Lời nói đầu
Nếu như trước đây thu nhập chủ yếu của các ngân hàng thương mại là từ hoạt động tín dụng thì ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế, thu nhập từ những hoạt động dịch vụ hiện đại đã trở thành những nguồn thu nhập quan trọng đối với mỗi ngân hàng. Tuy rằng thu nhập chính của các ngân hàng thương mại vẫn từ hoạt động tín dụng nhưng cơ cấu thu nhập này có xu hướng thay đổi dần theo hướng giảm tỉ trọng thu nhập từ hoạt động tín dụng và tăng tỉ trọng nguồn thu nhập từ các hoạt động dịch vụ khác. Trong số đó có hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
Trong những năm qua ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đã rất quan tâm đến hoạt động KDNT. Có thể nói rằng hoạt động KDNT tại BIDV đã đạt được những kết quả hết sức thuyết phục. Tuy nhiên hoạt động KDNT tạiBIDV vẫn còn nhiều hạn chế, như về mặt con người hay nguồn nhân lực . Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập thì BIDV khó có thể giữ vững vị thế và phát triển hoạt động KDNT với những hạn chế đó. Xuất phát từ thực tế đó đế tài: "Phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam” đã được mở rộng nghiên cứu trong luận văn tốt nghiệp.
Nội dung chính sẽ được đề cập trong luận văn bao gồm:
Chương 1: Các vấn đề cơ bản về hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh ngọai tệ tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
Chương 3: Một số giải phát và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng đầu tư và phát triểnViệt Nam
Mục lục
Trang
Danh mục chữ viết tắt . 4
Danh mục bảng biểu . 4
Lời nói đầu 5
Chương 1: Các vấn đề cơ bản về hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng thương mại 6
1.1 Tổng quan về ngân hàng thương mại . 6
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của ngân hàng thương mại 6
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại 8
1.2 Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng thương mại . 10
1.2.1 Khái niệm 10
1.2.2 Vai trò của hoạt động kinh doanh ngoại tệ với NHTM 11
1.2.3 Các hình thức kinh doanh ngoại tệ cơ bản của NHTM 12
1.2.4 Phát triển hoạt động kinh doanh ngoai tệ của NHTM 21
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM 23
1.3.1 Các nhân tố chủ quan . 23
1.3.2 Các nhân tố khách quan 27
Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh ngọai tệ tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
31
2.1 Khái quát về ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam . 31
2.1.1 Sơ lược quá trình phát triển ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
31
2.1.2 Cơ cấu tổ chức 32
2.1.3 Kết quả kinh doanh chủ yếu 36
2.2 Thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – BIDV.
37
2.2.1 Các hoạt động chính phát triển Việt Nam 39
2.2.2 Các giao loại dịch ngoại tệ 42
2.3 Đánh giá thực trạng phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại hội sở chính ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
47
2.3.1 Hoạt động KDNT của BIDV 47
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân . 48
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại hội sở chính ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
53
3.1 Định hướng chung cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ của BIDV trong thời gian tới .
53
3.2 Giải pháp phát triển hoạt động KDNT tại BIDV 54
3.2.1 Phát huy mạnh mẽ nhân tố con người 54
3.2.2 Hoàn thiện yếu tố công nghệ 56
3.2.3 Hoàn thiện qui trình thủ tục 57
3.2.4 Phối hợp các họat động liên quan trực tiếp tới kinh doanh ngoại tệ 58
3.2.5 Đa dạng hóa các loại ngoại tệ trong kinh doanh 59
3.2.6 Đa dạng hóa các loại giao dịch ngoại tệ 60
3.2.7 Xây dựng một chính sách khách hàng đúng đắn và hiệu quả . 61
3.2.8 Mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ trên thị trường quốc tế . 64
3.3 Kiến nghị . 65
3.3.1 Kiến nghị với Chính Phủ . 65
3.3.2 Kiến nghị với ngân hàng nhà nước 66
Kết luận . 74
Danh mục tài liệu tham khảo 76
77 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1820 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i cho hoạt động chung. Kiểu Swap của BIDV là kết hợp một giao dịch giao ngay và một giao dịch kỳ hạn.
Giao dịch theo hợp đồng quyền chọn ngoại tệ (option)
BIDV là ngân hàng thương mại quốc doanh đầu tiên triển khai hoạt động kinh doanh quyền chọn ngoại tệ từ năm 2004 và chủ yếu là ở HSC thực hiện và nếu có ở các chi nhánh thì phải là các sở giao dịch của BIDV đã nắm vững về nghiệp vụ này. Tuy nhiện cho đến thời gian này thì các giao dịch quyền chọn tiền tệ còn rất ít trên toàn thị trường ngoại hối dù rằng BIDV đã thực hiện các giao dịch nay từ năm 2004 và đương nhiên giao dịch quyền chọn tiền tệ tất cả hầu như là USD với doanh số chỉ chiếm khoảng gần 1% và thu nhập chính từ nghiệp vụ này là thu từ phí quyền chọn.
Tuy nhiên do là ngân hàng đầu tiên trên thị trường thực hiện nghiệp vụ option ngoại tệ nên BIDV có những thuận lợi đó là BIDV được NHNN hướng dẫn chỉ đạo sát sao và tạo điều kiện để có thể tiến hành thử nghiệm các phương thức kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất. Hơn nữa là đội ngũ cán bộ tại BIDV có thời gian để tiếp xúc với nghiệp vụ đã khá lâu nên nắm vững nghiệp vụ của hoạt động này.
Nhưng doanh số của các giao dịch quyền chọn tiền tệ còn chưa cao là do kiến thức của khách hàng về các sản phẩm phái sinh phòng chống rủi ro còn qua mới ở Việt Nam nên các doanh nghiệp chưa quen với việc áp dụng các giao dịch này. Nhưng trong điều kiện tỷ giá có nhiều biến động như khoảng thời gian đầu năm 2008 và cộng với việc NHNN mở rộng biện độ của tỷ giá từ 0.25% lên 1% sẽ là những điều kiện thuận lợi cho hoạt động giao dịch quyền chọn tiền tệ tại BIDV nói riêng và các NH Việt Nam phát triển.
Đánh giá thực trạng phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại hội sở chính ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
Hoạt động KDNT của BIDV
Qua quá trình tìm hiểu về thực trạng hoạt động KDNT tại HSC ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam có thể thấy đây là một hoạt động hết sức quan trọng đối với ngân hàng. Tỷ trọng lợi nhuận của hoạt động này chiếm tới gần 10% trên tổng lợi nhuận của ngân hàng (theo số liệu năm 2007) và doanh thu của hoạt động KDNT của BIDV đứng hàng thứ 2 trên thị trường Việt Nam sau ngân hàng ngoại thương Việt Nam (theo báo cáo kết quả kinh doanh 2006 của BIDV). Tuy nhiên vị thế đó của BIDV chưa tương xứng với ngân hàng. BIDV hoàn toàn có thể cạnh tranh với ngân hàng ngoại thương Việt Nam trong lĩnh vực KDNT để trở thành ngân hàng dẫn đầu thị trường ngoại hối Việt Nam.
Trong số các loại ngoại tệ mà BIDV thực hiện giao dịch thì chủ yếu mới là các giao dịch với USD và một phần nhỏ là các giao dịch với EUR, JPY. Còn lại với các loại ngoai tệ khác hầu như rất ít giao dịch. Một ngân hàng thật sự phát triển trong hoạt động KDNT khi mà nó thực hiện giao dịch với hầu hết các loại ngọai tệ trên thị trường. Nguyên nhân của hiện tượng này không chỉ xuất phát từ phía BIDV mà còn từ phía cơ quan quản lý nhà nước và sự phát triển của thị trường ngoại hối Việt Nam thiên về giao dịch USD.
Về các hoạt động của BIDV thì đây là những hoạt động cơ bản tại một ngân hàng. Nhưng qui trình và thủ tục trong các hoạt động đó còn hơi lằng nhằng do đó mà tính nhanh chóng và kịp thời của các giao dịch ngoại tệ cũng bị giảm đi nhiều. Chỉ có tính chính xác trong các giao dịch là được bảo đảm.
Nhìn chung, hoạt động KDNT của BIDV chưa thật sự phát triển xứng với vị thế là một ngân hàng hàng đầu trên thị trường Việt Nam.
Hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế
Quá trình tìm hiểu thực trạng ở trên người viết cũng đã chỉ ra một số hạn chế sau đây sẽ tổng kết lại các hạn chế mà BIDV đối mặt trong hoạt động KDNT:
Thứ nhất, đó là tại HSC thực hiện đầy đủ các hoạt động như quản lý chi nhánh, giao dịch liên ngân hàng, giao dịch trực tiếp với khách hàng nhưng chưa thực hiện nghiệp vụ tự doanh hay như phân tích ở trên là chưa thực hiện nghiệp vụ arbitrage với ngoại tệ. Đây là một nghiệp vụ mà nhiều ngân hàng trên thị trường Việt Nam như Vietcombank hay Incombank đã thực hiện còn trên thế giới thì nghiệp vụ này đã được thực hiện từ lâu và mang lại lợi nhuận khá cao cho ngân hàng.
Thứ hai, đó là xét duyệt chứng từ của BIDV còn quá lằng nhằng. Chẳng hạn khi một giao dịch spot được xác nhận thì cán bộ trực tiếp giao dịch phải ký xác nhận rồi đến trưởng phòng sau đó chuyển chứng từ qua bộ phận kế toán và thực hiện thanh toán. Đồng thời với quá trình đó thì đã máy tính đã phải chuyển xác nhận giao dịch cho các bộ phận như middle office để kiểm tra và tới back office để thực hiện kế toán nhưng vẫn phải chờ chứng từ giấy mới được thanh toán.
Thứ ba, đó là cán bộ giao dịch khi xác nhận giao dịch đều phải thông qua bởi trưởng bộ phận sau đó giao dịch mới được thực hiện.
Thứ tư, đó là bộ phận middle office lẽ ra là bộ phận đóng vai trò là trung gian thực hiện hỗ trợ và kiểm soát các giao dịch của ngân hàng như hạn mức, luồng vốn…thì trên thực tế bộ phận này ở BIDV chưa thật sự hoàn thành nhiệm vụ.
Thứ năm, đó là mạng lưới chi nhánh của BIDV qua lớn mà HSC phải thực hiện quản lý trong khi điều kiện công nghệ thì còn hạn chế. Chẳng hạn khi giao dịch với chi nhánh thì cán bộ xác nhận ra giấy sau đó lại phải nhập giao dịch vào máy. Như vậy là phải làm qua 2 khâu rất mất công. Hay như trong giao dịch chi nhánh với khách hàng thì thường vẫn phải thông qua tỷ giá ở HSC đối với khách hàng lớn hay khách hàng thân thiết mà chi nhánh ít khi có thể tự quyết định.
Thứ sáu, đó là về phần kiểm soát rủi ro của BIDV trong KDNT còn rất yếu. Hầu như chưa có bộ phận này trong khi hoạt động KDNT thì phải đối mặt với rất nhiều rủi ro đặc biệt là rủi ro tỷ giá.
Thứ bẩy, đó là sự phát triển trong thời gian gần đây có vẻ chậm lại và và đang dần mất đi vị thế của một ngân hàng dẫn đầu trong hoạt động KDNT. Trong năm 2005 doanh số tăng 39%, năm 2006 tăng 42% trong khi năm 2007 chỉ tăng 17%.
Nói tóm lại, hoạt động KDNT của BIDV chưa phát triển tương xứng với vị thế ngân hàng.
Nguyên nhân
Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất là yếu tố con người. Trong bất kỳ một hoạt động nào thì yếu tố con người luôn tạo nên tất cả. Ở BIDV các cán bộ KDNT đã thật sự nắm vững nghiệp vụ, có khả năng phân tích thị trường thực hiện rất tốt các giao dịch nhưng cán bộ trong việc kiểm soát rủi ro thì lại không có bởi đây là một vị trí đòi hỏi người có khả năng phân tích thị trường cao và phải có khả năng nhận biết rủi ro.
Thứ hai là yếu tố công nghệ. Hiện tại ngân hàng sử dụng hệ thông giao dịch của Reuter dealing 3000 để thực hiện giao dịch liên ngân hàng, đây là hệ thộng khá hiện đại và trên thị trường Việt Nam hiện nay thì đây là hệ thống hiện đại vào lọai bậc nhất và muốn giao dịch được buộc phải có hệ thống này. Nhưng đó là với các giao dịch liên ngân hàng còn hệ thống công nghệ nội bộ ngân hàng thì còn nhiều mặt hạn chế. Chẳng hạn ở trên thế giới thì các NH có thể sử dụng hệ thống công nghệ mà chỉ cần xác nhận giao dịch là giao dịch thực hiện không cần chứng từ giấy nữa mà chỉ cần chứng từ điện tử là xong.
Thứ ba là qui trình thủ tục. Do không có qui trình thủ tục hướng dẫn mà tuy có khả năng thực hiện nghiệp vụ tự doanh ngoại tệ mà cán bộ KDNT của BIDV không dám thực hiện họat động này. Không chỉ vậy mà qui trình thủ tục còn rườm rà vì còn phải qua nhiều lần kí duyệt mới có thể xác nhận được giao dịch.
Thứ tư là khả năng quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng còn hạn chế. Quản trị rủi ro là một trong những nhân tố cơ bản hết sức quan trọng để một ngân hàng thành công trong hoạt động KDNT. Nhưng không chỉ riêng với BIDV mà với tất cả các ngân hàng Việt Nam trên thị trường hiện nay khả năng nhận biết rủi ro kém nên dẫn đến khả năng quản trị rủi ro cũng kém.
Thư năm là BIDV chỉ thực hiện giao dịch chủ yếu với USD còn các ngoại tệ khác thì rất ít thực hiện.
Thư sáu là BIDV thực hiện chủ yếu là các giao dịch giao ngay còn với các giao dịch kỳ hạn, quyền chọn và hoán đổi thì rất ít thực hiện. Riêng với giao dịch tương lai thì ở thị trường Việt Nam chưa thực hiện.
Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất là sự phát triển của thị trường. Để các ngân hàng nói chung và BIDV nói riêng có thể phát triển hoạt động KDNT thì thị trường phải phát triển tới một mức độ nhất định. Nhưng trên thưc tế thị trường ngoại hối của Việt Nam chưa thể phát triển được như các nước trên thế giới thậm chí là so với các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Thứ hai là ngân hàng nhà nước thực hiện chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết thiếu linh hoạt. Hầu như suốt trong khoảng thời gian trước năm 2007 thì tỷ giá được NHNN điều tiết theo hướng tăng. Như vậy là NHNN đang thực hiện chính sách hỗ trợ xuất khẩu. Nhưng từ đầu năm 2008 đến nay do NHNN không thể kiểm soát được nên mới dẫn đến tình trạng tỷ giá giảm trong khoảng từ tháng 12/2007 đến tháng 3/2008. Điều này gây ra sự ỷ lại của các doanh nghiệp xuất khẩu khi mà họ đã quen với sự điều tiết tỷ giá theo hướng tăng từ phía NHNN. Hơn nữa do các doanh nghiệp xuất khẩu hầu như ít quan tâm đến quản trị rủi ro. Do đó, xảy ra tình trạng các doanh nghiệp xuất khẩu liên tục lỗ và kêu gọi sự giúp đỡ từ phía các ngân hàng và NHNN.
Thứ ba là thị trường liên ngân hàng chưa thật sự phát triển. Thị trường liên ngân hàng là thị trường bán buôn thì lẽ ra doanh số của thị trường này phải chiếm phần lớn doanh số giao dịch ngoại tệ, không thì cũng phải chiếm vị trí hết sức quan trọng. Nhưng doanh số trên thị trường này mới chỉ chiếm khoảng 25%.
Thứ tư là phương pháp công bố tỷ giá của NHNN còn hạn chế. NHNN mới chỉ công bố tỷ giá của USD/VND còn với các loại ngoại tệ khác thì chưa và các qui định về quản lý giao dịch với các ngoại tệ khác vẫn hầu như rất ít, chủ yếu mới chỉ có USD. Muốn phát triển một thị trường ngoại hối đa dạng nhưng mới chỉ thực hiện công cô bố tỷ giá bình quân liên ngân hàng với USD thì khó có thể phát triển một thị trường ngoại hối đa dạng
Thứ năm là qui định của NHNN trong lĩnh vực KDNT còn nhiều hạn chế. Chẳng hạn như việc nhà nước buộc các ngân hàng giao dịch giữa VND và USD theo tỷ giá bình quan liên ngân hàng do NHNN công bố nhưng không vượt quá biên độ ±1% hay như việc người dân muốn mua ngoại hối thì phải chứng minh được mục đích mua hợp lý nhưng có thể bán ngoại hối cho ngân hàng một cách tự do.
