Luận văn Phát triển dịch vụ gia tăng trên nền tảng truyền hình di động

Hiện tại ở Việt Nam đã triển khai 3 công nghệ cho truyền hình di động: truyền hình di động trên mạng 3G do Vinafone, Mobifone triển khai, công nghệ truyền hình số cho thiết bị cầm tay DVB-H do VTC triển khai và công nghệ truyền quảng bá đa phương tiện số DMB do VTV đang triển khai. Tuy nhiên hiệu quả thực sự chưa cao, đối với Vinafone, Mobifone thì giá thành dịch vụ cao cộng với khả năng cung cấp hạn chế số lượng người dùng dịch vụ này trên nền tảng 3G. Đối với VTC thì bị hạn chế bởi các thiết bị đầu cuối do các thiết bị hỗ trợ cho DVB-H còn ít. Với giải pháp truyền hình quảng bá đa phương tiện số của VTV tuy chưa triển khai nhưng cũng sẽ gặp phải vấn đề về thiết bị đầu cuối do công nghệ T-DMB ít được phổ biến, chủ yếu phát triển mạnh ở Hàn Quốc.

doc93 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1674 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển dịch vụ gia tăng trên nền tảng truyền hình di động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h biểu ngữ này liên quan tới các dịch vụ hiện thời đang sử dụng và theo sở thích của người sử dụng Thông thường những thanh biểu ngữ này không được truyền quảng bá nhưng siêu dữ liệu miêu tả chúng lại được chứa trong chỉ dẫn dịch vụ điện tử. Với siêu dữ liệu của các thanh biểu ngữ, các thanh biểu ngữ được yêu cầu từ điều hành viên dịch vụ qua một kênh truyền thông và được hiển thị sau đó. 3.2.2. Các mục tiêu thương mại Mục tiêu chính của “phần mềm chạy đa phương tiện di động” là để cung cấp các dịch vụ mà chúng có liên hệ lẫn nhau. Những dịch vụ này tương tác một cách dễ hiểu với người sử dụng. Danh sách các dịch vụ và rất nhiều dịch vụ được phân phát phần lớn như là nội dung IP qua việc truyền quảng bá hình ảnh số [5]. Các dịch vụ thêm vào và các quyền nội dung được đặt hàng nhờ việc sử dụng các kênh truyền thông khác nhau. Ứng dụng kỳ diệu này cung cấp lợi ích cho người sử dụng, các điều hành viên dịch vụ và những người cung ứng nội dung. Người sử dụng sẽ được đề nghị một lựa chọn rất rộng các dịch vụ, các dịch vụ được đề nghị theo sở thích riêng của người sử dụng và các dịch vụ cộng đồng như “trò chuyện” cũng được cung cấp. Điều hành viên dịch vụ sẽ thu được lợi ích từ dung lượng sử dụng tăng lên của các kênh truyền thông tế bào và hệ thống quảng cáo của riêng nó. Hơn nữa, nhờ việc đề nghị một lựa chọn rộng các dịch vụ nó có thể thu hút các khách hàng mới. Lòng tin của khách hàng được tăng lên nhờ việc đưa ra các dịch vụ tuỳ chỉnh theo ý khách hàng. Cuối cùng, những người cung ứng nội dung thu lợi từ việc đề nghị các dịch vụ của họ cho một cơ số các khách hàng tiềm năng của họ. Thêm vào đó, nó cung cấp sự lựa chọn rộng hơn các dịch vụ cho người sử dụng. Hình 3.1: Ngữ cảnh của “trình hiển thị phương tiện di động” 3.2.3. Phần mềm/ phần cứng ngoại vi. Phần mềm chạy đa phương tiện di động tương tác vừa gián tiếp vừa trực tiếp với phần cứng ngoài quan trọng cho dưới đây: Thiết bị đầu cuối khách người sử dụng, những thiết bị được sử dụng để duyệt qua và lựa chọn các dịch vụ. Mạng DVB, là mạng mà nội dung và siêu dữ liệu được truyền đại chúng. Các mạng GSM, GPRS và W-CDMA, được sử dụng để cung cấp các phương tiện truyền thông giữa thiết bị đầu cuối di động và quản trị dịch vụ để đưa ra yêu cầu, nhận nội dung và quyền truy cập nội dung. Phần mềm chạy đa phương tiện di động tương tác với phần mềm đầu cuối di động qua các thành phần quan trọng sau: Một trình duyệt web, được sử dụng để hiển thị và truy cập vào các liên kết web. Phần mềm nhúng trong các thiết bị đầu cuối. 3.3. Xây dựng hệ thống. Trong phạm vi của luận văn, chỉ mô tả các thành phần có nội dung và chức năng được nối trực tiếp với nhau, tương tác với nhau sẽ được giải thích chi tiết. 3.3.1. Mô hình ca sử dụng Nhìn ở mức cao hơn, “trình hiển thị phương tiện di động” có các yêu cầu về mặt chức năng sau. Khi áp dụng “trình hiển thị phương tiện di động”, nó có khả năng nhận các dòng truyền dữ liệu IP và lưu các chỉ dẫn dịch vụ điện tử. Nếu chỉ dẫn dịch vụ điện tử không có sẵn qua việc truyền đại chúng, “trình hiển thị phương tiện di động” sẽ tìm lại nó qua một kênh truyền thông luân phiên. Sau khi chỉ dẫn dịch vụ điện tử đã có sẵn, “trình hiển thị phương tiện di động” mở ra một trình duyệt. Người sử dụng có thể chọn các dịch vụ để đặt hàng hoặc tiêu thụ từ chỉ dẫn dịch vụ và tìm kiếm các dịch vụ khác. Khi một dịch vụ đang được sử dụng, “trình hiển thị phương tiện di động” sẽ hiển thị các thanh biểu ngữ cho người sử dụng. Người sử dụng có thể nhấn vào các thanh biểu ngữ để đặt hàng dịch vụ được quảng cáo. Hơn nữa, “trình hiển thị phương tiện di động” có các “phòng trò chuyện” để người sử dụng có thể đăng nhập, tìm các phòng trò chuyện và “trò chuyện”. Cuối cùng người sử dụng có thể tuỳ chỉnh hiện trạng của nó theo sở thích. Hình 3.2 chỉ ra một bảng tóm tắt các trường hợp sử dụng cho “trình hiển thị phương tiện di động”. Hình 3.2: Mô hình ca sử dụng 3.3.2. Trường hợp sử dụng dịch vụ đặt hàng Khi một người sử dụng muốn sử dụng hoặc đặt hàng một dịch vụ, người đó sẽ xem chỉ dẫn dịch vụ điện tử hoặc là nhấn vào một thanh biểu ngữ. Thành công của trường hợp sử dụng này đảm bảo rằng người sử dụng được phê chuẩn và được làm hoá đơn, nội dung và quyền nội dung được nhận thành công và dịch vụ tuỳ theo sẽ được đưa ra. Bởi vì các mô hình thương mại khác nhau cho phép người sử dụng truy cập tới các dịch vụ theo các cách khác nhau. Những yêu cầu cần thiết để phát ra dịch vụ có thể thay đổi. Phụ thuộc vào dịch vụ được chọn, một dịch vụ đặc biệt có thể yêu cầu, ví dụ : tải tệp, các quyền nội dung các khoá để giải mã nội dung, hoặc bản thân nội dung. Hình 3.3 chỉ ra dịch vụ đặt hàng Hình 3.3: Trường hợp sử dụng đặt hàng Mô tả kịch bản: Người sử dụng chọn một dịch vụ. Hệ thống lấy từ định danh của dịch vụ được chọn. Kiểm tra quyền nội dung phần mềm, kiểm tra xem nội dung có sẵn hay không? Hệ thống xác định hiện trạng của người sử dụng để truy xuất thông tin lập hoá đơn và phương pháp trả tiền. Hệ thống yêu cầu quyền nội dung hoặc nội dung, và gửi thông tin lập hoá đơn tới điều hành viên dịch vụ qua một kênh truyền thông. Điều hành viên dịch vụ thực hiện vụ giao dịch và đáp lại bằng việc gửi các nội dung được yêu cầu hoặc quyền nội dung tới phần mềm đầu cuối. “Trình hiển thị nội dung” ghi nhận dịch vụ được đặt hàng theo sở thích của người sử dụng trong hiện trạng người sử dụng. Hệ thống đưa ra ứng dụng theo đúng yêu cầu. Biểu đồ tuần tự (trong trường hợp quyền nội dung đang sẵn có) Hình 3.4: Biểu đồ tuần tự trường hợp sử dụng đặt hàng 3.3.3. Trường hợp sử dụng hiển thị chỉ dẫn dịch vụ quảng cáo Phần mềm đầu cuối hiển thị một đề tựa có liên quan tới dịch vụ đang hoạt động hiện thời và có liên quan tới những sở thích được xác định trong lược tả. Các thanh biểu ngữ được hiển thị có thể hoạt động giống như các nút đặt hàng tới tất cả các dịch vụ được mô tả trong chỉ dẫn dịch vụ điện tử hoặc cung cấp sự tương tác. Siêu dữ liệu thanh biểu ngữ miêu tả các thanh biểu ngữ được định vị trong chỉ dẫn dịch vụ điện tử. “Trình hiển thị phương tiện phương tiện di động” sử dụng siêu dữ liệu thanh biểu ngữ để yêu cầu thanh biểu ngữ từ điều hành viên dịch vụ. Thành công của trường hợp sử dụng này đảm bảo rằng một sự tìm kiếm cho các thanh biểu ngữ được thực hiện trong chỉ dẫn dịch vụ điện tử, thanh biểu ngữ được yêu cầu và được nhận trong trường hợp thanh biểu ngữ không có sẵn, và được hiển thị tới người sử dụng. Hình 3.5 chỉ ra thanh biểu ngữ hiển thị sử dụng sơ đồ. Hình 3.5: Biều đồ ca sử dụng hiển thị chỉ dẫn dịch vụ Mô tả kịch bản: “Trình hiển thị phương tiện di động” hỏi “User Profile” đề biết dịch vụ nào được sử dụng và biết được sở thích của người sử dụng. “Trình hiển thị phương tiện di động” tìm kiếm chỉ dẫn dịch vụ điện tử để truy lục tới siêu dữ liệu thanh biểu ngữ. Dịch vụ đang dùng và sở thích của người sử dụng được sử dụng như một bộ lọc để tìm kiếm. “Trình hiển thị phương tiện di động” yêu cầu các thanh biểu ngữ từ điều hành viên dịch vụ. Điều hành viên dịch vụ đáp lại bằng cách gửi thanh biểu ngữ. “Trình hiển thị phương tiện di động” nhận và lưa trữ các thanh biểu ngữ. “Trình hiển thị phương tiện di động” hiển thị các thanh biểu ngữ. Hình 3.6: Biều đồ ca sử dụng hiển thị thanh biểu ngữ quảng cáo 3.3.4. Trường hợp sử dụng việc nhấn các thanh biểu ngữ Khi người sử dụng nhấn vào một đề tựa, “trình hiển thị phương tiện di động” phát ra một dịch tương ứng với đòi hỏi của thanh biểu ngữ. Ví dụ, nếu một thanh biểu ngữ là một thanh biểu ngữ web, “trình hiển thị phương tiện di động” sẽ mở một trình duyệt web. Sự thành công của trường hợp sử dụng này đảm bảo rằng ứng dụng tương ứng cho thanh biểu ngữ sẽ được phát ra và thông tin chính của thanh biểu ngữ được ghi. Một bản ghi các thanh biểu ngữ được nhấn được giữ lại để cung cấp một dịch vụ tuỳ chỉnh theo ý khách hàng. Mô tả kịch bản Người sử dụng nhấn vào thanh biểu ngữ. “Trình hiển thị phương tiện di động” lấy từ định danh của thanh biểu ngữ. “Trình hiển thị phương tiện di động” phát ra ứng dụng được đòi hỏi. “Trình hiển thị phương tiện di động” ghi thông tin về thanh biểu ngữ vào mục sở thích của người sử dụng trong “user Profile”. Nói một cách tổng quát, các thanh biểu ngữ có thể phù hợp với 5 phạm trù phụ thuộc vào chức năng của chúng. Tuy nhiên, nó có thể thực thi các đề tựa mà sử dụng các ứng dụng khác nhau sẽ được miêu tả trong quá trình nghiên cứu này. Thanh biểu ngữ cung cấp thông tin, nó không cung cấp sự tương tác. Loại thanh biểu ngữ này được sử dụng để hiển thị một quảng cáo tĩnh hoặc một thông báo tĩnh. Thông báo tĩnh này có thể là những báo động tin tức hoặc thông tin bổ sung có liên quan tới dịch vụ. Thanh biểu ngữ đặt hàng, nó nhằm vào việc đặt hàng một dịch vụ. Khi thanh biểu ngữ được nhấn, nó tạo ra một yêu cầu đặt hàng. Các chi tiết về cách thức đặt hàng dịch vụ cũng như chi phí của nó được xác định trong chỉ dẫn dịch vụ điện tử. Thanh biểu ngữ Web, nó được liên kết tới trang Web. Khi một thanh biểu ngữ Web được nhấn, nó đòi hỏi rằng trang web được liên kết phải mở với ứng dụng trình duyệt web. Thanh biểu ngữ bầu chọn, nó được sử dụng để đưa ra các lá phiếu. Khi thanh biểu ngữ này được nhấn nó sẽ gửi phiếu thông qua một kênh truyền thông. Thanh biểu ngữ hỏi/đáp, nó được sử dụng để cung cấp sự tương tác. Khi thanh biểu ngữ được nhấn, nó cung cấp tương tác tới người sử dụng bằng cách hiển thị một tập các câu hỏi có thể được chứa trong cùng thanh biểu ngữ. Kịch bản mở rộng cho các trường hợp: Thanh biểu ngữ là cung cấp thông tin và không cung cấp sự tương tác. Thanh biểu ngữ đặt hàng: Phần mềm đầu cuối cho phép khách hàng chọn vào mục bán hàng. Nó sẽ cập nhật thông tin người dùng và mở trang web bán hàng tương ứng. Thanh biểu ngữ web: phần mềm đầu cuối truy cập một địa chỉ web Thanh biểu ngữ bầu chọn: Phần mềm đầu cuối gửi phiếu tới người nhận qua một kênh truyền thông. Phần mềm đầu cuối thông báo cho người sử dụng bằng việc mô tả phiếu được thực hiện thành công hay không? Thanh biểu ngữ thi đố: người sử dụng tiếp tục trả lời, tiếp tục bước một của trường hợp sử dụng. Trường hợp sử dụng cuối cùng khi trò đó kết thúc. Hình 3.7: Lược đồ tuần tự click thanh biểu ngữ đặt hàng Hình 3.8: Lược đồ tuần tự cho việc bầu chọn 3.3.5. Biểu đồ lớp Hình 3.9: Biểu đồ lớp Mô tả các gói đối tượng chính của hệ thống: Trình quản lý dịch vụ - Service Manager bố trí các hoạt động của các đối tượng khác nhau có liên hệ với hệ thống. Chỉ dẫn dịch vụ điện tử - Electronic Service Guide) chứa bảng mô tả các dịch vụ - siêu dữ liệu dịch vụ) và các thanh biểu ngữ. Đối tượng thanh biểu ngữ bản thân nó chính là các đề tựa. Người sử dụng - User) hiển thị người sử dụng của hệ thống. Đối tượng này có một lược tả người sử dụng - user profile) chứa các thông tin về người sử dụng, sở thích của người sử dụng và một danh sách các dịch vụ được dùng bởi người sử dụng. Một thứ tự đặt hàng - Purchase Order xem xét một dịch vụ được đặt hàng bởi người sử dụng. Trình quản lý việc lập hoá đơn được đưa vào việc đặt hàng các dịch vụ. Vì mục đích này, nó sử dụng một dịch vụ quản lý bản quyền số - DRM Agent) để vận hành các quyền về nội dung của dịch vụ được đặt hàng. Trình quản lý giao tiếp - Communication Manager mở ra các cổng truyền thông để đưa ra yêu cầu và nhận dữ liệu. Giao diện người sử dụng - User Interface cung cấp các phương tiện cho người sử dụng để tương tác với hệ thống. Ứng dụng - Application: là đối tượng trừu tượng, các dịch vụ triển khai phía hệ thống sẽ kế thừa đối tượng này như dịch vụ trò chuyện. Trình quản lý ứng dụng - Application Manager điều khiển các ứng dụng phần mềm có liên quan với hệ thống. Trình ứng dụng là tầng cơ sở cho các ứng dụng, ví dụ như “trò chuyện”. Nếu những ứng dụng khác được sử dụng với hệ thống, chúng cũng bắt nguồn từ tầng ứng dụng. 3.4. Khả năng liên kết với phần mềm