CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
{
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Thực hiện chủ trương Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước đưa Việt Nam chuyển từ một nước nông nghiệp trở thành một nước công nghiệp phát triển. Vĩnh Long đẩy mạnh quá trình này theo hướng tăng tỷ trọng GDP ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng GDP nông lâm ngư nghiệp trong cơ cấu GDP. Định hướng phát triển kinh tế của tỉnh Vĩnh Long đến năm 2010 như sau: GDP tăng bình quân đạt 7,5%/năm, cơ cấu ngành nông – ngư nghiệp 20-21%, cơ cấu ngành dịch vụ 41-42%, giá trị sản lượng nông nghiệp tăng bình quân 4,8%/năm, giá trị sản lượng công nghiệp tăng bình quân 13,1%/năm, giá trị dịch vụ tăng bình quân 7,5%/năm, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 14-16%/năm.
Là một huyện đầu não của Vĩnh Long, Bình Minh được thiên nhiên ưu đãi rất nhiều, khí hậu quanh năm điều hòa, đất đai màu mỡ, dân chúng sống đa số bằng nông nghiệp. Bên cạnh sự phát triển về nông nghiệp, thì các ngành công nghiệp, thương mại- dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp cũng phát triển.
Trong giai đoạn hiện nay, một mặt nền kinh tế, cơ sở hạ tầng dần được cải thiện, mặt khác, Luật Doanh nghiệp có hiệu lực cùng với các chính sách khuyến khích đầu tư của Trung Ương và của Tỉnh nên ngày càng nhiều doanh nghiệp được thành lập và mở rộng kinh doanh, nhu cầu về vốn cho nền kinh tế Tỉnh nhà nói chung và huyện Bình Minh nói riêng không ngừng tăng lên. Tuy nhiên hiện nay, thị trường vốn chưa phải là kênh phân bổ vốn một cách có hiệu quả của nền kinh tế do đó vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế vẫn phải dựa vào nguồn vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng.
Trong bối cảnh nền kinh tế xã hội ngày nay, vấn đề huy động vốn trong xã hội là rất nan giải cho các ngân hàng và vấn đề cho vay sao cho phù hợp, thiết thực, đạt hiệu quả đồng thời đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh. Để kinh doanh đạt hiệu quả mong muốn, hạn chế rủi ro xảy ra, ngân hàng phải phân tích hoạt động kinh doanh của mình, đồng thời dự đoán điều kiện kinh doanh trong thời gian tới, vạch ra chiến lược phù hợp. Việc thường xuyên tiến hành phân tích tình hình kinh doanh sẽ giúp cho các ngân hàng thương mại thấy rõ thực trạng kinh doanh hiện tại, xác định đầy đủ và đúng đắn nguyên nhân, mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tình hình hoạt động kinh doanh. Từ đó, có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả huy động vốn và hiệu quả hoạt động tín dụng. Đó chính là lý do tôi chọn đề tài “Phân tích hiệu quả hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long chi nhánh Bình Minh”.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1. Mục tiêu chung
Phân tích hiệu quả tín dụng, từ đó đề ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng tại Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh trong ba năm 2004-2006.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Đề tài gồm có những mục tiêu cụ thể như sau:
- Phân tích hoạt động tín dụng của Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh qua 3 năm 2004-2006 theo thành phần kinh tế, ngành kinh tế và theo kỳ hạn.
- Đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng của chi nhánh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL huyện Bình Minh.
- Đánh giá những khó khăn và thuận lợi trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh
- Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn và hiệu quả hoạt động tín dụng.
- Đề xuất một số kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1. Phạm vi không gian
Đề tài chủ yếu được thực hiện tại Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long chi nhánh Bình Minh.
1.3.2. Phạm vi thời gian
Số liệu được sử dụng để phân tích là số liệu 3 năm 2004-2006.
1.3.3. Đối tượng nghiên cứu
Phân tích hiệu quả hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long chi nhánh Bình Minh.
65 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1375 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích hiệu quả hoạt động tín dụng tại ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long huyện Bình Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iển sản xuất. Chi nhánh đầu tư tín dụng ngắn hạn, trung dài hạn để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động và vốn cố định của các đơn vị. Trong 3 năm qua đạt được kết quả như sau:
Đối với tín dụng ngắn hạn: đây là loại tín dụng chiếm tỷ trọng cao (trên 70%) so với tổng doanh số cho vay và tăng qua các năm. Đặc biệt, tốc độ tăng trưởng tín dụng ngắn hạn năm 2005 mới chỉ đạt 9,9% đến năm 2006 con số này đã tăng lên đáng kể 53,2%. Nguyên nhân của sự tăng này là do 2 nhân tố:
Đối với Ngân hàng do nguồn vốn cho vay của Ngân hàng chủ yếu từ huy động ngắn hạn, cho vay ngắn hạn ít rủi ro hơn so với cho vay trung và dài hạn đồng thời cán bộ tín dụng cũng dễ dàng trong việc lập phương án cho vay.
Đối với khách hàng là các cơ sở sản xuất mục đích vay để bổ sung vốn lưu động, còn khách hàng là cá nhân mục đích vay là trồng trọt, chăn nuôi…do vậy mà chu kỳ vốn ngắn, hơn nữa vay ngắn hạn lãi suất thấp nên thu hút được khách hàng.
Ngược lại với tín dụng ngắn hạn, tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn trong ba năm qua chỉ đạt con số khiêm tốn dưới 30%. Sự tăng trưởng của loại tín dụng này cũng không ổn định qua các năm. Năm 2005 doanh số cho vay giảm 2.741 triệu đồng hay giảm 16 % so với năm 2004. Sang năm 2006 có sự tăng trưởng trở lại tăng 20 triệu đồng hay tăng 0,1%. Do các khoản cho vay trung và dài hạn có thời gian thu hồi vốn lâu, lại có độ rủi ro lớn. Mặt khác, do tài sản thế chấp của khách hàng đa số là bằng khoán đất, tài sản không đủ làm đảm bảo để cho vay, do đó rất khó làm phương án để cho vay trung và dài hạn. Chính vì vậy mà Ngân hàng rất thận trọng trong công tác thẩm định và xét duyệt cho vay.
Bảng số liệu còn cho ta thấy tỷ trọng doanh số cho vay ngắn hạn gấp khoảng 3 lần so với tỷ trọng cho vay trung và dài hạn năm 2004 và 2005. Sang năm 2006 thì con số này lên đến 4,5 lần. Nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn, nhưng từ những năm 1970 trở lại đây các ngân hàng đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng. Tuy nhiên tâm lý của khách hàng kể cả chính quyền địa phương cũng đã quen với chức năng của ngân hàng thương mại quốc doanh đóng trên địa bàn. Do đó việc cho vay theo các chương trình, dự án lớn thuộc Ngân hàng đầu tư và phát triển. Hơn nữa, sau khi ra đời quỹ đầu tư và phát triển cho doanh nghiệp vay các dự án lớn, chương trình của chính phủ…có thời hạn trung và dài hạn, với lãi suất ưu đãi chỉ bằng 50% lãi suất của ngân hàng thương mại. Vì vậy chi nhánh Ngân hàng phát triển nhà ĐBSCL huyện Bình Minh đầu tư cho vay chủ yếu trong lĩnh vực bổ sung vốn lưu động thiếu hụt tạm thời với lãi suất thương mại và thời gian ngắn. Điều này đã giải thích vì sao mà tỷ trọng cũng như tốc độ tăng doanh số cho vay ngắn hạn luôn cao hơn doanh số cho vay trung và dài hạn.
4.2.1.3. Doanh số cho vay theo ngành kinh tế.
Bảng 6: DOANH SỐ CHO VAY THEO NGÀNH KINH TẾ
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
Chênh lệch 2005 so với 2004
Chênh lệch
2006 so với 2005
2004
2005
2006
Số tiền
Tốc độ tăng
(%)
Số tiền
Tốc độ tăng
(%)
1. Nông nghiệp
16.911
16.200
24.170
-711
-4,2
7.970
49,2
2. Thương mại – Dịch vụ
22.548
24.230
30.500
1.682
7,5
6.270
25,9
3. Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp
2.359
2.400
5.700
41
1,7
3.300
137,5
4.Ngành khác
14.552
14.690
20.122
138
0,9
5.432
37
Tổng cộng
56.370
57.520
80.492
1.150
2
22.972
39,9
Nguồn: Phòng nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh
Cùng với sự đa dạng các ngành nghề trong nền kinh tế dẫn đến nhu cầu về vốn để phát triển, mở rộng sản xuất cũng tăng theo. Do vậy, doanh số cho vay theo ngành kinh tế tăng qua 3 năm 2004-2006. Qua bảng số liệu ta thấy doanh số cho vay năm 2005 có sự tăng giảm giữa các ngành kinh tế trong Tỉnh. Do chủ trương chuyển đổi kinh tế của Tỉnh giảm tỷ trọng đối với ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng đối với ngành thương mại-dịch vụ, công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, do vậy cơ cấu vốn tín dụng đầu tư cho các ngành kinh tế cũng thay đổi, được tập trung vào các ngành chính, mũi nhọn phục vụ công nghiệp hóa hiện đại hóa. Năm 2005, chi nhánh tăng cho vay ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại-dịch vụ và ngành khác, giảm doanh số cho vay ngành nông nghiệp. Cụ thể, năm 2005 doanh số cho vay ngành thương mại - dịch vụ tăng 7,5%, ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tăng 1,7%, ngành khác tăng 0,9%, riêng doanh số cho vay ngành nông nghiệp giảm 4,2%.