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại hội sở chính ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
Định hướng chung cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ của BIDV trong thời gian tới
Trong những năm tới khi mà Việt Nam thực hiện cam kết gia WTO các ngân hàng nước ngoài sẽ tự do vào nước ta không còn là việc chỉ mở chi nhánh như hiện nay. Và trên thực tế hiện nay thì trong năm 2008 này, HSBC sẽ có thể là ngân hàng đầu tiên 100% vốn nước ngoại được thành lập tại Việt Nam. Khi đó với sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài thì ngành tài chính ngân hàng Việt Nam sẽ đem lại rất nhiều cơ hội và thách thức. Sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường là điều có thể nhìn thấy. Mà hiện tại thì sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại trong nước đã và đang diễn ra hết sức khốc liệt. Chưa kể đến sự gia nhập của các ngân hàng thương mại nước ngoài trong tương lai với nguồn vốn và kinh nghiệm kinh doanh cao hơn chúng ta rất nhiều.
Tuy nhiên, BIDV vẫn xác định mục tiêu trong thời gian tới là hội nhập và phát triển bền vững với vị thế là một ngân hàng hàng đầu trên thị trường tài chính Việt Nam đồng thời thực hiện kế hoạch cổ phần hóa trong năm 2008 chậm nhất là sang năm 2009.
Định hướng hoạt động KDNT trong những năm tới của BIDV là tiếp tục hoàn thiện qui trình thủ tục kinh doanh, quản lý rủi ro và mở rộng hơn nữa phạm vi kinh doanh bao gồm mở rộng thị trường hoạt động, đa dạng hóa các nghiệp vụ đồng thời tăng cường chất lượng phục vụ khách hàng. Hoạt động KDNT sẽ hướng tới hai mục đích lớn:
Đảm bảo nhu cầu ngoại tệ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đặc biệt là nhu cầu ngoại tệ trong tín dụng và thanh toán quốc tế, nhằm củng cố và tăng cường vị thế của BIDV trên thị trường.
Nâng dần tỷ trọng thu nhập từ hoạt động KDNT trong tổng thu nhập của ngân hàng
Giải pháp phát triển hoạt động KDNT tại BIDV
Phát huy mạnh mẽ nhân tố con người
Nhân tố con người luôn đóng vai trò là trung tâm trong mọi lĩnh vực bởi con người là người tổ chức nên các hoạt động và cũng duy trì sự phát triển của các hoạt động đó. Đối với lĩnh vực KDNT là một lĩnh vực đòi hỏi nhiều về trí tuệ, kiến thức, phát huy mạnh mẽ nhân tố con người càng phải được nhấn mạnh. Chính vì nhân tố con người mà tại BIDV việc tổ chức bộ phận middle office còn hạn chế. Bộ phận này hầu như chưa có cán bộ có đủ khả năng để quản lý rủi ro trong KDNT. Việc phát huy nhân tố con người cần phải được thực hiện một cách thông nhất, toàn diện, từ đội ngũ cán bộ kinh doanh cho đến ban lãnh đạo.
Đối với các cán bộ lãnh đạo, để đưa ra được những quyết định vi mô hay vĩ mô, những quyết định trước mắt haylâu dài đòi hỏi phải có kiến thức toàn diện, nắm rõ hệ thông văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động KDNT của NHNN, nắm rõ tình hình thị trường đồng thời có khả năng dự báo xu hướng biến động của thị trường để không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và thích ứng linh hoạt với những biến động bất ngờ của thị trường nhằm hạn chế tổn thất ở mức thấp nhấp. Đồng thời, cán bộ lãnh đạo cần có kỹ năng phân bổ hạn mức giao dịch hợp lý tùy theo kinh nghiệm trình độ của từng cán bộ kinh doanh (dealer), điều này yêu cầu sự sâu sát của lãnh đạo đối với nhân viên.
Đối với cán bộ kinh doanh, ngoài những phẩm chất cần thiết như nhanh nhẹn, sáng tạo, chủ động, cần phải nắm vững chuyên môn, quy trình nghiệp vụ. Bên cạnh đó họ cũng thường xuyên phải tìm hiều sự thay đổi của các văn bản qui định về thực hiện giao dịch hối đoái của NHNN, hiểu rõ sự tiện ích của các nghiệp vụ kinh doanh để có thể tư vấn cho khách hàng thực hiện nghiệp vụ này. Đặc biệt, cán bộ kinh doanh cần phải có khả năng ứng dụng công nghê thông tin. Dựa trên những định hướng cơ bản đó BIDV nói riêng và các ngân hàng nói chung có định hướng cho công tác tuyển dụng, đãi ngộ phù hợp và đúng đắn để phat huy tốt nhất nhân tố con người trong KDNT.
Cụ thể ở khâu tuyển dụng, BIDV cần đặt ra các tiêu chuẩn cơ bản về kinh nghiệm làm việc, về chuyên môn trong lĩnh vực KDNT, về ngoại ngữ và tin học làm cơ sở để tổ chức tuyển chọn một cách công khai và khách quan. Sau khi đã được tiếp nhận thì cán bộ kinh doanh cần tiếp tục được bồi dưỡng hoặc được đào tạo một khóa về nghiệp vụ trước khi bắt đầu công việc. Chẳng hạn với hệ thông giao dịch Dealing 3000 tại BIDV nếu không biết cách sử dụng hệ thống này thì sẽ mất thời gian để làm quen nhưng nếu được đào tạo thì cán bộ kinh doanh sẽ có thể tiếp cận sử dụng ngay hệ thống này mang lại hiệu quả kinh doanh cao hơn. Sau đó qua quá trình làm việc có thể dần dần đào tạo chuyên sâu và đặc biệt là với các cán bộ có khả năng và nhiệt huyết trong công việc thì BIDV có thể cử đi học nước ngoài sau đó sẽ về giúp ngân hàng trong quá trình phát triển ở những vị trí quản lý.
Ngoài ra với những vị trí mà không có cán bộ đủ trình độ đảm nhiệm như vị trí quản trị rủi ro thì BIDV có thể tuyển các cán bộ phân tích thị trường giỏi. Sau đó từ từ đào tạo để có thể trở thành một nhà quản trị rủi ro cho ngân hàng trong lĩnh vực KDNT.
Việc phát huy nhân tố con người ở đây không chỉ có công tác đào tào bởi vì con người là một thực thể tồn tài rất đa dạng. Không phải cứ đào tạo giỏi là họ sẽ cống hiến hết mình vì công việc. Mà BIDV cần có những chế độ đãi ngộ và khen thưởng một cách hợp lý. Với những cán bộ giỏi, năng động trong việc kinh doanh, đưa ra những ý tưởng hay sáng kiến trong kinh doanh cần được ngân hàng khen thưởng hoặc tăng lương. Hoặc đối với các cán bộ kinh doanh giỏi, BIDV có thể thực hiện biện pháp mức thưởng gắn với lợi nhuận mà cán bộ mang về cho ngân hàng. Với biên pháp đó sẽ làm cho các can bộ nỗ lực trong việc kinh doanh để không ngừng tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Các cán bộ sẽ phát huy được hết khả năng và tinh thần trách nhiêm trong công việc.
Hoàn thiện yếu tố công nghệ
BIDV đang trong qua trình đổi mới về công nghệ để có thể tiến tới là một ngân hàng hiện đại. Nhưng trước mắt thì còn nhiều vấn để xuất phát từ yếu tố công nghệ cần khắc phục. BIDV cần hiện đại hóa hơn nữa hệ thống công nghệ để có thể nâng cao năng suất làm việc của các cán bộ. Lấy ví dụ như việc quản lý chi nhánh thì cán bộ xác nhận giao dịch ra giấy sau đó mới nhập vào hệ thống. Việc đó rất mất thời gian hơn nữa làm giảm năng suất trong công việc. Để giải quyết vấn đề này BIDV có thể trang bị một hệ thống công nghệ mà xác nhận giao dịch trực tiếp qua hệ thông máy tính không cần cán bộ giao dịch phải viết ra giấy rồi mới nhập giao dịch vào máy nữa. Hệ thống công nghê như vậy đã được các ngân hàng trên thế giới sử dụng từ lâu. Với công nghệ như vậy sẽ giúp cho giao dịch diễn ra nhanh hơn và cán bộ giao dịch không phải tốn công vào việc nhập giao dịch vào máy. Tuy nhiên việc đổi mới công nghệ hiện đại hóa hết sức tốn kém, không phải đổi mới ngay là được. Do đó BIDV cần có chiến lược phát triển công nghệ tin học ngân hàng về lâu dài để có thể trở thành một ngân hàng có tầm cỡ trong khu vực và thế giới.
