồn phải ra can thiệp thì vật đang giằng co bị đứt làm hai mảnh, giở ra thì là một chiếc tất thủng! Cảm nhận sâu sắc nỗi nhục của người bản xứ, Nguyễn Trần Ai châm biếm cảnh tượng nhố nhăng đó bằng giọng điệu mỉa mai róng riết. Giọng văn miên man khắc khoải đau đáu về những tâm hồn Việt, những nhân cách Việt. Không chỉ thế, sự châm biếm này còn làm người đọc vụt lên một niềm tự ái dân tộc, về lòng tự trọng đang bị đánh mất. Giọng điệu mỉa mai sâu cay không chỉ có trong phóng sự của Nguyễn Trần Ai mà còn xuất hiện khá nhiều trong phóng sự của Ngô Tất Tố. Giọng điệu này bật ra mạnh mẽ từ những hủ tục lạc hậu, những lễ nghi kì dị, phản nhân văn mà bọn thống trị bày ra để bóc lột nhân dân. Rõ nhất là khi đọc chương “Ông thần hoàng bị cách rồi” (Tập án cái đình), giọng điệu mỉa mai châm biếm bật ra từ những ngôn từ kể về thành hoàng: “ngài là người Về đời Lê, lúc sống rất giỏi về khoa đào tường khoét ngạch thế nhưng ngài cũng bị bắt và bị xử tử” [53, tr.148]. Tác giả mỉa mai bằng tiếng cười hài hước, cười các ngài mà dân làng tôn kính, sùng bái chẳng qua chỉ vì ngài chết được vào giờ linh. Giọng văn giễu nhại, ngôn từ gai góc ấy có sức công phá mạnh mẽ đối với những hoạt động vô bổ của làng: “mười bốn tháng tám chính là cái ngày ngài phải hy sinh tính mệnh cho nghề nghiệp, vì thế hằng năm cứ đến ngày ấy dân làng phải diễn một cuộc xuyên tường tạc bích để kỷ niệm sự nghiệp của ngài” [53, tr.149]. Ngược dòng thời gian, trở về với bối cảnh những năm tháng 1930-1945, khi đọc những phóng sự này, người đọc không khỏi băn khoăn lo lắng vì sau luỹ tre xanh toàn những chuyện buồn, những cái tiêu cực đang xâu xé cuộc sống người nông dân. Làm sao có thể ngoảnh mặt làm ngơ trước thực tại? Nguyễn Trần Ai, Phi Vân, Ngô Tất Tố… đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, nói thẳng sự thật, thức dậy những lương tri hướng vọng về những sự tốt lành. Giọng văn mỉa mai sâu cay xuất hiện trong các phóng sự phần nào thể hiện dũng khí mạnh mẽ của các nhà phóng sự, thể hiện khí chất của những nghệ sĩ anh hùng. 3.3.2.2. Giọng sắc sảo, đanh thép Từ những hiện thực đau lòng, tủi hổ, các nhà phóng sự riết róng đi tìm căn nguyên của mọi vấn đề và dễ dàng hiểu được sự thống trị của thực dân, cái nghèo và thiếu hiểu biết chính là nguyên cớ dẫn đến những cảnh tượng xót xa. Miên man khắc khoải đau đáu hướng về một xã hội tốt lành, họ cất lên trong từng trang phóng sự một giọng văn sắc sảo đanh thép, giọng điệu đó thường xô đẩy, va xiết trong mỗi lần tranh luận, hùng biện. Tất cả đều phải “chạm nọc” vấn đề, kích động, chất vấn từ đó toát lên khuynh hướng tư tưởng của vấn đề. Người đọc không thể quyên được những đoạn văn đầy sức ám ảnh trong Túp lều nát: “Thì ra ở đây, ở chính dưới ách bọn tổng lý, luật pháp là một nhà võ sĩ què hết cả tay chân, mà công lý là một cố lão mù tịt.”