Tuy nhiên sang năm 2006, cùng với sự tăng trưởng doanh số cho vay của các ngành kinh tế trong Tỉnh, doanh số cho vay ngành nông nghiệp tăng trở lại đạt 49,2% là do có sự biến động về thời tiết chuyển đổi về mùa vụ, cây trồng và vật nuôi…Làm cho thu nhập của người dân đối với ngành này tăng cao, vì vậy mà nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất cũng tăng theo. Hơn nữa, đa số người dân sống ở nông thôn và thu nhập chính của họ chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp. Do đó, tỷ trọng đầu tư tín dụng của ngành này cao là điều hợp lý. Đây là lĩnh vực kinh tế đòi hỏi nhu cầu đầu tư không lớn, lại có thể tạo ra tích lũy ban đầu cho công cuộc phát triển kinh tế của Tỉnh. Tuy nhiên, về lâu dài, Ngân hàng cần có định hướng đúng đắn cho việc tăng mức đầu tư tín dụng đối với các ngành công nghiệp- Tiểu thủ công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến cũng như các ngành thương mại dịch vụ khác.
4.2.2. Doanh số thu nợ.
Bên cạnh việc cho vay thì công tác thu hồi nợ được Ngân hàng quan tâm rất nhiều, làm sao để thu hồi nợ đúng hạn và đầy đủ vừa đảm bảo vốn hiện có vừa tăng số vòng vay của đồng vốn mà vẫn đem lại hiệu quả cho Ngân hàng. Doanh số thu nợ cao hay thấp còn tùy thuộc vào năng lực của cán bộ tín dụng trong việc đánh giá lựa chọn khách hàng, thời hạn cho vay, doanh số cho vay, tình hình sản xuất kinh doanh cũng như thiện chí trả nợ của khách hàng.
4.2.2.1. Doanh số thu nợ theo thành phần kinh tế
Bảng 7: DOANH SỐ THU NỢ THEO THÀNH PHẦN KINHTẾ
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
Chênh lệch
2005 so với 2004
Chênh lệch
2006 so với 2005
2004
2005
2006
Số tiền
Tốc độ tăng
(%)
Số tiền
Tốc độ tăng
(%)
1. DNTN và công ty TNHH
7.060
8.255
12.547
1.195
16,9
4.292
52
2. Cá thể, hộ gia đình
27.402
39.206
49.292
11.804
43,1
10.086
25,7
Tổng cộng
34.462
47.461
61.839
12.999
37,7
14.378
30,3
Nguồn: Phòng nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh
Qua bảng 7 ta thấy doanh số thu nợ đối với các thành phần kinh tế tăng trưởng qua 3 năm. Doanh số thu nợ năm 2005 đạt 47.461 triệu đồng tăng 12.999 triệu đồng tức tăng gần 38% so với năm 2004. Đến năm 2006 con số này lên đến 61.839 triệu đồng tăng 14.378 triệu đồng ứng với tốc độ tăng 30%.
Nhìn chung tình hình thu nợ đối với thành phần kinh tế có sự chuyển biến mạnh mẽ, do ngay trong khâu thẩm định, lựa chọn khách hàng được cán bộ tín dụng thực hiện tốt. Hơn nữa, trong thời gian qua chi nhánh đã phân loại khách hàng theo từng nhóm, có biện pháp quản lý như thường xuyên theo dõi, kiểm tra việc sử dụng vốn của khách hàng, cán bộ tín dụng thường xuyên đôn đốc và động viên khách hàng trả gốc và lãi đúng hạn. Mặt khác, do doanh số cho vay tăng qua các năm dẫn đến doanh số thu nợ cũng tăng lên.
Đối với doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn do kinh tế tăng trưởng, cộng với những chính sách khuyến khích phát triển của Tỉnh nên việc sản xuất kinh doanh của thành phần này có hiệu quả, vì vậy mà việc trả nợ được đúng hạn. Tốc độ thu nợ của đối tượng này tăng cao từ 17% năm 2005 lên đến 52% vào năm 2006. Nguyên nhân của sự tăng trưởng này do doanh số cho vay năm 2005 của thành phần này tăng làm cho thu nợ năm sau tăng lên.
Đối với cá thể hộ gia đình: Do công tác thu nợ của chi nhánh tập trung vào hộ nông dân-cá thể, thường xuyên kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng, nhắc nhở khách hàng trả lãi và nợ vay đúng hạn. Đối với những khách hàng gia hạn nợ, những khách hàng bị đánh giá có tình hình tài chính yếu, kém hay kinh doanh thua lỗ tùy vào mức độ tài chính cũng như khả năng cải thiện tình trạng sản xuất của khách hàng mà Ngân hàng có thể lựa chọn, xem xét và đưa ra quyết định tiếp tục cho vay hay không. Điều này đã làm cho công tác thu hồi nợ qua 3 năm đạt kết quả khả quan, doanh số thu nợ tăng qua các năm. Năm 2005 doanh số thu nợ của đối tượng này tăng cao đạt 43% so với năm 2004. Sang năm 2006 con số này chỉ đạt khoảng 26% là do năm 2005 chi nhánh giảm cho vay đối với đối tượng này làm cho thu nợ năm 2006 giảm.
4.2. 2.2. Doanh số thu nợ theo kỳ hạn.
Bảng 8: DOANH SỐ THU NỢ THEO KỲ HẠN
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
Chênh lệch
2005 so với 2004
Chênh lệch
2006 so với 2005
2004
2005
2006
Số tiền
Tốc độ tăng
(%)
Số tiền
Tốc độ tăng
(%)
1. Ngắn hạn
18.768
33.300
51.362
14.532
77,4
18.062
54,2
2. Trung và Dài hạn
15.694
14.161
10.477
-1.533
-9,8
-3.684
-26
Tổng cộng
34.462
47.461
61.839
12.999
37,7
14.378
30,3
Nguồn: Phòng nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh
Doanh số thu nợ ngắn hạn của Ngân hàng trong 3 năm qua đạt kết quả khả quan. Cụ thể, năm 2005 doanh số thu nợ ngắn hạn đạt 33.300 triệu đồng tăng 14.532 triệu đồng tức tăng 77,4% so với năm 2004. Năm 2006 là 51.362 triệu đồng tăng 18.062 triệu đồng tức tăng 54,2%.
Đạt được kết quả như vậy là do phần lớn doanh số cho vay có mục đích là chăn nuôi, trồng trọt, cải tạo vườn, bổ sung vốn kinh doanh… chu kỳ sản xuất ngắn do đó các khoản vay này chủ yếu là ngắn hạn, cho nên doanh số thu nợ ngắn hạn hàng năm đều tăng. Mặt khác, cùng với sự tăng lên của doanh số cho vay ngắn hạn qua các năm nên doanh số thu nợ ngắn hạn cũng tăng theo.
Nếu như doanh số thu nợ ngắn hạn tăng liên tục qua các năm thì doanh số thu nợ trung và dài hạn lại giảm qua 3 năm. Cụ thể, năm 2005 doanh số thu nợ giảm 1.533 triệu đồng tức giảm gần 10% so với năm 2004. Năm 2006 giảm 3.684 triệu đồng tức giảm đến 26% so với năm 2005. Do doanh số cho vay trung và dài hạn giảm qua các năm, mặt khác đặc điểm của loại cho vay này là thời hạn cho vay trên 1 năm và tiền vay được trả định kỳ qua nhiều năm cùng với lãi vay điều đó làm cho doanh số thu nợ trung và dài hạn giảm.