Hoàn thiện qui trình thủ tục
Qui trình thủ tục là một trong 3 yếu tố (con người, công nghệ và qui trình thủ tục) quan trọng hàng đầu cấu thành nên bất cứ hoạt động kinh doanh ngân hàng nào. Trong hoạt động KDNT tại BIDV cũng vậy để có thể hoàn thiện và phát triển hoạt động KDNT cần hoàn thiện hơn nữa qui trình thủ tục:
Trước hết, BIDV cần hoàn thiện thủ tục về luân chuyển chứng từ. Thông thường khi giao dịch ngoại tệ được xác nhận cán bộ tại HSC phải qua 2 lần ký mới chuyên sang bộ phận kế toán, như vậy rất mất công và tốn thời gian. Vậy có thể thực hiện qua một lần ký bằng cách giao quyền chủ động cho cán bộ giao dịch. Khi xác nhận giao dịch thì cán bộ có thể ký chứng từ và xác nhận giao dịch luôn với giao dịch liên ngân hàng và cả giao dịch với chi nhánh cũng vậy. Làm như vậy sẽ tăng trách nhiệm với mỗi cán bộ và lúc này phát huy yếu tố con người là rất cần thiết. Việc thủ tục chứng từ chỉ qua một lần ký sẽ làm tăng hiệu quả làm việc.
Thứ hai, là hệ thông chi nhánh của BIDV qua lớn mà hàng ngày lượng giao dịch với chi nhánh và HSC cũng nhiều. Với qui trình quản lý tới các chi nhánh về hạn mức, giao dịch từ HSC là rất tốn công. Vậy BIDV có thể giao hạn mức tới từng chi nhánh hoặc cho chi nhánh quyền tự chủ trong kinh doanh nhất định, cho chi nhánh tự chịu trách nhiệm với hoạt động KDNT. Khi nào mà chi nhánh vượt trạng thái hạn mức hay kinh doanh thua lỗ thì HSC mới đứng ra quản lý. Làm như vậy sẽ tăng tính chủ động của các chi nhánh trong việc kinh doanh và cũng giúp HSC giảm bơt khối lượng công việc hằng ngày.
Thứ ba, BIDV cần nhanh chóng hoàn thiện thủ tục và qui trinh trong hoạt động tự doanh ngoại hối. Tức là mua vào ngoại tệ lúc tỷ gia thấp và bán ra lúc tỷ giá cao. Đây là một hoạt động có tiềm năng sẽ mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng nhưng lại đòi hỏi yếu tố con người vì nó cần sự phân tích thị trường và khả năng lượng hóa được các yếu tố rủi ro trên thị trường. Có như vậy hoạt động tự doanh mới có thể thành công.
Thứ tư, BIDV cần tìm hiểu nghiên cứu thị trường ngoại hối Việt Nam để tìm hiểu về nhu cầu các sản phẩm giao dịch ngoại hối trong tường lai. Sau đó sẽ nghiên cứu tìm hiểu sản phẩm đó và cách để có thể ứng dụng vào Việt Nam một cách hiệu quả nhất. Kế đến là chuẩn bị các qui trình thủ tục hướng dẫn giao dịch với các nghiệp vụ đó trước để khi thị trường xuất hiện nhu cầu thì BIDV đã có chuẩn bị trước và có thể triển khai những sản phẩm ngoại tệ đó ngay. Chẳng hạn như hợp đồng tương lai ngoại tệ nhất định trong tương lai sẽ triển khai ở Việt Nam.
Có thể nói rằng 3 yếu tố con người, công nghệ và qui trình thủ tục gắn liền với nhau. Sự phát triển của 3 yếu tố này phải song song thì hoạt động KDNT của BIDV mới có thể phát triển hoàn thiện cũng như trong các hoạt động kinh doanh ngân hàng khác.
Phối hợp các họat động liên quan trực tiếp tới kinh doanh ngoại tệ
Các hoạt động của NHTM có mối quan hệ tương tác lẫn nhau, nếu một nghiệp vụ được làm tốt thì sẽ tạo điều kiện để làm tốt nghiệp vụ khác. Họat động KDNH có quan hệ trực tiếp nhất đối với hoạt động thanh toán quốc tế. Khi hoạt động thanh toán quốc tế được tốt, thì khách hàng là các công ty xuất nhập khẩu sẽ đến giao dịch nhiều với ngân hàng, từ đó làm tăng doanh số bán ngoại tệ của ngân hàng với các khách hàng đó. Để làm được điều này, BIDV cần thực hiện tốt chính sách khách hàng như đã trình bày ở trên. Cụ thể BIDV cần đưa ra một tỷ lệ ký quỹ hợp lý, giả chi phí giao dịch cho khách hàng có quan hệ lâu dài với ngân hàng, tư vấn cho khách, giúp khách hàng hoàn thiện bộ chứng từ trong thanh toán quốc tế để việc thanh toán diễn ra an toàn hơn. Bên cạnh đó, BIDV cần chú trọng mở rộng quan hệ các ngân hàng nước ngoài để có thể tận dụng sự trợ giúp về đào tạo nghiệp, khai thác thông tin cũng như để trở thành đối tác trong các phương thức thanh toán quốc tế. Hiện nay thì trên thị trường Việt Nam thì ngân hàng nước ngoài mà BIDV cần có mối quan hệ hợp tác là HSBC và ANZ. Hoặc cũng có thể thực hiện một biện pháp khác đó là khi ngân hàng thực hiện cổ phần hóa thì chào bán cổ phần cho các ngân hàng lớn trên thế giới để họ có thể giúp BIDV sau cổ phần hóa hoạt động tốt hơn trong không chỉ lĩnh vưc KDNT mà còn nhiều lĩnh vực kinh doanh ngân hàng khác với kinh nghiệm và trình độ trong kinh doanh ngân hàng chuyên nghiệp của các ngân hàng này.
Đa dạng hóa các loại ngoại tệ trong kinh doanh
Hiện tại USD vẫn là ngoại tệ được các doanh nhiệp xuất nhập khẩu sử dụng chủ yếu trong thanh toán quốc tế. Trong các ngân hàng thương mại nói chung và BIDV nói riêng thì từ huy động đến cho vay, dự trữ hay kinh doanh ngoại tệ đến các dịch vụ thanh toán quốc tế đều sự dụng USD là chính. Tại BIDV thì doanh số KDNT là USD chiếm tới hơn 75%. Do đó để đa dạng hóa trong kinh doanh đồng thời hạn chế rủi ro biến động tỷ giá USD thì cần đa dạng hóa ngoại tệ sử dụng. Do đó, HSC cần có kế hoạch cụ thể về một cơ cấu ngoại tệ hợp lý theo hướng đa dạng hóa các loại ngọai tệ mạnh khác như EUR vì đây cũng là một ngoại tệ mạnh khác trong thời gian gần đây cạnh tranh mạnh mẽ với USD trên thị trường quốc tế để tránh phụ thuôc vào USD. Như trong thời gian tháng 3 và 4 năm 2008 vừa qua tỷ giá USD biến động giảm mạnh làm các ngân hàng không dám mua USD và sau đó tỷ giá lại tăng mạnh trở lại do cầu USD cao mà cung thấp cộng với lãi suất VND tăng cao làm cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ chủ yếu là USD của các ngân hàng nói chung không phát triển.
Biện pháp này sẽ không thể thành công nếu không có sự phối hợp thực hiện của cả nhà nước và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu vì nếu chỉ BIDV và các ngân hàng thực hiện trong khi thị trường vẫn chỉ ưa thích USD thì sẽ không thể thành công. Việc đa dạng hóa ngoại tệ trong kinh doanh, giảm tịnh trạng phụ thuộc quá nhiều vào USD còn giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển lành mạnh hơn.
Đa dạng hóa các loại giao dịch ngoại tệ
Như đã phân tích thưc trạng của BIDV hiện nay BIDV đang thực hiện 4 loại giao dịch ngoại tệ đó giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi và quyền chọn ngoại tệ trong đó chủ yếu là nghiệp vụ giao ngay chiếm tới hơn 90% các giao dịch của BIDV còn đối với nghiệp vụ kỳ hạn thì đôi khi cũng thực hiện nhưng với số lượng không lớn. Nghiệp vụ hoán đổi và quyền chọn thậm chí còn ít hơn mặc dù đây là 2 nghiệp vụ giao dịch phòng ngừa rủi ro hết sức hữu hiệu nhưng vẫn chưa thực sự phát triển. Còn đối với giao dịch tương lai một mặt do nguồn lực chưa cho phép, mặt khác trên thị trường tương lai vẫn chưa phát triển ở Việt Nam.
