Với những kiến thức đã học trong nhà trường và qua thời gian thực tập tại Chi nhánh NHCT Cầu Giấy, em đã cố gắng tìm hiểu và trình bày những vấn đề cơ bản của công tác phân tích TCDN trong hoạt động cho vay ngắn hạn tại Chi nhánh và đưa ra những kiến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính khách hàng tại Chi nhánh tiến tới nâng cao chất lượng tín dụng và khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong thời gian tới. Em rất mong được sự góp ý của người đọc để có thể hoàn thiện bài viết hơn nữa.
112 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1500 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay ngắn hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương Cầu Giấy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thực và sự chính xác của các BCTC; hoặc đã quá chú trọng vào việc phân tích TCDN trong mối liên hệ giữa doanh lợi và rủi ro mà ít quan tâm đến xu hướng thay đổi của các điều kiện về thị trường trong tương lai; hoặc ngân hàng nôn nóng trong việc cho vay để giải quyết số tồn quỹ tiền mặt tại ngân hàng, nên thu thập thông tin qua loa, không đầy đủ, phân tích không sâu đưa đến quyết định cho vay nhanh chóng, dễ dẫn đến rủi ro doanh nghiệp không đáp ứng được cả gốc và lãi cho ngân hàng khi đáo hạn.
+ Chất lượng xử lý và phân tích thông tin trong đánh giá tình hình TCDN chưa được như mong muốn. Do ngân hàng nóng vội trong việc cho vay nên đã không thẩm định kĩ mục đích vay vốn; phân tích, nhận xét các tỷ số tài chính chưa sâu, chưa phù hợp với tình hình thực tế (chưa phân tích kĩ các tài sản có tính chất ngắn hạn, chưa có hướng dẫn cụ thể cách phối hợp các tỷ số tài chính...); từ thực tế công tác phân tích tài chính công ty ABC cho thấy CBTD chưa so sánh các tỷ số tài chính doanh nghiệp với tỷ số trung bình của ngành, do đó chưa đánh giá được vị thế và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường một cách khách quan... dẫn đến quyết định cho vay nhanh chóng, điều này rất dễ gây ra rủi ro cho ngân hàng.
+ Do trình độ của một bộ phận cán bộ ngân hàng chưa đáp ứng nhu cầu về năng lực chuyên môn trong thời kì mới. Hiện nay, chi nhánh đang trong quá trình triển khai hiện đại hoá toàn hệ thống NHCT nên sự phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ vào hoạt động ngân hàng vừa có tác động tích cực lại vừa gây ra những hạn chế cho CBTD. Với những CBTD chưa làm chủ, chưa thành thạo trong sử dụng máy tính như là công cụ tiện ích để thực hiện công việc thì khó có thể kiểm soát thông tin nhằm quản lý khách hàng thường xuyên để thường xuyên cập nhật những thay đổi mới trong quan hệ tín dụng với ngân hàng của khách hàng, chưa khai thác hết những tiện ích qua mạng máy tính... nên khó có thể thực hiện công việc nhanh chóng và đạt hiệu quả.
+ Do công tác tổ chức thẩm định phương án, dự án tại chi nhánh NHCT Cầu Giấy chưa hoàn thiện. Hiện nay, Chi nhánh vẫn chưa có phòng thẩm định riêng, việc này vẫn do CBTD thực hiện. Do đó mỗi CBTD phải thực hiện nhiều công việc để hoàn thành một hợp đồng tín dụng như: tìm kiếm khách hàng, thu thập và xác minh lại thông tin, thẩm định các nội dung của phương án, chuẩn bị hợp đồng, thực hiện giải ngân, giám sát khoản vay cho đến khi thu hết nợ; trong đó đặc biệt quan trọng là thực hiện công tác phân tích TCDN. Với sức ép về khối lượng công việc và thời gian thực hiện nên CBTD không thể hoàn thành tốt công tác phân tích TCDN như yêu cầu.
- Thứ hai, nguyên nhân khách quan:
+ Mặc dù thị trường tài chính ở Việt Nam đã khá phát triển song vẫn còn lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đa số các NHTM Việt Nam hiện nay chưa thể liên kết với nhau để cùng chia sẻ thông tin, quản lý khách hàng. Thêm vào đó là sự liên kết giữa các ngân hàng và các cơ quan chức năng khác của Nhà nước (cơ quan thuế, thống kê, kiểm toán...) còn hạn chế, các cơ quan này hoạt động độc lập, ít liên hệ và không có mối quan hệ ràng buộc, kiểm soát lẫn nhau nên việc ngân hàng muốn thu thập thông tin một cách đầy đủ và chính xác nhất về khách hàng từ một cơ quan là không thể mà phải trải qua nhiều khâu trung gian, do đó sẽ mất nhiều thời gian và chi phí. Tuy NHNN đã thành lập Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) nhưng sự hỗ trợ của trung tâm này đối với các NHTM trong đó có Chi nhánh NHCT Cầu Giấy còn hạn chế và chưa thật hiệu quả do việc cung cấp thông tin từ các NHTM chưa đáp ứng được yêu cầu hoặc không đầy đủ, chính xác, hoặc không báo cáo định kì theo quy định... Tại trung tâm chưa có bộ phận chuyên phân tích thông tin đã được cung cấp để chủ động phản hồi lại cho các NHTM những vấn đề cần lưu ý. Bản thân chi nhánh cũng chưa thực sự chú trọng khai thác sử dụng thông tin từ CIC phục vụ công tác phân tích TCDN và khi cần khai thác thì cũng chưa được dễ dàng, đầy đủ theo yêu cầu. Việc Chi nhánh khó kiểm tra được thông tin của khách hàng sẽ tăng khả năng xảy ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
+ Do môi trường pháp lý ở nước ta không ổn định. Các chính sách của Nhà nước ban hành thay đổi liên tục giữa các bộ, ngành làm cho mọi hoạt động cũng phải thay đổi theo. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến thị trường hoạt động không hiệu quả, giảm tính ổn định, chính xác và tăng khả năng xảy ra rủi ro của phương án kinh doanh, gây khó khăn cho công tác thẩm định phương án. Cụ thể, môi trường kinh doanh của công ty Cổ phần ABC thường xuyên phải đối diện với rủi ro pháp lý, đó là những rủi ro xảy ra khi có những thay đổi trong chính sách nhập khẩu của nhà nước như tăng thuế nhập khẩu, thắt chặt các điều kiện đối với các nhà nhập khẩu. Ngoài ra, bất cứ điều tiết vĩ mô nào về giá cả và thị trường cũng gây những ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của công ty. Công ty phải luôn tìm hiểu những chính sách mới và dự báo chính xác động thái của thị trường, đó là biện pháp tối ưu để giảm thiểu những rủi ro này. Hơn nữa, trong hoạt động của công ty thì có một phần đầu vào là hàng nhập khẩu (giá mua ngoại tệ) trong khi đó hàng bán ra là VNĐ. Vì vậy, nếu có sự biến động lớn về tỷ giá hối đoái thì doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp cũng sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ, do đó rủi ro tài chính là vấn đề doanh nghiệp phải xem xét.
+ Do thái độ không trung thực của doanh nghiệp trong việc cung cấp thông tin cho ngân hàng ảnh hưởng đến chất lượng công tác phân tích TCDN. Do việc tuân thủ các luật kế toán, chế độ và chuẩn mực kế toán của các đơn vị kinh tế là chưa cao nên các thông tin trên BCTC mà doanh nghiệp cung cấp là chưa thật đầy đủ và chính xác. Cũng có thể doanh nghiệp cố tình cung cấp thông tin thiếu trung thực nhằm mục đích lừa đảo, chiếm dụng vốn của ngân hàng; hoặc do doanh nghiệp sử dụng đồng vốn không hiệu quả, dẫn đến thua lỗ nên không thể trang trải chi phí và trả nợ vay ngân hàng. Do vậy, ngân hàng cần kiểm tra năng lực làm việc, đạo đức nghề nghiệp, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường trước khi tiến hành phân tích, đánh giá TCDN để đảm bảo đồng vốn đầu tư của ngân hàng được sử dụng an toàn, đúng mục đích và hiệu quả.
Nợ quá hạn trong kinh doanh ngân hàng là điều không thể tránh khỏi nhưng trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ luôn trong quá trình vận động do vậy nợ quá hạn càng kéo dài về mặt thời gian thì càng gây tổn thất cho ngân hàng vì phải tốn nhiều chi phí để quản lý và giải quyết rủi ro. Vì vậy, việc tìm ra các giải pháp để làm giảm tỷ lệ nợ quá hạn là vô cùng cần thiết, trong đó các giải pháp cho công tác phân tích TCDN có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, cụ thể các giải pháp này sẽ được trình bầy ở chương III.
Chương III : giải pháp nÂNG CAO CHấT LƯợNG công tác phân tích Tài chính doanh nghiệp tại chi nhánh
Ngân hàng công thương Cầu Giấy.
Thực tế và lí luận đã chứng minh rằng điều kiện quan trọng nhất để đảm bảo an toàn đồng vốn cho vay không phải là tài sản thế chấp mà là tính khả thi của phương án SXKD của đơn vị vay vốn. Như vậy, một trong những vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng để góp phần mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng của chi nhánh đối với nền kinh tế là nâng cao chất lượng thẩm định phương án kinh doanh, đặc biệt là nâng cao chất lượng công tác phân tích TCDN tại chi nhánh. Việc tìm ra giải pháp nhằm nâng cao công tác phân tính TCDN sẽ góp một phần quan trọng trong việc giúp đỡ ngân hàng đạt được mục tiêu đó.
3.1. Nâng cao chất lượng công tác phân tích TCDN trong cho vay ngắn hạn.
3.1.1. Nâng cao chất lượng thu thập thông tin.
Hiện nay, theo “sổ tay tín dụng” mà chi nhánh NHCT Cầu Giấy đang sử dụng đã quy định khá đầy đủ các nguồn và nội dung thông tin cần thu thập để làm căn cứ phân tích, đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trước khi đưa ra quyết định cho vay, nhưng vẫn cần phải lưu ý một số điểm sau:
Thứ nhất: Do hệ thống luật kế toán, chế độ và chuẩn mực kế toán của nước ta chưa hoàn chỉnh nên độ chính xác và phù hợp của các thông tin còn hạn chế, ngân hàng phải tự tìm biện pháp khắc phục.
Chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế trên báo cáo KQKD, và lợi nhuận chưa phân phối trên bảng CĐKT tuy có liên hệ mật thiết với nhau nhưng không đồng nhất, vì:
- Báo cáo KQKD có tính chất thời kỳ, còn bảng CĐKT lại có tính chất thời điểm.
- Có thể lợi nhuận sau thuế dương nhưng lợi nhuận chưa phân phối âm do doanh nghiệp dùng lợi nhuận sau thuế để chi trả cho các mục đích khác nhau như chi trả lãi cho các nhà đầu tư.
- Các khoản chi phí trả trước của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng tới lợi nhuận sau thuế trên báo cáo KQKD:
+ Nếu trong năm, doanh nghiệp có một khoản chi phí trả trước thì lợi nhuận sau thuế trên thực tế sẽ nhỏ hơn nhiều so với lợi nhuận sau thuế trên báo cáo KQKD, còn nếu lợi nhuận sau thuế trên báo cáo KQKD là âm thì trên thực tế doanh nghiệp bị lỗ hơn rất nhiều.
+ Năm tiếp theo số thực lãi sẽ cao hơn so với báo cáo KQKD, do một phần lỗ treo của các năm trước được kết chuyển vào chi phí SXKD (nếu năm trước lợi nhuận sau thuế âm).
Như vậy, khi xem xét chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế trên doanh số bán hàng hay chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế trên VCSH, ngân hàng cần chú trọng xem xét thêm các yếu tố có ảnh hưởng gián tiếp tới lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp để nhìn nhận đúng hơn về thực lực tài chính của doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với ngân hàng.
Ngoài ra, ngân hàng phải thường xuyên cập nhật về những thay đổi trong hệ thống chuẩn mực kế toán nước ta tới đội ngũ CBTD, đặc biệt là những thay đổi có liên quan tới các tỉ lệ và chỉ tiêu mà ngân hàng đang sử dụng để phân tích tài chính của doanh nghiệp. Cụ thể, trong thời gian tới, ngân hàng nên cập nhật các quy định mới ban hành của BTC như quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng BTC về việc ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp và thông tư số 20/2006/TT-BTC ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng BTC hướng dẫn thực hiện 06 chuẩn mực kế toán. Trong đó, quy định về nội dung kết cấu của các BCTC có những thay đổi làm ảnh hưởng đến một số tỷ số tài chính mà ngân hàng sử dụng để phân tích TCDN (như: hệ số khả năng thanh toán nhanh, tỷ suất tự tài trợ TSDH).
Thứ hai: Ngân hàng vẫn chưa quy định cụ thể các BCTC của doanh nghiệp phải được kiểm toán bởi cơ quan kiểm toán độc lập, có uy tín. Ngay cả các BCTC đã được kiểm toán, tính chính xác còn phụ thuộc vào uy tín của tổ chức kiểm toán độc lập, phạm vi kiểm toán, phương pháp kiểm toán và sai số trọng yếu của tổ chức kiểm toán. Tuy nhiên, BCTC đã được kiểm toán sẽ có độ tin cậy cao hơn BCTC chưa được kiểm toán, do vậy ngân hàng nên yêu cầu điều kiện này trước tiên khi nghiên cứu các bước tiếp theo. Cụ thể ngân hàng nên yêu cầu các doanh nghiệp phải cung cấp các bản báo cáo quyết toán đã được kiểm toán bởi cơ quan kiểm toán độc lập, có uy tín (có thể là bản quyết toán sau thuế-đã được cơ quan thuế tiến hành thanh tra và xác nhận mức độ chính xác của số liệu trên các BCTC). Trường hợp không đủ thời gian để tiến hành kiểm toán thì ngân hàng có thể tạm thời chấp nhận nhưng yêu cầu doanh nghiệp phải nộp lại bản quyết toán ngay sau khi kết thúc quá trình kiểm toán.
Tuy nhiên việc sử dụng dịch vụ kiểm toán độc lập không đơn giản do chi phí cho mỗi lần kiểm toán cao, vì vậy để giữ khách, ngân hàng có thể xem xét độ tin cậy của thông tin dựa vào uy tín của doanh nghiệp có quan hệ tín dụng thường xuyên với ngân hàng (đã bao nhiêu năm có quan hệ tín dụng với ngân hàng, có nợ quá hạn không, nếu có thì số lượng và thời gian nợ quá hạn như thế nào...) Nhưng việc dựa trên uy tín này chưa phải tối ưu, ngân hàng vẫn phải kiểm tra để củng cố lòng tin. Còn các trường hợp khác, ngân hàng phải tự kiểm tra BCTC nhận được bằng nhiều phương pháp khác nhau như:
- So sánh đối chiếu thông tin với số liệu của trung tâm thông tin tín dụng của NHNN- CIC.
- Kiểm tra dựa trên tính logic cũng như mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trình bày trong BCTC:
+ Tiền: số tiền tồn quỹ cuối kì trên bảng CĐKT đúng bằng tiền tồn quỹ đầu kì trên bảng CĐKT cộng với lưu chuyển tiền thuần trong kì của báo cáo LCTT.
