Luận văn Phát triển nguồn lực kiều hối tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Viêt Nam chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh

Đề tài: Phát Triển nguồn lực Kiều hối tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Viêt Nam chi nhánh Tp.HCM. Mục lục: CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG KIỀU HỐI TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN TỪ NGUỒN KIỀU HỐI TẠI BIDV HCMC CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC KIỀU HỐI TẠI BIDV HCMC Trên cơ sở lý luận chung về dịch vụ Kiều hối của các ngân hàng trong giai đoạn đất nước hội nhập và phát triển, kết hợp với việc nghiên cứu các tài liệu, báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Thành phố Hồ chí Minh, của Ngân hàng Thế giới về lượng kiều hối chuyển về Việt Nam qua các năm. Đồng thời cũng kết hợp nghiên cứu thực tiễn hoạt động kiều hối của các Ngân hàng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; Luận văn đã chọn lọc đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực canh tranh của Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam-chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh với những nội dung chính được đề cập trong các chủ đề: Nhấn mạnh được những ưu diểm và nhược điểm trong công tác dịch vụ kiều hối tai BIDV HCMC để từ đó xác lập hướng phát triển, kiến tạo lợi thế cạnh tranh và triển khai các chiến lược phát triển dịch vụ phù hợp với dặc trưng của mình. Nâng cao dịch vụ huy động vốn từ kiều hối như xác định đúng đối tượng phục vụ, xác định đúng nhu cầu khách hàng, xác định đúng thị trường tiềm năng. Những giải pháp của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế vĩ mô nhằm thu hút hơn nửa nguồn tiền kiều hối về nước, phục vụ cho công cuộc đầu tư phát triển đất nước. Những giải pháp của BIDV Hội sở và BIDV HCMC nhằm nâng cao năng lực canh tranh của toàn hệ thống. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng bằng cách phát huy các dịch vụ thế mạnh của mình là một trong những hướng đi đúng đắn hiện nay. Do đó, việc xác định cho mình loại dịch vụ nào là cần thiết để đầu tư có hiệu quả góp phần nâng cao thương hiệu của mình là rất quan trọng. Trong cuốn luận văn này đã thấy được dịch vụ kiều hối cũng là một trong những dịch vụ trọng tâm để BIDV HCMC có thể quan tâm và phát huy đúng mức. Những giải pháp trong luận vãn được nghiên cứu dựa trên những đặc trưng cơ bản của BIDV HCMC đang có, do đó nó mang tính thiết thực có thể áp dụng được để góp phần đẩy mạnh dịch vụ kiều hối như các ngân hàng thương mại trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

doc56 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1555 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển nguồn lực kiều hối tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Viêt Nam chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
này vừa đóng vai trò là đầu vào và đồng thời cũng đóng vai trò đầu ra. Do đó khi tìm kiếm cơ hội hợp tác với các đối tượng trên, BIDV-HCMC phải chịu sức ép về phí dịch vụ. Địa điểm chi trả kiều hối của BIDV-HCMC không nhiều. Chưa có đội ngũ chuyên viên thực hiện dịch vụ kiều hối chuyên nghiệp trong chi trả tận nhà người thụ hưởng và chăm sóc khách hàng. Dịch vụ chuyển tiền nhanh chưa có sự liên kết giữa các chi nhánh trong cùng hệ thống. Điều này làm hạn chế mạng lưới chi trả kiều hối của BIDV nói chung và BIDV-HCMC nói riêng. Mặc dù BIDV có quan hệ đại lý với trên 800 ngân hàng thế giới nhưng dịch vụ chi trả kiều hối không nổi bật và ít được biết đến so với các dịch vụ khác như thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại. 2.3. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐẶT RA CHO BIDV HCMC TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC KIỀU HỐI. 2.3.1. Những điều kiện kinh tế, xã hội tác động đến sự tăng trưởng kiều hối. 2.3.1.1. Trước năm 1990. Như chúng ta đã biết, sau năm 1975, Việt Nam có khoảng hơn 2,7 triệu người sống ở nước ngoài. Trong đó đông nhất là ở Mỹ chiếm tơi 1,3 triệu người, ở Pháp có 300.000 người, ở Austalia có 150.000 người, ở Canada có 180.000 người…(Nguồn: www.Vnmedia.vn ). Nhờ phát huy truyền thống lao động cần cù, tiết kiệm, làm ăn chịu khó, chịu khổ, ngày càng có nhiều Việt kiều thành đạt trong kinh doanh buôn bán và làm các ngành nghề dịch vụ. Một số tầng lớp trẻ đã thành đạt trong học tập, đạt trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ. Một số có trình độ học vấn cao, tay nghề tốt đã được thu nhận vào làm việc ở các viện nghiên cứu, trường đại học và các ngành nghề khoa học kỹ thuật cao về