4.2.2.2. Doanh số thu nợ theo ngành kinh tế.
Bảng 9: DOANH SỐ THU NỢ THEO NGÀNH KINH TẾ
ĐVT: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
Chênh lệch
2005 so với 2004
Chênh lệch
2006 so với 2005
2004
2005
2006
Số tiền
Tốc độ tăng
(%)
Số tiền
Tốc độ tăng
(%)
1. NN
12.450
15.302
18.187
2.852
22,9
2.885
18,9
2. TM-DV
17.235
15.729
22.240
-1.506
-8,7
6.511
41,4
3. CN-TTCN
1.800
1.332
2.375
-468
-26
1.043
78,3
4. Ngành khác
2.977
15.098
19.037
12.121
407,2
3.939
26,1
Tổng cộng
34.462
47.461
61.839
12.999
37,7
14.378
30,3
Nguồn: Phòng nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh
* Chú thích:
- NN: Nông nghiệp.
- TM-DV: Thương mại và dịch vụ.
- CN-TTCN: Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
Trong hoạt động kinh doanh của mình, Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh đã phân công trách nhiệm cho từng cán bộ tín dụng trong việc thu nợ tại địa bàn mình quản lý, thường xuyên kiểm tra, phát hiện kịp thời ngăn chặn khách hàng sử dụng vốn sai mục đích nên đã đạt được kết quả khá tốt trong công tác thu nợ theo ngành kinh tế qua 3 năm 2004-2006.
Doanh số thu nợ đối với ngành nông nghiệp tăng trưởng và ổn định qua các năm. Tốc độ tăng trung bình doanh số thu nợ hàng năm đạt khoảng 21%. Nguyên nhân của sự tăng này là do việc thay đổi cơ cấu mùa vụ đã mang lại hiệu quả cao nên việc trả nợ cho Ngân hàng diễn ra đúng hạn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu nợ của Ngân hàng.
Đối với ngành thương mại và dịch vụ, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp doanh số thu nợ tăng giảm qua các năm. Năm 2005 doanh số thu nợ ngành thương mại-dịch vụ giảm 8,7%, ngành công nghiệp tiểu thủ công nghiệp giảm đến 26% là do tỷ trọng cho vay của 2 ngành này vào năm 2004 thấp làm cho doanh số thu nợ năm 2005 giảm. Tuy nhiên, tốc độ tăng doanh số thu nợ của 2 ngành này tăng đáng kể vào năm 2006 lần lượt là 41% và 78% do năm 2005 hưởng ứng chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của Tỉnh do đó chi nhánh đã tập trung đẩy mạnh cho vay 2 ngành này, bên cạnh đó kinh tế trong những năm qua có sự chuyển biến tích cực nên các đối tượng kinh doanh trong lĩnh vực này đạt hiệu quả làm cho doanh số thu nợ của Ngân hàng tăng mạnh vào năm 2006. Sự tăng lên này cho thấy việc mở rộng đầu tư của Ngân hàng là phù hợp nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh.
4.2.3. Phân tích tình hình dư nợ
Dư nợ cho vay phản ánh mức đầu tư vốn và liên quan trực tiếp đến việc tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Bên cạnh việc cho vay, các hình thức bảo lãnh, mua bán nợ, nhận cầm cố các chứng từ có giá, bất động sản…cũng làm cho dư nợ của ngân hàng tăng lên. Tuy nhiên, Ngân hàng hoạt động trên địa bàn huyện nên hình thức đầu tư bị giới hạn vì vậy dư nợ của Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh tăng chủ yếu từ việc cho vay tăng qua các năm.
.4.2.3.1. Dư nợ theo thành phần kinh tế
Bảng 10: DƯ NỢ CHO VAY THEO THÀNH PHẦN KINH TẾ
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
Chênh lệch
2005 so với 2004
Chênh lệch
2006 so với 2005
2004
2005
2006
Số tiền
Tốc độ tăng
(%)
Số tiền
Tốc độ tăng
(%)
1. DNTN và công ty TNHH
9.500
12.200
13.800
2.700
28,4
1.600
13,1
2. Cá thể, hộ gia đình
43.830
51.189
68.242
7.359
16,8
17.053
33,3
Tổng cộng
53.330
63.389
82.042
10.059
18,9
18.653
29,4
Nguồn: Phòng nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh
Nhìn chung, dư nợ theo thành phần kinh tế của chi nhánh tăng trưởng ổn định qua 3 năm 2004-2006. Cụ thể, Năm 2005 dư nợ là 63.389 triệu đồng tăng 10.059 triệu đồng tức tăng 19% so với năm 2004. Sang năm 2006 là 82.042 triệu đồng tăng 18.653 triệu đồng ứng với tốc độ tăng 29% so với năm 2005. Sự tăng trưởng này cho thấy trong thời gian qua hoạt động tín dụng của Ngân hàng ngày càng mở rộng.
Qua bảng số liệu ta thấy trong những năm qua chi nhánh tăng cường cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhưng do hạn chế về số lượng khách hàng, phần lớn cho vay đối với các doanh nghiệp có qui mô vốn nhỏ, mục đích vay chủ yếu là bổ sung vốn kinh doanh nên đối tượng này thường trả nợ trước hạn để giảm tiền lãi. Vì vậy, dư nợ năm sau có cao hơn năm trước nhưng tốc độ tăng càng về sau càng giảm.
Đối với cá thể, hộ gia đình: Dư nợ của đối tượng này liên tục tăng cả về số tuyệt đối lẫn tương đối. Dư nợ năm 2005 đạt 51.189 triệu đồng tăng gần 17%, đến năm 2006 là 68.242 triệu đồng tức tăng 33%. Hầu hết cá thể, hộ nông dân vay số tiền thấp do vậy lãi ít, mặt khác đối tượng này không có thu nhập hàng ngày vì vậy mà sau một vụ mùa hay chu kỳ sản xuất thì họ mới có tiền trả Ngân hàng nên thường đến hạn họ mới trả làm cho dư nợ tăng qua các năm.
4.2.3.2. Dư nợ theo kỳ hạn
Bảng 11: DƯ NỢ CHO VAY THEO KỲ HẠN
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
Chênh lệch
2005 so với 2004
Chênh lệch
2006 so với 2005
2004
2005
2006
Số tiền
Tốc độ tăng
(%)
Số tiền
Tốc độ tăng
(%)
1. Ngắn hạn
34.960
44.800
59.530
9.840
28,1
14.730
32,9
2. Trung và Dài hạn
18.370
18.589
22.512
219
1,2
3.923
21,1
Tổng cộng
53.330
63.389
82.042
10.059
18,9
18.653
29,4
Nguồn: Phòng nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh
Dư nợ là kết quả có được từ diễn biến tình hình cho vay, dư nợ của Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh trong năm 2005 và năm 2006 lớn hơn so với doanh số cho vay. Sở dĩ có sự cao hơn này là do dư nợ của những năm trước chuyển sang. Qua bảng số liệu ta thấy: dư nợ ngắn hạn cao hơn dư nợ trung và dài hạn và có xu hướng tăng dần qua 3 năm. Cụ thể:
Dư nợ ngắn hạn: Năm 2004 dư nợ ngắn hạn là 34.960 triệu đồng, năm 2005 là 44.800 triệu đồng tăng so với 2004 là 9.840 triệu đồng tức tăng 28%. Năm 2006, dư nợ ngắn hạn là 59.530 triệu đồng tăng gần 33% so với năm 2005. Một phần là trong sản xuất nông nghiệp các món vay thường là ngắn hạn, cùng với sự tăng lên của doanh số cho vay làm dư nợ tăng theo.
Dư nợ trung và dài hạn: Mặc dù doanh số cho vay trung và dài hạn giảm nhưng do bản chất của món vay này là tiền vay được trả trong nhiều năm làm cho dư nợ trung và dài hạn tăng qua 3 năm. Năm 2005 tốc độ tăng dư nợ trung và dài hạn chỉ đạt 1,2%, nhưng sang năm 2006 đạt đến 21%, sự tăng này là do dư nợ đầu kỳ tăng trong khi thu nợ trong năm giảm làm cho dư nợ trung và dài hạn năm 2006 tăng cao.
4.2.3.3. Dư nợ theo ngành kinh tế.
Dư nợ theo ngành kinh tế của Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh tăng qua các năm thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 12: DƯ NỢ THEO NGÀNH KINH TẾ
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
Chênh lệch
2005 so với 2004
Chênh lệch
2006 so với 2005
2004
2005
2006
Số tiền
Tốc độ tăng
(%)
Số tiền
Tốc độ tăng
(%)
1. NN
21.332
22.230
28.213
898
4,2
5.983
26,9
2. TM-DV
15.999
24.500
32.760
8.501
53,1
8.260
33,7
3. CN-TTCN
2.666
3.734
7.059
1.068
40,1
3.325
89
4. Ngành khác
13.332
12.925
14.010
-407
-3,1
1.085
8,4
Tổng cộng
53.329
63.389
82.042
10.060
18,9
18.653
29,4
Nguồn: Phòng nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh
* Chú thích:
- NN: Nông nghiệp.