+ Lợi nhuận chưa phân phối trên bảng CĐKT đúng bằng lợi nhuận sau thuế trên báo cáo KQKD.
+ Các tài sản khác trên bảng CĐKT được phản ánh cụ thể trên thuyết minh BCTC là tình hình tăng giảm TSCĐ (mục V.08, V.09, V.10), khoản ĐTTCNH và ĐTTCDH (mục V.02, V.12), khoản phải thu khác (mục V.02).
- Kiểm tra đối chiếu với sổ sách kế toán thống kê của doanh nghiệp. Khó có thể kiểm tra và rà soát toàn bộ các khoản mục trên BCTC do đó cần lựa chọn các hạng mục cần kiểm tra, rà soát, bao gồm: các hạng mục chủ yếu (tiền mặt, phải thu, hàng tồn kho, chi phí xây dựng cơ bản dở dang...) và các hạng mục có dấu hiệu nghi ngờ (do CBTD rà soát phát hiện) bằng phương pháp kiểm tra sổ chi tiết, đối chiếu chứng từ gốc; so sánh đối chiếu số liệu cột số đầu năm, cột số cuối kì; ngoài ra có thể kiểm tra trực tiếp các file dữ liệu trên máy vi tính của doanh nghiệp (nội dung và số dư các tài khoản) để kiểm tra tính chính xác của các BCTC doanh nghiệp gửi cho NHCT Cầu Giấy.
- Đặc biệt hiện nay, NHCT đang có mạng thông tin phòng ngừa rủi ro thực hiện có hiệu quả và đã tư vấn, giúp đỡ cho khách hàng vay vốn trong việc lựa chọn phương án SXKD, vì vậy ngân hàng cần phải kết hợp giữa việc lấy thông tin từ trung tâm này và từ trung tâm CIC của NHNN vì hiện nay các thông tin do CIC cung cấp cũng là từ các tổ chức tín dụng khác cung cấp nên đều không đầy đủ và thiếu đi tính thời sự, vì vậy cần phải chọn lọc những thông tin cần thiết và chính xác từ hai trung tâm này.
- Bên cạnh đó ngân hàng cũng phải đối chiếu với thông tin của các cơ quan tài chính khác (như cơ quan thuế...) nhằm tránh tình trạng có một số doanh nghiệp cung cấp thông tin không thống nhất cho các bên có liên quan với mục đích trục lợi, gây thiệt hại cho những người sử dụng thông tin, trong đó có các ngân hàng.
Hiện nay, chi nhánh NHCT Cầu Giấy vẫn chủ yếu dựa vào nguồn thông tin do khách hàng cung cấp qua hồ sơ xin vay vốn mà chưa có điều kiện xác nhận lại mức độ đầy đủ và chính xác của các thông tin này. Do vậy, để thực hiện tốt công tác phân tích TCDN nói riêng và góp phần hạn chế rủi ro tín dụng, nâng cao hiệu quả công tác cho vay nói chung thì CBTD còn phải biết kết hợp, so sánh, đối chiếu các nguồn thông tin khác nhau để chọn ra được những thông tin chính xác trong tất cả các thông tin đó. Để thuận lợi hơn trong việc điều tra, xác minh thông tin thì mỗi ngân hàng nên thiết lập phòng lưu trữ thông tin một cách có hệ thống và liên kết với nhau để trao đổi thông tin về khách hàng như: thông tin về ngành nghề kinh doanh, về thị trường, chính sách vĩ mô của Chính phủ, văn bản pháp lý, các quy định, tiêu chuẩn do Chính phủ và các Bộ, ngành khác ban hành như: luật tín dụng, luật doanh nghiệp, luật kế toán...
Thứ ba, ngân hàng phải thường xuyên tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong ngân hàng không chỉ nhằm vào phía đơn thuần là kiểm tra khách hàng mà quan trọng hơn là kiểm tra, thanh lọc những CBTD thông đồng với khách hàng nhằm mục đích chiếm dụng vốn của ngân hàng nên đã thu thập thông tin qua loa, phân tích sơ sài hay cố tình tiếp nhận những thông tin không trung thực, đầy đủ để nhanh chóng có quyết định cho vay.
3.1.2. Nâng cao chất lượng xử lý, phân tích thông tin đối với khoản vay ngắn hạn.
Đối với ngân hàng, nhu cầu VLĐ là tài sản mang tính chất ngắn hạn, đặc điểm của nó là không lớn, rất nhiều món vay, khó quản lý, việc điều tra cho vay phức tạp vì không có dự án để thẩm định; thời gian cho vay lại ngắn nên có nhiều sơ hở gây nên nợ quá hạn khá cao hiện nay (năm 2005, tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ cho vay là 2,5%). Để hạn chế tình trạng này, trong việc xử lý thông tin, ngân hàng nên xem xét các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, một sự nóng vội trong việc ra quyết định cho vay, sẵn sàng cho vay cả một số tiền lớn trong ngắn hạn, luôn chứa đựng nguy cơ rủi ro cao, mà điển hình là khách hàng không trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn cho ngân hàng. Nếu khách hàng xin vay một số tiền quá lớn trong ngắn hạn, ngân hàng cần phải xem xét kĩ càng mục đích vay vốn của khách hàng, phải am hiểu tường tận về sản phẩm mà doanh nghiệp đang sản xuất, mức cầu của thị trường về sản phẩm này:
- Nếu loại sản phẩm đang trong thời kì suy thoái, cung vượt cầu thì ngân hàng nhất định không được cho vay để bổ sung VLĐ thiếu cho doanh nghiệp, vì khi đó càng tiến hành sản xuất, doanh nghiệp càng thua lỗ, doanh thu bán hàng không bù đắp nổi chi phí và trả nợ cho ngân hàng.
- Hoặc nếu sản phẩm vẫn đang được thị trường chấp nhận nhưng thấy mục đích vay của doanh nghiệp không rõ ràng hay mục đích vay nhằm đầu tư vào những tài sản không cần thiết với những khoản chi phí lớn thì đây có thể là sự che đậy cho một động cơ bất chính của doanh nghiệp.
Thứ hai, về các tỷ lệ phân tích, ngân hàng cần lưu ý một số điểm:
Đối với hệ số thanh toán ngắn hạn: để sử dụng tốt tỷ lệ này, ngân hàng nên đi sâu phân tích để loại trừ ra khỏi tử số các khoản sau:
+ ĐTTCNH: đối với doanh nghiệp có khả năng về tài chính thường trích dự phòng ĐTNH để giảm thiểu rủi ro, khi phân tích CBTD cần so sánh giữa kết quả đánh giá của ngân hàng cho vay và số đã được trích dự phòng.
+ Các khoản phải thu: ngân hàng cần phải đánh giá các khoản phải thu quá hạn, khó đòi hoặc còn hạn thanh toán nhưng không có khả năng thanh toán. Nói chung, doanh nghiệp không sẵn sàng cung cấp các số liệu này cho ngân hàng. Do đó, ngân hàng phải có phương pháp đánh giá cụ thể như: xem chi tiết các tài khoản, so sánh chi tiết theo từng đối tượng khách hàng giữa hai niên độ báo cáo, có thể đánh giá thêm từ một số thông tin khác như hợp đồng, biên bản đối chiếu xác nhận công nợ...
Theo quy định, doanh nghiệp phải trích dự phòng phải thu khó đòi để xử lý rủi ro công nợ quá hạn, khó đòi. Tuy nhiên, doanh nghiệp có khả năng về tài chính mới hạch toán được đầy đủ dự phòng phải thu khó đòi. Như vậy rõ ràng có một bộ phận các khoản phải thu khó đòi sẽ không được lập dự phòng, mặc dù trong thuyết minh BCTC có quy định phản ánh các khoản phải thu quá hạn nhưng trên thực tế hầu hết các doanh nghiệp đều không phản ánh đầy đủ. Điều này cũng gây những khó khăn nhất định cho ngân hàng trong quá trình phân tích. Do đó, ngân hàng cần so sánh số đã được dự phòng với kết quả đánh giá thực tế về công nợ khó đòi.
