LỜI MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài:
Toàn cầu hóa kinh tế đang là xu hướng tất yếu của thế giới hiện nay. Thế gới ngày nay xuất hiện ngày càng nhiều các mối liên kết song phương, đa phương, liên kết khu vực và liên kết toàn cầu thông qua Tổ chức thương mại thế giới (WTO), các khu vực mậu dịch tự do, các thị trường chung Các nền kinh tế ngày càng liên kết chặt chẽ, phụ thuộc lẫn nhau và cũng cạnh tranh nhau rất gay gắt, quyết liệt. Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà tăng trưởng mạnh mẽ và đã thật sự hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới mà mốc đánh dấu cuối cùng là việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng 11 năm 2006. Việt Nam đang được Thế giới biết đến là nước đang có nền kinh tế phát triển nhanh, năng động và là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư quốc tế.
Trong bức tranh kinh tế sống động ấy, Bình Dương được xem là một điểm sáng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong nhiều năm, là địa phương có môi trường đầu tư hấp dẫn nhất nước. Trong những năm qua, với chính sách “trải thảm đỏ mời gọi nhà đầu tư”, “trải chíêu hoa thu hút nhân tài”, Bình Dương đã thu hút nhiều nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Lĩnh vực tài chính – ngân hàng cũng có sự phát triển mạnh mẽ, hàng loạt các tổ chức tín dụng trong nước và nước ngoài thành lập chi nhánh trên địa bàn. Hoạt động ngân hàng trên địa bàn diễn ra hết sức sôi động và hệ thống các tổ chức tín dụng trên địa bàn đã có những đóng góp to lớn đến sự phát triển kinh tế của tỉnh.
Thực hiện các cam kết với WTO về mở cửa thị trường tài chính và ngân hàng, lĩnh vực tài chính và ngân hàng được đánh giá là một trong những lĩnh vực Việt Nam chịu áp lực cạnh tranh nhất với sự tham gia của nhiều tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế. Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chính, mang lại nguồn thu chủ yếu cho các tổ chức tín dụng. Trong hội nhập và cạnh tranh quốc tế, vấn đề đặt ra là hoạt động tín dụng phải phát triển như thế nào, đổi mới như thế nào để phù hợp với thông lệ quốc tế, bảo đảm phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng tín dụng?
Xuất phát từ thực tiễn hoạt động tín dụng trên địa bàn trong thời gian qua và triển vọng phát triển ngành trong thời gian tới trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, trong khuôn khổ luận văn xin được trình bày đề tài “Phát triển hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh Bình Dương trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế”.
II. Mục tiêu nghiên cứu:
Luận văn giải quyết các vấn đề sau:
Phản ánh và đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Nhận diện những cơ hội và thách thức đối với hoạt động ngân hàng trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Đề ra các giải pháp phát triển hoạt động tín dụng theo hướng tiến dần đến thông lệ quốc tế nhằm đảm bảo khả năng cạnh tranh và sự phát triển bền vững hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu cơ sở lý luận về tín dụng, các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến hoạt động của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam.
Nghiên cứu thực trạng hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Nhận diện các cơ hội và thách thức đối với hoạt động tín dụng trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Đề ra các giải pháp phát triển hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng trên địa bàn trong tình hình mới.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, đồng thời vận dụng một số phương pháp như phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, thống kê
V. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày theo kết cấu như sau:
Chương 1: Tổng quan về tín dụng và tổ chức tín dụng tại Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng trên địa bàn tỉnh Bình Dương
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh Bình Dương trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Để minh họa cho luận văn, tôi đã dùng số liệu của Ngân hàng Nhà nước tỉnh Bình Dương, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, các tạp chí, báo cáo có liên quan đến tình hình kinh tế tỉnh Bình Dương.
74 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1691 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh Bình Dương trong thời kỳ hội nhập kinh tế Quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hát triển
kinh tế của đất nước.
3.1.1.2. Đối với lĩnh vực tài chính – ngân hàng
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng Việt Nam tiếp thu
vốn, công nghệ, trình độ quản lý, kinh nghiệm kinh doanh và nguồn nhân lực chất lượng
cao với các chuyên gia giỏi từ các nước có các tổ chức tín dụng phát triển thông qua các
kênh: hoạt động của các tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam; sự tham gia góp vốn
Trang:52/74
mua cổ phần, góp vốn liên doanh để từ có chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý
vào các tổ chức tín dụng Việt Nam; tự bản thân các tổ chức tín dụng trong nước học hỏi,
tiếp thu công nghệ, khả năng kinh doanh kinh nghiệm và kỹ năng quản lý từ các tổ chức
tài chính ngân hàng nước ngoài…
Trong các cam kết của Việt Nam đối với WTO, tài chính ngân hàng là một trong
những lĩnh vực Việt Nam cam kết mở cửa mạnh mẽ nhất. Theo lộ trình hội nhập, các
ngân hàng nước ngoài sẽ ngày càng được kinh doanh nhiều sản phẩm dịch vụ tài chính
ngân hàng tại Việt Nam như: kể từ ngày 01/04/2007 các nhà đầu tư nước ngoài được
thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài được
mua tối đa 30% cổ phần của các ngân hàng thương mại Việt Nam, các ngân hàng được
phép huy động tiền gửi VND từ thể nhân Việt Nam sau 5 năm kể từ khi Việt Nam gia
nhập WTO…sự tham gia của các tổ chức tài chính ngân hàng nước ngoài với bề dày
kinh nghiệm hoạt động, trình độ quản lý và công nghệ tốt, sản phẩm dịch vụ đa dạng,
nhiều tiện ích, có tính cạnh tranh cao sẽ thúc đẩy thị trường tài chính ngân hàng Việt
Nam phát triển.
Hội nhập kinh tế quốc tế buộc các ngân hàng thương mại quốc doanh phải tiến
hành cải tổ lại hệ thống, hiện đại hoá ngân hàng và đổi mới phương thức hoạt động kinh
doanh để đáp ứng yêu cầu của hội nhập. Các năm vừa qua, dưới sự hỗ trợ của Ngân
hàng Thế giới, bốn ngân hàng thương mại quốc doanh gồm: Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam đã tiến hành các dự án
hiện đại hoá công nghệ thông tin, cải cách hệ thống quản trị điều hành và cơ cấu tổ chức
theo hướng tiến gần đến thông lệ quốc tế. Các dự án hiện đại hoá đã làm thay đổi căn
bản nền tảng công nghệ thông tin và cơ cấu tổ chức của các ngân hàng thương mại quốc
doanh. Không dừng lại ở đó, Chính phủ Việt Nam đã thể hiện quyết tâm trong việc cải
tổ các ngân hàng thương mại nhà nước để đáp ứng yêu cầu hội nhập bằng chủ trương cổ
phần hoá toàn bộ các ngân hàng thương mại quốc doanh trong hai năm 2007 và 2008.
Trong thời gian tới, cổ phần hoá các ngân hàng thương mại quốc doanh sẽ làm thay đổi
căn bản hoạt động kinh doanh của các ngân hàng này theo hướng tiến dần đến các thông
Trang:53/74
lệ quốc tế, nâng cao năng lực tài chính, hiệu qủa hoạt động và thúc đẩy các ngân hàng
này phát triển.
Hội nhập kinh tế quốc tế đem lại cơ hội phát triển rất lớn cho nền kinh tế. Sẽ có
hàng loạt các doanh nghiệp mới ra đời thuộc mọi thành phần kinh tế cùng với sự lớn
mạnh của các doanh nghiệp hiện tại, sự giàu lên của tầng lớp dân cư… kéo theo nhu cầu
về các dịch vụ tài chính ngân hàng lớn hơn, đòi hỏi chất lượng cao hơn. Nhu cầu thị
trường tăng là cơ hội để các tổ chức tín dụng nước ta mở rộng quy mô hoạt động, đa
dạng hoá sản phẩm, phát triển lớn mạnh theo sự phát triển của nền kinh tế, ngang tầm
với các tổ chức tài chính ngân hàng khu vực và thế giới .