- TM-DV: Thương mại và dịch vụ.
- CN-TTCN: Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy, dư nợ các ngành nông nghiệp, thương mại dịch vụ, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đều tăng lên qua 3 năm. Do ngân hàng đã chú trọng đầu tư vào phát triển các ngành chủ lực như ngành nông nghiệp, công nghiệp và chế biến, dịch vụ… bên cạnh đó Ngân hàng cũng bám sát tình hình sản xuất thực tế tại địa phương để kịp đưa đồng vốn của mình đầu tư vào những ngành, lĩnh vực có hiệu quả kinh tế xã hội cao, góp phần vào mục tiêu chung cho sự phát triển kinh tế của Huyện nhà.
- Đối với ngành nông nghiệp: Năm 2005 dư nợ đạt 22.230 triệu đồng tăng 898 triệu đồng tương đương với tốc độ tăng 4,2% so với năm 2004. Sang năm 2006 con số này là 28.213 triệu đồng tăng 5.983 triệu đồng tức tăng gần 27%. Nguyên nhân là do doanh số cho vay của đối tượng này chiếm tỷ trọng cao, mặt khác trong những năm qua chịu ảnh hưởng bởi thời tiết hạn hán, dịch cúm gia cầm, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá trên cây lúa…làm cho hoạt động sản xuất của một số hộ dân không hiệu quả nên Ngân hàng đã cho họ gia hạn nợ làm cho dư nợ của ngành này tăng lên.
- Ngành thương mại - dịch vụ: Dư nợ đối với ngành thương mại và dịch vụ trong 3 năm 2004-2006 không ngừng tăng trưởng, tốc độ tăng dư nợ năm 2005 so với năm 2004 đạt 53% và năm 2006 so với 2005 là 34%. Nguyên nhân tăng do chính sách của huyện khuyến khích các loại hình du lịch sông nước, miệt vườn….bên cạnh đó các loại hình dịch vụ như ăn uống, nhà nghỉ cũng không ngừng phát triển dọc theo quốc lộ 1A và hương lộ góp phần phát triển kinh tế huyện. Do vậy mà Ngân hàng tăng cường cho vay đối với đối tượng này, tạo điều kiện cho họ có thể tiếp cận được nguồn vốn để mở rộng sản xuất làm cho dư nợ của ngành này tăng cao.
- Ngành công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp: Nằm trong danh sách những ngành nghề khuyến khích của Tỉnh, ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trong những năm qua có hướng khởi sắc, chủ yếu là các ngành nghề truyền thống như công nghiệp chế biến, vật liệu xây dựng, dệt, đan và gốm sứ… Mặc dù chiếm tỷ trọng thấp nhất trên tổng dư nợ so với các ngành khác nhưng tốc độ tăng trưởng dư nợ của ngành này lại cao nhất. Tốc độ tăng dư nợ trung bình trong 2 năm 2005 và 2006 khoảng 65%. Điều này cho thấy triển vọng phát triển của ngành này trong tương lai rất lớn đồng thời cũng cho thấy việc đầu tư vốn của Ngân hàng đúng và có hiệu quả.
- Ngành khác: Dư nợ của ngành tăng, giảm qua các năm, năm 2005 dư nợ giảm 407 triệu đồng tức giảm 3% so với năm 2004, Sang năm 2006 tăng 1.085 triệu đồng tương đương tốc độ tăng 8% so với năm 2005. Nguyên nhân của sự tăng, giảm này là do sự chuyển hướng đầu tư của Ngân hàng sang các ngành nghề trọng điểm theo chính sách kinh tế của Tỉnh.
4.2.4. Tình hình nợ quá hạn.
Nợ quá hạn là nguyên nhân chính gây ra rủi ro tín dụng, có tác động đến tín dụng của Ngân hàng và hiệu quả của việc sử dụng vốn vay của người đi vay. Nhìn chung nợ quá hạn của chi nhánh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL huyện Bình Minh trong 3 năm 2004-2006 chiếm tỷ trọng thấp, tuy nhiên tốc độ tăng tỷ lệ nợ quá hạn cao.
4.2.4.2. Tình hình nợ quá hạn theo thành phần kinh tế
Bảng 13: NỢ QUÁ HẠN THEO THÀNH PHẦN KINH TẾ
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
Chênh lệch
2005 so với 2004
Chênh lệch
2006 so với 2005
2004
2005
2006
Số tiền
Tốc độ tăng (%)
Số tiền
Tốc độ tăng (%)
1. DNTN và công ty TNHH
0
0
120
0
-
120
-
2. Cá thể, hộ gia đình
113
326
560
213
188,5
234
71,8
Tổng cộng
113
326
680
213
188,5
354
108,6
Nguồn: Phòng nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh
Qua bảng số liệu ta thấy nợ quá hạn của chi nhánh tăng qua các năm. Cụ thể, năm 2005 nợ quá hạn là 326 triệu đồng tăng 213 triệu đồng tức tăng gần 189% so với năm 2004. Sang năm 2006 nợ quá hạn là 680 triệu đồng tăng 354 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng 109%. Nguyên nhân của sự tăng trưởng nợ quá hạn là do chi nhánh mới thành lập năm 2003, một số khách hàng gặp khó khăn trong quá trình sản xuất không trả được nợ nên gia hạn nợ, sang những năm sau do những món vay đó đã hết thời hạn gia hạn nợ nên chuyển sang nợ quá hạn. Do vậy, nợ quá hạn trong 3 năm vừa qua tăng lên.
- Đối với doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn: Như đã nêu ở phần trước trong những năm qua đối tượng này sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả, có lợi nhuận nên việc trả nợ cho Ngân hàng được tốt, do đó không có nợ quá hạn trong 2 năm 2004, 2005. Hơn nữa, đây là tổ chức kinh tế nên họ rất coi trọng uy tín, mối quan hệ giữa đối tượng này và Ngân hàng không phải là một ngày một buổi mà là lâu dài nên thực hiện tốt việc trả nợ sẽ thuận lợi cho các tổ chức kinh tế mở rộng kinh doanh, phát triển sản xuất của đơn vị mình trong tương lai. Năm 2006, nợ quá hạn của đối tượng này là 120 triệu đồng do kinh tế có một số biến động như xăng dầu tăng giá ảnh hưởng đến vận tải, bưu điện, viễn thông; sự biến động giá của một số mặt hàng theo mùa vụ như vật liệu xây dựng, phân bón thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc…do bị tác động giá thép tăng trên thị trường thế giới. Một số doanh nghiệp tài chính yếu kém, chưa nắm bắt thông tin thị trường dẫn đến việc làm ăn thua lỗ sinh ra nợ quá hạn.
Đối với cá thể và hộ gia đình: Qua bảng số liệu ta thấy hầu như nợ quá hạn của chi nhánh trong những năm qua tập trung vào đối tượng này. Năm 2005 nợ quá hạn của cá thể hộ gia đình tăng gần 189% so với năm 2004. Đến năm 2006 tốc độ tăng nợ quá hạn khoảng 72% so với năm 2005. Do doanh số cho vay của đối tượng này trong những năm qua chiếm tỷ trọng cao trên doanh số cho vay của chi nhánh, số tiền vay của mỗi cá thể hoặc hộ gia đình thường không lớn do vậy cán bộ tín dụng phải quản lý với số lượng khách hàng lớn, không thể kiểm soát nổi việc sử dụng vốn của đối tượng này dẫn đến một số khách hàng cố tình sử dụng vốn sai mục đích. Hơn nữa, vốn tự có của đối tượng này không cao do vậy mà số tiền vay Ngân hàng hầu như là đầu tư hết vào việc sản xuất, không có nguồn thu nhập phụ nếu như thời tiết thay đổi gây mất mùa hay gia đình có người không mai bệnh tật, tai nạn… thì họ sẽ không có tiền để trả Ngân hàng do vậy mà nợ quá hạn của đối tượng này cao.