nhúng đầu cuối Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung vào hệ điều hành Symbian được sử dụng rộng rãi nhất trên các máy của Nokia, Samsung,…Với hệ điều hành Symbian, nó có khả năng kết nối vẫn được sử dụng theo cùng một cách mà không quan tâm đến kênh truyền thông. Vì thế, điều cốt yếu là hiểu được chức năng kết nối Symbian OS để phát triển bất cứ một ứng dụng nào kết nối với kênh truyền thông. Hơn nữa, một vài vấn đề phải được ghi nhớ bất cứ khi nào những ứng dụng của Symbian được phát triển. Một trong những vấn đề quan trọng nhất đó là việc sử dụng những đối tượng kích hoạt. Các ứng dụng của Symbian phù hợp với các đối tượng kích hoạt hơn là đa luồng. Khái niệm đối tượng kích hoạt được phát triển riêng biệt cho hệ thống điều hành Symbian. Nó cho phép thực hiện một vài đòi hỏi không đồng bộ tại cùng thời điểm và trong cùng luồng cũng có thể nó được xác định như một nền tảng liên kết. Trong Symbian, luồng là đơn vị thực hiện, tất cả các đối tượng kích hoạt và bộ lập thời biểu tích cực trong cùng luồng. Bộ lập thời biểu tích cực là một vòng chờ trong luồng đơn, nó sẽ phát hiện sự hoàn thành của các sự kiện không đồng bộ và định vị đối tượng kích hoạt có liên quan để vận hành chúng. Các kết nối trong Symbian phù hợp để sử dụng các đối tượng kích hoạt và đó là lý do tại sao chúng quan trọng cho việc nghiên cứu này. Thủ tục bắt đầu bất kỳ một kết nối nào trong Symbian được mô tả dưới đây [11]: Thiết lập một server socket Việc cài đặt sẽ tạo ra một kênh truyền thông. Lệnh được sử dụng là : Rsocketserv::Connect(). Tạo kết nối tới Socket Server Phần đính kèm sẽ bắt đầu một điểm truy cập Internet. Điểm truy cập Internet có thể là bất kỳ một loại nào, như: CPRS, EDGE, W-CDMA/UMTS, LAN không dây, Ethernet hoặc truyền dữ liệu IP. Bộ mô phỏng sử dụng điểm truy cập Ethernet Internet, trong khi truyền dữ liệu IP được sử dụng cho truyền đại chúng. Lệnh được sử dụng là: Rconnection::Open(RsocketSev, aSocketServer). Bắt đầu sự kết nối dựa trên những ưu tiên kết nối Những ưu tiên kết nối cho điểm truy cập Internet IDs được xác định trong tệp commsDB của ứng dụng. IDs của các điểm truy cập Internet là các số nguyên. Những sự ưu tiên này sẽ được sử dụng khi một sự kết nối bắt đầu. Lệnh được sử dụng là: Rconnection:: Start (TconnPref& aPref, Trequest Status & aStatus). Mở luồng socket và gắn nó tới 1 kết nối có sẵn Sau khi sự kết nối được bắt đầu, bước tiếp theo là tạo ra một ổ cắm và gắn nó với một kết nối đã được bắt đầu. Lệnh được sử dụng là RSocket::Open(RSocketServ& aServer, TUint addrFamily, TUint sockType, TUint protocol, RConnection anRConnection). Những thông số có sẵn xác định phiên socket máy chủ, mà không cần biết Ipv4 hoặc Ipv6 có được sử dụng cho địa chỉ, loại socket là TCP hay UDP, giao thức và sự kết nối tới socket hay không. Sử dụng cơ chế ổ cắm Sử dụng ổ cắm để gửi và nhận dữ liệu. Trong các ngôn ngữ của Symbian, “write” được sử dụng để gửi dữ liệu, và “read” để nhận dữ liệu. Để gửi dữ liệu, lệnh được sử dụng là: Rsocket::Write(TDesc8 &aDesc, TRequestStatus &aStatus). Bộ miêu tả được sử dụng như là thông số đầu tiên là dữ liệu mà sẽ được gửi nhờ kênh truyền thông. Thông số thứ hai đề cập đến trạng thái. Trạng thái sẽ được yêu cầu ngay khi dữ liệu bắt đầu được gửi và sẽ hoàn tất đến tận khi tất cả dữ liệu được gửi. Trong trường hợp nhận dữ liệu, cách tiếp cận không khác nhiều. Lệnh được sử dụng để nhận dữ liệu là: Rsocket::Read(TDesc8 &aDesc, TRequestStatus &aStatus). Trong trường hợp này, bộ phận miêu tả là dữ liệu mà sẽ được nhận, bất cứ khi nào dữ liệu được nhận thì trạng thái sẽ được khởi sự. Quá trình nhận dữ liệu không nhất thiết là một quá trình liên tục. Nghĩa là dữ liệu sẽ không được nhận liên tục. Quá trình này mất nhiều thời gian. Điều này được phát triển trong Symbian nhờ việc việc tạo ra một đối tượng kích hoạt mà sẽ điều khiển dữ liệu bất cứ khi nào được nhận. một cách để thực hiện các chức năng nhận với một đối tượng kích hoạt được cho sau: CActive{... StartReading(){... RSocket::Read(desc, iStatus) SetActive(); RunL(){... Process the descriptor RSocket::Read() SetActive(); DoCancel() Trong ví dụ này, một đối tượng kích hoạt được tạo. Đối tượng kích hoạt thực hiện chức năng StartReading ()- bắt đầu đọc, và trong chức năng này, nó đưa ra chức năng Rsocket::Read (), nó được sử dụng để nhận dữ liệu từ ổ cắm. Chức năng StartReading () kích hoạt đối tượng kích hoạt nhờ việc sử dụng hàm SetActive (). Khi dữ liệu được nhận, hàm RunL () được khởi hành.. Hàm RunL là một hàm đặc biệt mà phải được thực hiện trong đối tượng kích hoạt. RunL () được gọi bởi bộ lập thời biểu tích cực khi nó phát hiện ra rằng một yêu cầu của đối tượng kích hoạt được thực hiện. Hàm này sẽ xử lý dữ liệu được nhận và gọi Rsocket::Read () một cách lặp lại trong đối tượng kích hoạt để nhận dữ liệu. Sự lặp lại này sẽ tiếp tục đến khi đối tượng kích hoạt bị xoá bỏ nhờ hàm DoCancel (), hoặc một lỗi xuất hiện. Đóng kết nối Cuối cùng việc đóng kết nối được thực hiện nhờ việc đóng socket, các kết nối, và máy chủ socket. Lệnh được sử dụng là: RSocket::Close() RConnection: :Close () RSocketServ: :Close (). 3.5. Đánh giá chung về nền tảng phát triển dịch vụ gia tăng Từ việc đưa ra các yêu cầu chung nhất cho các dịch vụ gia tăng trên nền tảng truyền hình di động triển khai trên giải pháp truyền dữ liệu IP của công nghệ DVB-H. Sau đó khai quát thành các đặc tả yêu cầu bao gồm: mô hình hệ thống, các yêu cầu về thương mại, yêu cầu về thiết bị đầu cuối và các giao diện tương tác với hệ thống. Dựa trên các đặc tả về hệ thống và các mô tả về giải pháp truyền dữ liệu IP, luận văn đưa ra các thành phần chính để xây dựng hệ thống bao gồm mô hình ca sử dụng, các ca sử dụng chính trong hệ thống và biểu đồ tuần tự tương ứng bao gồm: ca sử dụng đặt hàng dịch vụ, ca sử dụng hiển thị và chọn các thanh biểu ngữ, biểu đồ lớp. Cuối cùng, việc cài đặt và triển khai hệ thống trên thiết bị đầu cuối. Luận văn tập trung vào các vấn đề cơ chế truyền socket phát triển trên nền hệ điều hành thông dụng nhất cho các thiết bị cầm tay là Symbian. CHƯƠNG 4. CÁC DỊCH VỤ CHO TRUYỀN HÌNH DI ĐỘNG 4.1. Phát triển dịch vụ gia tăng trên truyền hình di động 4.1.1. Phân tích các yêu cầu 4.1.1.1. Loại dịch vụ nào sẽ được đề xuất Chuyển dữ liệu IP là một công nghệ cung cấp khả năng truy cập tới nội dung đa phương tiện cho một số lượng lớn người sử dụng đồng thời. Vì thế rất nhiều dịch vụ có thể cung cấp qua IP