3.1.2. Những thách thức đặt ra
3.1.2.1. Trên góc độ tổng thể của nền kinh tế
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách
thức lớn đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực vượt qua mới có thể tận dụng tốt các cơ hội phát
triển. Nền kinh tế nước ta vừa yếu kém lạc hậu lại đang trong quá trình chuyển đổi mô
hình cũ sang nền kinh tế thị trường nên các rào cản và thách thức trong hội nhập là rất
lớn. Những thách thức chủ yếu đặt ra là:
Nhận thức về hội nhập quốc tế còn hạn hẹp. Toàn cầu hóa và hội nhập là xu thế
khách quan nhưng nhiều người vẫn lo ngại có bị các cường quốc tư bản chi phối và lấn
át không? Có làm chệch hướng XHCN mà nước ta đã lựa chọn không? Đã chấp nhận
hội nhập nhưng nội dung và lộ trình, đường đi nước bước thế nào để đảm bảo thành
công? Hội nhập với thế giới nhưng chúng ta đã hiểu biết thế giới đến mức nào? Từ
những hiểu biết hạn hẹp đó phát sinh nhiều tư tưởng lo ngại, không thuận chiều cho sự
nghiệp hội nhập.
Hội nhập vào các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới chúng ta phải
thực hiện nghĩa vụ của một thành viên, phải thực hiện các cam kết quốc tế, đòi hỏi
chúng ta phải sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh luật pháp, chính sách cho phù hợp. mặc dù đã
tích cực điều chỉnh luật pháp trong những năm qua, nhưng nước ta vẫn còn hàng chục
bộ luật và hàng trăm văn bản dưới luật phải sửa đổi, điều chỉnh và ban hành mới để tạo
cơ sở pháp lý cho hội nhập.
Trang:54/74
Hội nhập để có sự lựa chọn đúng và thúc đẩy thiết lập cơ cấu kinh tế mới. Tuy
nhiên việc đầu tiên là phải xử lý hoặc loại bỏ cơ cấu kinh tế cũ, lạc hậu không còn phù
hợp với nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập. Cơ cấu lại nền kinh tế luôn luôn là
công việc cực kỳ khó khăn, phức tạp, đụng chạm đến nhiều lĩnh vực tài chính, công
nghệ, công ăn việc làm, thể chế điều hành,… buộc phải thay đổi từ cơ sở hạ tầng đến
kiến trúc thượng tầng.
Hội nhập là nhập chung vào sân chơi chung công khai, bình đẳng, việc thành bại là
tùy vào sức mình. Vì vậy để chiến thắng trên thị trường hội nhập thì năng lực cạnh tranh
phải cao. Tuy nhiên Việt Nam mới có nền kinh tế thị trường, bước đầu hội nhập nên sức
cạnh tranh còn yếu kém trên cả ba cấp độ: cạnh tranh quốc gia, cạnh tranh của doanh
nghiệp và cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ. Đây là thử thách mang tính quyết định.
Để vượt qua thách thức này phải tập trung sức lực nhanh chóng nâng cao năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế nước ta trên cả ba cấp độ, phải tận dụng lợi thế so sánh để mở
rộng thương mại quốc tế, phải phối hợp chính sách trên nhiều lĩnh vực để cải thiện vị
thế cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế. Cuối cùng điều quan trọng là phải xác
định, lựa chọn được những ngành nghề, những hàng hóa và dịch vụ Việt Nam có tiềm
năng, có ưu thế phát triển vừa đáp ứng nhu cầu thị trường quốc tế vừa tiến nhanh vào
công nghệ hiện đại của nền kinh tế tri thức.
Hội nhập, mở cửa thị trường tác động đến nhiều lĩnh vực quan trọng. Giảm thuế
quan lập tức ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách, lấy gì bù đắp cho phần giảm thu thuế
nhập khẩu trong Ngân sách Nhà nước? Mở cửa, thuận lợi hóa thương mại tác động đến
hệ thống quản lý cửa khẩu, đến xuất nhập khẩu hàng hóa làm thế nào để vừa có tự do
thông thoáng trong giao lưu hàng hóa vừa kiểm soát, chống gian lận thương mại. Mở
cửa, hàng ngoại tràn vào thì việc điều tiết bình ổn thị trường không còn đơn giản nữa,
không thể chỉ trông cậy vào các biện pháp tổ chức, hành chính được nữa. Tự do hóa
thương mại tăng áp lực cạnh tranh là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp trong
nước, sức lực đã yếu kém lại không quen cạnh tranh thương trường, mà thất bại là phá
sản, là mất việc làm, thất nghiệp. Đó là những thách thức không nhỏ mà chúng ta phải
đối đầu trong quá trình hội nhập.
Trang:55/74
Hội nhập cũng là một thách thức đối với đội ngũ cán bộ thiếu kiến thức lại chưa
quen đương đầu với thị trường mở cửa, hội nhập. Năng lực cán bộ chưa đáp ứng được
yêu cầu hội nhập cũng là một cản trở trong công cuộc hội nhập. Việc nâng cao năng lực
cho đội ngũ cán bộ là đòi hỏi bức bách để đẩy mạnh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
của nước ta. Tương tự như vậy, yêu cầu nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc đối với
người lao động, đặc biệt là người lao động làm việc tại các doanh nghiệp nhà nước để
đáp ứng yêu cầu hội nhập, nâng cao năng suất lao động cũng đang là vấn đề đặt ra đối
với nền kinh tế.
3.1.2.2. Đối với hệ thống tài chính - ngân hàng
Hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra sâu rộng,
các nền kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ, phụ thuộc lẫn nhau thì nền kinh tế Việt Nam sẽ
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ, trực tiếp từ sự phát triển của tình hình kinh tế thế giới, cả tác
động tích cực khi nền kinh tế thế giới phát triển và các tác động tiêu cực khi nền kinh tế
Thế giới đình đốn, khủng hoảng. Tài chính ngân hàng là lĩnh vực nhạy cảm nhất trước
những biến động của tình hình kinh tế thế giới. Nếu có bất cứ một cuộc khủng hoảng
kinh tế nào xảy ra trong tương lai thì chắc chắn nó sẽ tác động mạnh mẽ đến hệ thống
tài chính ngân hàng nước ta, hoàn toàn khác với cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm
1997 – 1998. Hậu qủa của các tác động đó đối với nền kinh tế và hệ thống tài chính
ngân hàng nước ta sẽ rất nguy hiểm, khó lường bởi nước ta vừa mới hội nhập vào nền
kinh tế thế giới, còn non kém trong việc kiểm soát hệ thống tài chính tiền tệ, ngoại hối,
các giao dịch vốn, đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp của các tổ chức tài chính nước
ngoài. Điều đó đặt ra vấn đề về công tác quản lý, giám sát, cơ chế điều hành nền tài
chính tiền tệ quốc gia của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập kinh tế quốc tế.
Như đã đề cập ở phần trên, trong các cam kết của Việt Nam đối với WTO, tài
chính ngân hàng là một trong những lĩnh vực Việt Nam cam kết mở cửa mạnh mẽ nhất.
Như vậy trong thời gian tới thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam sẽ có sự tham gia ngày
càng sâu rộng hơn của các tổ chức tài chính ngân hàng nước ngoài đến từ các nước có
nền kinh tế phát triển. Các tổ chức tín dụng trong nước trong thời gian qua tuy đã có sự
phát triển khá mạnh mẽ nhưng so với các tổ chức tài chính nước ngoài thì vẫn còn rất
Trang:56/74
nhỏ bé về quy mô hoạt động, năng lực tài chính, kinh nghiệm quản lý và công nghệ và
đặc biệt là tính đa dạng của sản phẩm dịch vụ. Theo các cam kết với WTO về mở cửa
thị trường tài chính – ngân hàng, hàng loạt các cam kết mở cửa thị trường sẽ được thực
hiện, một số cam kết đặt ra thách thức đối với các tổ chức tín dụng trong nước gồm có:
+ Về việc thành lập ngân hàng nước ngoài: kể từ tháng 04 năm 2007 nhà đầu tư
nước ngoài được phép mở ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam;
+ Về việc huy động vốn VND của ngân hàng nước ngoài: các ngân hàng nước
ngoài, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam được
phép huy động tiền gửi nội tệ từ các thể nhân Việt Nam mà ngân hàng không
có quan hệ tín dụng theo tỷ lệ trên mức vốn được cấp của chi nhánh với mức
tiền gửi tối đa và theo lộ trình. Cụ thể: từ ngày 1/1/2007, tỷ lệ được huy động
là 650% vốn được cấp; từ ngày 1/1/2008 là 800% vốn được cấp; từ ngày
1/1/2009: 900% vốn được cấp; từ ngày 1/1/2010: 1.000% vốn được cấp và
sau ngày 1/1/2011 sẽ được đối xử quốc gia đầy đủ.