nguyên tử, điện, tin học, luyện kim, hóa dầu, hàng không… và đang phát huy tác dụng tốt, làm rạng rỡ nòi giống Việt Nam trên đất người. Trong điều kiện như vậy, số đông Việt kiều đã có tài sản, vốn liếng tích lũy, tạo thanh nguồn ngoại tệ tiềm năng khá mạnh và chuyển về Việt Nam qua phương thức chuyển tiền kiều hối nhằm giúp đỡ bà con, người thân của họ ở quê hưongViệt Nam phát triển sản xuất kinh doanh và giải quyết các khó khăn trong đời sống hằng ngày. Nhận thấy đây là một tiềm lực về vốn đáng quý cần được khai thác, nên trong những năm 1990, Việt Nam đã có những chính sách khuyến khích kiều hối trở về nước, tuy nhiên vẫn không ít hạn chế mang tính chất của nền kinh tế tập trung và chưa thực sự khuyến khích chuyển kiều hối về nước như: người nhập cảnh không được tự do mang ngoại tệ, khi rút ngoại tệ từ ngân hàng phải quy đổi sang VND, hạn chế khối lượng rút từng lần, làm tiền gửi cũng bị hạn chế do phải chịu thuế thu nhập, người nhận kiều hối phải làm đơn xin cơ quan công an địa phương cư trú cấp “sổ nhận kiều hối”, trong đơn xin phải khai rõ họ tên người gửi tiền, quan hệ với người gửi tiền từ nước ngoài…Sổ nhận kiều hối còn quy định hạn mức và số lần nhận tiền. 2.3.1.2. Từ 1990 đến 2000. Nhưng từ năm 1990 các quy định nêu trên bắt đầu dần dần được bãi bỏ, thay vào đó là các quy định thông thoáng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho người gửi cả về mặt thủ tục lẫn kinh tế, cho phép người thụ hưởng nhận tiền kiều hối bằng ngoại tệ (USD, CAD, AUD,…), đồng thời cho phép nhiều tổ chức tham gia chuyển tiền kiều hối (như bưu điện, các Ngân hàng thương mại, các công ty làm dịch vụ kiều hối), biểu phí được quy định rõ ràng. Nhà nước không còn tập trung tất cả nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng để phục vụ nhu cầu nhập khẩu, giảm tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ, giảm sức ép tỷ giá, nghĩa là không còn kết hối số ngoại tệ chuyển về, không phải chịu thuế thu nhập. Nhờ đó lượng kiều hối chuyển về Việt Nam vào cuối những năm 1990 chỉ có 1 tỷ USD, thì năm 2000 đã tăng lên 1,8 tỷ USD. Từ 2000 đến nay. Từ năm 2000 đến nay với việc xây dựng nền kinh tế phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, Việt Nam dỡ bỏ dần các hạn chế áp dụng cho các giao dịch ngoại hối. Vào năm 2006, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), vị thế quốc tế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Do đó Việt Nam thực sự đã trở thành đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế. Năm 2007, theo Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Việt Nam được xếp ở nhóm các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong khu vực và được Tổ chức thương mại Thế giới xếp thứ 6 về hấp dẫn đầu tư trên thế giới. Vì vậy, trong bối cảnh cạnh tranh về thu hút vốn đầu tư trên thế giới hiện nay điều này được coi là một động thái tích cực, là cơ sở cho sự phát triển các dòng vốn quốc tế. Thêm vào đó là sự phát triển vượt bậc của hệ thống Ngân hàng thương mại trong nước. Số lượng các ngân hàng tại Việt Nam gia tăng nhanh chóng. Theo số liệu công bố trên website Ngân hàng Nhà nước tính đến tháng 5 năm 2008 đã có đến 84 ngân hàng bao gồm 34 Ngân hàng thương mại cổ phần, 6 Ngân hàng quốc doanh, 37 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh và 2 ngân hàng mới cấp phép thành lập. Do đó, các kênh thanh toán ngày càng được mở rộng đã giảm thiểu chi phí lưu thông, vận chuyển tiền mặt trong quá trình chi trả. Các dịch vụ liên kết với các Tổ chức chuyển tiền quốc tế ngày càng phổ biến giúp việc chuyển tiền đến và đi nhanh chóng, dễ dàng. Nhờ đó lượng kiều hối rủ nhau đổ về Việt Nam ngày càng tăng vượt bậc. Lượng kiều hối năm 2000 đạt khoảng 1,7 tỷ USD; 2001 đạt khoảng 1,8 tỷ USD; 2002 đạt khoảng 2,1 tỷ USD, 2003 đạt khoảng 2,7 tỷ USD; năm 2004 đạt khoảng 3,2 tỷ USD, năm 2005 đạt khoảng 3,8 tỷ USD; 2006 đạt khoảng 4,7 tỷ USD; 2007 đạt khoảng 6 tỷ USD. 2.3.2. Những cơ hội. 2.3.2.1. Tình hình kinh tế, xã hội của TP.HCM trong những năm đầu tiên hội nhập tổ chức Thương mại Thế giới. Thành phố Hồ Chí Minh kết thúc năm 2007 với nhiều thành tựu kinh tế - xã hội rất đáng phấn khởi. Mặc dù tình hình thời tiết không thuận lợi, dịch bệnh gia cầm, gia súc diễn biến phức tạp, giá dầu thô và nhiều vật tư chủ yếu liên tục tăng cao gây bất lợi đến sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân, nhưng với sự chỉ đạo xuyên suốt của Thành ủy, sự giám sát chặt chẽ của Hội đồng nhân dân Thành phố, sự điều hành kiên quyết, có trọng tâm, trọng điểm của Ủy ban nhân dân Thành phố cùng với sự nỗ lực, năng động sáng