[4, tr.100]. Hay ở một chương khác, cũng một giọng văn đanh thép, đay đả, rỉa rói. Nguyễn Trần Ai đã mượn lời của một người bạn để nói rõ ý đồ của mình là muốn lập lại việc làng, một túp lều khác: Cái làng ở xã hội Việt Nam ta chỉ là một túp lều nát mà người ta không chịu làm lại một túp lều khác, chỉ hà tiện giọi vài cái tranh, chắp vài đoạn mèn, buộc ít sợi lạt, cố duy trì nó lại mà chui đụt. Như vậy mà bảo còn chui đụt làm sao được? Phi làm lại một túp lều khác thì hòng còn chỗ trú chân…[4, tr.123] Sắc sảo và thời sự, tính chính luận chặt chẽ kết hợp sự hài hước châm biếm thâm thuý là “cốt cách thâm hậu” của phóng sự Ngô Tất Tố. Được đánh giá là “một tay ngôn luận sắc sảo trong đám nhà Nho”, Ngô Tất Tố không chỉ không chỉ truyền đạt những thông tin chính xác mà còn dũng cảm, trung thực và thẳng thắn kiên quyết chống lại những bất công ngang trái. Giọng điệu sắc sảo đanh thép bật ra trong từng câu chữ khi ông “chỉ mặt gọi tên” hậu quả của những việc làng: “Những việc tôi làm, bất kỳ việc nào, tuy không phát đạt, nhưng không thất bại bao giờ, chẳng lãi nhiều thì lãi ít. Vậy mà suốt đời nghèo xác nghèo xơ, ăn không đủ, mặc không đủ, cả nhà có một thằng con, đành phải để nó dốt nát. Ông bảo là vì cớ gì? Ấy là lỗi gánh việc làng.” [53, tr.12]. Với khí tiết của một nhà Nho yêu nước và tiến bộ, với trí tuệ sắc sảo và nhiệt tình chiến đấu của một ngòi bút châm biếm, ông thẳng thắn chỉ rõ rằng: “Hủ tục không phải là thứ thiên kinh, địa nghĩa nó vẫn có thể thay đổi..”[53, tr.13]. Giọng điệu khảng khái này thể hiện thái độ dũng cảm, thẳng thắn của ngòi bút luôn đấu tranh chống lại xã hội thực dân phong kiến chà đạp lên cuộc sống của con người. Thuộc thế hệ những nhà Nho cuối mùa như Nguyễn Trọng Thuật, Phạm Quế Lâm. Mai Đăng Đệ…nhưng có thể nói Ngô Tất Tố đã vượt xa các nhà Nho cùng thời. Ông không chỉ cho ra đời những câu văn điền viên vui thú hay “cải lương hương chính” mà còn hít thở cái không khí tranh đấu tiến bộ của K. Marx. Kiến thức học được nơi cửa Khổng sân Trình cùng với những tư tưởng tiến bộ của thời đại mới đã chỉ đường cho ông hoà mình vào cuộc sống của nhân dân và thực sự trở thành người bạn đường tin cậy của nông dân nghèo Việt Nam trước Cách mạng. Nói về những hiện thực đen tối, các nhà phóng sự không tò mò một cách vô thức, không nói cho thoả thuê, cho bõ tức bỏ ghét, không nhìn soi mói mà nói với nỗi lo lắng, với trách nhiệm công dân, với khát vọng loại trừ nó ra khỏi cuộc sống. Họ đem lại cho người đọc sự phẫn nộ của cả tình cảm và lý trí. Và tất nhiên có niềm tin và hy vọng. Tất cả bản lĩnh và trí tuệ sắc bén ấy đều được thể hiện bằng một giọng điệu sắc sảo, đanh thép trong từng trang phóng sự. 3.3.2.3.Giọng cảm thông, thương xót Không chỉ khách quan lạnh lùng, các phóng sự về nông thôn vẫn luôn thức dậy một niềm cảm thông sâu sắc đối với những cảnh đời tội nghiệp của người nông dân sau luỹ tre làng. Trong Cơm thầy cơm co, nhìn lũ lượt những đoàn người từ quê nghèo lên thành phố kiếm sống bằng một con mắt ái ngại, cảm thông, nhà văn họ Vũ không khỏi xót xa: Họ đến là vì tại những thôn quê họ không làm gì cho đủ mỗi ngày hai bữa. Kinh thành đã cất tiếng gọi họ, cám dỗ họ. Khi ra đi, chắc họ cũng không ngờ đến nông nỗi này. Họ chắc mẩm trong bụng họ là sẽ có việc làm vẻ vang…Có lẽ họ đã phơi nắng, phơi mưa xin từng đồng trinh, từng bát cơm, cùng đường rồi mới đến được Hà Nội.