theo một đường đơn hướng có thể cũng được truyền đại chúng. Tại thời điểm nghiên cứu có sự thiếu kinh nghiêm cần thiết cho các thử nghiệm bởi vì chúng là giai đoạn thử thách ban đầu. Vì lý do này, để nghiên cứu các dịch vụ phải dựa trên các ý kiến của chuyên gia, kết quả của luận văn cũng như nghiên cứu tài liệu có liên quan. Các chuyên gia từ các tổ chức khác nhau đồng tình với ý tưởng là các dịch vụ nên được truyền quảng bá tới mọi người. Nhưng có một sự bất đồng quan điểm về vấn đề cái gì là dữ liệu chính xác đưa tới mọi người. Một vài nghiên cứu sơ bộ được phát triển đã tuyên bố rằng bất kể cái gì mà có thể được sử dụng trong IP đều có thể được truyền quảng bá qua truyền dữ liệu IP. Tuy nhiên, điều này không đúng trong một vài trường hợp. Các dịch vụ cần kênh phản hồi thường xuyên cũng như nhận kết nối không phù hợp tốt cho truyền dữ liệu IP. Vì thế không phải tất cả các nội dung IP đều phù hợp truyền đại chúng, thí dụ như các dịch vụ TCP. Tuy nhiên, có rất nhiều dịch vụ khác dựa trên UDP có thể được sử dụng. Hơn nữa, truyền dữ liệu IP sẽ cung cấp tới 50 dịch vụ đồng thời. Điều này không phù hợp trong một vài hoàn cảnh. Nếu một mạng DVB-H không được triển khai, dòng truyền dữ liệu IP sẽ chia sẻ phổ được sử dụng bởi truyền hình số. Vì thế số lượng các dịch vụ được cung cấp bởi truyền dữ liệu IP có thể bị hạn chế do lượng phổ bị giới hạn. Theo hướng này, không quan tâm tới khả năng mà truyền dữ liệu IP cung cấp cho truyền quảng bá các dịch vụ khác nhau. Trong những thử nghiệm hiện nay, chỉ có các kênh truyền hình thời gian thực và chỉ dẫn dịch vụ điện tử được truyền đại chúng. Tuy nhiên chỉ dẫn dịch vụ điện tử chứa quá nhiều thông tin và nó mất thời gian quá lâu để cập nhật. Vấn đề này đã mở ra một vài ý tưởng mới như việc chia nội dung được truyền đại chúng. Ví dụ, để cập nhật chỉ dẫn dịch vụ điện tử, việc cập nhật của chỉ dẫn có thể cũng được truyền đại chúng. Nghĩa là, một tệp chỉ dẫn dịch vụ điện tử tách rời chỉ chứa thông tin về dữ liệu cần được cập nhật tới chỉ dẫn dịch vụ điện tử cũ. Vì thế, thiết bị đầu cuối chỉ phải đưa các cập nhật thay vì toàn bộ chỉ dẫn lại lần nữa. Thêm vào đó, các mục như các thanh biểu ngữ - chứa hình ảnh và có kích thước tệp đáng kể, sẽ không được truyền quảng bá một cách toàn bộ. Các thanh biểu ngữ có thể được chia ra thành các phần theo một cách mà chỉ bảng mô tả cơ sở của thanh biểu ngữ là được truyền đại chúng. Bảng mô tả có thể dựa trên XML và chỉ chứa thông tin chung của thanh biểu ngữ và các liên kết. Bảng mô tả này được chứa trong chỉ dẫn dịch vụ điện tử. Về sau, ứng dụng truyền hình di động sẽ xem xét bảng mô tả đó để đòi hỏi phần còn lại của thanh biểu ngữ, ví dụ một logo hoặc bức ảnh qua một kênh truyền thông. Bằng cách làm như vậy, nhiều phổ hơn có thể được dành cho các dịch vụ mà được yêu cầu nhiều hơn. Một khả năng bổ sung là để gửi tập các trang web có thông tin liên quan. Ví dụ, một tập chứa thông tin về World Cup, hoặc các tắc nghẽn giao thông. Sau đó, tập này được cất bởi thiết bị đầu cuối, và thiết bị đầu cuối sẽ truy cập nhanh tới chúng. Thiết bị đầu cuối lưu trữ những gì liên quan tới người sử dụng. Ví dụ, nếu người sử dụng đặt mua một nhóm các dịch vụ thể thao, các tập có liên quan tới thể thao sẽ được cất giữ. Không rõ việc quản lý các tập này khó đến mức nào. Tuy nhiên, chắc rằng ít nhất có một vài tập sẽ được truyền quảng bá như trong trường hợp các sự kiện thể thao phổ biến như World Cup hoặc Olympics. Các dịch vụ chính được truyền đại chúng thích hợp là các dòng hình ảnh, chỉ dẫn dịch vụ điện tử, những cập nhật của chỉ dẫn dịch vụ điện tử và các tập các trang web có liên quan tới các dịch vụ đó. 4.1.1.2. Các kênh truyền thông cho dịch vụ Nhiều dịch vụ mà các nhà nghiên cứu nghĩ rằng có thể truyền quảng bá thì chỉ được xem xét qua các kênh truyền thông khác. Đây không phải là một điểm xấu tất yếu vì các mạng 3G có thể được sử dụng rộng rãi nhờ thời gian truyền dữ liệu IP có sẵn xét về mặt thương mại. Việc sử dụng các mạng 3G rất tốn kém, nên chúng không được sử dụng để tải các tệp quá lớn. Thay vì vậy chúng có thể được sử dụng để nhận nội dung hay các dịch vụ không phổ biến, không đi theo sau một bảng biểu, cần một kênh phản hồi. Các dịch vụ có có thể là tải nhạc chuông, ảnh nền, các trang web, trò chuyện, các dịch vụ cộng đồng, các đoạn hình ảnh và các tệp nhạc. Các dịch được cung cấp qua các kênh truyền thông khác có thể là các tín nhắn đa phương tiện, các dịch vụ Internet, và tải các tệp nhỏ hơn các tệp được truyền đại chúng. 4.1.1.3. Tính năng ưu việt của dịch vụ truyền hình di động Ứng dụng truyền hình di động không phải là đối thủ của nhóm truyền hình thông thường. Thay vì thế, nó sẽ cung cấp giá trị bổ sung cho người sử dụng. Đặc biệt, truyền hình di động sẽ cung cấp cho việc trải nghiệm tùy biến người dùng. Vì thế, truyền hình di động sẽ được xem xét như một ứng dụng mang tính cá nhân và phải thích nghi với nhu cầu và cách cư xử của người dùng. Hơn nữa, nó sẽ cho người dùng cơ hội tương tác với người dùng khác để chia sẻ cùng sở thích. Ý tưởng về cách thức người dùng tương tác với người khác rất phức tạp và trong nhiều trường hợp nó phụ thuộc vào các quy định của luật pháp và các hãng sản xuất phần cứng. Ví dụ, có thể ghi một đoạn hình ảnh từ truyền hình và gửi tới bạn bè có thể sẽ gặp các vấn đề về bản quyền. Các hệ thống trò chuyện tích hợp các nhóm người sử dụng cùng chia sẽ các sở thích chung không dễ để phát triển và yêu cầu lập kế hoạch tốt. Các khả năng tương tự cũng mở rộng nhóm truyền hình, ví dụ thêm vào các chức năng điều khiển tự động tới các thiết bị đầu cuối phụ thuộc vào các nhà sản xuất. Tuy nhiên, các dịch vụ tương tác đơn giản có thể được phát triển dựa trên nhiều thành tựu bậc cao mà không quá phức tạp. Ví dụ việc trò chuyện có thể được cung cấp theo một dạng đơn giản mà không cần cấu trúc phức tạp để quản lý nhóm người dùng. Các tính năng nổi trội của một ứng dụng truyền hình di động cung cấp các dịch vụ tương tác là: Các khả năng tải tệp. Các quảng cáo có ảnh hưởng mạnh tới người dùng. Chức năng đặt hàng qua một lần nhấn. Các từ mã đề nghị và việc tìm kiếm có liên quan đến nội dung. Trò truyện trực tiếp. Việc lọc chỉ dẫn dịch vụ điện tử. 4.1.2. Đặc tả yêu cầu dịch vụ Sự tương tác trong các ứng dụng truyền hình di động nên đơn giản. Các thiết bị đầu cuối di động và các thiết bị cầm tay đáng kể có màn hình khá nhỏ. Vì lý do đó, sự tương tác nên yêu cầu càng