Do đó đối với các giao dịch ngoại tệ trong thời gian tới thì BIDV cần định hướng là tiếp tục mở rộng quy mô hoạt động giao dịch giao ngay bằng cách thực hiện tốt chiến lược thu hút khách hàng nhằm nắm vững và mở rộng thị phần đang có. Đối với nghiệp vụ kỳ hạn, hoán đổi và quyền chọn ngoại tệ mà chủ yếu là với USD và VND cần giới thiệu, tư vấn để khách hàng có thể hiểu rõ về nghiệp vụ cũng như những lợi ích mà các nghiệp vụ này mang lại. Từ đó sẽ là cơ sở để khách hàng tham gia các giao dịch ngoại tệ này với ngân hàng. Riêng đối với các giao dịch hợp đồng quyền chọn tiền tệ thì cũng nên mở rộng các cặp tiền tệ ngọai tệ - ngoại tệ chứ không chỉ bó hẹp trong các giao dịch 2 cặp đồng tiền VND và USD như hiện nay. Còn đối với nghiệp vụ giao dịch hợp đồng tương lại có thể để cho các cán bộ nghiên cứu tìm hiểu về qui trình nghiệp vụ giao dịch của các ngân hàng trên thế giới và nghiên cứu để có thể ứng dụng vào Việt Nam. Đồng thời với quá trình tìm hiểu nghiên cứu giao dịch tương lai về ngoại tệ thì BIDV nên dần dần chuẩn bị qui trình thủ tục hướng dẫn để khi có cơ hội hay khi thị trường xuất hiện nhu cầu thì BIDV có thể là ngân hàng tiên phong thực hiện hoạt động giao dịch hợp đồng tương lại ngoại tệ. Từ đó có được ưu thế cạnh tranh trong các giao dịch tương lai tiền tệ với các ngân hàng khác.
Xây dựng một chính sách khách hàng đúng đắn và hiệu quả
Việc thu hút khách hàng là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu trong KDNT. Khách hàng ở đây bao gồm cả những đối tượng có nhu cầu mua ngoại tệ và nhu cầu bán ngoại tệ, trong đó đối tượng khách hàng bán đặc biệt quan trọng vì nó đóng vai trò là đâu vào cho các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Xây dựng một chính sách khách hàng toàn diện và hiệu quả sẽ là điểm mấu chốt giúp BIDV có thê tăng doanh thu trong hoạt động kinh doanh đồng thời tăng tốc độ tăng trưởng doanh thu.
Như đã nói ở trên, BIDV là ngân hàng có vị thế hết sức quan trọng trên thị trường Việt Nam (đứng thứ 2 và có thể là sau Vietcombank) và ngân hàng có một thị trường khá lơn nhưng không có nghĩa là không cần thu hút thêm khách hàng nữa hay không cần thu hút mà khách sẽ tự đến với ngân hàng vì ngân hàng đã có vị thế nhất định. Hiện tại thì có thể nói thị phần của các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước như BIDV và 4 ngân hàng quốc doanh khác đang bị thu hẹp nhiều đi do sự cạnh tranh quyết liệt và sự năng động từ phía các ngân hàng thương mại cổ phần. Điều đó cũng giải thích một phần tại sao tốc độ tăng doanh số của BIDV trong năm 2007 không bằng các năm trước. Do đó một chính sách khách hàng đúng đắn và hiệu quả từ HSC là hết sức cần thiết vào lúc này đối với BIDV.
Việc thu hút khách hàng là quan trọng song cũng rất khó vì sản phẩm ngân hàng nói chung và sản phẩm trong KDNT nói riêng có tính đồng nhất khá cao giữa các ngân hàng, khó có thể tao ra sự khác biệt giữa các sản phẩm. Hơn nữa BIDV đang phải đối mặt với sự cạnh tranh từ rất nhiều phía gồm các ngân hàng thương mại cổ phần, các thành viên mới tham gia vào thị trường tài chính như các tổ chức tài chính mà cụ thể là công ty tài chính công nghiệp tàu thủy (Vinashin finance)…. và cả các ngân hàng thương mại nước ngoài sắp thành lập ở Việt Nam. Điều đó sẽ tạo ra những áp lực chia sẻ lại thì phần trong không chỉ lĩnh vực KDNT giữa các ngân hàng mà còn nhiều lĩnh vực khác trong công việc kinh doanh ngân hàng. Để có thể nắm vững thị phần đang có và có thể mở rộng thị phần thì BIDV cần phải xây dựng và thực hiện một chiến lược khách hàng đúng đắn và hiệu quả. Muốn vậy thì BIDV cần thực hiện các công việc sau:
Thứ nhất, BIDV cần đẩy mạnh hoạt động quảng bá tuyên truyền mà trước tiên là về hình ảnh của ngân hàng. Hoạt động này giúp khách hàng biết tới BIDV, thấy được những ưu điểm và lợi ích khi giao dịch với BIDV và tìm đến với BIDV. Hơn nữa, thông qua hoạt động tài trợ, các chương trình tuyên truyền, quảng bá sẽ làm tăng thêm vị thế, uy tín của ngân hàng. Qua đó tạo niềm tin cho khách hàng mà đó là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc lựa chọn ngân hàng thực hiên giao dịch của khách hàng. Bên cạnh đó BIDV cần giới thiệu về các sản phẩm của mình. Đặc biệt là đối với hoạt động KDNT thì các sản phẩm như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn đều rất mới mẻ và ít được sử dụng bởi các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, trong khi đây là một công cụ bảo hiểm rủi ro và phòng chống rủi ro hết sức hữu hiệu. Lấy ví dụ như trong khoảng thời tháng 3 và 4 năm 2008 tỷ giá trong một thời gian ngắn đã giảm xuống mức 15550 đồng/USD so với mức 16000 đồng/USD trước đó. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu và họ chịu thua lỗ nhiều, nhưng nếu họ sự dụng hợp đồng kỳ hạn hay quyền chọn tiền tệ thì họ sẽ có thể cố định chi phí và không phải chịu bán USD với mức tỷ giá thấp như vậy. Do vậy nếu BIDV có những cuôc gặp gỡ với khách hàng để thực hiện thuyết trình về lợi ích cũng như cách thức giao dịch thì chắc chắn khách hàng sẽ sử dụng nhiều hơn. Hay có thể lợi dụng những thời điểm sau những biến đông lớn về tỷ giá như khoảng thời gian vừa qua để quảng bá sản phẩm đến cho khách hàng thì khách hàng sẽ dễ dàng nhìn thấy lợi ích mà sản phẩm này đem lại hơn.
Thứ hai, là xây dựng các mối quan hệ với khách hàng. Chỉ tuyên truyền và quảng bá về BIDV thì chưa đủ mà còn phải chủ động tìm đến với khách hàng để xây dựng mối quan hệ. Đối tượng khách hàng trọng tâm là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, thậm chí là cả các khách hàng cá nhân với nguồn thu kiều hối vì trong những khoảng thời gian cuối năm nguồn kiều hối đổ về Việt Nam rất lớn. Để công tác mở rộng khách hàng là có hiêu quả thì việc mở rộng mạng lưới kinh doanh là quan trọng. Hiện tại BIDV đã có mạng lưới chi nhánh rộng khắp và có ưu thế so với nhiều ngân hàng khác, song trong những năm tới, vẫn cần định hướng mở rộng mạng lưới chi nhánh vào các khu vực có hoạt động kinh tế mạnh, hiệu quả đầu tư cao, đặc biệt là cóhoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài…. Ngoài ra, để mở rộng tiếp xúc với khách hàng thì việc cung cấp đầy đủ những thông tin về ngân hàng, việc đưa ra giá ưu đãi và phong cách phục vụ khách hàng văn minh, lịch sự và chu đao là những yếu tố quan trọng mà khách hàng rất quan tâm.