+ Dịch vụ thẻ: các ngân hàng nước ngoài, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
đang hoạt động tại Việt Nam được quyền phát hành thẻ tín dụng tại Việt Nam
trên cơ sở đối xử quốc gia đầy đủ khi được cơ quan chức năng Việt Nam chấp
thuận.
Thực hiện các cam kết trên, thị trường tài chính – ngân hàng sẽ diễn ra cạnh tranh
gay gắt quyết liệt với nhiều ưu thế nghiêng về các tổ chức tín dụng nước ngoài đặt ra
thách thức vô cùng to lớn đối với các tổ chức tín dụng trong nước.
Vấn đề nâng cao năng lực tài chính, đổi mới cơ cấu tổ chức và quản trị điều hành
của các tổ chức tín dụng trong nước để đạt các chuẩn mực quốc tế đang là vấn đề khó
khăn đối với các tổ chức tín dụng trong nước. Với đặc điểm của một nền kinh tế đang
phát triển, các tổ chức tín dụng trong nước mặc dù trong thời gian qua đã có những
bước phát triển vượt bậc về nhiều mặt, đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế đối với
các sản phẩm tài chính, ngân hàng nhưng các tổ chức tín dụng trong nước vẫn còn rất
nhiều mặt hạn chế so với các tổ chức tín dụng khu vực và thế giới. Riêng về phương
diện tài chính, các hạn chế đó là vốn điều lệ thấp, các chỉ số tài chính thấp, các hệ số an
toàn trong hoạt động chưa tốt (hệ số vốn tự có trên tổng tài sản CAR thấp, tỷ lệ nợ xấu
Trang:57/74
trên tổng dư nợ cao,…). Những hạn chế trên sẽ làm suy yếu khả năng cạnh tranh của
các tổ chức tín dụng so với các tổ chức tín dụng nước ngoài.
Tình trạng chảy máu chất xám từ các tổ chức tín dụng trong nước, chủ yếu là tổ
chức tín dụng nhà nước sang các tổ chức tín dụng nước ngoài sẽ diễn ra trầm trọng hơn
trong hệ thống tài chính Việt Nam khi có sự tham gia ngày càng nhiều của các tổ chức
tài chính ngân hàng nước ngoài tại thị trường Việt Nam. Các tổ chức tài chính ngân
hàng nước ngoài với cơ chế linh hoạt trong tuyển dụng và bổ nhiệm, chuyên nghiệp,
hiện đại, môi trường làm việc tốt cùng các đãi ngộ… sẽ có sức hấp dẫn lớn đối với lực
lượng lao động Việt Nam có trình độ cao. Các tổ chức tín dụng trong nước sẽ gặp nhiều
khó khăn trong thu hút nhân tài, trong khi chất lượng nguồn nhân lực là một trong
những yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng. Thực trạng
trên đặt ra vấn đề xây dựng cơ chế, chính sách đối với người lao động tại các tổ chức tín
dụng trong nước.
3.2. Giải pháp phát triển hoạt động tín dụng trên địa bàn tỉnh Bình Dương
trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế
Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của thời đại.
Đứng trước các cơ hội và thách thức của thời kỳ hội nhập, hoạt động tín dụng của các tổ
chức tín dụng phải phát triển như thế nào? đổi mới như thế nào để phù hợp với thông lệ
quốc tế, bảo đảm phát triển bền vững cả về số lượng và chất lượng tín dụng, đảm bảo
khả năng cạnh tranh trước các tổ chức tín dụng nước ngoài? Các giải pháp được nêu ra
trong luận văn này tập trung vào ba nhóm giải pháp sau đây:
− Nhóm giải pháp đối với tổ chức tín dụng.
− Kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước và các bộ ngành có liên quan.
− Kiến nghị với các cấp chính quyền tỉnh Bình Dương.
3.2.1. Giải pháp đối với các tổ chức tín dụng
3.2.1.1. Đa dạng hóa sản phẩm
Hiện tại các sản phẩm dịch vụ ngân hàng của các tổ chức tín dụng Việt Nam còn
rất đơn điệu, dựa vào các sản phẩm truyền thống như cho vay, chuyển tiền, thanh toán
hàng hóa xuất nhập khẩu. Thị trường bán lẻ chưa khai thác hết nhu cầu của người dân
về sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Tín dụng vẫn là sản phẩm mang lại nhiều thu nhập nhất
Trang:58/74
nhưng cũng là sản phẩm rủi ro nhất của các tổ chức tín dụng. Các sản phẩm tín dụng
còn rất đơn điệu, chủ yếu tập trung vào một số sản phẩm như: cho vay đầu tư dự án và
cho vay thường xuyên phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp,
cho vay phục vụ kinh doanh và nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình… . Thị
trường tín dụng cá nhân lại càng bị bỏ ngỏ, chủ yếu do các ngân hàng thương mại cổ
phần khai thác nhưng sản phẩm chưa đa dạng dựa trên nền tảng công nghệ nên chưa
khai thác hết nhu cầu tín dụng của người dân.
Hội nhập vào nền kinh tế thế giới cùng với sự phát triển của thị trường chứng
khoán là kênh huy động vốn chủ yếu của nền kinh tế, các tổ chức tín dụng Việt Nam
cần phải đa dạng hóa các sản phẩm - dựa trên nền tảng công nghệ theo hướng phát triển
mạnh về các sản phẩm dịch vụ thanh toán, giảm dần tỷ trọng thu nhập từ tín dụng. Đối
với hoạt động tín dụng, các tổ chức tín dụng nên đa dạng hóa sản phẩm tín dụng, bao
thanh toán, cho vay dựa trên L/C hàng xuất, hạn mức thấu chi trên tài khoản tiền gửi,
phát triển các sản phẩm tín dụng bán lẻ thông qua thẻ tín dụng…
3.2.1.2. Đổi mới hoạt động tín dụng theo hướng tiến dần đến thông lệ quốc tế
3.2.1.2.1. Công tác tiếp thị có chọn lọc khách hàng
Yếu tố quyết định đến chất lượng tín dụng là khả năng tài chính và tình hình hoạt
động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Một doanh nghiệp có tình hình sản xuất kinh
doanh tốt, có thị trường tiêu thụ và tình hình tài chính lành mạnh luôn có khả năng hoàn
trả đầy đủ các khoản nợ đến hạn và bảo đảm uy tín với ngân hàng. Ngược lại, một
doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, không có thị trường tiêu thụ sản
phẩm, mất uy tín với đối tác kinh doanh, tình hình tài chính xấu, nợ phải trả cao, các hệ
số tài chính như khả năng thanh toán, vòng quay vốn lưu động, tỷ suất lợi nhuận thấp…
thì lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp này rất kém và ảnh hưởng trực tiếp đến khả
năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Chính vì vậy mặc dù trong điều kiện cạnh tranh
gay gắt giữa các tổ chức tín dụng như hiện nay và trong thời gian tới cạnh tranh còn
quyết liệt hơn nữa, các tổ chức tín dụng một mặt phải đẩy mạnh công tác tiếp thị, tiếp
cận đến mọi đối tượng khách hàng để giới thiệu về sản phẩm và dịch vụ của tổ chức tín
dụng. Mặt khác cần phải thận trọng, sáng suốt trong việc lựa chọn các khách hàng có
tiềm năng để cho vay. Bởi vì tín dụng là hoạt động có rủi ro rất cao, nếu xảy ra tổn thất
Trang:59/74
hậu qủa rất nặng nề, sản phẩm này có mức độ rủi ro cao hơn nhiều so với các sản phẩm
ngân hàng khác như chuyển tiền, thanh toán quốc tế, dịch vụ thẻ…
Công tác tiếp thị có chọn lọc khách hàng trong hoạt động tín dụng nhằm mục đích
đem đến cho tổ chức tín dụng một danh mục đa dạng các khách hàng và dự án đầu tư để
từ đó tổ chức tín dụng tiến hành các nghiệp vụ thẩm định để tìm ra các khách hàng có
hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, có khả năng hoàn trả nợ vay hay các dự án đầu tư
khả thi, có hiệu quả và bảo đảm khả năng trả nợ để cấp tín dụng.