tạo của các ngành, các cấp, các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân, Thành phố đã thực hiện đạt và vượt 14 chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2007. Trong đó, nổi bật hơn cả là chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế đạt mức 12,6% cao hơn chỉ tiêu tăng trưởng trung bình hàng năm của Kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 (12%) và chỉ tiêu xóa đói giảm nghèo đã về trước Kế hoạch 5 năm 2006 – 2010 (giảm tỷ lệ hộ nghèo có mức thu nhập dưới 6 triệu đồng/người/năm chỉ còn 1,8%). Để thấy rõ tình hình kinh tế, xã hội Thành Phố Hồ Chí Minh đã tác động đến lượng kiều hối đổ về Việt Nam, chúng ta xem xét trên các lĩnh vực sau: - Về lĩnh vực đầu tư, Thành phố Hồ Chí Minh có vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn hằng năm đều tăng cao. Trong năm 2007, tổng vốn đầu tư xã hội đạt 84.800 tỷ đồng, tăng 26,6%; trong đó đầu tư từ vốn nhà nước chiếm 32%, vốn dân doanh chiếm 51%, vốn doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chiếm 17%. Từ khi Việt Nam gia nhập WTO, làn sóng đầu tư nước ngoài đã dồn dập đổ vào Việt Nam. Nhờ môi trường đầu tư được cải thiện, trong năm Thành phố đã thu hút được hơn 400 dự án đầu tư mới. Nếu tính cả vốn đầu tư tăng thêm của các dự án đầu tư đang hoạt động thì tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút trên địa bàn Thành phố đạt 2,5 tỷ USD, tăng 11,9%. Đây cũng là mức thu hút cao nhất từ trước tới nay. Điều này cho thấy Thành phố Hồ Chí Minh luôn là điểm đến đầu tư đầy hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. - Về lĩnh vực dịch vụ du lịch, du lịch của Thành phố là trong những ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao phù hợp với xu thế của thời kỳ hội nhập. Năm 2007, tổng doanh thu du lịch đạt trên 20.000 tỷ đồng (tương đương 1,25 tỷ USD), tăng 20%; số lượng khách quốc tế đến Thành phố đạt 2,65 triệu lượt, tăng 12% so với năm 2006. Với một lượng khách quốc tế đến Thành phố Hồ Chí Minh hằng năm gia tăng thì nguồn tiền kiều hối theo đường du lịch cũng tăng lên nhanh chóng. Thấy được điều đó các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn thành phố đã thể hiện vai trò năng động trong quá trình hội nhập, đóng góp tích cực vào sự phát triển của ngành du lịch thành phố thông qua việc tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hoá sản phẩm du lịch phù hợp với thu nhập xã hội. Bên cạnh những tour mở- thu hút khách phổ thông, các công ty lữ hành đã mở nhiều tour cao cấp hướng đến dòng khách thương gia có mức chi tiêu cao, phục vụ loại hình du lịch hội nghị- hội thảo ở một số doanh nghiệp hàng đầu như công ty Dịch vụ Lữ hành Saigon Tourist, Công ty Fidi Tourist, Bến Thành Tourist... Việc ứng dụng công nghệ thông tin, quản lý môi trường và các tiến bộ khoa học kỹ thuật cũng được các doanh nghiệp đưa vào hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao hiệu qủa quản lý, sử dụng năng lượng tiết kiệm, góp phần bảo vệ môi trường. Phương thức quảng bá, chào bán sản phẩm qua mạng đã được hầu hết các doanh nghiệp lữ hành lớn, khách sạn từ 3-5 sao áp dụng. Xu hướng liên kết doanh nghiệp lữ hành trong ngành để tăng chất lượng phục vụ và sức cạnh tranh đang phát triển mạnh không chỉ giữa các doanh nghiệp lớn mà còn khá phổ biến ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp du lịch còn chủ động bắt tay liên kết với các tập đoàn lớn có thương hiệu mạnh trên thế giới để hỗ trợ phát triển, khai thác thị trường hai bên, tạo nguồn khách ổn định. - Theo quy hoạch phát triển đến năm 2020, Tp.Hồ Chí Minh sẽ có 23 khu chế xuất, khu công nghiệp (KCX-KCN) với tổng diện tích khoảng 6.500 ha. Còn hiện nay, Ban Quản lý các KCX - KCN TPHCM đang quản lý 3 KCX và 12 KCN với tổng diện tích là 2.354 ha. Ở hầu hết các khu này đều có tỷ lệ đất cho thuê từ đất 60% - 100% trên tổng diện tích đất cho thuê. Trong vòng 9 tháng đầu năm 2007 tổng vốn đầu tư thu hút đạt 306,35 triệu USD, tăng 57% so với cùng kỳ năm 2006 và đạt 55% kế hoạch cả năm. Nhìn chung các KCX-KCN chỉ thu hút thêm 67 dự án mới, trong đó có 50 dự án trong nước với vốn đầu tư đăng ký là 199,80 triệu USD, tăng 564% so với cùng kỳ 2006. Dự án có vốn đầu tư nước ngoài đăng ký là 21,62 triệu USD, giảm 47% so với cùng kỳ 2006. Tính đến 30-9, tại các KCX-KCN có 1.167 dự án đầu tư còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký là 3,78 tỷ USD, trong đó nước ngoài 484 dự án, vốn đầu tư 2,45 tỷ USD; trong nước 683 dự án, vốn đầu tư là 1,33 tỷ USD (Theo Thông tấn xã Việt Nam). Các KCN-KCX này đã tạo công ăn việc làm cho hơn 400.000 lao động Việt Nam. Tuy