Nhìn chung, ba năm qua, Ngân hàng có sự phân công trách nhiệm cho từng cán bộ tín dụng đối với khách hàng mình quản lý, đảm bảo kiểm tra chéo, tự kiểm tra. Cán bộ tín dụng đi sát doanh nghiệp, nhất là sau đầu tư để thu nợ, phát hiện kịp thời những dấu hiệu không bình thường để xử lý. Đảm bảo kiểm tra các nghiệp vay vốn, doanh nghiệp có khó khăn khách quan không trả được nợ, kịp thời trình Giám Đốc chi nhánh xem xét, tùy tình hình thực tế để xử lý gia hạn nợ, giãn nợ, ưu tiên thu nợ gốc…Do vậy, quy mô tín dụng được mở rộng nhanh, chất lượng tín dụng nâng lên rõ rệt, tỷ lệ nợ quá hạn thấp.
4.2.4.1. Tình hình nợ quá hạn theo kỳ hạn
Trong 3 năm qua, nợ quá hạn của chi nhánh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL huyện Bình Minh xét theo kỳ hạn, tốc độ tăng trưởng có sự tăng giảm khác nhau giữa các kỳ hạn. Đặc biệt, tỷ trọng nợ quá hạn ngắn hạn gấp 3 đến 4 lần tỷ trọng nợ quá hạn dài hạn, thể hiện qua biểu đồ sau:
Hình 5: Tình hình nợ quá hạn theo kỳ hạn của Ngân hàngPhát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh qua 3 năm 2004-2006.
Qua bảng số liệu nợ quá hạn của Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh, ta thấy nợ quá hạn ngắn hạn chiếm tỷ trọng (>70%) cao hơn so với nợ quá hạn dài hạn. Năm 2005, nợ quá hạn ngắn hạn là 231 triệu đồng tăng 143 triệu đồng tức tăng 163% trong tổng nợ quá hạn trong năm, nợ quá hạn trung hạn là 95 triệu đồng tăng 70 triệu đồng hay tăng 280% trong tổng dư nợ quá hạn. Nguyên nhân của việc nợ quá hạn ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao hơn nợ quá hạn trung hạn là do đặc điểm kinh tế của huyện là sản xuất nông nghiệp, trong hoạt động cho vay của ngân hàng, phần lớn là cho vay ngắn hạn, chiếm tỷ trọng trên 70%, khoản vay trung hạn là rất ít, chiếm tỷ trọng dưới 30%. Mặt khác, trong những năm qua, chịu ảnh hưởng bởi dịch cúm gia cầm, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá trên cây lúa…Làm cho sản xuất của người dân không hiệu quả, dẫn đến nợ quá hạn ngắn hạn của Ngân hàng tăng. Tuy nhiên sang năm 2006 tốc độ tăng trưởng nợ quá hạn ngắn hạn, trung và dài hạn có xu hướng giảm, một mặt năm 2006 là năm đầu của kế hoạch nhà nước 5 năm (2006 - 2010) về phát triển kinh tế, kinh tế của Tỉnh tăng trưởng khá, người dân sản xuất có hiệu quả. Mặt khác, Ngân hàng đã kịp thời điều chỉnh chuyển hướng cho vay và có kế hoạch tập trung xử lý nợ quá hạn. Do vậy, tình hình hoạt động của Ngân hàng có nhiều chuyển biến tốt, đặc biệt tốc độ tăng nợ quá hạn trung và dài hạn giảm xuống chỉ còn 32% so với năm 2005.
4.2.4.3. Tình hình nợ quá hạn theo ngành kinh tế
Trong 3 năm 2004-2006, nợ quá hạn theo ngành kinh tế của Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh tăng qua các năm và chủ yếu tập trung ở ngành thương mại-Dịch vụ, nông nghiệp và ngành khác, thể hiện qua bản số liệu sau:
Hình 6: Tình hình nợ quá hạn theo ngành kinh tế của Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh qua 3 năm 2005-2006.
- Nợ quá hạn ngành nông nghiệp: Nợ quá hạn chiếm tỷ trọng cao nhất và tăng cao qua các năm, năm 2005 nợ quá hạn tăng đến 400% so với năm 2004, năm 2006 so với năm 2005 tốc độ tăng nợ quá hạn là 279%.
+ Về phía Ngân hàng do địa bàn cho vay phân tán, thiếu cán bộ tín dụng nên việc quản lý khó khăn. Một cán bộ tín dụng phải quản lý nhiều khách hàng ở nhiều xã nên khó kiểm soát tình hình sử dụng vốn của khách hàng, mặt khác do đa số khách hàng sống ở nông thôn, thông tin liên lạc chưa thuận tiện lắm nên việc gửi giấy thông báo lãi hay điện thọai nhắc nhở khách hàng đóng lãi cũng gặp nhiều bất tiện vì vậy gây trở ngại cho công tác thu nợ của Ngân hàng.
+ Trong những năm qua tình hình kinh tế có những biến động, giá các loại vật tư nông nghiệp tăng trong khi các mặt hàng nông sản đứng giá, đa số người dân sản xuất manh mún, nhỏ lẻ làm cho chi phí sản xuất cao nên việc sản xuất của một số hộ không hiệu quả gây khó khăn cho công tác thu hồi nợ của Ngân hàng.
+ Một số khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, hay cố tình chây ỳ không trả nợ cho Ngân hàng làm cho nợ quá hạn của Ngân hàng tăng lên.
- Đối với ngành Thương mại và Dịch vụ: Nợ quá hạn của ngành này trong những năm qua cũng chiếm tỷ trọng cao và tăng qua các năm. Năm 2005 so với năm 2004 nợ quá hạn đối với ngành thương mại và dịch vụ tăng 20 triệu đồng tương đương với tốc độ tăng 50%. Đến năm 2006 con số này lên đến 60 triệu đồng tức tăng 100% so với 2005.
Nguyên nhân của sự tăng này là do trong những năm qua được sự khuyến khích của địa phương cộng với sự hỗ trợ của Ngân hàng, đây là lĩnh vực kinh doanh dễ kiếm lời và nhanh thu hồi vốn. Do vậy một số đối tượng không am hiểu cũng như chưa có kinh nghiệm thấy người khác kinh doanh có lời nên cũng ồ ạt kinh doanh theo. Một số quán ăn, nhà nghỉ, karaoke…phải đóng cửa do địa điểm kinh doanh không thuận tiện, không phù hợp với túi tiền cũng như phong tục tập quán ở địa phương, cách thức trang trí phục vụ không hấp dẫn, khẩu vị không hợp…không thu hút được khách hàng. Vốn không thu hồi được mà còn tốn thêm chi phí quản lý, kinh doanh thua lỗ nên không có khả năng trả nợ cho Ngân hàng.
- Ngành công nghiệp-Tiểu thủ công nghiệp: Trong thời gian qua do làm ăn có hiệu quả, những doanh nghiệp chế biến và ngành nghề truyền thống tìm được thị trường tiêu thụ, xuất khẩu tăng mạnh, nâng cao lợi nhuận do đó việc trả nợ của khách hàng này rất tốt nên không phát sinh nợ quá hạn trong 3 năm 2004-2006.
- Ngành khác: Ngành khác bao gồm cho vay tiêu dùng, cho vay xây dựng, sữa chữa nhà… Nợ quá hạn của ngành này tăng giảm qua các năm. Năm 2005 nợ quá hạn của ngành khác là 146 triệu đồng tăng 97 triệu đồng hay tăng 198% so với năm 2004. Tuy nhiên, sang năm 2006 nợ quá hạn chỉ còn 105 triệu đồng, giảm 41 triệu đồng tức giảm 28%. Có sự chuyển biến như vậy là do năm 2005 chi nhánh có sự chuyển hướng đầu tư sang các ngành khác, tập trung xử lý nợ nên nợ quá hạn có xu hướng giảm.
4.3. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN NHÀ ĐBSCL CHI NHÁNH BÌNH MINH.