ít thông tin đầu vào của người sử dụng càng tốt. Các thanh biểu ngữ là một cách dễ dàng để liên lạc với người sử dụng nhờ việc hiển thị thông tin hoặc các quảng cáo mà không yêu cầu bất cứ thông tin đầu vào của người sử dụng nào. Tuy nhiên, các thanh biểu ngữ có thể được phát triển theo cách cung cấp một vài tầng tương tác khi được nhấn. Nếu một khung thông thường cho các thanh biểu ngữ được thiết kế, các chức năng khác của thanh biểu ngữ có thể được thực hiện. Các thanh biểu ngữ có thể cấp một vài mục đích như hiển thị tin tức, thông tin bổ sung về chương trình truyền hình, các quảng cáo, các bầu chọn thực tế, và các trò đố. Vùng được hiển thị trong các thanh biểu ngữ là một trình duyệt web tích hợp. Vì thế, trong miền này các thông tin khác có thể được hiển thị, ví dụ một giao diện trò chuyện trực tuyến. Sự tương tác được cung cấp hầu như qua việc sử dụng các thanh biểu ngữ. Phụ thuộc vào cách thức chúng được thực hiện, chúng có thể cung cấp chức năng khác nhau. Các thiết bị đầu cuối di động được xem xét như các mục mang tính cá nhân. Vì lý do đó, ứng dụng truyền hình di động sẽ cung cấp một trải nghiệm cá nhân hoá cho người sử dụng. Sự cá nhân hoá có thể đạt được nhờ việc sử dụng một hiện trạng người sử dụng và một dụng cụ tìm kiếm. Hiện trạng người sử dụng là một bản ghi chứa các thông tin về người sử dụng, thông tin về việc lập hoá đơn thanh toán, các sở thích của người dùng và cách cư xử của người sử dụng. Cách cư xử của người dùng nói đến các dịch vụ mà người dùng tiêu thu, các phiếu trước, etc…Thông tin này được sử dụng để lọc danh sách các dịch vụ. Việc lọc có thể được sử dụng cho một vài mục đích. Ví dụ, khi chỉ dẫn dịch vụ điện tử được hiển thị, nó có thể được cấu trúc hoá theo những ưu tiên này. Vì vậy, những dịch vụ mà phù hợp với sở thích của người dùng sẽ được hiển thị đầu tiên. Nếu một người dùng thích thể thao, các dịch vụ thể thao sẽ được hiển thị trước. Tuy nhiên, nếu người dùng thích một đội riêng hoặc một môn thể thao riêng, việc tìm kiếm có thể được lọc sâu hơn. Tương tự như vậy, các thanh biểu ngữ phù hợp để đi tới một khách hàng tiềm năng và cung cấp một dịch vụ giá trị bổ sung. Thêm vào đó, thông tin này có thể được dùng để yêu cầu dịch vụ cho người dùng, và cung cấp những tìm kiếm về các dịch vụ dựa trên từ khoá hoặc theo loại. Để cung cấp khả năng tương tác, ứng dụng di động sẽ truy cập tới các giao diện truyền thông khác nhau. Kênh truyền thông cũng như các lựa chọn phương pháp trả tiền có thể được xác định trước trong hiện trạng người dùng “user Profile”. Vì thế, khi người dùng nhấn vào một thanh biểu ngữ, kênh truyền thông và phương pháp trả tiền sẽ được chọn mà không cần đòi hỏi thông tin đầu vào của người dùng. Một hiện trạng người dùng, một bản ghi các hoạt động và cách cư xử của người dùng, cũng như dụng cụ tìm kiếm và truy cập tới giao diện truyền thông được yêu cầu để cung cấp tương tác và tuỳ chỉnh người dùng. Ứng dụng truyền hình di động có thể đưa ra các thanh biểu ngữ ảnh hưởng tới người dùng, truy cập tới một kênh truyền thông, và các dịch vụ có liên quan tới sở thích và cách xử sự của người dùng. 4.1.3. Triển khai dịch vụ Các ứng dụng của truyền dữ liệu IP cung cấp tương tác trong các ứng dụng truyền hình di động yêu cầu giao diện tới các mạng khác nhau. Đầu tiên, thiết bị đầu cuối di động cần một giao diện không dây để nhận dòng truyền dữ liệu IP. Bên cạnh đó, một giao diện tới các mạng tế bào cũng phải được cung cấp. Nếu thiết bị đầu cuối có khả năng truy cập tới các mạng tế bào khác nhau, các lựa chọn cho người sử dụng tăng lên cũng như chất lượng của dịch vụ. Công nghệ được yêu cầu để phát triển một ứng dụng truyền dữ liệu IP là: Thiết bị đầu cuối hỗ trợ truyền dữ liệu IP (ví dụ như Nokia N92). Bộ nhận giao diện không dây truyền dữ liệu IP. Giao diện kênh tế bào Môi trường lập trình hệ điều hành thời gian thực trên đầu cuối Các thư viện lập trình truyền dữ liệu IP. Có thể phát triển các ứng dụng của truyền dữ liệu IP với công nghệ hiện tại. Tuy nhiên, sẽ gặp những khó khăn về việc truy cập tới phần cứng và phần mềm mà không có sẵn về mặt thương mại. Hơn nữa, với mục đích thử nghiệm, việc truy cập tới mạng truyền quảng bá được yêu cầu. Không quan tâm tới sự đóng của các công nghệ, một ứng dụng truyền dữ liệu IP có thể được phát triển với sự hỗ trợ đầy đủ từ các tổ chức có quyền truy cập tới các công nghệ này. Một ứng dụng có thể cung cấp quyền truy cập tới các kênh truyền thông khác nhau. Vật mẫu ban đầu đã chứng tỏ rằng các nguyên tắc về kết nối trong Symbian tạo ra khả năng phát triển một ứng dụng mà có thể thiếp lập các kết nối với các thông số khác nhau dựa vào dịch vụ nào được dùng. Hơn nữa, các kết nối có thể ghi nhớ các ưu tiên từ lược tả người dùng như đã được mô tả trong phần thiết kế phần mềm. Trong những ưu tiên này chứa các thông số như phương pháp thanh toán được ưu tiên và thông tin người dùng. Theo cách này các thông số bổ sung được xem xét cho mọi kết nối. Vì vậy, bằng việc thiết lập các kết nối một cách tự động, sự tương tác rõ ràng có thể đạt được. Người sử dụng sẽ không quan tâm tới công nghệ nào đang sử dụng và việc đặt hàng dịch vụ sẽ đơn giản. Thêm vào đó, hiện trạng người dùng cũng được dùng để lọc các dịch vụ và các thanh biểu ngữ. Cũng có thể dùng những thông số này để lọc chỉ dẫn dịch vụ điện tử theo cách mà nó hiển thị thông tin có liên quan tới người dùng. Ngoài ra, các thanh biểu ngữ được hển thị cũng liên quan tới người dùng và dịch vụ. Các đặc trưng được thu thập dựa vào kinh nghiệm của người sử dụng được cá nhân hoá. Tính khả thi của các ứng dụng truyền dữ liệu IP không được gắn với các ràng buộc về phần cứng và phần mềm. Một ứng dụng truyền dữ liệu IP như đã được mô tả trong dự án này sẽ cần một chỉ dẫn dịch vụ điện tử đủ mạnh. chỉ dẫn dịch vụ điện tử sẽ cung cấp các phương tiện để mô tả các dịch vụ nhiều chi tiết hơn. Mặt khác, việc lọc sẽ không đủ rõ ràng và người dùng sẽ không có khả năng tuỳ chỉnh các dịch vụ đã được mô tả. Những sự xung đột đó cũng xảy đến với các thanh biểu ngữ. Nếu thanh biểu ngữ không được mô tả chi tiết trong chỉ dẫn dịch vụ điện tử, chúng sẽ không được lọc đúng cách trong việc tìm kiếm.Vì thế, các thanh biểu ngữ sẽ không tới được những người dùng tiềm năng. Hơn nữa, như đã được mô tả trong phần trước, DVB-H khó để phân chia phổ giữa các nước và các tổ chức. Việc phân chia phổ là một nhân tố quyết định bởi vì quyết định được tạo ra sẽ xác định