nhiên, Thành Phố Hồ Chí Minh vẫn chưa khai thác hết tiềm lực đầu tư nước ngoài tại các KCN-KCX. Đây là lĩnh vực có khả năng thu hút nguồn ngoại tệ vào Việt Nam rất lớn, vì vậy cần khắc phục những thiếu sót trong việc quản lý các KCN-KCX như nâng cao chất lượng hạ tầng cơ sở, năng cao chất lượng tay nghề của đội ngũ nhân công…để đáp ứng tốt nhu cầu tuyển dụng của các nhà đầu tư nước ngoài. - Ngoài ra, Thành Phố Hồ Chí Minh có một tính chất rất đặc trưng, là thành phố có số lượng người định cư ở nước ngoài sau năm 1975 nhiều nhất nước và cũng là thành phố có số lượng người xuất khẩu lao động cao nhất nước hiện nay. Những tầng lớp dân cư này, hằng năm chuyển một lượng lớn kiều hối về quê hương cho người thân, bạn bè đã đóng góp một phần quan trọng trong tổng lượng kiều hối chuyển về Thành phố Hồ Chí Minh. Thấy được điều này, Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài TP. HCM luôn muốn thành phố là nơi thí điểm những mô hình mới để thực hiện xúc tiến thương mại và đầu tư đối với kiều bào. 2.3.2.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với sự phát triển của nguồn lực kiều hối. Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới được hơn một năm, cộng với sự ổn định về chính trị, tăng trưởng kinh tế đứng ở mức cao, sự sôi động của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản, sự cải thiện mạnh mẽ về môi trường đầu tư, thị trường xuất khẩu lao động khởi sắc và mức độ hội nhập kinh tế quốc tế cao là những nguyên nhân chính khiến cho lượng kiều hối đổ về Việt Nam ngày càng mạnh mẽ. Hiện nay có nhiều nguồn số liệu dựa trên các căn cứ thống kê khác nhau, nên các số liệu về kiều hối đưa ra cũng khác nhau. Dựa trên các số liệu từ ngành ngân hàng và Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài thì luợng kiều hối về năm 2007 khoảng 6 tỷ USD. Đây là con số có thể thống kê được, chưa kể lượng kiều hối chuyển bằng các con đường khác. Tuy nhiên theo thống kê trên tờ New York Times thì số tiền người Việt Nam chuyển về nước thống kê được vượt con số 7,5 tỷ USD, còn số lượng kiều hối thực năm 2007 có thể đạt mức hơn 10 tỷ USD. Đây là con số kỷ lục về kiều hối của Việt Nam từ trước đến nay. Theo chủ trương của Đảng và Nhà nước luôn coi lực lượng kiều bào ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời khỏi cộng đồng người Việt. Và những đóng góp của họ vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước quả không nhỏ. Do đó Kiều bào ở nước ngoài đã chung vai cùng cả nước bước đi trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế. Họ nhận thấy rằng ở Việt Nam đang là điểm đến đầu tư đầy tiềm năng của thế giới và của chính bản thân họ, ngoài ra đối với Kiều bào Việt Nam luôn là nơi chôn nhau cắt rốn, của tình máu mủ, anh em. Vì nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan, ngày càng nhiều Kiều bào xin quay trở về nước lập nghiệp hoặc đầu tư dài hạn. Với sự gia tăng ngày càng nhiều nhu cầu chuyển tiền về nước nên từ trong và ngoài Việt nam, rất nhiều các tổ chức kinh tế nước ngoài và các ngân hàng tham gia chuyển tiền về Việt Nam (khoảng 80 tổ chức kinh tế nước ngoài nằm chủ yếu ở các quốc gia như Mỹ, Úc, Canada, Pháp, Đức; Còn việc chi trả trong nước ngoài hệ thống Ngân hàng có khoảng 25 tổ chức kinh tế có giấy phép thực hiện nhận và chi trả kiều hối). 2.3.3. Những thách thức. 2.3.3.1. Những khó khăn về mặt thể chế. Tuy nhiên có những hạn chế lớn sau một năm vào WTO cũng đặt ra cần giải quyết. Đó là sự cạnh tranh lớn giữa những sản phẩm của nước ta với sản phẩm của các nước, giữa doanh nghiệp của nước ta với doanh nghiệp của các nước khác. Những doanh nghiệp của nước ta chưa kịp thích ứng và ít hiểu biết về luật pháp quốc tế, quy mô lại nhỏ, công nghệ lạc hậu nên sản phẩm không đủ sức cạnh tranh, phải thu hẹp sản xuất hoặc phá sản, công nhân thất nghiệp dẫn đến những vấn đề xã hội bức xúc. Đây là những hạn chế khó tránh khỏi trong quá trình phát triển. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng cả ở tầm vĩ mô và vi mô, nếu dự báo được trước hiện tượng này trên bình diện cả nước và từng ngành, từng địa phương thì sẽ khắc phục được bằng cơ cấu lại lao động, có chính sách đồng bộ trong đó chú trọng sử dụng lao động có chất lượng cao. Theo Ủy ban về hợp tác kinh tế quốc tế thì “Việt cắt giảm thuế theo lộ trình cũng đang ảnh hưởng một phần đến kết quả thu ngân sách do phần đóng góp của thuế nhập khẩu ngày càng giảm. Trước kia thuế nhập khẩu thường chiếm 30% tổng thu, nay chỉ còn 15% và điều lo ngại là thâm hụt cán cân thương mại ở mức độ cao, nền kinh tế nhập siêu rất lớn so với những năm qua (năm 2007 nhập siêu 12,4 tỷ USD). Đánh giá về những hạn chế yếu kém của năm 2007, năm đầu tiên chúng ta vào WTO, Chính phủ vạch rõ: “Sự phát triển của đất nước ta vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, chưa tranh thủ được tốt nhất những cơ hội và thuận lợi mới, chưa đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường; Tốc độ tăng trưởng cao chưa đi liền với cải thiện nhanh về chất lượng, môi trường đầu tư, kinh doanh nhất là thể chế kinh tế, thủ tục hành chính, kết cấu hạ tầng, kinh tế xã hội và nguồn nhân lực đang là những khâu còn rất yếu, bất cập làm hạn chế sự phát triển nhanh của đất nước” (Theo báo cáo của chính phủ tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa X). 2.3.3.2. Mức độ cạnh tranh trong hoạt động thu hút nguồn lực kiều hối trên địa bàn TP.HCM Cuộc chạy đua thu hút kiều hối ở Việt Nam diễn ra rất quyết liệt giữa các Ngân hàng với Ngân hàng, giữa các Ngân hàng với các công ty kiều hối, cuộc chiến diễn ra đặc biệt sôi động nhất trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hầu như có mặt hầu hết các trụ sở, chi nhánh, phòng giao dịch của hầu hết các Ngân hàng Thương mại, trên 25 công ty kiều hối. Hai tập đoàn chuyển tiền nhanh nổi tiếng trên Thế giới là Western Union và Money Gram cũng đã có mặt tại Việt nam từ lâu vơi nhiều đại lý như hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triền nông thôn Việt Nam, Hệ thống Ngân hàng Công Thương Việt Nam, hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Á Châu… (là các đại lý chính thức của Western Union); hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Đông Á…(là các đại lý chính thức của Money Gram). Hằng năm các Ngân hàng và các công ty kiều hối trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đều đưa ra nhiều chương trình hấp dẫn để thu hút khách đến nhận và gửi tiền kiều hối tại mình. Qua điều tra, khảo sát trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có thể dễ dàng thấy được nhiều chương trình khuyến mãi kiều hối được đưa ra như: - Tại Ngân hàng Đông Á (DAB), có chương trình khuyến mãi “Du lịch cùng kiều hối DAB”. Khi nhận tiền từ nước ngoài chuyển về tại hệ thống kiều hối DAB trên toàn quốc, cứ mỗi 300 USD, khách hàng được nhận một phiếu tham dự chương trình bốc thăm trúng thưởng. Định kỳ 3 tháng, công ty kiều hối DAB sẽ tổ chức bốc thăm một lần, với các giải thưởng du lịch trọn gói đi Thái Lan, Malaysia, Singaporo… - Tại Ngân hàng Á Châu (ACB) kết hợp với Western Union cho phép khách hàng không cần cung cấp mã số chuyển tiền mà chỉ cần ghi địa chỉ người nhận và thực hiện giao miễn phí tại nhà. - Tại hệ thống Ngân hàng Công Thương Việt Nam (Incombank) thì cung cấp dịch vụ kiều hối qua máy rút tiền tự động và bằng thẻ E-Partner (kiều hối được chuyển trực tiếp vào tài khoản người nhận và tỉ giá được quy đổi sang VNĐ tại thời điểm Ngân hàng nhận tiền). Incombank còn hợp tác với Wells-Fargo (Ngân hàng Mỹ) thực hiện chuyển tiền từ Mỹ về Việt Nam. Theo đó, khách hàng tại Mỹ có thể gửi 3.000 USD/ngày về Việt Nam với mức phí chuyển tiền là 8 USD. - Tại công ty kiều hối Sacomrex của Ngân hàng Sài Gòn Thương tín (Sacombank), công ty nhận chi trả tiền kiều hối tại nhà và tại quầy kể cả ngày lễ, thứ bảy và chủ nhật hằng tuần. - Tại hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), có chương trình khuyến mãi bốc thăm trúng thưởng, với tổng giá trị các giải thưởng 150 triệu đồng. Ngoài các chương trình khuyến mãi, các Ngân hàng cũng tăng sức cạnh tranh thông qua việc đơn giản hóa các thủ tục chuyển tiền đồng thời rút ngắn tối đa thời gian chuyển. Với các Ngân hàng là đại lý chính thức của Western Union, với mạng thông tin trực tuyến cho phép truy cập tất cả các điểm chi trả của Western trên toàn cầu, cho phép thời gian nhận tiền nhanh, không có chênh lệch múi giờ, không phải qua các ngân hàng trung gian, thanh toán thẳng và chi thu phí một lần tại đầu chuyển đi. Khách hàng nhận tiền không phải trả thêm một khoản tiền nào khác. Không ngừng lại đó, các ngân hàng đã và đang mở rộng dịch vụ kiều hối bằng cách tìm kiếm các đối tác ở nước ngoài. Cụ thể như sau: - Công ty kiều hối của ngân hàng Đông Á đã liên kết với 30 công ty kiều hối ở nước ngoài, phần lớn ở Mỹ, Canada, Úc, Đức nhằm phát triển nguồn kiều hối. - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cũng đã ký một thỏa thuận chuyển tiền kiều hối vơi Ngân hàng Metrppolitan, chi nhánh Đài Loan về Việt Nam. Theo đó các chi nhánh của Metropolitan sẽ tiếp nhận tiền của người có nhu cầu chuyển tiền về Việt Nam. Số tiền này sẽ chuyển vào tài khoản ngoại tệ của BIDV, kèm theo là