Thứ ba, duy trì mối quan hệ tốt với khách hàng. Bên cạnh việc tiếp xúc và xây dựng các mối quan hệ với khách hàng, BIDV phải duy trì tốt được mối quan hệ ấy. Điều này đòi hỏi BIDV phải duy trì được một chính sách đãi ngộ hợp lý (về mức phí giao dịch, tỷ giá ưu đãi…) đồng thời phải luôn quan tâm đến khách hàng. Ngay từ khi doanh nghiệp làm xuất khẩu ngân hàng có thể hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn nội tệ với lãi suất ưu đãi hay tạo điều kiện để khách hàng mua được ngoại tệ một cách thuận lợi khi có nhu cầu thực sự. Như thế khách hàng sẽ yên tâm và thực sự tin tưởng vào ngân hàng, đồng thời cũng là một cách hay để cân bằng vai trò của dịch vụ liên quan đến ngoại tệ mà trong thời gian qua vẫn còn khá chênh lệch tại BIDV. Ngoài ra, định kỳ BIDV nên theo dõi khách hàng của mình, nếu thấy doanh số giảm hoặc không đến giao dịch nữa thì phải tìm hiểu nguyên nhân để có giải pháp và từng bước hòan thiện hơn nữa hoạt động của mình.
Mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ trên thị trường quốc tế
Hiên nay thì BIDV mới chỉ thực hiện hoạt động KDNT trên thị trường trong nước mà chưa thực hiện hoạt động này trên thị trường quốc tế. Măc dù để có thể thành công trong việc KDNT trên thị trường quốc tế cần rất nhiều điều kiện, đặc biệt là hai yếu tố cơ bản của bất kỳ một hoạt động kinh doanh ngân hàng nào đó là nguồn nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật nhưng nếu thực hiện thành công hoạt động kinh doanh trên thi trường quốc tế thì có thể mang lại một lượng lợi nhuận rất lớn cho BIDV. Việc mở rộng hoạt động KDNT trên thị trường quốc tế là một giải pháp không dễ thực hiện được bởi ngoài các yếu tố trên nó cần gắn liền với nhiều yếu tố nữa như thương hiệu ngân hàng trên trường quốc tế. Dù BIDV đã là một ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam nhưng đối với thế giới thì BIDV vẫn hầu như chưa được biết đến. Do đó việc mở rộng hoạt động KDNH trên thị trường quốc tế có thể coi như là một kế hoạch dài hạn của ngân hàng, cần từ từ phát triển đồng bộ các yếu tố con người, khoa học công nghệ và qui trình thủ tục. Để đến khi BIDV đã là một ngân hàng có vị thế trong khu vực thì bắt đầu triển khai hoạt động KDNT trên thị trường quốc tế. Có sự chuẩn bị như vậy thì mới có thể mang lại thành công trong hoạt động KDNT trên thị trường quốc tế cho BIDV.
Kiến nghị
Việc hoàn thiện và phát triển TTNH Việt Nam có ý nghĩa rất to lớn. Khi thị trường thật sự phát triển thì tính thanh khoản trên thị trường sẽ cao hơn, các quy định pháp lý chặt chẽ hơn nhưng không cứng nhắc. Có như vậy hoạt đông KDNT mới trở nên an toàn và dễ dàng hơn. Ngoài ra khi mà thị trường ngoại hối phát triển các hoạt động xuất nhập khẩu của mọi thành phần kinh tế sẽ được bôi trơn hơn, các khoản đầu tư và tín dụng quốc tế sẽ được kích thích luân chuyên và từ đó hoạt động KDNT sẽ sôi động hơn vì sự gia tăng của cung cầu ngoại tệ và nhu cầu bảo hiểm tỷ giá sẽ cao. Để hoàn thiện và phát triển hoạt động cho TTNH Việt Nam thì người Viết xin đưa ra một số kiến nghị với các cơ quan lý nhà nước trong lĩnh vực ngoại hối và các cơ quan có liên quan như chính phủ, ngân hàng nhà nước…như sau:
Kiến nghị với Chính Phủ
Chính phủ là cơ quan quản lý nhà nước về mặt kinh tế chính trị cao nhất và chung nhất. Chính phủ đưa ra đường lối kinh tế và hướng chỉ đạo chung cho các bộ ngành để thực hiện trong từng thời kỳ và lĩnh vực. Đối với thị trường ngoại hối, chính phủ không trực tiếp tham gia chỉ đạo mà cơ quan trực tiếp tham gia chỉ đạo là ngân hàng nhà nước. Nhưng chính phủ cũng góp phần vào sự phát triển của thị trường ngoại hối nói chung.
Do đó người viết xin đưa ra một số kiến nghị với chính phủ nhằm phát triển thị trường thị trường ngoại hối:
Thứ nhất, tiếp tục có những cải cách về mặt thủ tục, giấy tờ theo hướng nhanh chóng, thuận lợi để hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp cũng như hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài dễ dàng và thuận lợi hơn.
Thứ hai, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại: xúc tiến việc hội nhập tích cực trong khu vực tạo điều kiện tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu. Đặc biệt trong điều kiện hiện tại khi mà Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì chính phủ cần thực hiện đầy đủ các cam kết khi gia nhập. Hơn thế nữa cần tổ chức các buổi phổ biến và tư vấn cho doanh nghiệp về WTO, để doanh nghiệp, mà đặc biệt là doanh nghiệp xuất nhập khẩu không bỡ ngỡ khi Việt Nam chính thức hội nhập với thế giới.
Thứ ba, đầu tư hơn nữa cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở đồng thời tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam dưới nhiều hình thức trực tiếp và gián tiếp. Nhưng việc thu hút không phải là tìm mọi cách để thu hút đầu tư mà cần có sự quản lý chăt chẽ.
Thứ tư, xây dựng một hệ thống các biện pháp nghiêm khắc chống lại các hành vi mua bán ngoại tệ trái phép dẫn tới những lộn xộn cho hoạt động kinh doanh trên thị trường ngoại tệ.
Kiến nghị với ngân hàng nhà nước
Ngân hàng nhà nước là cơ quản trực tiếp quản lý với thị trường ngoại hối và hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM. Do đó, những kiến nghị chủ yếu được đưa ra với NHNN.
Thực hiện chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết phù hợp
Tỷ giá cân bằng cung cầu là tỷ giá thị trường, linh hoạt, là sản phẩm của quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại tệ nhưng vẫn cần có sự điều tiết một cách vừa phải để có thể phát huy được ưu thế của nó. Hiện tại theo lý thuyết thì có 3 chế độ tỷ giá cơ bản đó là chế độ tỷ giá cố định, chế độ tỷ thả nổi hoàn toàn và chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết. Hiện tại thì Việt Nam đang thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết tức là ngân hàng nhà nước trực tiếp thực hiện chính sách tỷ giá này sẽ điều tiết tỷ giá phù hợp không có những biến động qua lớn gây bất lợi cho nền kinh tế. Nhưng dường như là NHNN đã quản lý quá chặt chẽ mà làm mất đi tính linh hoạt của chế độ tỷ giá này. Đó là việc ngân hàng nhà nước hầu như điều chỉnh tỷ giá theo hướng tăng suốt trong khoảng thời gian trước 12/2007, cũng có nghĩa là NHNN đã gián tiếp hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu. Như vậy có thể nói là chính sách tỷ giá ơ Việt Nam tuy là thả nổi có điều tiết nhưng mức độ điều tiết hơi nhiều. Nhưng nếu bây giờ thực hiện chính sách tỷ giá thả nổi hoàn toàn ngay mà ít điều tiết thì có lẽ sẽ gây ra những cú ‘sốc’ với một nền kinh tế còn đang phát triển và chưa có các yếu tố bền vững như Việt Nam. Do đó, NHNN có thể từ từ thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt phù hợp với các điều kiện phát triển của thị trường. Trên thực tế thì từ sau tháng 1/2008 tỷ giá đã không như NHNN mong muốn đó là xảy ra hiện tượng tỷ giá liên tục giảm xuống thấp hơn cả giá sàn mà NHNN công bố. Do đó cái đích tỷ giá linh hoạt nhưng có sự điểu tiết lúc cần thiết là rất quan trọng đối với thị trường ngoại hối Việt Nam. NHNN có thê thực hiện bằng cách nới dần biên độ giao động của tỷ giá. Nếu như trước kia là 0.25% thì tháng 3/2008 vừa qua NHNN cũng đã nhận ra được việc thả nổi tỷ giá nhưng điều tiết hợp lý là cần thiết nên NHNN đã nới rộng biên độ lên 1%. Và trong tương lai thì biên độ có thể nới rộng thêm 2% sẽ là phù hợp với thị trường ngoại hối Việt Nam trong thời gian tới. Việc nới rộng biên độ đó sẽ làm thị trường Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển hơn vì bây giờ sự can thiệp của NHNN vào tỷ giá sẽ giảm đi. Trước kia biên độ giao động 0.25% là qua ít, NHNN luôn phải sẵn sàng can thiệp nhưng khi biên độ mở rộng vừa phải thì NHNN sẽ đỡ phải can thiệp vào tỷ giá và để cho thị trường có thể tự điều chỉnh phù hợp. Hơn thế nữa việc mở rộng biên độ còn cho biêt tỷ giá có khả năng biến động lớn, nên buộc các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu phải quan tâm tới việc bảo hiểm cho rủi ro tỷ giá, và như vậy thì các sản phẩm như kỳ hạn, quyền chọn ngoại tệ của các ngân hàng sẽ có cơ hội phát triển.