+ Hàng tồn kho: cần đánh giá để loại trừ hàng tồn kho ứ đọng, kém hoặc mất phẩm chất theo từng loại sản phẩm của doanh nghiệp vào các kì báo cáo. Đối với sản phẩm dở dang khi phân tích cần xem tổng hợp chi phí, doanh thu, lỗ lãi theo từng công trình, đặc biệt đối với các doanh nghiệp thi công công trình. Ngân hàng cần đánh giá các công trình có chi phí dở dang qua một hoặc nhiều niên độ kế toán, không có doanh thu nhưng chưa quyết toán lỗ.
+ TSLĐ khác như:
* Tạm ứng: cần đánh giá những khoản tạm ứng để quá lâu không thanh toán để loại trừ các khoản không có khả năng thu hồi.
* Chi phí trả trước: khi phân tích cần xem cân đối tài khoản, phát hiện trường hợp chỉ trích thêm trong kì nhưng không phân bổ hoặc phân bổ quá ít (để tránh kết quả kinh doanh lỗ); làm rõ nguyên nhân những khoản chi phí trả trước không phân bổ kì này.
* Chi phí chờ kết chuyển: khi phân tích cần xem xét điều kiện của doanh nghiệp (có chu kì SXKD dài, doanh thu trong kì báo cáo quá ít hoặc không có); nội dung các khoản chi phí (chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp). Xem trên cân đối số phát sinh: so sánh số dư đầu kì, phát sinh tăng, phát sinh giảm để biết doanh nghiệp có kết chuyển hết số dư cuối kì trước hay không? Nếu không kết chuyển hết, chứng tỏ doanh nghiệp đã tránh hạch toán kinh doanh lỗ.
Trường hợp doanh nghiệp lập các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng phải thu khó đòi và dự phòng giảm giá ĐTNH đúng và đầy đủ thì không có khó khăn gì cho ngân hàng trong việc xác định hệ số thanh toán ngắn hạn. Nhưng thực tế cho thấy, chỉ có một phần các khoản dự phòng được lập và phản ánh trên bảng CĐKT của doanh nghiệp. Ngân hàng có thể khắc phục bằng cách nâng cao tiêu chuẩn chấp nhận của mình đối với hệ số này, ví dụ: nếu trước đây tỉ lệ này lớn hơn 1 là chấp nhận được thì nay nâng lên thành lớn hơn 1,5.
Hiện nay Bộ tài chính đã ban hành thông tư hướng dẫn chế độ trích lập và sử dụng các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, tổn thất các khoản ĐTTC, nợ khó đòi và bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp tại doanh nghiệp (thông tư số 13/2006/TT-BTC ngày 27/02/2006). Ngân hàng có thể kiểm tra được mức độ trung thực, đầy đủ của các khoản dự phòng do doanh nghiệp lập, đánh giá chính xác hơn chất lượng TSNH của doanh nghiệp.
Ngoài ra, khi tính toán nợ ngắn hạn và nợ dài hạn đến hạn trả cần lưu ý: trong bảng CĐKT, nợ dài hạn đến hạn trả thuộc nhóm nợ ngắn hạn, nếu cuối niên độ kế toán, các doanh nghiệp có vay vốn tại ngân hàng không thực hiện việc rà soát lại các khoản vay, nợ sắp tới hạn, hoặc có rà soát để lên kế hoạch trả nợ trong năm kế hoạch nhưng không phản ánh bút toán kết chuyển số nợ, vay dài hạn đến hạn trả trong niên độ kế toán tiếp theo sang theo dõi trên tài khoản nợ dài hạn đến hạn trả thì việc xác định nợ ngắn hạn chắc chắn sẽ có sự sai lệch theo hướng có lợi cho doanh nghiệp vay vốn do cung cấp thông tin không trung thực. Để kiểm tra sai phạm này, ngân hàng cần có biện pháp:
Biện pháp thứ nhất, là đối chiếu với sổ kế toán, hướng này những CBTD khó tiếp cận.
Biện pháp thứ hai, thực thi hơn, đó là dựa vào thông tin do trung tâm thông tin tín dụng NHNN và mạng thông tin phòng ngừa rủi ro của NHCT để biết được các khoản vay doanh nghiệp đã nhận cùng với thời hạn thanh toán của chúng.
Đối với hệ số khả năng trang trải lãi vay: CBTD trong quá trình tính toán đã gộp cả lợi nhuận thuần từ kinh doanh và chi phí tài chính, do đó ngân hàng nên quy định cụ thể phần “lợi nhuận từ kinh doanh” bao gồm cả phần lợi nhuận tạo ra cho người cho vay. Khi đó phần tử số gồm: “lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh và lãi vay phải trả”, có như vậy mới đánh giá được chính xác lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh (chưa loại trừ chi phí lãi vay) có đủ khả năng để trang trải lãi vay hay không.
Đối với chỉ tiêu kì thu tiền trung bình và vòng quay hàng tồn kho: hàng tồn kho và khoản phải thu là các chỉ tiêu có ảnh hưởng lớn đến khả năng trả nợ ngắn hạn, nên doanh nghiệp thường cải thiện hệ số này bằng cách trước khi lập BCTC họ cố ý tạm ngừng mua hàng vào hoặc trả bớt các khoản nợ ngắn hạn. Khi đó, nếu ngân hàng căn cứ vào hệ số này để đánh giá thì sẽ có nhiều sai lệch. Đặc biệt đối với doanh nghiệp kinh doanh có tính chất mùa vụ, ngân hàng nên quy định bình quân khoản phải thu trong kì và hàng tồn kho bình quân phải tính theo công thức bình quân điều hoà của từng quý trong kì sẽ chính xác hơn, bởi vì khi đó hàng tồn kho vào thời điểm đầu năm và cuối năm ở mức thấp nhất, từ đó có thể đánh giá chính xác khả năng tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp trong kì. Công thức tính như sau:
H0 + H1 + H2 + H3 + H4
Hbq = 2 2
4
Trong đó: Hbq là hàng tồn kho bình quân trong kì
H0 là số dư đầu kì hàng tồn kho quý thứ nhất
H1 là số dư cuối kì hàng tồn kho quý thứ nhất
H2 là số dư cuối kì hàng tồn kho quý thứ hai
H3 là số dư cuối kì hàng tồn kho quý thứ ba.
H4 là số dư cuối kì hàng tồn kho quý thứ tư.
Bình quân khoản phải thu trong kì tính theo công thức bình quân điều hoà số dư phải thu của từng quý trong kì tương tự như trên.
Đối với các tỷ lệ đo lường khả năng sinh lời của doanh nghiệp có liên quan đến lợi nhuận sau thuế, khi tính toán, ngân hàng cần phải phân tích các yếu tố ảnh hưởng gián tiếp đến lợi nhuận sau thuế như đã trình bầy ở phần thu thập thông tin (gồm các khoản chi phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển) để đánh giá chính xác hơn thực lực tài chính của doanh nghiệp.