Về tổ chức thực hiện: Công tác tiếp thị cần được tổ chức một cách chuyên nghiệp,
thành lập phòng marketing hoặc bộ phận marketing riêng do Giám đốc phân quyền hạn
và trách nhiệm. Nhân viên làm việc trong phòng/bộ phận này là các nhân viên có khả
năng giao tiếp tốt, có khả năng thu hút khách hàng và có trình độ chuyên môn cao, có
kinh nghiệm trong các lĩnh vực tín dụng, thanh toán quốc tế, am hiểu các quy định pháp
luật và văn bản chế độ ngân hàng để đủ sức đánh giá khách hàng ngay từ giai đoạn tiếp
xúc ban đầu, giải đáp thỏa đáng các câu hỏi khách hàng đặt ra nhằm tạo niềm tin với
khách hàng, có khả năng đề ra các định hướng hợp tác giữa khách hàng và ngân hàng để
hài hòa lợi ích hai bên và phù hợp với các quy định của pháp luật. Hiện nay ngoại trừ
Ngân hàng Ngoại thương Chi nhánh Bình Dương đã tổ chức công tác tiếp thị khá tốt và
hiệu qủa với sự tham gia trực tiếp của Giám đốc Chi nhánh và thành lập tổ tiếp thị thì
hầu hết các tổ chức tín dụng còn lại trên địa bàn chưa thực hiện công tác tiếp thị một
cách chuyên nghiệp, nguồn khách hàng chủ yếu dựa vào quan hệ của các lãnh đạo,
khách hàng tự tìm đến hay thông qua sự giới thiệu của các khách hàng đã có quan hệ tại
tổ chức tín dụng. Do đó đã xảy ra tình trạng có khách hàng đến đề nghị vay vốn là các
khách hàng ýêu kém không có tiềm năng thực sự, thậm chí nhằm mục đích lừa đảo ở
một số tổ chức tín dụng. Các tổ chức tín dụng khác cần phải nhìn nhận nghiêm túc vấn
đề trên và đúc rút ra các bài học kinh nghiệm để hoạt động tiếp thị phát huy được hiệu
qủa, đem đến những khác hàng tốt cho tổ chức tín dụng.
3.2.1.2.2. Công tác thẩm định và xét duyệt cho vay
Thẩm định và xét duyệt cho vay là công tác vô cùng quan trọng có tính chất quyết
định đến việc tổ chức tín dụng đồng ý hay từ chối cấp tín dụng đến khách hàng cũng
như quyết định đến chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng.
Trang:60/74
Nếu như tại các tổ chức tín dụng cổ phần, tổ chức tín dụng có vốn đầu tư nước
ngoài đã có sự tách biệt giữa công tác xét duyệt cho vay và công tác thẩm định thì các tổ
chức tín dụng nhà nước trên địa bàn đều thực hiện theo mô hình tín dụng cũ trong đó
không có sự tách biệt giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay, dẫn đến hồ sơ tín
dụng không được thẩm định một cách độc lập bởi các bộ phận chức năng và các quyết
định cho vay phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của người có thẩm quyền phán quyết
cho vay, tạo ra nhiều rủi ro có nguyên nhân từ phía ngân hàng. Nhận thức được điểm
yếu trên, với sự hỗ trợ kỹ thuật của Ngân hàng Thế giới, các tổ chức tín dụng nhà nước
trên địa bàn đã tiến hành tái cơ cấu lại mô hình tổ chức quản lý trong đó có tách bạch
giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay. Hồ sơ tín dụng được xem xét độc lập bởi
hai bộ phận chức năng là phòng Tín dụng và phòng Thẩm định. Người có quyền phán
quyết cho vay (giám đốc hoặc hội đồng tín dụng) nhận được hai nguồn thông tin tham
mưu sẽ có quyết định cho vay một cách khoa học và khách quan hơn, từ đó hạn chế
được rủi ro tín dụng có nguyên nhân từ các hạn chế trong khâu thẩm định và xét duyệt
cho vay.
Tuy nhiên các tổ chức tín dụng cũng đang gặp phải những khó khăn khi thực hiện
mô hình này đó là: thời gian thẩm định và xét duyệt cho vay kéo dài do hồ sơ tín dụng
phải trải qua hai bộ phận làm giảm khả năng cạnh tranh của tổ chức tín dụng, hồ sơ tín
dụng không hoàn toàn phản ánh hết thực chất hoạt động của một khách hàng trong điều
kiện nền kinh tế nước ta còn ở trình độ thấp, thông tin kém minh bạch so với các nước
có nền kinh tế phát triển, sự thiếu chuyên nghiệp của một bộ phận không nhỏ cán bộ tín
dụng và thẩm định …
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế Thế giới với sự tham gia ngày càng sâu
rộng của các tổ chức tài chính ngân hàng nước ngoài vốn có trình độ kỹ thuật, công
nghệ và tính chuyên nghiệp rất cao; để nâng cao hiệu qủa công tác thẩm định và xét
duyệt cho vay cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh, Một số biện pháp đề xuất đối
với các tổ chức tín dụng trong nước như sau:
- Tập trung chuẩn hóa quy trình thẩm định và xét duyệt cho vay, đặc biệt là quy trình
thẩm định bằng việc xây dựng hệ thống các chỉ tiêu thẩm định dự án đầu tư khoa
học, rõ ràng, dễ hiểu để các cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định thực hiện thống nhất.
Trang:61/74
Quy trình thẩm định và xét duyệt cho vay khoa học, minh bạch cũng có tác dụng rút
ngắn thời gian thẩm định và xét duyệt cho vay của tổ chức tín dụng.
- Xây dựng chính sách khách hàng nhằm mục đích phân loại khách hàng và áp dụng
những chính sách cụ thể (giới hạn tín dụng, lãi suất cho vay, cơ chế bảo đảm vốn
vay…) cho từng nhóm khách hàng cụ thể. Chính sách khách hàng phải được xây
dựng trên cơ sở khoa học, dựa vào hệ thống các chỉ tiêu định lượng và định tính về
các phương diện: đánh giá khả năng tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh, tốc độ
tăng trưởng, tỷ suất lợi nhuận… của khách hàng, mức độ quan hệ và uy tín của
khách hàng đối với tổ chức tín dụng. Nếu tổ chức tín dụng xây dựng được một
chính sách khách hàng tốt sẽ đem lại những kết qủa sau đây:
i. Phân loại các khách hàng đang và sẽ có quan hệ tín dụng thành các cấp độ:
khách hàng đặc biệt tốt, khách hàng tốt, khách hàng trung bình, khách hàng
xấu, khách hàng rất xấu.
ii. Có chính sách phù hợp đối với từng nhóm khách hàng về hạn mức tín dụng,
lãi suất cho vay, bảo đảm tiền vay…theo nguyên tắc lợi nhuận kỳ vọng bù
đắp được rủi ro, có cơ chế thu hút khách hàng tốt và hạn chế khách hàng xấu.
iii. Tạo ra sự rõ ràng, minh bạch trong hoạt động tín dụng, ngăn ngừa các hành vi
lợi dụng quyền hạn để phán quyết cho vay trái quy định, bệnh chủ quan duy ý
chí của một bộ phận không nhỏ các cán bộ lãnh đạo tổ chức tín dụng, ngành
ngừa các hành vi cấu kết giữa khách hàng và ngân hàng để trục lợi…
3.2.1.2.3. Công tác quản lý giải ngân
Trước khi hội nhập kinh tế, công tác quản lý giải ngân vốn vay là công việc khá
đơn giản và không nhiều rủi ro bởi việc giải ngân vốn vay phải tuân theo các điều kiện
cho vay quy định tại hợp đồng tín dụng, hay các quy định khá chặt chẽ của nhà nước
(đặc biệt đối với các khoản giải ngân xây dựng cơ bản thanh toán bằng nguồn vốn ngân
sách nhà nước). Tuy nhiên trong bối cảnh hội nhập kinh tế, công tác giải ngân vốn vay
của các tổ chức tín dụng nước ta nói chung và các tổ chức tín dụng trên địa bàn Bình
Dương nói riêng đang gặp phải vấn đề định giá chuyển giao trong xuất nhập khẩu hàng
hóa và dịch vụ.