(Tỷ giá phân tích ở trên là tỷ giá USD/VND)
Hoàn thiện và phát triển thị trường liên ngân hàng
Đối với thị trường ngoại tệ liên ngân hàng: tỷ giá hay giá cả của ngoại tệ được hình thành theo qui luật cung cầu trên thị trường là nhân tố đóng vai trò quyết định trong việc phát triển TTNH hoạt động hiệu quả. Tỷ giá được hình thành theo 2 cấp: tỷ giá bán buôn và tỷ giá bán lẻ. Tỷ giá bán buôn được hình thành trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng còn tỷ giá bán lẻ hình thành trên cơ sở tỷ giá bán buôn cộng với chi phí bán lẻ.
Đối với Việt Nam do trình độ thị trường còn sơ khai, ngoài yếu tố tỷ giá còn bị ràng buộc bởi nhiều yếu tố can thiệp hành chính, do đó doanh số giao dịch ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng mới chỉ chiếm khoảng 25% do đó thị trường chỉ đóng vai trò thứ yếu, tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng chưa thể là tỷ giá cơ bản đặc trưng cho nền kinh tế. Do đó, việc hình thành và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là việc làm tất yếu để hình thành và phát triển TTNH Việt Nam
Đối với thị trường liên ngân hàng do định hướng lâu dài trong việc điều tiết thị trường ngoại tệ phải thông qua công cụ lãi suất nên lãi suất không những là yếu tố trung tâm của thị trường tiền tệ mà còn là công cụ hiệu quả để điều tiết TTNH. Về nguyên lý, giống như tỷ giá, lãi suất cũng được hình thành theo 2 cấp là lãi suất bán buôn và lãi suất bán lẻ.
Đối với Việt Nam, do thị trường tiền tệ liên ngân hàng còn trong qua trình đang định hình và phát triển, thủ tục phức tạp nên có mức độ thanh khoản chưa cao và doanh số giao dịch còn thấp. Việc ảnh hưởng của NHNN lên lãi suất thường phải thông qua các biện pháp như can thiệp trực tiếp, hay nói cách khác là thị trường không có độ nhạy cảm cao với việc thay đổi lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Chính vì vậy, để có thể sử dụng công cụ lãi suất vào việc điều tiết TTNH một cách có hiệu quả thì tất yếu phải hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Ngoài ra, việc hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ liên ngân hàng còn góp phần vào việc thúc đẩy phát triển các nghiệp vụ ngoại hối phái sinh.
Hoàn thiện phương pháp công bố tỷ giá
Hiện nay tại Việt Nam, tỷ giá VND hầu như mới chỉ gắn với USD mà rất ít gắn với các ngoại tệ khác. Điều này có thể được giải thích bởi lượng USD giao dịch trên thị trường ngoại hối chiếm một tỷ trọng qua lớn và phương pháp xác định và công bố tỷ giá VND/USD được xác định và công bố gần như độc lập hoàn toàn với quan hệ tỷ giá của USD với các ngoại tệ khác.
Thực tế cho thấy, USD có giá trị khá ổn định trong khi đó VND có giá trị thay đổi do ảnh hưởng bởi tỷ lệ lạm phát từ một nên kinh tế đang trong quá trình phát triển. Chính vì vậy việc ấn định tỷ giá của VND với USD là điểu bất hợp lý, nó làm giảm sức cạnh tranh trong thương mại quốc tế của Việt Nam. Mặt khác, hậu quả của chế độ ấn định tỷ giá VND/USD còn thể hiện ở chỗ nếu USD lên giá với các ngoại tệ khác thì VND cũng sẽ lên giá với các ngoại tệ khác, do đó kìm hãm xuất khẩu khuyến khích nhập khẩu. Trong khoảng thời gian từ tháng 1/2008 đến tháng 3/2008 thì tỷ giá USD/VND lại xảy ra tình trạng ngược lại, tức là USD giảm giá so với các ngoại tệ khác và đương nhiên VND sẽ giảm giá so với các ngoại tệ khác do đó khuyến khích nhập khẩu nhưng gây khó khăn cho xuất khẩu. Do đó với phương pháp ấn định và công bố tỷ giá so với USD như trên thì hoạt động của TTNH Việt Nam sẽ chứa đựng rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra khi mà giá trị của USD đột ngột thay đổi qua lớn so với các ngoại tệ khác.
Hoàn thiện công tác quản lý dự trữ ngoại hối
Để có thể thực hiện một chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết hợp lý thì việc dự trữ ngoại hối (DTNH) để can thiệp là rất thiết hơn nữa dự trữ ngoại hối còn cho thấy sự khả năng phản ứng của nhà nước trước nhứng biến động lớn về tỷ giá cũng như thị trường ngoại hối. Quản lý dữ trữ ngoại hối tôt cũng sẽ góp phần thúc đây sự phát triển của thị trường ngoại hối. Dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã tăng một cách đáng kể trong thời gian qua, cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang phát triển hết sức khả quan. Nhưng trên thực tế thì việc dự trữ ngoại hối của Việt Nam còn nhiều vấn đề. Người viết chuyên đề này xin trích một số hạn chế và giải pháp chính từ bài viết ‘thực trạng quản lý dự trữ ngoại hối và giải pháp’ của tác giả Trần Thanh Hải:
Các hạn chế đối với dự trữ ngoại hối tại Việt Nam
Thứ nhất là, hành lang pháp lý cho hoạt động quản lý DTNH còn bộc lộ nhiều bất cập về tổ chức thực hiện quản lý DTNH, về nghiệp vụ kiểm soát, quản lý nội bộ hoạt động quản lý DTNH.
Thứ hai là, chiến lược quản lý DTNH vẫn thụ động, hoạt động đầu tư dự trữ đơn điệu, chưa tương xứng với các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh hội nhập. Định hướng chiến lược quản lý DTNH chủ yếu mới chỉ đặt ra mặt cơ cấu đảm bảo an toàn tài sản, đáp ứng các nhu cầu chi tiêu trả nợ của Chính phủ, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, mà chưa đặt ra mức dự trữ, hay căn cứ để xác định DTNH chính thức của nhà nước ở tầm vĩ mô phù hợp với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong từng thời kỳ như tăng trưởng kinh tế, chỉ số lạm pháp, xuất khẩu,…DTNH tăng chủ yếu do FDI, ODA và kiều hối thu hút tăng. Việc quản lý các luồng ngoại tệ ra, vào Việt Nam nhất là nguồn trả nợ (như L/C trả chậm, bảo lãnh…) còn hạn chế do sự phối hợp chưa hiệu quả, chưa nhịp nhàng trong điều hành xuất, nhập khẩu, ngân sách…
Thứ ba là, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin còn rất hạn chế
Thứ tư là, thiếu cán bộ có trình độ và kinh nghiệm thực hiện quản lý dự trữ ngoại hối và chuyên gia phân tích, dự báo giỏi.
Để cóthể khắc phuc tình hình dự trữ ngoại hối trên cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định quản lý DTNH.
Thứ hai, hoàn thiện chức năng nhiệm vụ của các cấp quản lý DTNH
Thứ ba, tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng cho hoạt động đầu tư DTNH. Một trong những yêu cầu quan trọng của quản lý DTNH là đảm bảo sự có sẵn sử dụng, do đó, cần xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin thực hiện giao dịch nhanh chóng, chính xác đáp ứng các nhu cầu ngoại tệ kịp thời.
Thứ tư, hình thành các quỹ DTNH theo chức năng và xây dựng cơ cấu ngoại tệ và cơ cấu đầu tư DTNH cho từng quỹ.
Thứ năm, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trực tiếp quản lý DTNH và cán bộ phân tích, dự báo kinh tế vĩ mô.