[62, tr.144]. Giọng văn của Vũ Trọng Phụng tràn đầy trắc ẩn và cảm thương đối với những người dân quê dại dột. Nỗi thương cảm ấy trào dâng trong những lời văn hết sức cảm động. Cùng với Cơm thầy cơm cô, thiên phóng sự Túp lều nát cũng bàng bạc một giọng văn cảm thông, thương xót. Đọc phóng sự này, người đọc luôn bị ám ảnh bởi những nghịch lý trớ trêu mà người nông dân phải gánh chịu. Nhà nghiên cứu Phong Lê nhận xét : “Mục đích viết của tác giả – như trong lời dâng tặng, và như được trình bày trong suốt 48 trang là đưa ra các tài liệu, các minh chứng cho luật pháp soi xét; là lời khẩn nguyện luật pháp có mặt; nhưng chính tác giả đâu có tin vào pháp luật, cả 13 chương kể, chương nào cũng đau đớn, cũng oan ức, cũng thương tâm.”[4, tr.131]. Vì thế nên chương Những người thay mặt cho công chúng là dịp để tác giả bộc lộ nỗi lòng bằng một giọng điệu xót xa: …mới thuật qua loa vài câu chuyện đủ làm cho tôi rùng mình. Thật là một trang thảm sử. Mỗi một lời nói là một dòng nước mắt, khiến cho bây giờ cầm bút chép lại câu chuyện này, lòng tôi vẫn còn hồi hộp và bàn tay không điều khiển nổi ngòi bút, vẫn còn run run như cầy sấy. [4, tr.100]. Thương xót, cảm thông còn là giọng văn thường gặp trong những “áng văn hoàn toàn phụng sự dân quê” của Ngô Tất Tố. Đằng sau vẻ như dửng dưng, lạnh lùng là một giọng văn thấm đẫm nỗi cảm thông sâu sắc của Ngô Tất Tố khi thấy người nông dân đang oằn lưng làm nô lệ cho những hủ tục kì quái. Miêu tả niềm hạnh phúc của bác Cả Mão, một gia đình thuộc dân ngụ cư nay đã có ngôi ở đình: “cháu đã có ngôi ở đình, chúng tôi sẽ được ăn miếng thịt phần việc làng của nó”. Niềm vui thật giản dị, hiền hậu biết bao, nhưng nó phải đánh đổi thật lớn: “tất cả tôi lo hết gần hai trăm. Của nhà có non non một trăm còn thì đều phải đi vay. Nhưng tôi cũng lấy làm hả”. Là nạn nhân của hủ tục, những người nông dân ấy bị lừa đảo mất cả cơ nghiệp mà vẫn đang vui sướng hả hê làm người đọc chua xót. Giọng văn bộc lộ nỗi xót thương thật sâu sắc cái tâm lý hiếu danh, chính sự thiếu hiểu biết này khiến họ bị khinh khi, bị lợi dụng mà không thấy nhục. Chúng ta đã quá quen với những hình ảnh người nông dân nghèo bị bóc lột trong các tiểu thuyết như Chị Dậu (Tắt đèn-Ngô Tất Tố), anh Pha (Bước đường cùng-Nguyễn Công Hoan), nay lại chứng kiến hình ảnh những nông dân bị tha hoá méo mó nhân cách trong các phóng sự. Tất cả đều khiến ta xúc động, phẫn uất. Mang được cảm xúc đó đến với độc giả, các nhà phóng sự phải thực sự thấu hiểu, thực sự đồng cảm. Bằng một giọng văn tràn đầy cảm thông thương xót, các phóng sự này đã truyền đến độc giả một niềm xót xa, một nỗi đau âm ỉ, nhức nhối cứ ngấm dần và ngấm sâu. Có thể nói, thành công lớn trong nghệ thuật viết phóng sự không thể không kể đến những giọng văn đa dạng của các tác phẩm. Tính đa giọng điệu này đã góp phần tạo nên bản hợp ca muôn điệu cho các phóng sự về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng. Nó đã thể hiện phần nào tư tưởng, tình cảm của các tác giả về cuộc sống muôn màu ở nông thôn, đồng thời góp phần hoàn thiện bức tranh đời sống người nông dân trong văn học Việt Nam nói chung, giai đoạn 1930 – 1945 nói riêng. Đó chính là thành công lớn nhất, là đóng góp có giá trị của các phóng sự viết về nông thôn giai đoạn này. KẾT LUẬN Việc tiếp thu di sản phóng sự thời kì 1930 – 1945 không thể không nhắc tới mảng phóng sự về đề tài nông thôn. Với đề tài này, các phóng sự đã để lại một kho tư liệu quí giá về hiện thực xã hội nông thôn và những kinh nghiệm có giá trị về nghệ thuật làm phóng sự ở nước ta. Mặt khác, sự bùng nổ trở lại của thể phóng sự trong những năm gần đây rất cần sự tiếp sức kinh nghiệm của