Trang:62/74
Do hiện nay các cơ quan Thuế và Hải quan Việt Nam chưa có đầy đủ thông tin
kiểm soát giá cả các hàng hoá nhập khẩu như nguyên vật liệu, dịch vụ và đặc biệt là
máy móc thiết bị hay công nghệ sản xuất; thêm vào đó là kẻ hở xuất phát từ chính sách
khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu của Chính phủ trong đó miễn thuế nhập khẩu,
thuế giá trị gia tăng đối với hàng hoá là nguyên vật liệu dùng để sản xuất hàng xuất
khẩu, máy móc thiết bị tạo tài sản cố định sản xuất hàng xuất khẩu và miễn thuế giá trị
gia tăng đầu ra đối với hàng hoá xuất khẩu. Quy định trên vô tình đã tạo ra kẻ hở không
kiểm soát được giá cả hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu bằng công cụ thuế. Do đó các
doanh nghiệp có thể cấu kết với đối tác nước ngoài để nâng khống giá trị hàng hóa nhập
khẩu nhằm mục đích tăng chi phí sản xuất kinh doanh, trốn thuế thu nhập doanh nghiệp.
Nếu tổ chức tín dụng cho vay sẽ gặp rủi ro do khách hàng đã vi phạm pháp luật, nếu bị
cơ quan quản lý nhà nước phát hiện khách hàng có thể bị phạt rất nặng, thậm chí đình
chỉ hoạt động sản xuất kinh doanh dẫn mất khả năng hoàn trả vốn vay.
Một rủi ro khác đối với tổ chức tín dụng cho vay xuất phát từ định giá chuyển giao
trong xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ là khách hàng vay nâng khống giá trị hàng
hoá nhập khẩu để vay vốn ngân hàng. Có thể nhận thấy rõ rủi ro này qua trường hợp giả
định như sau: một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện Dự án đầu tư máy
móc thiết bị mở rộng sản xuất tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư 10.400.000 USD và vay
vốn tại ngân hàng. Biện pháp bảo đảm tiền vay là bảo đảm bằng tài sản hình thành từ
vốn vay theo tỷ lệ vốn vay/vốn tự có là 70%/30%, tức Doanh nghiệp đầu tư 3.120.000
USD và ngân hàng cho vay 7.280.000 USD và thế chấp lại ngân hàng toàn bộ tài sản
đầu tư trị giá 10.400.000 USD. Giả sử Doanh nghiệp đã nâng khống giá trị máy móc
30% để có tổng vốn đầu tư như trên là 10.400.000 USD. Thực chất tổng giá trị máy móc
là 8.000.000 USD. Như vậy vốn ngân hàng tham gia vào Dự án là 7.280.000 USD và
vốn tự có của Doanh nghiệp chỉ là 720.000 USD. Doanh nghiệp được lợi cả hai mặt:
nâng khống giá trị máy móc đầu tư để tính vào chi phí sản xuất kinh doanh, vốn đối ứng
doanh nghiệp phải chi ra để vay vốn ngân hàng thấp dẫn đến các khách hàng có năng
lực tài chính yếu vẫn có thể vay vốn ngân hàng và đầu tư dự án.
Hiện tại các tổ chức tín dụng chưa nhận thức vấn đề này hoặc có nhận thức được
nhưng vẫn chưa thể tìm ra biện pháp phòng chống rủi ro hiệu quả. Để hạn chế rủi ro
Trang:63/74
trong quản lý giải ngân vốn vay liên quan đến định giá chuyển giao, một số biện pháp
có thể áp dụng đó là:
- Thẩm định thật kỹ tư cách pháp lý, năng lực tài chính và uy tín, triết lý kinh
doanh của khách hàng. Các doanh nghiệp trọng chữ tín, làm ăn bài bản, tuân
thủ pháp luật sẽ không bao giờ áp dụng các hành vi lừa đảo có nguy cơ gây
mất uy tín, vi phạm pháp luật.
- Liên kết với các tổ chức có chức năng thẩm định giá trị tài sản trong và ngoài
nước để thẩm định giá trị tài sản đầu tư của khách hàng. Tìm kiếm nguồn
thông tin thẩm định giá cả và công nghệ máy móc thiết bị ngay trong khâu
thẩm định dự án đầu tư.
- Tăng cường các mối quan hệ hợp tác với các ngân hàng nước ngoài tại các
nước có công nghệ phát triển để có các thông tin về thíêt bị công nghệ và giá
cả máy móc thiết bị.
3.2.1.2.4. Công tác kiểm tra sau cho vay
Trong hoạt động tín dụng, rủi ro chỉ kết thúc khi các khoản cho vay đã được thu
hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi vay. Nếu như tổ chức tín dụng chỉ tập trung quan tâm đến
công tác thẩm định, xét duyệt cho vay và giải ngân vốn vay mà không theo dõi tình hình
sử dụng vốn vay, tình hình hoạt động của doanh nghiệp sau cho vay cũng rất dễ dẫn đến
rủi ro không thu hồi nợ đầy đủ, đúng hạn. Kiểm tra sau cho vay nhằm mục đích theo dõi
doanh nghiệp sử dụng vốn vay có đúng mục đích đã cam kết khi vay vốn hay không?
tình hình hoạt động của doanh nghiệp, kế hoạch tài chính trong tương lai… để có những
bước phát triển tiếp theo trong quan hệ tín dụng, xử lý các vấn đề phát sinh sau cho vay,
hay có những biện pháp thu hồi nợ vay khi phát hiện khách hàng vay sử dụng vốn vay
không đúng mục đích đã cam kết, khách hàng đang gặp khó khăn trong hoạt động sản
xuất kinh doanh hay có dấu hiệu lừa đảo…
3.2.1.3. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc
tế
Trong hoạt động tín dụng hiện đại theo thông lệ quốc tế, quản lý rủi ro tín dụng
được tổ chức thành một bộ phận độc lập với bộ phận tín dụng. Chức năng chính của
quản lý rủi ro tín dụng là không tham gia trực tiếp vào hoạt động tín dụng mà đánh giá
Trang:64/74
khách quan các vấn đề liên quan đến tín dụng như đánh giá chất lượng tín dụng và
khách hàng vay vốn, cơ cấu tín dụng ngắn, trung và dài hạn… để cung cấp thông tin
đánh giá đó đến nhà quản trị.
Các tổ chức tín dụng cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu an toàn tín dụng bằng các hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ doanh nghiệp, xếp hạng rủi ro tín dụng đối với chính tổ
chức tín dụng để từ đó đánh giá, đo lường chất lượng các khoản cho vay, chất lượng
khách hàng vay, phân tích cơ cấu dư nợ tín dụng (tín dụng ngắn hạn, trung dài hạn), tỷ
lệ dư nợ các thành phần kinh tế, tỷ lệ dư nợ có tài sản bảo đảm…
Xây dựng chính sách phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng theo thông
lệ quốc tế. Hiện tại, các tổ chức tín dụng thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng
rủi ro tín dụng theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Ngân
hàng Nhà nước ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để
xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng. Quy định này
đã có những bước tiến bộ vượt bậc, tiến đến thông lệ quốc tế trong việc phân loại nợ và
trích lập dự phòng rủi ro. Quy định này cho phép các tổ chức tín dụng lựa chọn phân
loại nợ theo hai phương pháp: định lượng (quy định tại Điều 6) và định tính (quy định
tại Điều 7).