Bảng 16: CÁC CHỈ SỐ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN NHÀ ĐBSCL HUYỆN BÌNH MINH QUA 3 NĂM 2004-2006
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Năm
2004
2005
2006
Tổng nguồn vốn
Triệu đồng
53.330
81.389
85.042
Tổng vốn huy động
Triệu đồng
11.000
15.000
20.200
Vốn huy động có kỳ hạn
Triệu đồng
8.200
10.800
15.500
Doanh số cho vay
Triệu đồng
56.370
57.520
80.492
Doanh số thu nợ
Triệu đồng
34.462
47.461
61.839
Dư nợ cuối kỳ
Triệu đồng
53.330
66.389
85.042
Dư nợ bình quân
Triệu đồng
42.376
59.859,5
75.715,5
Nợ quá hạn
Triệu đồng
113
326
680
VHĐ/TNV
lần
0,21
0,18
0,24
VHĐCKH/ TNV
lần
0,15
0,13
0,18
DN/TNV
lần
1
0,82
1
DN/VHĐ
lần
4,85
4,43
4,21
HSTN
%
61,14
82,51
76,83
NQH/DN
%
0,21
0,49
0,80
VQVTD
vòng
0,81
0,79
0,82
Nguồn: Phòng nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh
* Chú thích:
- VHĐ: vốn huy động
- VHĐCKH: Vốn huy động có kỳ hạn
- TNV: Tổng nguồn vốn
- DN: Dư nợ
- DSTN: Doanh số thu nợ
- NQH: Nợ quá hạn
- VQVTD: Vòng quay vốn tín dụng
* Vốn huy động trên tổng nguồn vốn:
Qua bảng số liệu ta thấy tình hình huy động vốn không tương xứng với nhu cầu vay, vốn huy động chiếm tỷ lệ rất thấp (< 0,3 lần) trên tổng nguồn vốn qua 3 năm. Cứ 10 đồng vốn của Ngân hàng thì chỉ có 3 đồng là vốn huy động còn lại 7 đồng là do vay từ Hội sở. Điều này có thể được lý giải là do thói quen của người dân ở nông thôn thích mua vàng để dành hơn là gửi Ngân hàng. Mặt khác do hạn chế thông tin nên một số người dân nhắc đến ngân hàng người ta thường nghĩ đến là nơi cho vay chứ ít người cho rằng có thể đem tiền đến gửi để hưởng lãi. Do vậy mà việc huy động vốn của Ngân hàng gặp khó khăn.
Bên cạnh hạn chế của người dân thì phải kể đến hạn chế về thị phần huy động vốn của Ngân hàng. Do chi nhánh còn mới, trong khi đó các đối thủ cạnh tranh như chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp, Bưu điện Bình Minh hoạt động lâu năm, mạng lưới xuống tận xã, thị phần huy động vốn rộng nên gây không ít khó khăn cho công tác huy động vốn của chi nhánh.
Mặc dù trong những năm qua bộ mặt nông thôn của huyện Bình Minh được cải thiện, xong nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chủ yếu của người dân địa phương nơi đây. Do vậy, vốn huy động thấp là điều không thể tránh khỏi.
* Vốn huy động có kỳ hạn trên tổng nguồn vốn:
Trong 3 năm qua mặc dù Ngân hàng Phát triển nhà chi nhánh Bình Minh không ngừng tăng lãi suất để kích thích khách hàng gửi tiền, đặc biệt là tiền gửi không kỳ hạn. Vốn huy động có kỳ hạn trên tổng nguồn vốn của chi nhánh vẫn chiếm tỷ trọng rất thấp (< 0,2 lần) trên tổng nguồn vốn. Sự chủ động trong cho vay của Ngân hàng thấp, đa số vốn huy động là ngắn hạn gây khó khăn cho việc đáp ứng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của khách hàng.
* Dư nợ trên vốn huy động:
- Chỉ tiêu này cho thấy khả năng sử dụng vốn huy động của Ngân hàng, chỉ tiêu này quá lớn hay quá nhỏ đều không tốt. Nếu chỉ tiêu này lớn thì khả năng huy động vốn của Ngân hàng thấp, ngược lại chỉ tiêu này nhỏ thì Ngân hàng sử dụng nguồn vốn huy động không hiệu quả.
- Nhìn vào bảng số liệu ta thấy trong 3 năm qua tình hình huy động vốn của Ngân hàng tương đối khá, thể hiện ở tỷ lệ tham gia của vốn huy động vào dư nợ. Năm 2004 bình quân 4,85 đồng dư nợ có một đồng vốn huy động tham gia. Năm 2005 tình hình vốn huy động của Ngân hàng được cải thiện hơn so với năm 2004, bình quân 4,43 đồng dư nợ thì có một đồng vốn huy động tham gia cùng. Sang năm 2006 công tác huy động vốn có tốt hơn, bình quân 4,21 đồng dư nợ thì có một đồng vốn huy động trong đó, đây là dấu hiệu tốt cho công tác huy động vốn của Ngân hàng.
* Dư nợ trên tổng nguồn vốn
Do tính chất của địa bàn hoạt động là vùng nông thôn nên vốn của Ngân hàng chủ yếu được sử dụng vào mục đích cho vay. Chính vì vậy mà tỷ lệ dư nợ trên tổng nguồn vốn cao qua các năm, năm 2004 và 2006 dư nợ bằng với tổng nguồn vốn của Ngân hàng, năm 2005 dư nợ bằng 0,82 lần của nguồn vốn. Bên cạnh cho vay tăng, do khách hàng gia hạn nợ cũng là nguyên nhân làm cho tỷ lệ này tăng qua các năm.
* Nợ quá hạn trên dư nợ
Đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Dư nợ của Ngân hàng tăng qua các năm nhưng tỷ lệ nợ quá hạn còn ở mức thấp. Năm 2004 tỷ lệ nợ quá hạn chỉ có 0,21%. Tỷ lệ nợ quá hạn năm 2005 và năm 2006 có tăng lên nhưng vẫn còn ở mức thấp (<1%) và dưới mức cho phép của Ngân hàng Nhà nước là 5%. Có được kết quả này là do khâu thẩm định tốt, Ngân hàng đã đề ra các giải pháp hữu hiệu, cứng rắn trong việc xử lý nợ.
* Hệ số thu nợ: Qua bảng số liệu ta thấy hệ số thu nợ của ngân hàng trong những năm qua khá cao và tăng giảm qua các năm. Cụ thể, năm 2004 hệ số thu nợ là 61,14%, năm 2005 tăng lên là 82,51% và 76,83% là hệ số thu nợ năm 2006. Điều đó cho thấy công tác thu nợ của chi nhánh trong 3 năm qua tốt, đạt được kết quả như vậy phải kể đến vai trò của cán bộ tín dụng trong việc đôn đốc, động viên khách hàng trả nợ đúng hạn.
* Vòng quay vốn tín dụng: Vòng quay vốn tín dụng của chi nhánh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL huyện Bình Minh trong những năm qua có sự biến động không theo một chiều tăng hoặc giảm, mà có sự giảm sau đó tăng lại. Năm 2004 vòng quay vốn tín dụng là 0,81vòng, năm 2005 giảm xuống chỉ còn 0,79 vòng, đến năm 2006 lại tăng lên 0,82 vòng. Nguyên nhân giảm sút là do trong năm 2004-2005 tình trạng hạn hán, dịch cúm gia cầm, giá cả các mặt hàng nông sản không ổn định ảnh hưởng đến lợi nhuận của người dân nên khách hàng xin Ngân hàng cho gia hạn nợ. Ngoài ra, năm 2005 và 2006 Ngân hàng đầu tư cho vay vào các ngành nghề truyền thống theo chính sách của huyện đề ra, ảnh hưởng đến công tác thu nợ của Ngân hàng.
CHƯƠNG 5
MỘT SỐ GIẢI PHÁP DUY TRÌ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN NHÀ ĐBSCL CHI NHÁNH BÌNH MINH {
5.1. NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ THUẬN LỢI TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN NHÀ ĐBSCL CHI NHÁNH BÌNH MINH TRONG 3 NĂM 2004-2006.
5.1.1. Khó khăn.
- Trước đây khi khách hàng làm hồ sơ xin vay vốn của Ngân hàng chỉ cần xác nhận của Ủy Ban nhân dân xã và Phòng công chứng nhưng hiện nay còn phải qua Phòng Tài nguyên và Môi trường Huyện. Do vậy, thời gian vay vốn của khách hàng chậm lại.
- Sự chậm trễ trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã làm hạn chế việc cho vay của Ngân hàng vì những nhu cầu vay còn chưa đủ tài sản làm đảm bảo thế chấp.
- Bình Minh là địa bàn có nhiều sông rạch, giao thông nông thôn chưa thuận tiện nên việc đi lại khó khăn nhất là trong mùa mưa, lũ lụt gây khó khăn cho cán bộ công nhân viên trong việc đi thực tế để thực hiện công tác thẩm định cho vay.
- Thành lập năm 2003, Ngân hàng Phát triển nhà huyện Bình Minh còn non trẻ so với chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cùng huyện. Vì vậy, chưa có được mối quan hệ thân thiết với khách hàng lớn, nhiều hộ dân chưa hiểu biết và tin tưởng vào Ngân hàng và còn rất nhiều người mặc dù có nhu cầu nhưng vẫn chưa mạnh dạn đến Ngân hàng để giao dịch.
- Do Ngân hàng ở giai đoạn đầu hoạt động nên đội ngũ cán bộ tín dụng còn thiếu. Hồ sơ, thủ tục còn phải theo nguyên tắc chưa thể có những thay đổi phù hợp với tình hình hoạt động hiện tại. Để giải quyết một yêu cầu vay vốn còn rất nhiều thủ tục hồ sơ gây không ít khó khăn và phiền phức cho khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng.