quá khứ. Vì thế, tìm hiểu những giá trị và hạn chế của mảng phóng sự này có ý nghĩa quan trọng đối với thực tiễn sáng tác hiện nay của thể phóng sự. Đồng thời có cái nhìn đầy đủ hơn về nông thôn Việt Nam và văn học dân tộc giai đoạn 1930 – 1945. Gần một thế kỷ qua, lịch sử nghiên cứu những phóng sự viết về nông thôn diễn ra khá sôi nổi. Trong đó, những ý kiến phủ định sạch trơn hay ngợi ca một chiều đã nhường chỗ cho những đánh giá khách quan, khoa học, từ đó chỉ ra những đóng góp và hạn chế trong nhận thức của các nhà phóng sự. Những chân dung phóng sự viết về nông thôn được nhìn nhận một cách đầy đặn, hài hoà đã đủ để mở rộng biên độ của một giai đoạn và khảo sát ở cấp độ một đề tài. Đầu thế kỷ XX, nhu cầu cấp bách của xã hội, những tiền đề văn hoá, sự trưởng thành của văn học, ảnh hưởng phóng sự nước ngoài… là những yếu tố đã hội tụ đủ để thể phóng sự chính thức hình thành. Chỉ với 15 năm, nhiều phóng sự xuất sắc với những tên tuổi đầy tài năng đột ngột phát sinh và chói sáng trên văn đàn dân tộc góp phần hiện đại hoá diện mạo văn xuôi hiện đại. Gần một thế kỷ đi qua, phóng sự phát triển với nhiều biến thái nổi chìm, nhưng trong thời kỳ lịch sử sang trang, cuộc đổi mới văn học đã làm phóng sự hồi sinh và thăng hoa một cách mạnh mẽ, kỳ diệu. Phóng sự ngày càng phát huy vai trò xung kích trên mặt trận báo chí và văn học, góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng đất nước. Là thể “tân văn” của văn xuôi thời kì hiện đại, lý luận về phóng sự từng bước được hình thành một cách rạch ròi và cụ thể hơn: từ chỗ được xem là thể đứng giữa văn học và báo chí, phóng sự được nhìn nhận là thể kí trong báo chí và văn học. Phóng sự báo chí và phóng sự văn học dù khác nhau về mức độ xác thực, tính thời sự, về cái Tôi trần thuật, về ngôn ngữ… nhưng đều có điểm chung là lấy người thật việc thật để phản ánh và phải chú ý đến tính thời sự của đối tượng. Những hiện thực nóng hổi còn khuất lấp sau luỹ tre xanh yên ả đã lọt vào tầm ngắm của các nhà phóng sự. Ống kính của họ soi rọi và nhanh chóng chụp lấy những tiêu cực đang xâu xé cuộc sống của người dân. Tuy số lượng tác phẩm khiêm tốn, nhưng phóng sự viết về nông thôn đã có những tác phẩm giá trị với những tên tuổi bậc thầy. Những thiên phóng sự này cứ lặng lẽ, âm thầm thức dậy những lương tri lành mạnh, cảnh tỉnh xã hội, hướng tới một xã hội công bằng, văn minh với một niềm tin và hy vọng. Nội dung hiện thực trong các phóng sự về nông thôn biểu hiện ở bức tranh phong cảnh và phong tục. Hai phong cảnh với những mảng màu đối lập: nông thôn Bắc Bộ khắc nghiệt, dơ bẩn, lạc hậu, đói nghèo và nông thôn Nam Bộ tươi tắn, nên thơ. Những phong tục truyền thống mang đậm bản sắc văn hoá như sinh hoạt lễ hội, những phong tục tập quán độc đáo… được các thể hiện sinh động trong các phóng sự. Bên cạnh đó, bức tranh hiện thực xã hội và con người hiện lên với những tệ nạn xã hội nhức nhối và những hủ tục lạc hậu. Những cảnh đời đói nghèo cùng quẫn, nạn nhân của hủ tục lạc hậu, những con người tha hoá, tệ tham nhũng… là hệ quả tất yếu của cuộc sống ngột ngạt, đói khát, lạc hậu và tủi nhục của những công dân mất quyền tự do dân chủ. Tất cả hiện thực đó đều được phanh phui, lộn trái với quan điểm nhìn thẳng, nói thật của các nhà phóng sự. Cảm hứng tư tưởng của các phóng