Phân loại nợ theo phương pháp định lượng quy định tại Điều 6 Quyết định số
493/2005/QĐ-NHNN dựa trên số liệu dư nợ của khách hàng tại tổ chức tín dụng, cụ
thể: nợ nhóm 1 bao gồm các khoản nợ trong hạn, nợ nhóm 2 bao gồm các khoản nợ quá
hạn dưới 90 ngày, nợ nhóm 3 bao gồm các khoản nợ quá hạn dưới 180 ngày, nợ nhóm 4
bao gồm các khoản nợ quá hạn dưới 360 ngày, nợ nhóm 5 bao gồm các khoản nợ quá
hạn trên 360 ngày. Phương pháp phân loại nợ này có ưu điểm là dễ tính toán, dựa trên
số liệu kế toán đã có sẵn của tổ chức tín dụng. Tuy nhiên phương pháp phân loại nợ này
có nhược điểm rất lớn là chỉ phản ánh quan hệ vay - trả nợ của khách hàng vay mà chưa
phản ánh được năng lực tài chính thật sự của khách hàng (do chỉ dựa vào căn cứ duy
nhất là quan hệ vay vốn - trả nợ của khách hàng), chưa phản ánh được tình hình sản
xuất kinh doanh, kết quả kinh doanh, các ýêu tố về thị trường, đặc điểm ngành, quản trị
điều hành, triển vọng phát triển… của khách hàng vay. Do đó phương pháp phân loại nợ
Trang:65/74
theo Điều 6 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN vẫn còn nhiều hạn chế so với thông lệ
quốc tế.
Theo Điều 7 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN, các tổ chức tín dụng có đủ khả
năng và điều kiện thực hiện phân loại nợ theo phương pháp định tính thì xây dựng chính
sách phân loại nợ căn cứ trên Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Hệ thống xếp hạng tín
dụng nội bộ dựa trên các chỉ tiêu tài chính như: khả năng thanh toán (khả năng thanh
toán hiện hành, khả năng thanh toán nhanh…), chỉ tiêu hoạt động (vòng quay vốn lưu
động, vòng quay hàng tồn kho…) tỷ suất sinh lời (tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, tỷ
suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu), đòn cân nợ…các chỉ tiêu phi tài chính xem xét về
khả năng trả nợ, lưu chuyển tiền tệ, trình độ quản lý và môi trường nội bộ doanh nghiệp,
lịch sử quan hệ của khách hàng đối với các ngân hàng, thị trường và triển vọng phát
triển ngành…Phương pháp phân loại nợ này có ưu điểm rất lớn là đánh giá được toàn
bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và quan hệ vay vốn của khách hàng vay nên mức độ
tin cậy sẽ cao hơn, phản ánh đúng thực chất hơn chất lượng tín dụng của tổ chức tín
dụng. Theo phương pháp này, tổ chức tín dụng có thể trích lập dự phòng rủi ro cho các
khoản nợ chưa phát sinh nợ quá hạn nhưng được đánh giá có nguy cơ quá hạn trong
tương lai, giúp tổ chức tín dụng đối phó được các rủi ro tiềm ẩn trong tương lai. Vấn đề
đặt ra là Hệ thống tín dụng nội bộ do tổ chức tín dụng xây dựng phải khoa học để phản
ánh đúng chất lượng tín dụng và chất lượng khách hàng vay vốn và phù hợp với thông
lệ quốc tế. Bởi các chỉ tiêu xây dựng mang tính chất định tính và khá phức tạp. Hiện tại
mới chỉ có Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã xây dựng xong và triển khai hệ
thống xếp hàng tín dụng nội bộ. Các tổ chức tín dụng trong quá trình xây dựng hệ thống
xếp hạng tín dụng nội bộ cần phải học hỏi, hợp tác với các tổ chức tài chính, kiểm toán,
các ngân hàng lớn trên thế giới, có trình độ công nghệ và nhiều kinh nghiệm để xây
dựng hệ thống tín dụng nội bộ tốt.
3.2.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các bộ ngành liên
quan
Quy định pháp luật cần tuân thủ nguyên tắc minh bạch hóa: Hệ thống luật pháp nói
chung và pháp luật về ngân hàng nó riêng ở nước ta tuy những năm gần đây đã có rất
nhiều thay đổi, hoàn thiện dần nhưng vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, nhất là sự chồng
Trang:66/74
chéo, không minh bạch dẫn đến hiểu và vận dụng không thống nhất giữa các cơ quan
thực thi pháp luật. Hệ thống pháp luật về ngân hàng của Việt Nam còn thiếu, chưa đồng
bộ và nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Hiện vẫn còn tồn tại những hạn
chế tạo ra sự phân biệt đối xử giữa các loại hình tổ chức tín dụng, giữa các nhóm ngân
hàng và giữa ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài tạo ra sự cạnh tranh thiếu
lành mạnh. Điều đó tạo ra yêu cầu phải sửa đổi, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng,
thông thoáng theo nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO. Việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật về ngân hàng gắn liền với những nội dung chủ yếu như sau: sửa đổi
Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng và các văn bản pháp luật khác có
liên quan để đảm bảo Ngân hàng Nhà nước trở thành một Ngân hàng Trung ương hiện
đại; tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng trong hoạt
động kinh doanh; xây dựng, chỉnh sửa, bổ sung các quy định pháp luật ngân hàng về
cấp phép hiện diện thương mại, về tổ chức, hoạt động, quản trị điều hành của các tổ
chức tín dụng… các nội dung cụ thể bao gồm: Rà soát danh mục các dịch vụ tài chính –
ngân hàng của WTO để xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh các quy định đảm bảo của các tổ
chức tín dụng được thực hiện đầy đủ các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng theo WTO và
thông lệ quốc tế; hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối, cải cách hệ thống kế
toán ngân hàng phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế… Tóm lại, việc bổ sung, chỉnh
sửa các văn bản quy phạm pháp luật về ngân hàng phải hướng tới nguyên tắc không
phân biệt đối xử, phù hợp với cam kết WTO. Và đặc biệt, các quy định pháp luật cần
tuân thủ nguyên tắc minh bạch hóa.
Đổi mới công tác thanh tra các hoạt động tín dụng phù hợp với tình hình mới. Các
Ngân hàng thương mại quốc doanh sẽ tiến hành cổ phần hoá và chuyển sang mô hình
hoạt động của ngân hàng cổ phần đa sở hữu. Nếu như trước đây khi thanh tra hoạt động
tín dụng các ngân hàng thương mại nhà nước, các thanh tra viên quan niệm các ngân
hàng này hoạt động kinh doanh bằng vốn nhà nước nên hoạt động thanh tra, kiểm tra hết
sức chặt chẽ, mang nặng tính nguyên tắc, tuân thủ chế độ hơn tính thị trường. Thực tế
hoạt động dưới áp lực của cạnh tranh, các ngân hàng thương mại nhà nước thường phải
vận dụng linh hoạt các quy định pháp luật và trong các trường hợp nhạy cảm thường bị
thanh tra ngân hàng nhà nước bắt lỗi. Khi chuyển sang mô hình ngân hàng thương mại
Trang:67/74
cổ phần đa sở hữu, các ngân hàng thương mại này sẽ hoạt động kinh doanh tuân thủ hơn
các nguyên tắc của kinh tế thị trường do vậy công tác thanh tra hoạt động tín dụng cũng
cần thay đổi, đổi mới và theo thông lệ quốc tế.
Nâng cao hiệu qủa và chất lượng của mạng thông tin tín dụng ngân hàng nhà nước
(CIC), xây dựng và tổ chức một hệ thống thông tin tốt bao gồm: thông tin tín dụng,
thông tin khách hàng, thông tin về kinh tế, thông tin pháp luật … Các tổ chức tín dụng
phải có nghĩa vụ tham gia đầy đủ vào hệ thống thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà
nước với tư cách là những thành viên, thực hiện cung cấp thông tin đầy đủ chính xác để
tạo nên một hệ thống thông tin đầy đủ đáp ứng nhu cầu nắm bắt, trao đổi, phòng ngừa
rủi ro của các tổ chức tín dụng.
Nâng cao vai trò của hiệp hội ngân hàng, xây dựng hiệp hội ngân hàng thực sự trở
thành một tổ chức gắn kết các tổ chức tín dụng tạo nên mục tiêu hoạt động kinh doanh
ngân hàng lành mạnh, minh bạch, bình đẳng, năng động, hiệu quả và an toàn. Hiệp hội
ngân hàng phải là cầu nối với Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan quản lý nhà nước
khác trong việc bổ sung, chỉnh sửa, ban hành và thực thi các luật lệ, thể chế, bảo đảm
cho hoạt động ngân hàng phù hợp với nền kinh tế thị trường. Ngoài ra Hiệp hội ngân
hàng cần mở rộng, thúc đẩy quan hệ quốc tế, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng Việt
Nam có thêm kiến thức, kinh nghiệm để hội nhập quốc tế.
Kiến nghị Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tư pháp sửa đổi các điều
kiện thế chấp quyền sử dụng đất thuê tại các khu công nghiệp theo hướng cho phép các
doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp được thế chấp quyền sử dụng đất thuê
trả tiền hàng năm tại các tổ chức tín dụng nhằm khuyến khích nhà đầu tư đầu tư vào các
khu công nghiệp tập trung, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp cũng như hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng, góp phần bảo vệ môi
trường.
Kiến nghị các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan tăng
cường công tác hậu kiểm để ngăn chặn các hành vi gian lận trong thực hiện vốn đầu tư,
tăng chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh, trốn thuế của các doanh nghiệp… qua đó
gián tiếp giảm bớt rủi ro cho hoạt động ngân hàng. Chính sách đơn giản hóa thủ tục
trong cấp phép thành lập doanh nghiệp cần phải đi kèm với chính sách hậu kiểm có hiệu
Trang:68/74
qủa mới thực sự lành mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và hoạt
động ngân hàng, đem đến sự phát triển bền vững cho nền kinh tế.
3.2.3. Kiến nghị đối với các cấp chính quyền địa phương
Phát triển hoạt động tín dụng tại các tổ chức tín dụng trên địa bàn gắn liền với sự
phát triển của kinh tế Bình Dương. Khi kinh tế phát triển, thu hút vốn đầu tư tăng, đầu
tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước tăng, tốc độ đô thị hóa và dân cư tăng
cũng là các điều kiện thuận lợi để các tổ chức tín dụng trên địa bàn mở rộng hoạt động
tín dụng. Các kiến nghị sau đây đối với các cấp chính quyền địa phương nhằm hoàn
thiện môi trường kinh tế Bình Dương đồng thời cũng là những kiến nghị tạo điều kiện
cho các tổ chức tín dụng trên địa bàn phát triển.
Bình Dương được đánh giá là địa phương có môi trường đầu tư thông thoáng nhất
cả nước. Đạt được kết quả như trên nhờ Lãnh đạo tỉnh đã có chiến lược phát triển kinh
tế đúng đắn, nắm bắt và phát huy các lợi thế của địa phương. Hoạt động của các cơ quan
quản lý nhà nước hiệu qủa, thông thoáng, không quan liêu, hạch sách doanh nghiệp.
Trên cơ sở nền tảng sẵn có, cần phải phát huy hơn nữa các ưu điểm, tăng cường hiệu
qủa quản lý của các cấp chính quyền địa phương nhằm tạo ra môi trường kinh doanh
thông thoáng, hấp dẫn.
Do tốc độ thu hút đầu tư nhanh, công tác quy hoạch chưa theo kịp đầu tư của các
thành phần kinh tế dẫn đến tình trạng mất cân đối giữa phát triển kinh tế với các vấn đề
xã hội, nguồn lao động có tay nghề thiếu. Công tác quy hoạch phải đáp ứng được yêu
cầu phát triển đồng bộ kinh tế - văn hóa – xã hội.
Phát huy thế mạnh của tỉnh là tập trung phát triển các khu công nghiệp tập trung
tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư. Phát triển đồng bộ giữa phát triển các khu công
nghiệp với phát triển dân cư, giao thông, y tế, văn hóa, giáo dục đáp ứng nhu cầu về cơ
sở vật chất, hạ tầng, nguồn cung cấp lao động cho các doanh nghiệp.
Tăng cường công tác xúc tiến, kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước để thu hút các
nhà đầu tư đến với Bình Dương, ủy ban nhân dân tỉnh và các cấp chính quyền địa
phương cần có các cuộc xúc tiến thương mại, kêu gọi đầu tư tại các nước có vốn đầu tư
nước ngoài cao tại tỉnh như Mỹ, Châu Âu, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, …
Trang:69/74
Nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
trên địa bàn tỉnh như Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Thương Mại, Sở Tài nguyên và Môi
trường, cục thuế, cục Hải quan … góp phần tạo nên môi trường kinh doanh lành mạnh,
an toàn giữa các thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Các giao dịch bảo đảm luôn gắn liền với hoạt động cho vay của các tổ chức tín
dụng. Hiện nay tại tỉnh chỉ mới có 02 phòng công chứng với tổng cộng 05 công chứng
viên dẫn đến tình trạng qúa tải tại các phòng công chứng, Sở Tư pháp cần tăng cường
đội ngũ cán bộ công chứng để đáp ứng nhu cầu công chứng cho các giao dịch bảo đảm,
rút ngắn thời gian công chứng tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các tổ chức
tín dụng và khách hàng vay vốn.
Theo quy định của Luật đất đai năm 2003, hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng
quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của hộ gia đình, cá nhân không bắt buộc phải
có công chứng của cơ quan công chứng mà có thể chứng thực tại UBND cấp xã nơi có
đất. Tuy nhiên không phải tất cả các cán bộ địa chính cấp xã nắm được hết các quy định
liên quan đến việc chứng thực hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng Quyền sử dụng đất, tài
sản gắn liền với đất của hộ gia đình, cá nhân dẫn đến tình trạng mỗi nơi chứng thực một
kiểu, đôi khi không đúng theo quy định. UBND tỉnh, Sở Tài nguyên và Môi trường cần
phải tăng cường chỉ đạo, phổ biến kiến thức liên quan đến Luật đất đai và quy định về
chứng thực hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất
cho các cán bộ địa chính cấp xã.
UBND tỉnh cần phải ban hành khung giá đất sát với giá thị trường để dần tạo nên
cơ chế một giá cho thị trường bất động sản, đồng thời tạo thuận lợi cho cả các tổ chức
tín dụng đẩy mạnh cho vay vốn đối với khách hàng trên cơ sở nhận thế chấp quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
Trong trường hợp phải xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ vay, các cơ quan chính
quyền địa phương có sự phối hợp, hỗ trợ hơn nữa để tổ chức tín dụng xử lý nhanh
chóng tài sản bảo đảm để thu hồi vốn. Đơn giản hóa các thủ tục phát mãi tài sản, tăng
quyền tự quyết của tổ chức tín dụng trong trường hợp xảy ra tranh chấp trong qúa trình
xử lý tài sản bảo đảm.