Đối với tỷ suất sinh lời của tài sản (TSLN TTS):
Phần tử số nên được thay đổi lại là “Lợi nhuận trước thuế và lãi vay”, có như vậy mới thể hiện được hiệu quả xã hội của đồng vốn sản xuất, không phụ thuộc vào cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp. Lúc đó, tỷ số này sẽ phản ánh hiệu quả sản xuất khách quan hơn. Khi đó, chỉ tiêu này cho biết trong kì kinh doanh một đồng giá trị tài sản mà doanh nghiệp đã huy động vào SXKD tạo ra được bao nhiêu đồng lãi hoạt động biểu hiện năng lực của doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn sản xuất để tạo ra lợi nhuận, trong đó một phần dùng để trả lãi tiền vay, một phần nộp thuế TNDN cho ngân sách nhà nước và phần còn lại là lãi ròng tích luỹ của doanh nghiệp. Với ý nghĩa đó, ngân hàng cần quan tâm đến chỉ tiêu này khi phân tích TCDN phục vụ công tác cho vay, tỷ số này càng lớn càng tốt và bắt buộc phải cao hơn lãi vay.
Trong đó chỉ tiêu “lợi nhuận trước thuế và lãi vay” không có trong các BCTC của doanh nghiệp. Chỉ tiêu “lợi nhuận trước thuế” (mã số 50) trong báo cáo KQKD là chỉ tiêu phản ánh lợi nhuận trước thuế và sau khi trả lãi vay. Do đó, để xác định phần tử số của công thức, ngân hàng phải lấy lợi nhuận trước thuế cộng với chi phí lãi vay, trong đó, chi phí lãi vay (mã số 23) nằm trong khoản mục chi phí tài chính (mã số 22).
Đối với các chỉ tiêu nhằm định giá trên thị trường (đối với doanh nghiệp phát hành cổ phiếu), ngân hàng chưa quan tâm phân tích đúng mức. Mà nó lại có vị trí quan trọng trong việc đánh giá vị thế của doanh nghiệp trên thị trường một cách khách quan nhất. Do đó, trong quá trình phân tích TCDN thì các thông tin về chỉ số giá cả cần được sử dụng để đánh giá tốc độ tăng trưởng thực tế của các doanh nghiệp. Bởi một doanh nghiệp có doanh thu và lợi nhuận đều tăng qua các năm chưa chắc đã có uy tín trên thị trường vì có thể so với các doanh nghiệp trong ngành thì tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp là chưa cao, hay do chỉ số lạm phát cao hơn mức tăng trưởng của doanh nghiệp. Vì vậy, CBTD cần phải phân tích thêm trên cơ sở giá trị thị trường, gồm những chỉ số cơ bản như: tỷ lệ giá cả trên thu nhập một cổ phần, tỷ lệ giá cả trên giá trị ghi sổ. Ngoài “Hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng” được quy định trong “Sổ tay tín dụng”, CBTD cần phải so sánh các số liệu tài chính của doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành và các doanh nghiệp khác đối với từng chỉ tiêu cụ thể. Qua đó, nhà phân tích có thể thấy được khả năng sinh lời hiện tại và triển vọng trong tương lai của doanh nghiệp, khẳng định uy tín và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
Thứ ba, đối với phân tích TCDN trong khi cho vay. Vốn vay sau khi được chuyển giao cho doanh nghiệp sử dụng, ngân hàng luôn phải cập nhật mọi thông tin từ hoạt động SXKD của doanh nghiệp để đánh giá khả năng trả nợ và quá trình sử dụng vốn vay của doanh nghiệp có đúng mục đích không, có hiệu quả không, hiệu quả hoạt động SXKD của doanh nghiệp sẽ quyết định nguồn trả nợ cho ngân hàng.
Trước hết, đối với khoản cho vay ngắn hạn, nguồn trả nợ cho ngân hàng chủ yếu là từ doanh thu tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ hình thành từ nguồn vốn do ngân hàng cung cấp. CBTD cần chú ý đến khả năng tiêu thụ sản phẩm và giá bán sản phẩm của doanh nghiệp. Ngoài ra, CBTD phải nắm rõ các nguồn thu của doanh nghiệp và yêu cầu doanh nghiệp thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Điều này sẽ giúp cho CBTD có thể nắm rõ khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp, đảm bảo an toàn cho vốn vay. Thường xuyên kiểm tra tài khoản của doanh nghiệp là một phương thức để đánh giá tình trạng tài chính có được lành mạnh hay không. Nếu trong một thời gian nhất định mà khách hàng không có một khoản thu nào đáng kể thì chứng tỏ rằng doanh nghiệp gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ hoặc bán chịu nhiều. Trường hợp này, có thể cần xem xét kỹ hơn về tình trạng sản xuất và tiêu thụ của doanh nghiệp có vấn đề gì xảy ra gây rủi ro cho khoản vay hay không. Nếu phát hiện tình trạng có thể xấu đi, ngay lập tức, CBTD phải bàn bạc với doanh nghiệp, đưa ra giải pháp tư vấn cho doanh nghiệp: yêu cầu điều chỉnh lại kế hoạch SXKD; xem xét lại vòng đời sản phẩm để có biện pháp mở rộng thị trường tiêu thụ mới hoặc chuyển sang SXKD sản phẩm mới; cải tiến chất lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường; đẩy mạnh chiến lược bán hàng (giảm giá, khuyến mại, quảng cáo, tăng sức cạnh tranh) giải phóng hàng tồn kho; tích cực thu hồi khoản phải thu khách hàng cũ, giảm bán chịu bằng chính sách giảm giá, chiết khấu thanh toán... Nếu thấy không thể khắc phục được thì cần phải tìm biện pháp để thu nợ ngay. Vấn đề quan trọng là CBTD không được có tư tưởng “phóng lao thì phải theo lao”, tiếp tục bỏ vốn thêm cho khách hàng mà phải kiên quyết xử lý một cách đúng đắn theo quy chế cho vay để đảm bảo cho việc thu hồi nợ vay, bảo đảm an toàn công tác tín dụng.
Sau đó, ngân hàng khi nhận được các BCTC mới nhất của doanh nghiệp nên phân tích lại các chỉ tiêu thể hiện khả năng sinh lời và độ rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, để tiếp tục có những dự đoán mới về nhu cầu và tình hình TCDN trong niên độ kế toán tiếp theo. Theo quy định trong “sổ tay tín dụng” của NHCT Việt Nam thì việc phân tích đánh giá tình hình TCDN phải thực hiện theo định kì, tối thiểu 6 tháng một lần. Nhưng trên thực tế thì tại chi nhánh NHCT Cầu Giấy chưa tuân thủ chặt chẽ quy định này, chỉ đạt 43% so với yêu cầu. Do đó, ngân hàng cần phải có biện pháp đôn đốc CBTD thực hiện giám sát khoản vay theo quy định của NHCT Việt Nam để đảm bảo an toàn khoản vay.
3.1.3. Hiện đại hoá trang thiết bị và cơ sở hạ tầng phục vụ công tác phân tích tài chính doanh nghiệp.
Khi ngân hàng có đủ thiết bị hiện đại để lưu trữ hồ sơ khách hàng vào hệ thống máy tính thì trong nội bộ ngân hàng có thể dễ dàng khai thác được những thông tin để kiểm tra, quản lý khách hàng thường xuyên hơn và kịp thời phát hiện, ngăn chặn những rủi ro sớm nhất cho ngân hàng đồng thời cảnh báo và tư vấn cho doanh nghiệp. Hơn nữa, khi ứng dụng các phần mềm chuyên dụng vào công tác phân tích TCDN thì sẽ giảm được tối đa sai sót trong khâu tính toán, rút ngắn thời gian phân tích, làm gia tăng hiệu quả kinh tế cho cả ngân hàng và khách hàng.
Vì vậy, chi nhánh NHCT Cầu Giấy cần nhanh chóng hoàn thành chương trình hiện đại hoá chi nhánh (OSFA) và hiện đại hoá hệ thống thanh toán (INCAS) trong toàn hệ thống, ứng dụng hiệu quả nhiều công nghệ mới trong hoạt động quản lý và kinh doanh ngân hàng.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tổ chức công tác phân tích TCDN tại chi nhánh NHCT Cầu Giấy.