sự là luôn thẳng thắn vạch trần và tố cáo, nhưng điều đáng nói là không phải nói cho bõ tức hay thoả mãn sự xoi mói một cách thoả thuê mà vạch trần cái tiêu cực với trách nhiệm công dân, với khát vọng về một xã hội tốt đẹp và với lòng tự trọng dân tộc sâu sắc. Các phóng sự đã tô đậm lòng cảm thương sâu sắc về những số phận bất hạnh để người đọc cùng sẻ chia đồng thời gieo mầm cho những tấm lòng nhân ái cảm thông, biết đau những nỗi đau với đồng loại. Cảm hứng ngợi ca thấm đẫm trong từng trang văn phóng sự cũng là một biểu hiện về lòng tự hào dân tộc, lòng yêu quê hương đất nước. Nếu như người đọc bức bối, mệt mỏi khi phải chứng kiến ca phẫu thuật những ung nhọt của xã hội thì sẽ cảm thấy vô cùng thích thú và tự hào khi ngắm nhìn vẻ đẹp làng quê với những phong tục truyền thống mang đậm bản sắc văn hoá. Tuy nhiên, những phóng sự này vẫn còn bộc lộ những hạn chế như sự bi quan bế tắc về thời cuộc và phẩm chất con người, nhận thức chính trị còn mơ hồ lệch lạc, số ít còn mô tả nhân vật pha màu sắc tự nhiên chủ nghĩa. Về nghệ thuật, các nhà phóng sự tỏ ra hết sức tinh tế khi tuyển chọn những vấn đề nóng hổi từ vô vàn “những điều trông thấy”, năng động trong cách tiếp cận hiện thực để có nhiều góc nhìn khác nhau, từ đó tìm được cội nguồn bản chất của những hiện tượng phức tạp của cuộc sống, con người và xã hội. Họ còn rất sáng tạo trong khai thác tư liệu, tinh vi trong nghệ thuật điều tra để có những tư liệu “sống”. Từ đó cung cấp thông tin đến với người đọc kịp thời, chính xác và có tính thuyết phục cao. Nghệ thuật trần thuật được các nhà phóng sự đặc biệt chú ý. Các phóng sự có kết cấu hết sức đa dạng: xoay quanh một chủ đề, theo nhân vật hay cốt truyện… Người đọc còn bị thuyết phục bởi những lối thuật kể hết sức linh hoạt, thông minh và uyển chuyển. Cách xây dựng các điểm nhìn trần thuật đa dạng và đầy biến hoá đã khắc hoạ tới những ngóc ngách sâu thẳm của thế giới nội tâm con người đồng thời giúp người đọc thấu sâu hơn những lớp ý nghĩa của hiện thực cuộc sống. Với những lời văn mang đậm chất khẩu ngữ, phóng sự trở nên gần với hơn đời sống con người. Đặc biệt, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ báo chí với ngôn ngữ văn chương đã làm cho phóng sự hoà quyện nhuần nhuyễn chất tư liệu thời sự với chất văn học đậm đà. Cùng với ngôn ngữ, giọng điệu trong các phóng sự cũng hết sức đa dạng: lúc thì mỉa mai châm biếm, lúc thì sắc sảo đanh thép, khi lại giàu sự cảm thông chia sẻ….Tất cả tạo nên vẻ đẹp nghệ thuật hết sức độc đáo và ấn tượng cho các thiên phóng sự. Với mong muốn đem lại một cái nhìn khái quát cho phóng sự về đề tài nông thôn giai đoạn 1930 – 1945, luận văn này đã tiến hành khảo sát trên cả bình diện nội dung tư tưởng và nghệ thuật viết phóng sư. Tuy nhiên, những kết quả bước đầu này có thể chỉ là sự thử nghiệm. Giá trị nhiều mặt của những phóng sự này có ý nghĩa không chỉ đối với lí luận và thực tiễn của thể phóng sự mà còn đối với một số ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Vì vậy, để khám phá hết toàn diện di sản phóng sự này, cần một lối tiếp cận kết hợp giữa văn học và các ngành khác như ngôn ngữ học, báo chí, sử học, tâm lí học, xã hội học, dân tộc học... TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tuấn Anh – Bích Thu (chủ biên) (2001), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến 1945, NXB Văn học, Hà Nội. 2. Hoài Anh (2001), Chân dung văn học, Tiểu luận phê bình, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 3. M Arnaudop(1978), Tâm lý học sáng tạo văn học, NXB Văn học, Hà Nội. 4. Nguyễn Đổng Chi (1997), Túp lều nát, NXB Văn học, Hà Nội. 5. Đức Dũng(1996), Các thể ký báo chí, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội. 6. Trần Hữu Dũng, Phi Vân – nhà văn đồng quê rặt ròng Nam Bộ. 7. Nguyễn Đức Đàn, Phan Cự Đệ (1999), Bước đường phát triển tư tưởng nghệ thuật của Ngô Tất Tố, NXB Hội nhà văn , Hà Nội. 8. Nguyễn Đức Đàn – Phan Cự Đệ (1962), Ngô Tất Tố, NXB Văn hoá, Hà nội. 9. Phan Cự Đệ – Trần Đình Hượu – Nguyễn Trác – Nguyễn Hoành Khung – Lê Chí Dũng – Hà Văn Đức (1998), Văn học Việt Nam 1900 – 1945, NXB Giáo dục, Hà Nội. 10. Phan Cự Đệ (chủ biên), Trần Đình sử, Đinh Văn Đức, Mã Giang Lân, Phan Trọng Thưởng, Bùi Việt Thắng, Hà văn Đức, Bích Thu, Lê Dục Tú (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Giáo dục, Hà Nội. 11. N. Đuytơre (1990), Hà Minh Đức, Báo Văn nghệ (Hà Nội) số 21, tháng 5. 12. Hà Minh Đức (chủ biên) (1995), Lý luận văn học (tái bản) NXB Giáo dục Hà Nội. 13. Hà Minh Đức (1990), Ký viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội. 14. Hoàng Ngọc Hiến (1990), Chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo, Văn học, học văn, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội. 15. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Năm bài giảng nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 16. Hoàng Ngọc Hiến (1990), Văn học - học văn, Trường CĐSP TP HCM – Trường viết văn Nguyễn Du, TPHCM. 17. Hoàng Ngọc Hiến (1990), Tăng cường tính chính xác trong nghiên cứu văn học, Các vấn đề của khoa học văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 18. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, NXB Khoa học xã hội – NXB Mũi Cà Mau. 19. Đỗ Đức Hiểu (chủ biên) (2004), Từ điển văn học, NXB Thế giới, Hà Nội. 20. Mai Hương (tuyển chọn và biên soạn) (2001), Ngô Tất Tố – một tài năng lớn đa dạng, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 21. Mai Hương – Tôn Hương Lan (2001), Ngô Tất Tố về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 22. Đinh Gia Khánh (chủ biên) (1997), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 20, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 23. Phan Khôi (1956) “Không đề cao Vũ Trọng Phụng, chỉ đánh giá đúng”, Vũ Trọng Phụng với chúng ta, Minh Đức xuất bản, Hà Nội. 24. M. B. Khrapchenko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội. 25. Nguyễn Hoành Khung- Lại Nguyên Ân (1994), Vũ Trọng Phụng con người và tác phẩm, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 26. Tam Lang - Trọng Lang - Hoàng Đạo (1995), Phóng sự chọn lọc, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 27. Tam Lang (1974), Tôi kéo xe, NXB Đất mới, Sài gòn. 28. Trọng Lang (2002), Làm dân, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 29. Thanh Lãng (1995), 13 năm tranh luận văn học, tập 1 và 3, NXB Văn học – Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học, TP HCM. 30. Thanh Lãng (1972), Phê bình văn học thế hệ 1932 – 1945, NXB Khai Trí, Sài Gòn. 31. Nguyễn Đình Lạp (1990), Ngõ hẻm, NXB Văn học, Hà Nội. 32. Nguyễn Đình Lạp (1997), Ngoại ô, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội. 33. Nguyễn Đình Lạp (1995), Tác phẩm chọn lọc, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 34. Mã Giang Lân (chủ biên) (1997), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24B, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 35. Tùng Lâm, Ngô Tất Tố - Một tay ngôn luận xuất sắc. 36. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam thời đại mới. NXB Giáo dục, Hà Nội.. 37. Vũ Đình Liên – Đỗ Đức Hiểu – Lê Trí Viễn – Huỳnh Lý – Trương Chính – Lê Thước (1957), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập 3, NXB Xây dựng, Hà Nội. 38. Trịnh Bích Liên (2007), Những biến thiên của Phóng sự Việt Nam từ 1930 đến trước thời kỳ Đổi mới. Tạp chí NCVH số 4, Hà Nội. 39. Phương Lựu – Nguyễn Xuân Nam – Thành Thế Thái Bình (1998), Lý luận văn học, tập 3, NXB Giáo dục, Hà Nội. 40. Phương Lựu – Trần Đình Sử – Lê Ngọc Trà(1987), Lý luận văn học, tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội. 41. Phương Lựu (1997), Tiếp nhận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 42. C.Mac – F Ănghen – V.I. Lênin (1958), Về văn học nghệ thuật, NXB Sự thật, Hà Nội. 43. Nguyễn Đăng Mạnh (1997), Nhà văn, tư tưởng và phong cách, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội. 44. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Chân dung và phong cách. NXB Văn học, Hà Nội. 45. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Dẫn luận nghiên cứu tác giả văn học, Trường Đại học sư phạm Hà Nội. 46. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1997), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 30B, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 47. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), Tinh tuyển văn học Việt Nam”, tập 7, quyển 1, Trung tâm KHXH và NV Quốc gia. 48. Nguyễn Đăng Mạnh (1989), Vũ Trọng Phụng, “ông vua phóng sự” – Lời giới thiệu phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây – Cơm thầy cơm cô, NXB Hà Nội. 49. Tô Thảo Miên (2005), Vũ Trọng Phụng – “người thư ký của thời đại”, Tạp chí nghiên cứu Văn học số 2 (396) tháng 2, Hà Nội. 50. Vũ Thị Thanh Minh (2006), Một số đặc điểm của phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945, Tạp chí nghiên cứu văn học số 9, Hà Nội. 51. Lã Nguyên (1996), 50 năm Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng 8. NXB Đại học quốc gia, Hà Nội. 52. Nguyên Ngọc (1991), Văn xuôi sau 1975, thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển, Tạp chí văn học, số 4, Hà Nội. 53. Phạm Thị Ngọc –Nguyễn Anh Vũ (tuyển chọn) (2002), Ngô Tất Tố - Việc làng – tác phẩm và dư luận, NXB Văn học, Hà Nội. 54. Nhiều tác giả (1992), Nghề nghiệp và công việc của nhà báo, Hội nhà báo Việt Nam xuất bản, Hà Nội. 55. Vũ Ngọc Phan (2005), Nhà văn hiện đại, tập 1 và 2, NXB Văn học, Hà Nội. 56. Thế Phong (1996), Cuộc đời viết văn làm báo của Tam Lang, NXB Văn hoá thông tin, TP HCM. 57. Bùi Huy Phồn (1962), Phóng sự – một thể văn xung kích, Văn nghệ Hà Nội số 63, tháng 8, Hà Nội. 58. Bùi Huy Phồn (1958), Đọc lại việc làng, Tạp chí Văn Nghệ số 8, Hà Nội. 59. Vũ Đức Phúc (1966), Bàn về các thể ký trong văn học từ cách mạng tháng Tám đến nay, Tạp chí văn học số 8, Hà Nội. 60. Vũ Đức