dải tần được phân chia cho các dịch vụ DVB-H. Cuối cùng, các dịch vụ truyền dữ liệu IP có thể yêu cầu nội dung di động bổ sung. Những điều kiện mà người dùng thêu dịch vụ có thể khác nhau từ những kênh truyền hình thông thường. Ví dụ, các chu kỳ ngắn của thời gian khi đổi hoặc đợi một thiết bị. Vì thế, người dùng sẽ có khả năng lựa chọn các dịch vụ theo yêu cầu của họ. Các cập nhật ngắn về thể thao, tin tức,...là ví dụ. Tuy nhiên, đến tận khi các kết quả từ các thử nghiệm được công bố, nó sẽ không rõ ràng về tầm quan trọng như thể nào về vai trò với nội dung chỉ di động. Tính khả thi phụ thuộc rất nhiều vào các quyết định về việc chuẩn hóa, ví dụ như một chỉ dẫn dịch vụ điện tử tinh vi hơn và việc định phần phổ. Thêm vào đó, nội dung chỉ dành cho di động được yêu cầu. 4.1.4. Đánh giá và vấn đề phát sinh 4.1.4.1. Các vấn đề phát sinh Trong quá trình phát triển, một vài vấn đề đã nẩy sinh. Đặc biệt, các vấn đề có liên quan tới bộ mô phỏng của N92 chứa trong phiên bản N92 SDK có sẵn tại thời điểm nghiên cứu. Đầu tiên, Bộ mô phỏng N92 gặp một vài vấn đề phổ biến. Vấn đề cốt yếu nhất cho phát triển của ứng dụng này là thực tế rằng bộ mô phỏng N92 đã gặp các vấn đề nghiêm trọng khi kết nối tới mạng Ethernet. Việc kết nối tới mạng nội bộ được yêu cầu để thử nghiệm những ứng dụng trong bộ mô phỏng. Vấn đề này là vấn đề chung với một lượng khan hiếm các nhà phát triển N92 và không có một giải pháp rõ ràng để giải quyết nó. Tuy nhiên, vấn đề này có thể được giải quyết trong các phiên bản mô phỏng trong tương lai. Thứ hai, dẫn chứng bằng tư liệu không đủ lớn. N92 SDK có nhiều điểm khác với dòng 60 SDK. Dòng 60 là nền được sử dụng phổ biến nhất hướng vào các thiết bị đầu cuối với kích thước màn hình nhỏ hơn và không chạm vào màn hình. Điều này có nghĩa là sự tương tác trong dòng S60 được thực hiện với việc sử dụng các khoá. Tương tự như vậy, dòng S60 có nhiều dữ liệu khảo sát và nhiều ví dụ có sẵn, điều này vô cùng quan trọng với sự phát triển của Symbian. Ngôn ngữ lập trình Symbian không dễ để hiểu thấu, có sự khác nhau về lập trình có thể xem xét với C++ chuẩn và không được dẫn chứng một cách rộng rãi. Vì thế, hầu hết các vấn đề nẩy sinh bởi người lập trình phải được giải quyết bằng việc thu thập các ví dụ về mã nguồn của phần mềm có chức năng tương tự. Với cách nhìn như vậy, một số thông tin của dòng 60 thỉnh thoảng có ích. Tuy nhiên, sự chuyển mã phần mềm từ dòng 60 sang N92 không được chuyển thẳng mà cần đến các kiến thức chuyên môn về lập trình Symbian C++. Sự thiếu tài liệu dẫn đến mất nhiều thời gian cho việc thử nghiệm và việc thử khám phá các giải pháp được dùng cho dòng 60 có thể dùng cho N92, cũng như thử tới gần các giải pháp hoàn toàn mới. Trong nhiều trường hợp, các vấn đề nẩy sinh không được gắn vào mã nguồn phần mềm nhưng nó có khi lắp đặt môi trường, do các tài liệu bị hỏng hay các lỗi giải thích trong N92 SDK. Mặc dù Symbian là một ngôn ngữ khó để lập trình, số lượng các nhà phát triển và các hỗ trợ tăng lên. Thêm vào đó, một vài trường đại học đã bắt đầu giảng dạy về ngôn ngữ Symbian. Vì thế, chắc hẳn sẽ có nhiều ví dụ liên quan tới nền N92 và các cuốn sách mới sẽ được xuất bản. Các vấn đề với N92 SDK và bộ mô phỏng có thể được cố định. N92 SDK được đưa ra vài tháng trước khi sự thực thi về phần mềm của đề án này được diễn ra. Hầu như chắc chắn là các vấn đề vá các lỗi của lần phát hành đầu tiên sẽ được cố định trong những phiên bản mới hơn của SDK. 4.1.4.2. Đánh giá chung về dịch vụ Màn hình nhỏ, có khả năng hiển thị hình ảnh trong cả màn hình và chỉ có một lượng đáng kể không gian để trình bày. Không gian không được sử dụng đủ lớn để có lượng đáng kể thông tin. Các dịch vụ có khả năng tương tác dựa trên các thanh biểu ngữ. Mặc dù việc thực hiện các thanh biểu ngữ tương tác không phải là một vấn đề lớn, các chương trình truyền hình và nội dung phổ biến rất tốn kém để sử dụng. Vì lý do đó, việc tạo ra các thanh biểu ngữ có liên quan với nội dung sẽ tốn kém cho các tổ chức khác với từ các nhà cung ứng nội dung của chương trình truyền hình.Ví dụ, việc trả tiền bản quyền cần thiết để sử dụng các logo, thông tin về chương trình truyền hình và các tên có thể quá tốn kém. Vấn đề này có thể được giải quyết một vài điểm nhờ các kênh mua sắm 3 nhóm Viễn cảnh thực tế nhất là sự tồn tại cùng điều hành giữa một vài tổ chức có vai trò trong vòng giá trị truyền dữ liệu IP. Sự cùng điều hành giữa các điều hành viên dịch vụ và các nhà cung ứng nội dung là vấn đề quan trọng. Các nhà cung ứng nội dung có toàn quyền với nội dung và có lẽ họ cũng có quyền với các dịch vụ phổ biến nhất. Tuy nhiên, các nhà cung ứng nội dung một cách trực tiếp cần điều hành viên dịch vụ để đưa tới người sử dụng. Mặt khác các điều hành viên dịch vụ sẽ có thu nhập hầu hết từ các mạng tế bào. Các điều hành viên dịch vụ đã có các thuê bao và kiến thức về chúng. Hiểu biết này rất quan trọng để tới được các khách hàng tiềm năng. Hơn nữa, họ sẽ điều khiển ứng dụng phần mềm mà các thiết bị đầu cuối truyền hình di động sẽ sử dụng. Tuy nhiên để có được sự thuận tiện của các mạng này, cần phải cung cấp các dịch vụ lôi cuốn hơn.Vì những lý do này, cả nhà cung cấp nội dung và nhà cung cấp dịch vụ phải đạt được một sự thoả thuận. Nhà cung ứng dịch vụ sẽ có khả năng thanh toán các quyền tác giả của các chương trình truyền hình để cung cấp các dịch có liên quan tới nội dung và có khả năng tương tác. Ngược lại người điều hành dịch vụ sẽ cung cấp cho nhà cung ứng nội dung các phương tiện để có thể đến được với các khách hàng tiềm năng. 4.1.4.3. Những hạn chế Việc sử dụng các dịch vụ có khả năng tương tác trong các ứng dụng truyền dữ liệu IP chưa được thử nghiệm. Các cơ hội về thương mại nhờ truyền dữ liệu IP của vòng giá trị vẫn đang được nghiên cứu. Đề án này giúp hiểu được cách các mô hình thương mại mới có thể được áp dụng trong truyền dữ liệu IP. Các ứng dụng tạo ra nội dung chỉ dành cho di động do các mẫu khan hiếm. Việc tạo ra nội dung chỉ dành cho di động rất tốn kém và có thể không mang lại đủ lợi nhuận. Ví thế, số lượng của nội dung chỉ dành cho di động sẽ khác nhau từ nước này sang nước kia. Thêm nữa, nếu các chương trình nước ngoài được sử dụng, chúng phải được dịch và được đặt phụ đề. Ở Phần Lan, các phụ đề thông thường được sử dụng với các chương trình nước ngoài. Tuy nhiên, việc đọc các phụ đề trong một màn hình nhỏ hơn đáng kể có thể khó hoặc gây khó chịu cho người dùng. Việc