danh sách của những người nhận tại Việt Nam. Căn cứ vào danh sách này BIDV sẽ thực hiện việc chi trả trong ngày. BIDV còn ký một thỏa thuận chuyển tiền kiều hối về Việt Nam với Công ty kiều hối VINA USA Inc (Có văn phòng đại diện tại Việt Nam. Với dịch vụ chuyển tiền kiều hối VINA USA, người gửi tiền ở Mỹ và Canada có thể gửi thư nhắn, thư kiều hối cho người nhận và ngược lại người nhận có thể gửi lại lời nhắn, thư cho người chuyển tiền miễn phí. Phiếu nhắn tin và thư hồi âm miễn phí do VPĐD của VINA USA gửi trực tiếp đến các chi nhánh chi trả kiều hối của BIDV. Các chi nhánh chi trả thực hiện chi trả kiều hối theo đúng những thông tin do VINA USA cung cấp (bao gồm tên, địa chỉ, điện thoại hoặc số CMND). Và gần đây nhất là việc ký hợp đồng làm đại lý chính thức tại Việt Nam với Western Union đã góp phần gia tăng khả năng cạnh tranh thu hút kiều hối của BIDV với các Ngân hàng và các công ty kiều hối khác. - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam dự kiến sẽ thành lập Công ty Tài chính và chuyển tiền tại bang Califonia (Mỹ) để chuyển tiền về Việt Nam trong thời gian tới. Tóm lại, các Ngân hàng đều nhận thấy rằng kết quả hoạt động kiều hối của họ vẫn còn chưa tương xứng với nội lực hiện có. Chủ yếu là do chưa phát triển mạnh về hệ thống chuyển-chi kiều hối. Để phát triển hoạt động này cần phải đẩy mạnh hơn nữa kênh tiếp nhận kiều hối ở nước ngoài và kênh chi trả trong nước. Nếu làm được như vậy, hệ thống ngân hàng sẽ phát triển nhanh và tốt kênh kiều hối. Kết luận chương 2: Với thị trường Thành phố Hồ Chí Minh sôi động, đầy tiềm năng phát triển kinh tế, nhu cầu vốn cần để đáp ứng cho công cuộc phát triển này là rất lớn. Do đó, các tổ chức Tài chính, tín dụng luôn luôn có những cuộc chạy đua mạnh về huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong các tổ chức và dân cư để cung cấp cho thị trường lượng vốn cần thiết để đầu tư đó. Trong số các nguồn vốn huy động thì Kiều hối cũng đóng một vai trò quan trọng. Do đó việc đẩy mạnh dịch vụ là rất cần thiết đối với BIDV HCMC. Để làm được điều đó, BIDV HCMC cần nhìn thấy được những ưu điểm, khuyết điểm của mình nhằm phát huy, hạn chế những mặt mạnh và yếu. Từ đó nâng cao thương hiệu của mình trên Thành phố Hồ Chí Minh - một thị trường cạnh tranh khốc liệt. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC KIỀU HỐI TẠI BIDV HCMC . CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC KIỀU HỐI CỦA BIDV HCMC TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ KHU VỰC VÀ QUỐC TẾ. Nhóm giải pháp đối với các cơ quan quản lý Nhà nước. Những vướng mắc trong các chính sách khuyến khích kiều hối của Việt Nam - Quá trình hoàn thuế VAT còn chậm. - Các thủ tục hành chánh còn chậm làm mất thời gian của doanh nghiệp. - Thời gian chờ lấy giấy phép kinh doanh quá lâu. - Về quốc tịch, thực tế có nhiều người VN ở nước ngoài gia nhập quốc tịch nước sở tại, nhưng chưa từ bỏ quốc tịch VN. Trong trường hợp người VN ở nước ngoài trở về VN mang hộ chiếu nước ngoài thì mặc nhiên được coi là người nước ngoài. Khi người Việt Nam ra nước ngoài vẫn còn giữ lại quốc tịch Việt Nam, Chính phủ nước sở tại không bắt buột phải bỏ quốc tịch Việt Nam. Khi về nước, Việt kiều vẫn được xem là người có quốc tịch Việt Nam. - Việc xin thị thực nhập xuất cảnh VN tại cơ quan đại diện VN ở nước ngoài chưa hoàn toàn thuận lợi, nếu Việt kiều thông qua đại lý làm dịch vụ thì rất nhanh nhưng lệ phí cao. Quy định người bảo lãnh cho những công dân VN hồi hương “phải là thân nhân ruột thịt” chưa phù hợp với Quyết định 875/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tại quyết định này quy định người bảo lãnh trong nước “là thân nhân trong dòng tộc”. Điều này gây khó khăn hơn đối với những người muốn hồi hương mà không còn người thân ruột thịt. - Thực hiện Chính sách về nhà ở tạo điều kiện cho người VN định cư ở nước ngoài mua nhà ở tại VN, vẫn còn đó những khó khăn phức tạp. Mặc dù Chính phủ đã ban hành Nghị định để quy định vấn đề này nhưng đến nay, sau ba năm kể từ khi ban hành Nghị định, số lượng Việt kiều mua nhà ở VN còn rất ít, chỉ có khoảng 130 trường hợp. Trong đó, tại TP.HCM có khoảng 100 trường hợp. Nguyên nhân chủ yếu là do những quy định hạn chế về đối tượng, số lượng nhà ở được mua và được sở hữu, trình tự thủ tục cấp giấy sau khi mua nhà còn phức tạp… Hiện nay, TP.HCM (có khoảng 1,8 triệu Việt kiều) chưa xử lý được vấn đề tiền bán nhà cho những đối tượng xuất cảnh hợp pháp, không chuyển được tiền ra nước ngoài cho gia chủ vì chưa có những quy định về vấn đề này. Vì những lý do đó, TP.HCM kêu gọi kiều bào mạnh dạn đầu