Chất lượng nguồn nhân lực:
Phẩm chất nghề nghiệp và năng lực chuyên môn của đội ngũ CBTD có vai trò quan trọng góp phần nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, đặc biệt là hiệu quả công tác phân tích TCDN. Do vậy, CBTD phải thường xuyên cập nhật những quyết định mới ban hành của Chính phủ, các Bộ, ban ngành liên quan có ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra phải sử dụng thành thạo những chỉ tiêu tài chính để đánh giá hiệu quả của phương án SXKD thông qua công tác phân tích TCDN và phải nắm được các hệ thống chỉ tiêu tiêu chuẩn làm so sánh đối với từng ngành nghề tương ứng. CBTD còn phải thu thập các thông tin về doanh nghiệp cần vay vốn một cách chính xác bằng cách đến tận địa bàn SXKD của doanh nghiệp để kiểm tra hoặc từ các cơ quan cung cấp thông tin có uy tín của nhà nước. Tuy nhiên, mỗi phương án SXKD khi đi vào hoạt động sẽ chịu tác động của rất nhiều nhân tố từ bên ngoài nên sẽ sai khác so với dự tính ban đầu. Vì vậy, CBTD còn phải phân tích và dự báo ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến phương án vay vốn của doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi CBTD phải có kiến thức, am hiểu về thực trạng và các vấn đề đang xảy ra trong các ngành hàng, lĩnh vực kinh doanh mà ngân hàng đang cho vay, nắm được sự thay đổi của hệ thống pháp luật, chính sách vĩ mô...
Tóm lại, để nâng cao hiệu quả thẩm định từ đó mở rộng cho vay có hiệu quả, CBTD của chi nhánh cần phải trau dồi hơn nữa không chỉ nghiệp vụ ngân hàng mà còn phải hiểu và có kiến thức về TCDN để có thể đọc được các BCTC, đánh giá và xác định chính xác các chỉ tiêu tài chính cần thiết phục vụ cho công tác thẩm định. Do đó, các ngân hàng cũng cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ của mình, cần chú trọng kĩ năng thực hành bằng các chương trình phần mềm thẩm định (Excel, Risk Master,...) trực tiếp trên máy vi tính với những ví dụ thực tế, cụ thể hơn là phương pháp truyền đạt một chiều sẽ không kích thích được tính tích cực, chủ động và không đạt được mục tiêu trang bị kĩ năng thực hành cho đối tượng đang làm công tác thực tế.
Tổ chức công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại chi nhánh:
Ngân hàng cần xây dựng quy trình phân tích TCDN với những nội dung đã được chuẩn hoá của NHNN và NHCT Việt Nam để thực hiện thống nhất và phối hợp hoạt động trong toàn ngân hàng, nhằm giúp cho công tác phân tích TCDN được tiến hành thuận lợi và nhanh chóng, nâng cao chất lượng tín dụng và uy tín của ngân hàng.
Bố trí nhân sự trong toàn chi nhánh đặc biệt là trong bộ phận tín dụng một cách hợp lý và phù hợp với năng lực của từng người. Ngân hàng nên xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn cần phải có của cán bộ thẩm định, những cán bộ đáp ứng được tiêu chuẩn này sẽ được lựa chọn vào những vị trí thích hợp trong công tác thẩm định, ngược lại, những cán bộ nào chưa đáp ứng đủ điều kiện cần thiết nên chuyển sang bộ phận khác cho phù hợp với năng lực hiện tại, hoặc có kế hoạch đào tạo lại, nâng cao trình độ đáp ứng nhu cầu hiện tại.
Hiện nay, chi nhánh vẫn chưa có phòng thẩm định riêng, việc này vẫn do CBTD. Do đó, mỗi CBTD phải thực hiện nhiều công việc để hoàn thành một hợp đồng tín dụng nên cùng lúc CBTD không thể hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Trong khi đó công tác phân tích TCDN đóng vai trò vô cùng quan trọng, liên quan đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề,... hơn nữa việc xác minh thông tin trong các BCTC của doanh nghiệp lại rất khó khăn và phức tạp, vậy nên ngân hàng cần phải lập một phòng thẩm định riêng. Trong đó, cần tổ chức phân công cán bộ thẩm định theo từng lĩnh vực, ngành nghề nhất định thì hiệu quả công việc sẽ cao hơn. Mỗi khi phân tích tài chính của khách hàng thuộc lĩnh vực mình am hiểu thì CBTD sẽ dễ dàng trong khâu thu thập và xác minh tính chính xác của thông tin do khách hàng cung cấp, từ đó có thể phân tích, đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp xin vay và giúp cho việc ra quyết định cho vay nhanh chóng, chính xác và đảm bảo an toàn cho khoản vay, nâng cao uy tín của ngân hàng.
Trên đây là một số giải pháp nhằm tiến tới nâng cao chất lượng công tác phân tích TCDN tại chi nhánh NHCT Cầu Giấy. Các biện pháp này chỉ được phát huy hiệu quả tối đa khi được thực hiện một cách đồng bộ với sự đồng tâm nhất trí của toàn thể cán bộ của chi nhánh. Tuy nhiên ngoài sự nỗ lực của bản thân chi nhánh, cũng cần phải có sự hỗ trợ, giúp đỡ, sự quan tâm chỉ đạo của NHNN, NHCT Việt Nam trong một môi trường kinh tế, pháp luật ổn định, hoàn chỉnh cùng với sự nỗ lực, hợp tác từ phía các doanh nghiệp trong nền kinh tế thì việc nâng cao chất lượng công tác phân tích TCDN trong hoạt động cho vay ngắn hạn mới được thực hiện một cách hiệu quả.
3.2. Một số kiến nghị.
3.2.1. Kiến nghị đối với Chính phủ, các bộ và ban ngành liên quan.
Chính phủ cần hoàn thiện và thống nhất các văn bản pháp luật, dưới luật để tạo ra môi trường kinh tế, môi trường pháp lý ổn định là căn cứ vững chắc cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển cũng như góp phần nâng cao chất lượng công tác phân tích TCDN trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Bởi vì hoạt động của ngân hàng liên quan đến hầu hết mọi lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là hoạt động tín dụng. Đồng thời Chính phủ cần tạo ra sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau để ngân hàng dễ dàng và công bằng trong việc lựa chọn và ra quyết định cho vay, tránh được những rủi ro tín dụng xảy ra, giúp cho quá trình thẩm định dễ dàng hơn, không có sự ưu tiên đối với doanh nghiệp nhà nước, do đó nâng cao được hiệu quả tín dụng. Hơn nữa, khi môi trường kinh tế đồng nhất, hành lang pháp lý lành mạnh và ổn định giúp cho ngân hàng có cơ sở pháp lý vững chắc để ra quyết định và cán bộ thẩm định sẽ không gặp khó khăn vì mâu thuẫn chồng chéo giữa quy định của các văn bản hướng dẫn.
Chính phủ cần chỉ đạo các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán, kiểm toán và quản lý tài chính để bảo đảm cung cấp thông tin về tình hình hoạt động TCDN là tương đối chính xác. Ngoài ra, Chính phủ cần có quy định cụ thể về việc thực hiện kế toán thường xuyên, thống nhất để phản ánh kịp thời, chính xác nhất tình hình tài chính của khách hàng. Chính những quy định trên sẽ tạo cơ sở tin cậy cho thông tin mà doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng là chính xác và thống nhất, là nền tảng để nâng cao tính chính xác của các chỉ tiêu tài chính của phương án kinh doanh.