Trang:70/74
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra các cơ hội phát triển và các thách thức cho tổng
thể nền kinh tế nói chung và hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng nói riêng. Trên
góc độ tổng thể nền kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế đem lại những thuận lợi cơ bản
sau: tạo môi trường hòa bình và hợp tác, tạo thế và lực cho nền kinh tế nước ta trên
trường quốc tế, mở ra cơ hội mở rộng thị trường, tíêp thu khoa học công nghệ và đào
tạo nhân lực và nhân tài cho đất nước. Bên cạnh đó, nền kinh tế cũng phải đối mặt với
những thách thức hết sức to lớn: nhận thức về hội nhập vẫn còn hạn hẹp ở đâu đó; hệ
thống luật pháp nước ta phải sửa đổi, hoàn thiện cho phù hợp với thông lệ quốc tế,
những khó khăn trong cơ cấu lại nền kinh tế, cạnh tranh gay gắt ở cả 3 cấp độ là cạnh
tranh quốc gia, cạnh tranh doanh nghiệp và cạnh tranh về hàng hóa dịch vụ. Đối với
lĩnhvực tài chính ngân hàng, hội nhập kinh tế quôc tế đem lại những thuận lợi cơ bản
sau: tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tíêp cận vốn, công nghệ, trình độ quản lý và
nguồn nhân lực chất lượng cao của quốc tế; sự tham gia của các ngân hàng nước ngòai
sẽ thúc đẩy hệ thống tài chính ngân hàng nước ta phát triển; các ngân hàng thương mại
nhà nước sẽ phải cải tổ và hiện đại hóa; thị trường của các tổ chức tín dụng sẽ lớn hơn
do sự ra đời của các doanh nghiệp mới trong nền kinh tế. Những thách thức đối với hệ
thống tài chính – ngân hàng nước ta trong thời kỳ hội nhập là: bên cạnh những tác động
tích cực của hội nhập, hệ thống tài chính nước ta sẽ chịu những tác động tiêu cực của
các cuộc khủng hoảng hệ thống có thể xảy ra; cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính – ngân
hàng sẽ rất gay gắt, khốc liệt; vấn đề nâng cao năng lực tài chính, đổi mới cơ cấu tổ
chức và quản trị điều hành của các tổ chức tín dụng; tình trạng chảy máu chất sám từ
các tổ chức tín dụng trong nước. . Người viết đã đề ra các giải pháp nhằm phát triển
hoạt động tín dụng trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Các giải pháp cơ bản được
đưa ra bao gồm: đa dạng hóa sản phẩm, tiến hành tiếp thị có chọn lọc khách hàng,
chuẩn hóa quy trình thẩm định và xét duyệt cho vay, công tác giải ngân, kiểm tra sau
cho vay, nâng cao hiệu quả công tác quản lý rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc
tế…Người viết cũng nêu ra một số kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước Việt Nam và
các bộ ngành liên quan như: minh bạch hóa hệ thống pháp luật, đổi mới công tác thanh
Trang:71/74
tra họat động tín dụng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phù hợp với tình hình
mới, nâng cao hiệu quả và chất lượng của mạng thông tin tín dụng, nâng cao vai trò của
hiệp hội ngân hàng, kiến nghị đối với việc thế chấp quyền sử dụng đất thuê tại các khu
công nghiệp, tăng cường công tác hậu kiểm của Bộ Kế họach và Đầu tư, Bộ Tài chính
để ngăn chặn các hành vi gian lận trong thực hiện vốn đầu tư, chuyển giá…Kiến nghị
các cấp chính quyền tỉnh Bình Dương nhằm hoàn thiện môi trường kinh tế, tạo điều
kiện cho các tổ chức tín dụng trên địa bàn phát triển. Các kiến nghị chủ yếu là: tăng
cường hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền địa phương, công tác quy hoạch phải
đáp ứng được yêu cầu của phát triển đồng bộ kinh tế - văn hóa - xã hội, tăng cường
công tác xúc tiến, kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước, nâng cao hiệu quả quản lý của
các cơ quan quản lý nhà nước…
Trang:72/74
KẾT LUẬN
Bình Dương đang trên đà tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và cùng với xu hướng đó là
sự phát triển nhanh chóng của các tổ chức tín dụng trên địa bàn. Sự xuất hiện ngày càng
nhiều các loại hình tổ chức tín dụng như ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên
doanh, công ty tài chính… đã tạo ra môi trường kinh doanh dịch vụ ngân hàng hết sức
sôi động - đặc biệt là hoạt động tín dụng và đem lại nhiều tiện ích cho khách hàng.
Nguồn vốn tín dụng từ các tổ chức tín dụng trong thời gian qua đã góp phần quan trọng
vào tăng trưởng và phát triển kinh tế của tỉnh Bình Dương.
Đứng trước các cơ hội và thách thức của thời kỳ hội nhập, các tổ chức tín dụng cần
phải đổi mới mạnh mẽ để phù hợp với thông lệ quốc tế, đảm bảo khả năng cạnh tranh
trước các đối thủ ngân hàng nước ngoài. Trong hội nhập và cạnh tranh quốc tế, hoạt
động tín dụng cần phải được đổi để phù hợp với thông lệ quốc tế, bảo đảm phát triển cả
về số lượng và chất lượng tín dụng.
Luận văn “Phát triển hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng trên địa
bàn tỉnh Bình Dương trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế” đã đưa ra một số quy
định hiện hành của pháp luật Việt Nam liên quan đến hoạt động tín dụng của các tổ
chức tín dụng; Phân tích thực trạng tình hình hoạt động tín dụng của các tổ chức tín
dụng trên địa bàn tỉnh Bình Dương; nhận diện các cơ hội và thách thức đối với hoạt
động của các tổ chức tín dụng để từ đó đưa ra những đề xuất, giải pháp nhằm phát triển
bền vững hoạt động tín dụng trên địa bàn trong thời kỳ mới - thời kỳ hội nhập và cạnh
tranh quốc tế..
Những nội dung nêu trong luận văn được phản ánh từ thực tế hoạt động tín dụng
của các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh Bình Dương, qua đó cũng là một tài liệu giúp
cho việc tìm hiểu hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng tại Bình Dương hiện nay,
đồng thời cũng là những kiến nghị, đề xuất từ quan điểm cá nhân của người viết đối với
các tổ chức tín dụng, các cấp chính quyền có liên quan để hoạt động tín dụng ngân hàng
của các tổ chức tín dụng được hoàn thiện hơn, góp phần phát triển kinh tế xã hội tỉnh
Bình Dương.
Tuy nhiên, do kiến thức và thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn không tránh khỏi
những khiếm khuyết, sai sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của Quý
thầy, cô và các bạn đọc quan tâm đến đề tài để bản thân có điều kiện tiếp tục nghiên cứu
và hoàn thiện hơn nữa.
Trang:73/74
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Hướng, Tô Kim Ngọc (2001) Lý thuyết tiền tệ và ngân hàng, NXB Thống Kê,
Hà Nội.
2. Nguyễn Đăng Dờn, Hoàng Đức, Trần Huy Hoàng, Trầm Xuân Hương (2001),
Tiền tệ - Ngân hàng, NXB TP HCM, TP HCM.
3. Nguyễn Đăng Dờn, Hoàng Đức, Trần Huy Hoàng, Trầm Xuân Hương, Nguyễn
Quốc Anh (2002), Tín dụng - Ngân hàng, NXB Thống kê, TP HCM.
4. Hồ Diệu (2002), Quản trị ngân hàng, NXB Thống kê, TP HCM.
5. Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX và Luật số 20/2004/QH11 của Quốc
Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về sửa đổi, bổ sung một số điều
của luật các tổ chức tín dụng.
6. Quy chế cho vay, Quy chế bảo lãnh ngân hàng và các văn bản khác về hoạt động
ngân hàng, ngoại hối của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
7. Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư.
8. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2004), Kinh tế Việt Nam 2003, Nhà
xuất bản chính trị quốc gia.
9. UBND tỉnh Bình Dương (2006), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng –
an ninh năm 2006 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2007.
10. UBND tỉnh Bình Dương (2005), Báo cáo tóm tắt quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương đến năm 2020.
11. Các trang web của các cơ quan, tổ chức sau:
- Ngân hàng Nhà nước.
- Các ngân hàng Thương mại, Công ty cho thuê tài chính.
- ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Trang:74/74
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 46796.pdf