tư về nước và sẽ áp dụng nhiều biện pháp hành chính nhằm giảm phiền hà cho Việt kiều khi đầu tư về nước cũng như hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác xúc tiến thương mại. Nhu cầu vốn của TP.HCM đang hết sức lớn để đầu tư cho cơ sở hạ tầng, vì nếu không, trong tương lai tốc độ tăng trưởng của thành phố sẽ chựng lại và giảm dần. Thời gian qua, việc thu hút đầu tư vào Việt Nam còn hạn chế vì những bất cập về thời gian cho các thủ tục hành chính, về luật thuế, về hải quan. Đơn cử một thí dụ: việc thực hiện những hợp đồng xuất khẩu của ngành công nghệ kỹ thuật cao có khi chỉ diễn ra trong một ngày, sáng nhập, chiều xuất, điều này hải quan Trung Quốc đã làm rất tốt, còn hải quan ta, liệu có làm được như vậy không? Dường như, các ngành chức năng của ta chưa có khái niệm thời gian là tiền bạc nên phung phí quá nhiều thời gian vào các thủ tục rườm rà, làm cho nhà đầu tư bỏ lỡ rất nhiều cơ hội. Việc tính thuế thu nhập đối với lao động trong nước và người nước ngoài còn bất hợp lý, doanh nghiệp dù rất muốn sử dụng chuyên gia trong nước với mức lương cao, xứng đáng với công sức và đóng góp của họ, nhưng như thế thì sẽ phải đóng thuế thu nhập cho họ ở mức còn cao hơn đi thuê người nước ngoài, chính sách như thế thì làm sao thu hút được chất xám trong nước và kiều bào? Trong số gần 3 triệu kiều bào, có không ít chuyên gia làm việc trong các công ty đa quốc gia, việc thu hút được họ sẽ đồng nghĩa với việc thu hút được đồng vốn của các công ty đa quốc gia, một tiềm năng lớn cho nền kinh tế phát triển bền vững. Nhà nước và Việt kiều chưa có sự phối hợp ăn ý, kiều hồi chuyển về rất nhiều nhưng đầu do tình trạng đầu tư tự phát nên hiệu quả thấp. Việt Nam có một thuận lợi to lớn: là một trong ba nước có kiều bào sống sinh sống ở nhiều nước trên thế giới nhất (trên 180 nước, điều này chỉ Hàn Quốc, Trung Quốc và Việt Nam có được). Vấn đề đặt ra là làm sao liên kết đội ngũ này thành mạng lưới khắp toàn cầu vì một mục đích chung là sự phồn vinh của dân tộc mình, đất nước mình. Nếu ví Việt kiều là những cầu thủ bóng đá thì chúng ta đều đá rất giỏi nhưng đội bóng chúng ta không vô địch được vì thiếu huấn luyện viên giỏi, nhà nước cần phải đảm nhiệm vai trò của huấn luyện viên liên kết mọi người lại với nhau, tạo nên sức mạnh. Xây dựng và hoàn thiện chính sách thuế hợp lý - Các cơ quan ban ngành cần hướng dẫn các thủ tục hành chính rõ ràng cho bà con. Rút ngắn thời gian cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, hoàn thuế VAT, cho thời hạn bằng lái xe lâu hơn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư lâu dài.Các chính sách phải được cụ thể hóa theo từng địa phương. Thuế nên quyết toán sau 1 năm , không nên để lâu (hiện nay trung bình 4 - 5 năm). - Nhà nước cần nhanh chóng tạo dựng lên chính sách hợp tình hợp lý đối với Việt Kiều, và cơ sở pháp lý cần thiết để tất cả người Việt Nam dù ở phương trời nào, với quốc tịch thứ hai nào cũng nhận thấy mình là người Việt Nam, với đầy đủ nghĩa vụ, và quyền lợi của một công dân Việt Nam, bình đẳng với tất cả mọi công dân khác, không phân biệt đối xử. Có các cơ chế khuyến khích, hỗ trợ kiều bào đầu tư cho đất nước. Hiện ngân hàng nhà nước đang xem xét bổ sung, chỉnh sửa những chính sách khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về nước theo hướng hoàn thiện mạng lưới tổ chức nhận và chi trả ngoại tệ để đảm bảo tiền đến tay người nhận nhanh nhất, mở chi nhánh tại các nước có nhiều người Việt lao động học tập và Việt kiều sinh sống nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán và chuyển tiền về Việt Nam. Ngoài ra các chính sách hỗ trợ khác cho doanh nhân Việt kiều đang được xây dựng như: chính sách ưu đãi và khuyến khích đối với nguồn tiền của người Việt Nam ở nước ngoài gửi về; phối hợp với bộ ngoại giao tìm hiểu thực tế quy định chuyển tiền của các nước sở tại, đặc biệt là Đông Âu, để tạo điều kiện cho người Việt Nam gửi tiền về nước… Khơi dòng cho nguồn vốn của bà con chảy vào đúng chỗ ích nước, lợi nhà, trước hết là trách nhiệm chính quyền các cấp, của tất cả các bộ ngành liên quan và tất nhiên không thể thiếu vai trò cầu nối của các tổ chức Việt kiều như Hiệp hội doanh nghiệp Việt kiều, Câu lạc bộ doanh nhân Việt kiều, Câu lạc bộ trí thức Việt kiều… Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, việc mở rộng đối tượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài được mua nhà ở tại Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho kiều bào có nơi cư trú khi về nước, từ đó, gắn bó hơn với quê hương và góp phần tích cực hơn nữa vào sự nghiệp phát triển của đất