Thứ sáu, tăng cường công tác kiểm tra nội bộ để phát hiện, ngăn ngừa và chấn chỉnh những sai sót kịp thời trong quá trình thực hiện nghiệp vụ đầu tư DTNH
Thứ bảy, có chiến lược tăng DTNH phù hợp với mục tiêu phát triển quốc gia
Thứ tám, củng cố bộ phận tổng hợp thông tin và báo cáo và dự báo thị trường.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động ngoại kinh doanh ngoại tệ
Có thể nói hệ thống pháp luật hết sức quan trọng với bất kỳ một hoạt động nào và hoạt động KDNT là hết sức cần thiết để có thể đóng góp vào sự phát triển của thị trường ngoại hối Việt Nam. Ở Việt Nam thì cơ quan trực tiếp quản lý hoạt động ngoại hối đó là NHNN ngoài ra có một số cơ quan khác có liên quan như bộ tài chính hay chính phủ.
Trên thực tế, các qui định liên quan đến hoạt động KDNT tại Việt Nam còn rất nhiều vấn đề bất cập mà NHNN chưa đưa ra những giải pháp hay sửa đổi hợp lý. Xin lấy ví dụ về qui đinh buộc các ngân hàng giao dịch trong biên độ giao động đối với tỷ giá là ±0.25% trước tháng 3/2008. Khi đó do tỷ giá liên tục giảm nên trên thị trường liên ngân hàng, các ngân hàng và cả BIDV giao dịch mua bán USD dưới mức giá sàn mà NHNN công bố. Nhưng do NHNN chỉ cố định tỷ giá giao dịch trong biên độ đối với USD/VND mà không cố định với các ngoại tệ khác. Do đó đã xảy ra tình trạng các NH thực hiện mua bán dưới tỷ giá sàn bằng cách giao dịch USD với một ngoại tệ khác sau đó mới lại giao dịch ngoại tệ đó với VND. Tức là đã thực hiện qua 2 giao dịch, như vậy là các ngân hàng vẫn thực hiện mua bán dưới tỷ giá sàn do NHNN công bố.
Có thể nói rằng luật điều chỉnh hoạt động KDNT nói riêng và TTNH nói chung còn mang tính bắt buộc, thiếu tính sáng tạo và nhiều kẽ hở nên các ngân hàng có thể lách luật một cách dễ dàng. Nhưng nhiều khi những qui định đó còn không hợp lý với thời điểm thị trường lúc đó. Do đó kìm hãm sự phát triển của thị trường ngoại hối.
Do đó NHNN cần hoàn thiện hệ thông pháp luật liên quan đến hoạt động KDNT theo các hướng sau:
Thứ nhất, nghiên cứu thị trường vào từng thời điểm và việc áp dụng nguồn luật hiện thời có còn phù hợp hay không để có thể kịp thời sửa đổi vì sự phát triển chung của TTNH.
Thứ hai, ban hành các văn bản luật hướng dẫn cụ thể về các qui định chung mà gây ra sự lầm lẫn hay hiểu sai từ phía các ngân hàng.
Thứ ba, sửa đổi các văn bản luật về kinh doanh ngoại hối hiện hành theo hướng dần dần tự dó hóa thị trường ngoại hối, giảm những can thiệp mang tính áp đặt của nhà nước hay NHNN vào tỷ giá hay vào các ngân hàng.
Kết luận
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới. Điều đó cũng đồng nghĩa với viêc Việt Nam đang ngày càng tham gia hội nhập sâu vào một nền kinh tế toàn cầu hóa và cái mốc mà nhà nước phải thực hiện mở cửa với lĩnh vực kinh doanh ngân hàng cũng đang đến gần. Khi mà các ngân hàng nước ngoài thật sự gia nhập vào nền kinh tế Việt Nam thì đó sẽ là một sự cạnh tranh quyết liệt và nhất định sẽ xảy ra tình trạng các ngân hàng thôn tính lẫn nhau hay sát nhập nếu như khả năng tài chính của các ngân hàng đó không đủ. Do đó trong điều kiện hiện tài khi mà nền kinh tê Việt Nam còn đang trong quá trình phát triển và các cam kết mở cửa với lĩnh vực ngân hàng còn chưa thực hiện thì các ngân hàng Việt Nam nói chung và BIDV nói riêng cần củng cổ vị thế, thương hiệu và năng lực tài chính của mình để có đủ khả năng cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài.
Để có thể nâng cao năng lực tài chính và vị thế của ngân hàng thì phát triển hoạt động KDNT là hết sức cần thiết đối với BIDV. Khi mà nền kinh tế mở cửa thì hoạt động xuất nhập khẩu, hoạt động đầu tư quốc tế sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn, cũng tức là dòng ngoại tệ trên thị trường sẽ luân chuyên mạnh hơn, thị trường ngoại hối sẽ có cơ hội phát triển hơn. Do đó BIDV cần phát triển hơn nữa hoạt động KDNT của mình để có thể trước hết là đáp ứng được nhu cầu và phù hợp với sự phát triển của thị trường. Thứ đến là có đủ khả năng cạnh tranh với không chỉ các ngân hàng trong nước mà còn với cả các ngân hàng nước ngoài sẽ tham gia thị trường trong thời gian tới.
Thực tế hiện tại thì hoạt động KDNT của BIDV có một số vấn đề như đã phân tích ở trên. Để có thể phát triển hoạt động KDNT của mình thì trong số những giải pháp đề cập ở trên BIDV cần chú trọng đến 3 giải pháp chính mà nó chi phối đến cả các giải pháp khác đó là: phát huy nhân tố con người một cách tích cực chủ động trong hoạt động KDNT, không ngừng hoàn thiện công nghệ đáp ứng sự phát triển của thị trường và hoàn thiện qui trình thủ tục ngân hàng liên quan đến hoạt động KDNT của BIDV. Có làm tốt 3 giải pháp này thì BIDV mới có thể thực hiện các giải pháp khác một cách dễ dàng không chỉ trong hoạt động KDNT mà tất cả các hoạt động kinh doanh của mình.
Do có hạn chế về mặt kiến thức và khả năng nhận thức nên luận văn không thể tránh khỏi thiếu sót. Mong các thầy cô đóng góp kiến để em có thể hoàn thiện hơn nữa để tài trên.
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình Ngân hàng thương mại trường đại học Kinh tế Quốc dân, khoa ngân hàng tài chính, chủ biên PGS.TS Phan Thị Thu Hà – nhà xuất bản thống kê 2006
Giáo trình Nghiệp vụ thanh toán quốc tế trường đại học Kinh tế Quốc dân, chủ biên PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo – nhà xuất bản lao động xã hội 2006
Giáo trình Thanh toán quốc tế đại học ngoại thương – nhà xuất bản giáo dục 2002
Giáo trình thanh toán quốc tế và tín dụng quốc tế, đại học quốc gia Hà Nội, nhà xuất bản giáo dục quốc gia Hà Nội 2000
Giáo trình Tài chính quốc tế học viện tài chính – chủ biên PGS.TS Đinh Trọng Thịnh - nhà xuất bản tài chính 2006
Quản trị ngân hàng thương mại – PGS.TS Nguyễn Thị Mùi – nhà xuất bản tài chính 2006
Thanh toán quốc tế và hối đoái, Dương Hữu Hạnh – nhà xuất bản thống kê 2005
Nguyễn Văn Tiến: thị trường ngoại hối Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế, nhà xuất bản thống kê 2002
Nguyễn Văn Tiến: cẩm nang thị trường ngoại hối và các giao dịch kinh doanh ngoại hối, xuất bản lần thứ tư, nhà xuất bản thống kê 2004
Một số web site của các ngân hàng và tổ chức
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam: www.bidv.com.vn
Ngân hàng ngoại thương Việt Nam: www.vietcombank.com.vn
Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam: www.eximbank.com.vn
Ngân hàng thương mại cổ phẩn Sài gòn Thương tín:
www.sacombank.com.vn
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu: www.acb.com.vn
Ngân hàng nhà nước Việt Nam: www.sbv.gov.vn
“Quản lý dự trữ ngoại hối tại Ngân hàng Nhà nước: Thực trạng và giải pháp” (Số 21/2007), Trần Thanh Hải
“Chính sách can thiệp ngoại hối kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam”, thời báo ngân hàng 04/07/2006, Nguyễn Chí Thành
Một số bài báo trên các báo điện tử
www.vnexpress.net
www.vneconomy.com.vn Báo điện tử - thời báo kinh tế Việt Nam
www.saga.com.vn
www.vietnamnet.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH55.docx