tạo ra các dịch vụ mới là một thách thức và để làm cho chúng lôi cuốn khách hàng là rất khó. Vì vậy phải cẩn thận trong việc quyết định loại nội dung chỉ dành cho di động nào sẽ được tạo ra. Tuy nhiên, các ràng buộc về phổ vẫn chưa được giải quyết và những thử nghiệm được phát triển vẫn chưa thử nghiệm tất cả các chức năng của truyền dữ liệu IP và DVB-H. Ví dụ, những thử nghiệm vẫn chỉ sử dụng các phương pháp nén được thừa hưởng từ DVB-T. Để rõ ràng, H263 được sử dụng thay vì H264. Hơn nữa, MPE-FEC vẫn chưa được kiểm tra trong các thử nghiệm trong thời gian nghiêm cứu. Hơn nữa, một vài kết quả sơ bộ đã chỉ ra rằng cần thiết sử dụng nhiều bộ lọc kẽ hở. Cuối cùng, nó không rõ ràng là người dùng có thích công nghệ hay không nếu các tương tác rõ ràng đủ hấp dẫn. 4.2. Một số dịch vụ trên truyền hình di động Có nhiều quan điểm về cách triển khai dịch vụ gia tăng trên truyền hình di động. Các dịch vụ này sẽ được gắn liền với dịch vụ đang sử dụng, hoặc gắn liền với ưu tiên của người sử dụng, hoặc là cả hai. Bằng cách làm như vậy, người sử dụng sẽ được cung cấp nhiều dịch vụ một cách tập trung để tận hưởng những điều thú vị của nó. Những dịch vụ này có thể được đề nghị qua các thanh biểu ngữ cung cấp khả năng tương tác. Các khái niệm dịch vụ có khả năng tương tác được thực hiện giống như một hoạt cảnh để cung cấp cho việc nhìn và cảm giác là các dịch vụ có thật. Hoạt cảnh này được chứa trong phần mềm bổ sung có trong luận văn này. 4.2.1. Các thanh biểu ngữ có liên quan tới dịch vụ ít gắn với nội dung 4.2.1.1. Dịch vụ “trò chuyện” Người sử dụng có thể tương tác với những người khác xem cùng chương trình nhờ việc gửi các thông điệp trong một phòng “trò chuyện” được thiết kế cho riêng mục đích này. Phụ thuộc vào hệ thống “trò chuyện”, một cuộc trò chuyện có thể được điều khiển bởi cả điều hành viên và kênh truyền hình đang truyền quảng bá chương trình truyền hình. Nếu cuộc trò chuyện được điều khiển bởi kênh truyền hình, các thông điệp sẽ được gửi trực tiếp tới các đài truyền hình giống như ngày nay nó xuất hiện trên cuộc trò chuyện truyền hình thông thường. Nếu dịch vụ được cung cấp bởi điều hành viên dịch vụ, các thông điệp trò chuyện có thể được gửi theo cùng cách như trên hoặc nhờ các kết nối dữ liệu GPRS hoặc W-CDMA hoặc qua dịch vụ tin nhắn ngắn, ví dụ như chương trình iChat trên kênh iTV. Hình 4.1: Dịch vụ trò chuyện 4.2.1.2. Dịch vụ tương tác qua web Thanh biểu ngữ này được liên kết tới website của chương trình truyền hình. Bằng việc nhấn vào một thanh biểu ngữ, người sử dụng sẽ được đưa tới website của chương trình truyền hình. Trong ví dụ này, thanh biểu ngữ được liên kết tới website để đi tới phần tiếp của chương trình truyền hình. Hình 4.2: Dịch vụ tương tác qua web 4.2.1.3. Dịch vụ bầu chọn Các thanh biểu ngữ có thể được sử dụng đề khuyến khích người sử dụng tham gia vào các cuộc bầu chọn qua hình thức dịch vụ tin nhắn ngắn hoặc nhấn trực tiếp vào biểu tượng overlay trên màn hình. Khách hàng sẽ bị thu tiền hoặc miễn phí cho mỗi lần bầu chọn tùy theo dịch vụ. Máy chủ sẽ nhận các bầu chọn của khán giả và hiển thị ngay lập tức trên màn hình tivi. Ví dụ: iMusic là chương trình bầu chọn. Khán giả bầu chọn để được xem bài hát tiếp theo mà mình yêu thích. 4.2.1.4. Dịch vụ cung cấp nhạc chuông Nhạc chuông và ảnh nền là các mục được đặt hàng thông thường từ những người sử dụng di động. Bình thường, các nhạc chuông được đặt hàng bằng việc sử dụng dịch vụ tin nhắn ngắn. Tuy nhiên các mục này cũng có thể được cung cấp qua việc tải tệp sử dụng kết nối dữ liệu GPRS hoặc W-CDMA. 4.2.2. Các dịch vụ có liên quan tới nội dung chương trình Ví dụ sau mô tả một viễn cảnh mà các thanh biểu ngữ được hiển thị không chỉ theo các chương trình truyền hình mà còn theo sở thích của người sử dụng. Chương trình truyền hình là một chương trình thể thao được gọi là “NBA Action”. Trong trường hợp này, người sử dụng xác định sở thích về đội bóng rổ yêu thích là Houston Rockets. Vì thế, Các bộ lọc ứng dụng và các thanh biểu ngữ sử dụng đội bóng yêu thích của người sử dụng như là một thông số. Các thanh biểu ngữ dưới đây gần như liên quan tới đội Houston Rockets và các cầu thủ của đội này. Bằng cách làm như vậy, các thanh biểu ngữ được hiển thị tới các khách hàng tiềm năng vì chúng phù hợp hơn để thu hút người sử dụng. 4.2.2.1. Dịch vụ xem theo yêu cầu Hình 4.4: Dịch vụ truyền hình tương tác iTV Hình minh họa trên mô tả về dịch vụ có liên quan với chương trình truyền hình thực tế. Các thanh biểu ngữ được hiển thị và thay đổi trong suốt chương trình phù hợp với nội dung hiển thị. Ví dụ như dịch bụ iMusic trên kênh iTV của VTC. Khán giả có thể quyết định nội dung bài hát tiếp theo của chương trình bằng cách tương tác với chương trình thông qua dịch vụ tin nhắn ngắn, nội dung hiển thị overlay phía dưới sẽ phụ thuộc vào việc khán giả tương tác với hệ thống. 4.2.2.2. Dịch vụ cung cấp ảnh nền Hình 4.5: Dịch vụ cung cấp ảnh nền Thanh biểu ngữ này cho một ảnh nền mà điểm đặc trưng chính là cầu thủ nổi tiếng nhất đội Houston Rockets, Yao Ming. Các ảnh nền thường được đặt hàng theo cùng cách như nhạc chuông 4.2.2.3. Dịch vụ thăm dò trực tuyến Những thanh biểu ngữ web cũng có thể được sử dụng để cung cấp các dịch vụ thăm dò. Việc sử dụng các cuộc thăm dò dựa trên web cung cấp nhiều tính năng hơn các cuộc thăm dò thực tế. Ví dụ, một cuộc thăm dò web không phụ thuộc vào thời biểu của chương trình truyền hình và có thể được thực hiện bất cứ khi nào. Hơn nữa, nó dựa trên liên kết web, vì lý do đó, các kết quả thăm dò có thể được hiển thị tới người sử dụng ngay lập tức sau khi thanh biểu ngữ được nhấn. Các cuộc thăm dò web rất dễ thực hiện và dễ quản lý. Hình 4.6: Dịch vụ thăm dò trực tuyến 4.2.2.4. Dịch vụ mua sắm Hình 4.7: Dịch vụ mua sắm Các thanh biểu ngữ có thể được sử dụng để đưa ra các mục từ các kênh mua sắm phù hợp với hình ảnh của nội dung. Trong ví dụ này, là một tổ chức bán đấu giá bán các vật đáng ghi nhớ về thể thao. 4.2.2.5. Dịch vụ cá cược Đánh bạc và cá độ trong thể thao thường xẩy ra giữa những người hâm mộ thể thao.Vì thế, các thanh biểu ngữ có thể được sử dụng để quảng cáo việc cá độ thể thao. Phụ thuộc vào tổ chức đang chạy dịch vụ đánh bạc, việc nhấn vào thanh biểu ngữ có thể tạo ra một cá độ ngay lập tức, mở một website, hoặc liên hệ tới một kênh mua bán. Hình 4.8: Dịch vụ cá cược 4.2.2.6. Dịch vụ cung cấp thông tin Các thanh biểu ngữ cung cấp thông tin là các thanh biểu ngữ tĩnh và không cung cấp sự tương tác. Tuy nhiên, chúng đưa ra một cách thú vị của việc cung cấp và thêm vào các dịch vụ tới người sử dụng nhờ việc hiển thị thông tin có ích. Trong ví dụ này, thanh biểu ngữ hiển thị thống kê của cầu thủ từ bảng kê tên của Houston Rockets. Hình 4.9: Dịch vụ cung cấp thông tin 4.2.2.7. Dịch vụ quảng cáo Hình 4.10: Dịch vụ quảng cáo Các thanh biểu ngữ có thể được sử dụng để hiển thị các quảng cáo tới người sử dụng. Ví dụ này mô tả một thanh biểu ngữ quảng cáo giầy tennis của Vince Carter, chỉ có 500 đôi được làm. Khi người sử dụng nhấn vào thanh biểu ngữ, nó đưa người sử dụng tới trang web của cửa hàng đặt trong khu vực của người sử dụng. Từ trang web, người sử dụng có thể đặt trước và mua giầy tennis ngay lập tức. 4.2.2.8. Trò chơi hỏi đáp Hình 4.11: Dịch vụ hỏi đáp Các thanh biểu ngữ có thể được sử dụng để cung cấp khả năng tương tác được giới hạn. Một ví dụ là một hỏi đáp đơn giản. Nó phù hợp với các thanh biểu ngữ có một giới hạn lớn nhất trên kích thước tệp của chúng. Tuy nhiên nếu các thanh biểu ngữ không sử dụng các hình ảnh nó có thể chứa một lượng đáng kể ký tự. Vì thế, ký tự có thể được cấu trúc theo cách mà toàn bộ một trò hỏi đáp được chứa trong cùng một thanh biểu ngữ. Thanh biểu ngữ bắt đầu bằng việc hiển thị một câu hỏi…Trò hỏi đáp dừng khi tất cả các câu hỏi được trả lời. Thanh biểu ngữ có thể cho người sử dụng biết đáp án và số các câu trả lời đúng. Loại thanh biểu ngữ này có thể cung cấp tương tác miễn phí và không phải sử dụng bất cứ kênh truyền thông nào. 4.3. Đánh giá việc phát triển dịch vụ gia tăng Trong chương này, luận văn tập trung vào việc phát triển các dịch vụ gia tăng trên nền tảng truyền hình di động và đưa ra một số loại hình dịch vụ đã và có thể triển khai được. Quá trình phát triển dịch vụ gia tăng cho truyền hình di động từ bước phân tích yêu cầu, đặc tả yêu cầu dịch vụ, triển khai dịch vụ và các đánh giá tổng kết được mô tả một cách tổng quan nhất. Ở phần cuối, luận văn đưa ra một số loại hình dịch vụ tương tác được chia thành hai nhóm dịch vụ chính là nhóm dịch vụ tương tác ít hoặc không liên quan đến nội dung của chương trình truyền hình đang phát và nhóm dịch vụ liên quan trực tiếp đến nội dung của chương trình truyền hình. Trong số các dịch vụ trên thì có hai dịch vụ là dịch vụ trò truyện iChat và dịch vụ xem theo yêu cầu iMusic đang được triển khai thật trên hệ thống truyền hình di động của VTC. KẾT LUẬN Hiện tại ở Việt Nam đã triển khai 3 công nghệ cho truyền hình di động: truyền hình di động trên mạng 3G do Vinafone, Mobifone triển khai, công nghệ truyền hình số cho thiết bị cầm tay DVB-H do VTC triển khai và công nghệ truyền quảng bá đa phương tiện số DMB do VTV đang triển khai. Tuy nhiên hiệu quả thực sự chưa cao, đối với Vinafone, Mobifone thì giá thành dịch vụ cao cộng với khả năng cung cấp hạn chế số lượng người dùng dịch vụ này trên nền tảng 3G. Đối với VTC thì bị hạn chế bởi các thiết bị đầu cuối do các thiết bị hỗ trợ cho DVB-H còn ít. Với giải pháp truyền hình quảng bá đa phương tiện số của VTV tuy chưa triển khai nhưng cũng sẽ gặp phải vấn đề về thiết bị đầu cuối do công nghệ T-DMB ít được phổ biến, chủ yếu phát triển mạnh ở Hàn Quốc. Giải pháp truyền dữ liệu IP được Nokia triển khai thành sản phẩm giải pháp truyền hình của Nokia. Ở Việt Nam, VTC là đơn vị đầu tiên triển khai giải pháp này. Mặc dù các giải pháp truyền dữ liệu IP cho truyền hình di động đã triển khai trong thực tế và có được một số thành công nhất định như chất lượng hình ảnh tốt, cung cấp được nhiều kênh trên cùng một băng thông, hạn chế việc tiêu thụ pin, nền tảng mở để phát triển thêm các dịch vụ gia tăng... Tuy nhiên còn rất nhiều vấn đề được đặt ra đặc biệt là các vấn đề về thiết bị đầu cuối, khóa mã dịch vụ, các giao tiếp với các hệ thống khác còn hạn chế dẫn đến các dịch vụ gia tăng chưa thực sự hấp dẫn. Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn mới chỉ tập trung vào giải pháp truyền dữ liệu IP với công nghệ truyền hình số cho thiết bị cầm tay DVB-H để đưa ra phương thức cho việc triển khai các dịch vụ gia tăng trên nền tảng truyền hình di động. Hướng nghiên cứu tiếp của luận văn là nghiên cứu tiếp các công nghệ truyền hình di động khác như truyền hình di động trên 3G, truyền quảng bá đa phương tiện để đưa ra một phương thức chung cho việc phát triển các dịch vụ gia tăng mà ít bị phụ thuộc nhất vào sự khác nhau của nền tảng công nghệ truyền hình di động. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt Ngô Thái Trị (2004), Truyền hình số, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội. Đỗ Trung Tuấn (2007), Giáo trình Multimedia, Internet Tiếng Anh Amitabh Kumar (2007), Mobile TV:DVB-H, DMB, 3G Systems and Rich Media Applications, Focal Press Borko Furht, Syed Ahson (2008), Handbook of Mobile Broadcasting, CRC Press. Digital Video Broadcasting Organization (2004), Commercial requirements: IP Datacast in DVB-H. Digital Video Broadcasting Organization (2004), DVB-H: IP broadcasting to handheld devices using DVB and mobile telecoms networks. Digital Video Broadcasting Organization (2004), IPDC in DVB-H: Technical requirements. Digital Video Broadcasting Organization, Electronic Service Guide Implementation Guidelines. Digital Video Broadcasting Organization, IP Datacast over DVB-H: PSI/SI. DVB BlueBook (2005), IP Datacast over DVB-H: Architecture. Edwards, L., & Barker, R. (2004), Developing Series 60 applications: A guide for Symbian OS C++ developers, Massachusetts: Nokia & EMCC Software Ltd. European Telecommunications Standards Institute (2004), Digital Video Broadcasting (DVB): DVB specification for data broadcasting, ETSI EN 301 192 v1.4.1. European Telecommunications Standards Institute, Digital Video Broadcasting (DVB); DVB-H Implementation Guidelines, ETSI TR 102 377. European Telecommunications Standards Institute, Transmission System for Handheld Terminals, ETSI EN 302 304. Henriksson, J. (2005), DVB-H: Standards, principles and services, HUT Nokia Research Center. IETF, RTP: A Transport Protocol for Real-Time Applications. IPDC Forum (2003), IP Datacast Forum FAQ, www.ipdc-forum.org/about/faq.html. Nokia (2002), Professional Mobile Internet Technical Architecture: Technologies and standardization, IT Press. Open Mobile Alliance (2005), Service guide for mobile broadcast services, Draft Version 1.0.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31691.doc