- Các quy chế, chính sách của Ngân hàng hiện hành đều áp dụng chung cho các đối tượng khách hàng, không phân khúc theo thị trường doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, cá nhân. Do đó khi thực hiện thì gặp khó khăn nhất là việc xếp loại khách hàng, các chỉ số tài chính chỉ phù hợp với doanh nghiệp lớn, Doanh nghiệp Nhà nước khi áp dụng với doanh nghiệp nhỏ và vừa thì không đủ điều kiện, không chính xác.
- Các hình thức huy động vốn chưa đa dạng, chủ yếu là các hình thức truyền thống. Nhu cầu đầu tư vốn trung và dài hạn rất lớn nhưng vốn huy động đa số là ngắn hạn nên chưa thể đáp ứng nhu cầu đó.
- Do Ngân hàng mới thành lập nên huy động với lãi suất cao để cạnh tranh, trong khi đó việc hỗ trợ tín dụng cho việc phát triển nhà ở nông thôn với lãi suất thấp nên gây không ít khó khăn cho Ngân hàng.
Cạnh tranh giữa các Ngân hàng cùng hoạt động trên địa bàn ngày càng gay gắt hơn, thị phần trong nông thôn thiếu ổn định, sản xuất công nghiệp và Tiểu thủ công nghiệp chiếm tỷ trọng thấp.
Thời tiết tiếp tục diễn biến phức tạp, giá cả thị trường biến động, đầu ra sản phẩm không ổn định, sản xuất nhỏ lẽ, lao động nông thôn thiếu gây khó khăn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
- Đối tượng cho vay chủ yếu là hộ sản xuất nông nghiệp nên món vay thường vừa và nhỏ, đối tượng vay trải rộng nên phát sinh chi phí cao và gây khó khăn cho cán bộ tín dụng trong việc quản lí khách hàng.
- Những hạn chế mang tính chất chủ quan từ phía khách hàng doanh nghiệp nhỏ và vừa gây khó khăn cho cán bộ tín dụng khi thẩm định cho vay. Vốn thực luôn đạt thấp hơn nhiều so với vốn đăng ký, thiếu minh bạch trong hồ sơ sổ sách, không rõ ràng trong quan hệ tài sản giữa chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp; thiếu chuyên nghiệp trong xây dựng dự án…
5.1.2. Thuận lợi.
- Bình Minh là một huyện đất rộng người đông nên nhu cầu để xây dựng những căn nhà khang trang, vững chắc là rất lớn. Điều này phù hợp cho danh tiếng của Ngân hàng “Phát triển nhà”.
- Vị trí Ngân hàng nằm tại trung tâm huyện, do vậy việc giao dịch giữa Ngân hàng và khách hàng được thuận tiện. Mặt khác, Bình Minh sắp lên thị xã nên tiềm năng phát triển kinh tế rất lớn, thuận lợi cho công tác huy động vốn của Ngân hàng.
Nền kinh tế của huyện tiếp tục phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tích cực hơn và đúng hướng, đời sống người dân không ngừng nâng lên, kết cấu cơ sỡ hạ tầng tiếp tục được đầu tư phát triển.
- Mục tiêu đề ra của huyện là phát triển cơ sỡ hạ tầng. Do vậy trong quá trình thực hiện tín dụng, Ngân hàng được sự giúp đỡ tận tình của chính quyền địa phương và cơ quan hữu quan.
- Huyện đề ra việc phát triển kinh doanh toàn diện. Do vậy, việc đầu tư tín dụng vào lĩnh vực sản suất kinh doanh cũng là một thị trường còn rất lớn và nhiều tiềm năng mà MHB chi nhánh Bình Minh cần đẩy mạnh khai thác.
- Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh có đội ngũ cán bộ, công nhân viên trẻ, năng động có trình độ chuyên môn và có quyết tâm với nghề tận tình phục vụ nhân dân.
- Công tác kiểm tra, kiểm soát được tăng cường chặt chẽ vì thế những sai sót được phát hiện và xử lý kịp thời.
5.2. NHỮNG GIẢI PHÁP DUY TRÌ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN NHÀ ĐBSCL CHI NHÁNH BÌNH MINH
5.2.1 Biện pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn
Mặc dù vốn huy động của chi nhánh Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long trong 3 năm qua có sự tăng trưởng, nhưng xét về tỷ trọng thì vốn huy động chiếm tỷ trọng thấp trong cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng. Để nâng cao lợi nhuận, chủ động trong việc cấp tín dụng thì Ngân hàng cần tăng cường công tác huy động vốn. Theo tôi để huy động vốn đạt hiệu quả thì Ngân hàng cần thực hiện các biện pháp sau:
- Phát triển đa dạng các sản phẩm huy động vốn, có thể trang bị máy rút tiền tự động tại trung tâm chợ huyện Bình Minh hoặc các khu công nghiệp, kết hợp mở rộng mạng lưới với nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo ra nguồn vốn chi phí thấp, thời gian dài để đầu tư trung và dài hạn. Cân đối tỷ lệ vốn cố định hàng năm dành cho đầu tư khách hàng doanh nghiệp nhỏ và vừa trên cơ sỡ chiến lược và mục tiêu chung hàng năm.
- Chú trọng huy động nguồn vốn có lãi suất thấp để cải thiện lãi suất đầu vào và tiền gửi loại trên 12 tháng tạo nguồn vốn cho vay trung và dài hạn.
- Tăng cường các mối quan hệ nắm bắt thông tin về doanh nghiệp: tình hình sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn, dịch vụ đồng thời chuyển tải thông tin hoạt động của Ngân hàng, tạo mối quan hệ qua lại thường xuyên, xâm nhập thường xuyên giữa Ngân hàng và doanh nghiệp.
- Nhằm vào các đối tượng có thu nhập cao, hoặc những người có thu nhập không thường xuyên, các cơ quan doanh nghiệp quốc doanh, ngoài quốc doanh trên địa bàn để mở tài khoản giao dịch thường xuyên như Bưu Điện, Điện Lực, Ban quản lý dự án…
- Lập kế hoạch quảng bá thương hiệu Ngân hàng Phát triển Nhà ĐBSCL, vận dụng các hình thức huy động phù hợp cung cầu vốn và tập quán ở địa phương như tuyên truyền sâu rộng các hình thức huy động của Ngân hàng, tiếp thị các sản phẩm huy động vốn bằng các hình thức thông tin đại chúng, pa nô, áp phích, tờ rơi, tiếp thị trực tiếp với khách hàng và tư vấn tốt cho khách hàng trong việc lựa chọn các thể thức gửi tiền.
- Thái độ giao tiếp của nhân viên văn minh lịch sự cùng với việc triển khai các chương trình ứng dụng công nghệ thông tin mới của Ngân hàng vào quản lý và phục vụ khách hàng nhanh chóng, kịp thời.
5.2.2. Biện pháp duy trì hiệu quả hoạt động tín dụng.
Đối với việc tăng trưởng tín dụng.
- Hiện nay hệ thống mạng lưới Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long chỉ xuống tới huyện. Để tạo điệu kiện cho người dân dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn của Ngân hàng, đồng thời tạo điều kiện cho Ngân hàng dễ dàng trong việc lựa chọn, đánh giá khách hàng. Vì vậy, Ngân hàng nên thành lập 1 phòng giao dịch trực thuộc tại trung tâm huyện Trà Ôn hoặc xã Tân Quới do Chợ Trà Ôn đang phát triển, khu vực này chỉ có chi nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp chưa có ngân hàng nào cạnh tranh, còn xã Tân Quới sắp trở thành huyện mới là huyện Bình Tân cho nên đây là hai địa điểm có tiềm năng phát triển kinh tế rất cao.
- Bám sát các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế xã hội tại địa phương, xây dựng các dự án, phương án đầu tư thích hợp góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ kinh tế - chính trị huyện nhà.
- Đa dạng hoá các hình thức lĩnh vực đầu tư nhằm phân tán rủi ro như thu mua ngoại tệ, bảo lãnh thanh toán...
- Hạn chế việc cho vay phân tán, cho vay tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm như các chợ, các trục lộ, hương lộ, Tỉnh lộ, hướng tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở địa phương.
- Tăng cường cán bộ tín dụng xuống tiếp cận khách hàng tìm khách hàng tiềm năng.
Giữ vững mối quan hệ với chính quyền địa phương, các ban ngành để nắm bắt kịp thời các dự án và tạo nền tảng vững chắc để hoạt động tín dụng hiệu quả
5.2.2.2. Xử lý nợ quá hạn.
- Chú trọng vào tính khả thi và hiệu quả của dự án, cho vay phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế tại địa phương đồng thời cần tập trung vào những vùng kinh tế trọng điểm.
- Phân công nhiệm vụ cho nhân viên theo khu vực, địa bàn, giao quyền được quyết định cho vay trong hạn mức tuỳ vào khả năng và trình độ chuyên môn.
Chấp hành nghiêm túc các qui chế, qui định, qui trình các văn bản hướng dẫn về đầu tư tín dụng nhất là công tác thẩm định các dự án, phương án vay vốn.
- Ngân hàng nên thành lập tổ xử lý nợ để xử lý nợ nhanh chóng và kịp thời.
Tiếp tục kiến nghị với các cơ quan pháp luật xử lý các đối tượng vượt khả năng xử lý của cán bộ ngân hàng.
Tập trung phân tích nợ đã xử lý rủi ro, sàng lọc và lên kế hoạch cụ thể từng trường hợp để có biện pháp thu hồi.
CHƯƠNG 6
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ{
6.1. PHẦN KẾT LUẬN
Nhìn chung trong những năm qua được sự quan tâm chỉ đạo sâu sắc kịp thời của ngân hàng cấp trên, sự giúp đỡ của các cấp Ủy Đảng, chính quyền địa phương, các ban ngành đoàn thể cùng sự nổ lực của cấp lảnh đạo và toàn thể nhân viên Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh, hoạt động của Ngân hàng đạt được những kết quả khá tốt.
- Nguồn vốn huy động có sự chuyển biến tích cực, tiền gửi dân cư tăng nhanh qua các năm. Bên cạnh việc chú trọng khai thác các sản phẩm dịch vụ hiện có và đa dạng hóa các hình thức huy động, chi nhánh còn giao chỉ tiêu cho từng phòng ban và cán bộ trong công tác huy động vốn góp phần ổn định thị phần vốn.
- Trong quá trình đầu tư tín dụng xác định đúng thị trường, khách hàng, đối tượng vay để xâm nhập thị phần. Vì vậy mà doanh số cho vay năm sau cao hơn năm trước, số hộ có quan hệ tín dụng ngày càng đông hơn, tạo điều kiện để mở rộng sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân.
- Đầu tư có chọn lọc, ưu tiên vốn cho các chương trình dự án chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, giữ vững ngành nghề truyền thống…
- Thực hiện có hiệu quả các biện pháp để giảm thiểu nợ quá hạn, quản lý nợ được quan tâm ngay từ nợ nhóm 1, tập trung thu hồi các khoản nợ, lãi đến hạn, kiên trì xử lý nợ quá hạn.
- Công tác kiểm tra kiểm soát được thực hiện theo sự chỉ đạo của Ngân hàng cấp trên.
- Công tác an ninh, an toàn cơ quan được đảm bảo, có bảo vệ trực 24/24 giờ.
Bên cạnh những mặt làm được thì chi nhánh Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL huyện Bình Minh còn có những tồn tại thiếu sót như sau:
- Nguồn vốn huy động tăng nhưng chiếm tỷ trọng thấp trong cơ cấu nguồn vốn, nguồn vốn huy động trung và dài hạn không đủ đầu tư cho các dự án, cơ sở hạ tầng, các đối tượng đầu tư khác không cân đối được phải nhờ Tỉnh. Khoảng cách giữa vốn huy động và cho vay còn lớn làm hạn chế tính chủ động trong kinh doanh của Ngân hàng.
- Thị trường, thị phần đầu tư thiếu ổn định, việc phân loại thị trường, phân loại khách hàng chưa được quan tâm đúng mức.
- Trình độ thẩm định của một số cán bộ còn hạn chế, lúng túng trong quyết định cho vay hay không cho vay, phân vân, không quyết đoán rõ ràng dẫn đến mất khách hàng.
- Thực hiện qui trình tín dụng chưa chặt chẽ, nắm bắt chế độ chính sách trong và ngoài ngành còn hạn chế, thi tín dụng giỏi đạt yêu cầu còn thấp.
Trong điều kiện các ngân hàng cạnh tranh gay gắt như hiện nay, đòi hỏi Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL chi nhánh Bình Minh cần cố gắng hơn nữa, mạnh dạn vượt qua thử thách để duy trì và phát triển. Với những thành tựu đã đạt được trong những năm qua chúng ta có thể tin tưởng vào sự phát triển của ngân hàng trong thời gian tới, hy vọng ngân hàng sẽ góp phần thiết thực vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa Tỉnh nhà.
6.2. PHẦN KIẾN NGHỊ
6.2.1. Đối với Ngân hàng.
- Để nâng cao hiệu quả huy động vốn Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long cần nâng cấp cơ sở hạ tầng, phương tiện làm việc, mở rộng mặt bằng nhằm tạo niềm tin cho khách hàng và đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng thương mại khác trên địa bàn, kết hợp với thái độ phục vụ của các nhân viên Ngân hàng sẽ làm cho khách hàng có ấn tượng tốt về ngân hàng.
- Mở thêm các phòng giao dịch ở các khu vực tiềm năng, tập trung nhiều dân cư như: khu công nghiệp, các chợ, thị trấn, vùng kinh tế …để thu hút khách hàng gửi tiền và cho vay.
- Phát triển máy rút tiền tự động ATM giúp người dân có thói quen thanh toán qua ngân hàng.
- Thông thường những ngày đầu tuần khách hàng đến giao dịch rất đông, do vậy Ngân hàng nên có dịch vụ giải trí trong thời gian khách hàng chờ đợi như Ngân hàng nên có một vài máy vi tính có thể truy cập trang web giới thiệu những dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp...
- Ngân hàng cũng nên có một tổ tư vấn dành cho khách hàng: thông qua tổ tư vấn này Ngân hàng có thể giới thiệu, quảng bá hình ảnh của Ngân hàng đến với mọi người gián tiếp qua người đi vay.
- Ngân hàng cần tăng cường thêm cán bộ tín dụng, tránh nạn quá tải về công việc cũng như đảm bảo hiệu quả đầu tư của Ngân hàng.
- Lên kế hoạch đi công tác cụ thể của từng cán bộ tín dụng, tránh tình trạng đi không báo trước để khách hàng phải chờ đợi.
- Có chính sách đào tạo cán bộ, tạo điều kiện cho cán bộ có cơ hội đi học nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
- Tình trạng thiếu hụt máy tính cũng như máy cũ, treo máy...mất thời gian không chỉ đối với khách hàng mà cả cán bộ tín dụng. Do vậy, việc trang bị máy mới, hiện đại là điều cần thiết.
6.2.2. Đối với Chính quyền cấp Tỉnh, Huyện và các Ban ngành có liên quan.
- Một số cơ chế chính sách của Nhà nước triển khai chậm, thiếu đồng bộ: chính sách đất đai, mặt bằng sản xuất của doanh nghiệp, chế độ thuế, chế độ kế toán tài chính...Đặc biệt là quyết định 193/2001/QG-TTG ngày 20/12/2001 của thủ tướng chính phủ về việc thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng như là một cứu cánh trong quan hệ vay vốn giữa Ngân hàng và doanh nghiệp nhỏ và vừa, đã ban hành 5 năm nhưng kết quả triển khai gần như bằng không. Kết quả là doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn của Ngân hàng, còn phía Ngân hàng vẫn khó khăn trong việc tìm dự án hiệu quả.
- Chính phủ cần rà soát và kiểm tra lại khung giá qui định, nhất là đối với nhà xây dựng mới sao cho phù hợp với thực trạng của từng địa phương. Ban Vật giá chính phủ, Bộ tài nguyên và Môi trường phối hợp công bố giá đất đai trên thị trường ở từng vùng trong từng quí để việc cho vay cũng như định giá tài sản khi xử lý có căn cứ phù hợp hơn.
- Đối với những hộ cố tình chây ì không trả nợ mặc dù khả năng tài chính có, UBND xã cần hổ trợ Ngân hàng trong việc đôn đốc thu hồi nợ.
- Để nâng cao hiệu quả sản xuất của hộ nông dân ở địa phương, tạo điều kiện cho họ thực hiện tốt nghĩa vụ trả nợ của mình chính quyền địa phương cần có biện pháp chỉ đạo cụ thể cho các ngành, các cấp như ngành giáo dục, trạm khuyến nông huyện….. thực hiện đồng bộ giải pháp thúc đẩy sự nghiệp phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững, tránh tình trạng nông dân đầu tư tự phát, tràn lan.