Phúc (1976), Đặc điểm tình hình văn học Việt Nam trong giai đoạn 1930 – 1945, Tạp chí văn học số 5, Hà Nội. 61. Vũ Trọng Phụng (1937), Cơm thầy cơm cô và Lục xì, NXB Minh Phương, Hà Nội. 62. Vũ Trọng Phụng (1989), Kỹ nghệ lấy Tây – Cơm thầy cơm cô, NXB Hà Nội. 63. Vũ Trọng Phụng (2005), Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập 1, (Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá tuyển chọn, giới thiệu), NXB Văn học, Hà Nội. 64. Cao Xuân Phượng, Phóng sự Việt thời đổi mới, www.google.com .vn 65. G.N.Pospelov (chủ biên) (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, 2 tập, NXB Giáo dục, Hà Nội. 66. Thiều Quang (1957), Một chút tài liệu về Vũ Trọng Phụng, Tập phê bình, số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng, Hà Nội. 67. Trần Huy Quang (1985), Phóng sự (tuyển), NXB Văn học, Hà Nội. 68. Dương Xuân Sơn, Các thể loại báo chí chính luận nghệ thuật. NXB ĐHQG Hà Nội. 69. Mộng Bình Sơn – Đào Đức Chương (1996), Nhà văn phê bình (Khảo cứu văn học Việt Nam 1932 – 1945), NXB Văn học, Hà Nội. 70. Trần Đình Sử (1990), Bàn thêm về tiếp nhận văn học, Báo Văn nghệ, số 7, Hà Nội. 71. Trần Đình Sử – Phương Lựu – Nguyễn Xuân Nam (1987), Lý luận văn học, tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội. 72. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 73. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ giáo viên, Hà Nội. 74. Trần Đình Sử (1987), Truyện, ký về các sự kiện sắp xảy ra, Tạp chí văn học, số 2, Hà Nội. 75. Trần Đình Sử (chủ biên) (, Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch sử, NXB ĐHSP Hà Nội. 76. Trần Hữu Tá (1993), Phóng sự – Một thể văn xung kích của báo chí, Báo Lao động và xã hội, số 8, ngày 25.12, Hà Nội. 77. Trần Hữu Tá (1992), Vũ Trọng Phụng - hôm qua và hôm nay, NXB TP.HCM. 78. Trần Hữu Tá (1999), Nhà văn Vũ Trọng Phụng với chúng ta, NXB TP HCM. 79. Trần Hữu Tá (1999), Vũ Trọng Phụng “ông vua phóng sự Việt Nam” Báo Tuổi trẻ chủ nhật, tháng 10. 80. Trần Hữu Tá (sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn) (2001), Vũ Trọng Phụng – những tác phẩm tiêu biểu. NXB Giáo dục, Hà Nội. 81. Nguyễn Hoài Thanh (1999), Khảo sát những đặc điểm thể loại phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Luận án tiến si Văn học, Trường Đại học KHXH&NV, TP HCM. 82. Trần Đăng Thao (2004), Đặc sắc văn chương Vũ Trọng phụng, NXB Thanh Niên, Hà Nội. 83. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn (2000), Phóng sự Việt Nam 1932 – 1945, tập 1, 2, 3 NXB Văn học, Hà Nội. 84. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận văn học, NXB Trẻ, TP HCM. 85. Lê Ngọc Trà (1991), Vấn đề con người trong văn học hiện nay, Mấy vấn đề lý luận văn học trong sự nghiệp đổi mới (Hà Minh Đức chủ biên), NXB Sự thật, Hà Nội. 86. Huỳnh Công Tín (ĐH Cần Thơ) , Đồng quê, dân quê, tình quê trong sáng tác của Phi Vân. www.Viện văn học. Org.vn. 87. Cù Đình Tú (1993) Phong cách học và đặc điểm tu từ Tiếng Việt, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 88. Hoàng Xuân Tuyển, “Việc làng” – “Việc nước”, Phong diep.net. 89. Phi Vân (1951), Đồng quê, NXB Bốn phương, . 90. Viện thông tin khoa học xã hội (1996), Tệ nạn xã hội – căn nguyên, biểu hiện, phương thức khắc phục, Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHVHVN015.pdf