Các bộ, ban ngành cần quy định cụ thể về các định mức kĩ thuật, chỉ tiêu bình quân của ngành để tạo cơ sở thuận lợi cho ngân hàng so sánh, đối chiếu các chỉ tiêu hiệu quả của phương án kinh doanh, qua đó đánh giá được uy tín và vị thế của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, ngân hàng và các cơ quan chức năng (cơ quan thống kê, cơ quan thuế, bộ tài chính...) cần phối hợp, liên kết chặt chẽ để trao đổi thông tin, kiểm soát chặt chẽ phương án vay vốn.
3.2.2. Kiến nghị với NHNN.
NHNN cần hoàn thiện và cụ thể hoá các nội dung của Luật ngân hàng và các văn bản dưới luật đặc biệt là quy trình phân tích, đánh giá TCDN trên cơ sở quy định của các cơ quan khoa học, bộ, ngành có liên quan và các NHTM cho phù hợp với thực tế hiện nay của đất nước đồng thời hoà nhập với thông lệ quốc tế.
NHNN cần tăng cường vai trò của mình trong hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng–CIC. Trong thời gian vừa qua, CIC đã góp phần phục vụ cung cấp thông tin cho hoạt động của các NHTM trong đó có chi nhánh NHCT Cầu Giấy, tuy nhiên hoạt động của CIC còn bộc lộ một số hạn chế. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động của CIC thì NHNN cần hoàn thiện cơ chế nghiệp vụ thông tin tín dụng, chuẩn hoá nội dung thông tin và ứng dụng triệt để công nghệ tin học, có chế tài bắt buộc để thúc đẩy các NHTM quan tâm đầy đủ về nội dung và thời gian cung cấp thông tin, chú trọng nâng cao chất lượng phân tích thông tin tổng hợp được và phản hồi cho các NHTM những vấn đề cần chú ý đến các doanh nghiệp sẽ là khách hàng của họ.
3.2.3. Kiến nghị với NHCT Việt Nam.
NHCT Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện nội dung phân tích, đánh giá TCDN theo hướng cụ thể hơn, phù hợp với tình hình thực tiễn (sự thay đổi về luật doanh nghiệp, luật kế toán...) và quy định của NHNN Việt Nam, bên cạnh những quy định về nội dung, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của phương án kinh doanh cần có hướng dẫn cụ thể về cách đánh giá các chỉ tiêu trên khi ra quyết định cho vay để đảm bảo tính thống nhất trong toàn hệ thống. Cụ thể, ngân hàng nên bổ sung vào “Sổ tay tín dụng” phần hướng dẫn cách phối hợp các chỉ tiêu tài chính, mối liên hệ giữa các tỷ số tính toán để đưa ra đánh giá về tình hình TCDN một cách chính xác, nâng cao hiệu quả thẩm định phương án, dự án.
Để nâng cao chất lượng thông tin–nhân tố quan trọng hàng đầu của công tác phân tích TCDN thì NHCT Việt Nam cần tập trung hơn nữa trang bị phòng phân tích thông tin để ngăn ngừa rủi ro. NHCT Việt Nam cần trang bị mạng lưới thông tin hiện đại cho toàn hệ thống từ cấp cơ sở trở lên để khai thác triệt để những thông tin từ CIC và trung tâm phòng ngừa rủi ro của ngân hàng, qua đó sẽ khai thác thông tin về khách hàng có quan hệ với ngân hàng trong toàn hệ thống. Đồng thời, NHCT Việt Nam cần phối hợp với các NHTM khác để tăng cường trao đổi thông tin, kiểm tra, kiểm soát khách hàng vay vốn, đảm bảo tính hiệu quả và an toàn của đồng vốn.
Tăng cường đào tạo và đào tạo lại cán bộ thẩm định phương án kinh doanh trong toàn bộ hệ thống để đáp ứng được yêu cầu của tiến trình hiện đại hoá ngân hàng và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ – yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng thẩm định phương án trong đó có công tác phân tích TCDN.
Tiếp tục đầu tư vốn cho công việc nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, hiện đại hoá trang thiết bị phục vụ công tác phân tích TCDN đặc biệt là các phần mềm máy tính phục vụ cho công tác này để phát huy hết tính ưu việt của công nghệ thông tin, tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả ngân hàng và khách hàng, nâng cao hiệu quả của công tác phân tích TCDN.
3.2.4. Kiến nghị với doanh nghiệp.
Căn cứ quan trọng nhất của công tác phân tích TCDN là thông tin về phương án hay tình hình kinh doanh do chủ doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng, vì vậy mức độ chính xác, đầy đủ, kịp thời của thông tin về khách hàng và phương án kinh doanh có tính chất quyết định đến kết quả công tác phân tích TCDN. Do vậy, chi nhánh NHCT Cầu Giấy đề nghị chủ doanh nghiệp cần có thái độ hợp tác chặt chẽ với ngân hàng.
Chủ doanh nghiệp có trách nhiệm chấp hành các văn bản pháp luật của Chính phủ, Bộ tài chính, Bộ xây dựng...và các ban ngành khác có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó và liên quan đến hoạt động tín dụng, đặc biệt là hoạt động phân tích, đánh giá TCDN để bảo đảm tính hợp lý, hợp lệ của thông tin cung cấp cho ngân hàng, ngoài ra còn phải thường xuyên cập nhật những văn bản, quy định mới của các Bộ, ngành liên quan đến hoạt động của đơn vị.
Doanh nghiệp phải thực hiện minh bạch tình hình tài chính thông qua các BCTC, chấp hành nghiêm chỉnh các luật kế tóan, các chế độ kế toán và hệ thống chuẩn mực kế toán để tạo sự tin tưởng với ngân hàng, nên chủ động và tích cực cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời cho ngân hàng về tình hình hoạt động của doanh nghiệp và phương án kinh doanh.
Doanh nghiệp cần nâng cao uy tín của mình đối với ngân hàng bằng việc khai thác tối đa nguồn vốn tự có của mình vào hoạt động SXKD, bằng việc cung cấp các thông tin xác đáng, trung thực cho ngân hàng, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong việc sử dụng vốn vay, phối hợp chặt chẽ với ngân hàng để sử dụng vốn vay đúng mục đích, hiệu quả sử dụng vốn cao và trả nợ đúng hạn.
Kết luận
Khả năng tài chính bao giờ cũng là điều kiện tiên quyết cho mọi hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Do vậy, bất kì chủ thể nào muốn vay vốn tại ngân hàng đều phải chứng minh cho ngân hàng thấy khả năng tài chính của mình, kết hợp với xem xét mục đích vay và thẩm định hiệu quả của phương án SXKD của khách hàng, ngân hàng có thể xác định được khả năng trả nợ và nguồn trả nợ của khách hàng trong tương lai. Tất cả những khía cạnh đó đều được thể hiện đầy đủ trong nội dung của công tác phân tích tài chính khách hàng tại ngân hàng khi thẩm định và quyết định cho vay.
Mặt khác, cho vay là một nghiệp vụ chứa đựng rất nhiều rủi ro và rủi ro tín dụng từ lâu đã trở thành lực cản đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Mà một trong những biện pháp bắt buộc để hạn chế là tiến hành phân tích, đánh giá tình hình tài chính khách hàng trước khi quyết định cho vay và trong suốt quá trình sử dụng vốn vay. Cho nên phân tích tài chính khách hàng tại ngân hàng đã không chỉ trở thành yêu cầu tự thân của mỗi ngân hàng mà còn là đòi hỏi của NHNN và toàn xã hội đối với các NHTM.
Nói tóm lại, hoạt động kinh doanh của ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Một trong những con đường để nâng cao chất lượng của mối quan hệ đó và phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng là nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính khách hàng. Vì vậy, đề tài về công tác phân tích tài chính khách hàng sẽ luôn được không chỉ bản thân ngân hàng quan tâm mà bất cứ chủ thể nào quan tâm tới ngân hàng và hoạt động ngân hàng cũng đều quan tâm nghiên cứu đến hay nói cách khác nó luôn có ý nghĩa thiết thực và mang tính thời sự.
Với những kiến thức đã học trong nhà trường và qua thời gian thực tập tại Chi nhánh NHCT Cầu Giấy, em đã cố gắng tìm hiểu và trình bày những vấn đề cơ bản của công tác phân tích TCDN trong hoạt động cho vay ngắn hạn tại Chi nhánh và đưa ra những kiến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính khách hàng tại Chi nhánh tiến tới nâng cao chất lượng tín dụng và khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong thời gian tới. Em rất mong được sự góp ý của người đọc để có thể hoàn thiện bài viết hơn nữa.
Sau cùng, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Thạc Sỹ Nguyễn Xuân Quang cùng tập thể cán bộ công tác tại Chi nhánh NHCT Cầu Giấy đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này!
Sinh viên
Nguyễn Thu Hiền
Tài liệu tham khảo
[1]. Bộ Tài chính (2006), Thông tư số 20/2006/TT-BTC ngày 20/03/2006 hướng dẫn thực hiện 06 chuẩn mực kế toán ban hành theo quyết định số 12/2005/QĐ-BTC ngày 15/02/2005.
[2]. Bộ Tài chính (2002), Thông tư số 89/2002/TT-BTC ngày 09/10/2002 hướng dẫn thực hiện 04 chuẩn mực kế toán ban hành theo quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001.
[3]. Bộ Tài chính (2006), Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006 về việc ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp.
[4]. PGS.TS. Nguyễn Văn Công (2004), Lý thuyết và thực hành kế toán tài chính, NXB Tài Chính, Hà Nội.
[5]. TS. Nguyễn Đăng Nam, PGS.TS. Nguyễn Đình Kiệm (2001), Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp, NXB Tài chính, Hà Nội.
[6]. Ngân hàng Công thương Việt Nam (2002), Quyết định số 049/QĐ-HĐQT-NHCT ngày 31/05/2002 và quyết định số 106/QĐ-HĐQT ngày 20/08/2002 về việc ban hành quy định cho vay đối với khách hàng trong hệ thống NHCT.
[7]. Ngân hàng Nhà nước (2002), Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng tháng 06/2002 ban hành theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001.
[8].Ngân hàng Công Thương Việt Nam (2004), Sổ tay tín dụng ban hành theo quyết định số 163/QĐ-HĐQT-NHCT ngày 29/09/2004.
[9]. Trung tâm đào tạo NHCT Việt Nam (2002), Tài liệu khoá học Bồi dưỡng nghiệp vụ tín dụng.
[10]. Trung tâm bồi dưỡng và tư vấn về tài chính vi mô (2003), Tài liệu đào tạo quản lý tín dụng, Đại học Kinh tế Quốc Dân, Hà Nội.
[11]. NGƯT.TS Bùi Thị Xuân (2006), Giáo trình Phân tích hoạt động kinh doanh, NXB Thống Kê, Hà Nội.
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị thực tập.
Hà Nội, ngày 15/05/2006.
Sinh viên
Nguyễn Thu HiềnMục lục
Lời mở đầu 1
Chương I. Khái quát về phân tích tài chính doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại 3
Khái niệm, ý nghĩa và mục tiêu của phân tích tài chính doanh nghiệp 3
Khái niệm và ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nghiệp 3
Rủi ro tín dụng và mục tiêu của phân tích tài chính doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại 4
Nhân tố ảnh hưởng đến công tác phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 6
Nhân tố chủ quan 7
Nhân tố khách quan 7
Phương pháp và quy trình phân tích tài chính doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại 8
Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp 8
Quy trình phân tích tài chính doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại 9
Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại 12
Bảng cân đối kế toán 13
Báo cáo kết quả kinh doanh 15
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ 17
Thuyết minh báo cáo tài chính 18
Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại 18
Đánh giá khái quát tình hình tài chính qua các báo cáo tài chính 18
Phân tích các tỷ số tài chính 27
Chương II. Thực trạng công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Cầu Giấy 36
Khái quát về chi nhánh Ngân hàng Công thương Cầu Giấy 36
Lịch sử hình thành và phát triển 36
Cơ cấu tổ chức của chi nhánh Ngân hàng Công thương Cầu Giấy 36
Tình hình hoạt động chung của chi nhánh Ngân hàng Công thương Cầu Giấy 39
Thực trạng phân tích tài chính doanh nghiệp tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Cầu Giấy 45
2.2.1. Thông tin sử dụng trong công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Cầu Giấy 45
Phân tích khái quát tình hình tài chính 47
Phân tích các chỉ tiêu chủ yếu đánh giá tình hình tài chính 50
Nhận xét về công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Cầu Giấy 67
2.3.1. Ưu điểm 67
Hạn chế 68
Chương III. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Cầu Giấy 72
Nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay ngắn hạn 72
3.1.1. Nâng cao chất lượng thu thập thông tin 72
3.1.2. Nâng cao chất lượng phân tích và xử lý thông tin đối với khoản vay ngắn hạn 76
3.1.3. Hiện đại hoá trang thiết bị và cơ sở hạ tầng phục vụ công tác phân tích tài chính doanh nghiệp 82
3.1.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tổ chức công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Cầu Giấy 82
3.2. Một số kiến nghị 84
3.2.1. Kiến nghị với Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan 84
3.2.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước 85
3.2.3. Kiến nghị với Ngân hàng Công thương Việt Nam 86
3.2.4. Kiến nghị với doanh nghiệp 87
Kết luận 88
Phụ lục 1. Mẫu các báo cáo tài chính
Phụ lục 1.1. Bảng cân đối kế toán
Phụ lục 1.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Phụ lục 1.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Phụ lục 1.4. Bản thuyết minh báo cáo tài chính
Phụ lục 2. Số liệu về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty Cổ phần ABC
Danh mục các bảng & hình vẽ
Bảng 2.1. Tình hình huy động vốn của chi nhánh NHCT Cầu Giấy 39
Bảng 2.2. Tình hình sử dụng vốn tại chi nhánh NHCT Cầu Giấy 41
Bảng 2.3. Tình hình nợ quá hạn của chi nhánh NHCT Cầu Giấy 68
Hình 2.1. Sơ đồ tổ chức của chi nhánh NHCT Cầu Giấy 36
Hình 2.2. Tình hình huy động vốn của chi nhánh NHCT Cầu Giấy 44
Hình 2.3. Tình hình cho vay tại chi nhánh NHCT Cầu Giấy 44
Danh mục từ viết tắt
BCTC Báo cáo tài chính
CBTD Cán bộ tín dụng
CĐKT Cân đối kế toán
ĐTDH Đầu tư dài hạn
ĐTNH Đầu tư ngắn hạn
ĐTTCNH Đầu tư tài chính ngắn hạn
ĐTTCDH Đầu tư tài chính dài hạn
DT Doanh thu
GTGT Giá trị gia tăng
KQKD Kết quả kinh doanh
LCTT Lưu chuyển tiền tệ
LN Lợi nhuận
NHCT Ngân hàng Công thương
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng Thương mại
NVDH Nguồn vốn dài hạn
NVNH Nguồn vốn ngắn hạn
SXKD Sản xuất kinh doanh
TCDN Tài chính doanh nghiệp
TSCĐ Tài sản cố định
TSDH Tài sản dài hạn
TSLĐ Tài sản lưu động
TTSbq Tổng tài sản bình quân
TSNH Tài sản ngắn hạn
TSKD Tài sản kinh doanh
TSLN Tỷ suất lợi nhuận
TNDN Thu nhập doanh nghiệp
VLĐ Vốn lưu động
VLĐTX Vốn lưu động thường xuyên
VCSH Vốn chủ sở hữu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32657.doc