nước. Vì vậy, trong số 9 Chương 153 điều của Luật Nhà ở, có một Chương riêng với 9 điều quy định về nhà ở tại Việt Nam của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức và cá nhân nước ngoàiCuối tháng 9 vừa qua, việc Thủ tướng ký quyết định nâng tỷ lệ sở hữu cổ phiếu trong các công ty cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài (trong đó có Việt kiều) lên 49% thay vì mức 30% như trước đây cũng đã mở ra một kênh mới cho Việt kiều đầu tư về nước Hỗ trợ bà con kiều bào ổn định cuộc sống, yên tâm hội nhập vào các nước sở tại Nhà nước ta đã có các biện pháp, chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, yên tâm làm ăn sinh sống hội nhập vào các nước sở tại. Thủ tướng đã ban hành Quyết định thành lập Quỹ hỗ trợ vận động vận động người Việt Nam ở nước ngoài. Ngân sách nhà nước ban đầu đã cấp cho Quỹ 07 tỷ đồng và hàng năm cấp kinh phí bổ sung theo yêu cầu. Chính phủ đã tích cực, chủ động tiến hành ký một số Hiệp định Lãnh sự và gặp Lãnh sự với một số nước nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của công dân Việt Nam trong cư trú, làm ăn ở nước sở tại: Ký tắt Hiệp định Lãnh sự với Belarus (17.03.2005); ký Hiệp định nhận trở lại công dân với Ba Lan (22.4.2004), Ucraina (16.06.2005); Ký Bản ghi nhớ với Vương quốc Anh về vấn đề di cư (28.10.2004); tiến hành gặp lãnh sự thường niên với một số nước Trung Quốc, Nhật Bản, Lào, Belarus, Ucraina để trao đổi các vấn đề lãnh sự liên quan. Hiện tại, Chính phủ đang tiếp tục đàm phán Hiệp định nhận trở lại của công dân với Hoa Kỳ, Slovakia, Thụy Sĩ, Pháp, Nga, Nhật, Bỉ và Na Uy; yêu cầu các nước Ucraina, CH Czech, Hungary thực hiện đúng quy định về miễn hợp pháp hóa giấy tờ, tài liệu theo các Hiệp định tương trợ tư pháp. Bộ Công an đã phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ tư pháp, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Tòa án Nhân dân Tối cao tiến hành đàm phán ký và phê chuẩn với Hàn quốc 02 Hiệp định cấp nhà nước trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về hình sự và dẫn độ; ký hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự với 10 nước ASEAN. Nhóm giải pháp từ BIDV Hội sở chính. - Duy trì các sản phẩm hiện có đảm bảo hoạt động kinh doanh ngân hàng với chi phí thấp nhất, phù hợp nhất. - Không ngừng nghiên cứu áp dụng các sản phẩm dịch vụ về thanh toán hiện đại trên Thế giới, đưa hoạt động dịch vụ của BIDV trở thành hoạt động nồng cốt, ổn định và phát triển hàng đầu Việt Nam. - Sớm đẩy mạnh các dự án đầu tư công nghệ, phục vụ trực tiếp cho các hoạt động dịch vụ và các sản phẩm của dịch vụ để đẩy nhanh tiến trình phát triển và đẩy mạnh hoạt động dịch vụ. - Tổ chức các đợt khảo sát tại nước ngoài, các buổi làm việc, hội thảo trao đổi kinh nghiệm, công nghệ sản phẩm với các Ngân hàng tiên tiến trên Thế giới để học hỏi các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, cách thức quản trị điều hành mới áp dụng cho Ngân hàng. - Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn kỹ năng cho các giao dịch viên quen với các phương thức giao tiếp hiện đại góp phần nâng cao kỹ năng phục vụ khách hàng. Nhóm giải pháp đối với BIDV HCM. Công tác quảng cáo, tiếp thị tìm kiếm đối tác đầu vào. Xây dựng chiến lược thông tin nhằm quảng bá, phát triển thương hiệu BIDV kết hợp với việc đưa vào thị trường sản phẩm dịch vụ kiều hối có chất lượng phục vụ tốt bằng các biện pháp như: - Lập danh sách các công ty kiều hối ở TP.HCM trong số những công ty kiều hối được cấp giấy phép thực hiện dịch vụ kiều hối để lên kế hoạch tiếp thị (Phụ lục 1). Mục đích: ü Làm cho khách hàng biết đến những sản phẩm dịch vụ và tiện ích sẽ cung cấp cho khách hàng thông qua việc gửi tài liệu, gửi các thông tin quảng cáo về các sản phẩm, dịch vụ của BIDV-HCMC cho khách hàng. ü Tạo cho khách hàng một thói quen khi có nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng thì sẽ nghĩ ngay đến ngân hàng BIDV-HCMC. ü Tìm hiểu về nhu cầu của các công ty kiều hối là gì để ngân hàng có những quyết sách phục vụ khách hàng được tốt hơn. Thiết lập kênh chuyển kiều hối từ nước ngoài về Việt Nam bằng cách tiếp cận và ký kết với các công ty hoạt động kiều hối ở trong và ngoài nước, ngân hàng nước ngoài, tận dụng mối quan hệ với các ngân hàng có quan hệ đại lý với BIDV nhằm thu hút nhiều hơn lượng kiều hối đi qua kênh chi trả của hệ thống BIDV. Đặc biệt là ký kết với các công ty kiều hối nước ngoài, các ngân hàng quốc tế tại những khu vực được xác định là thị trường tiềm năng. Đồng thời xây dựng chiến lược marketing về dịch vụ chuyển tiền về Việt Nam với các tổ chức và ngân hàng ở nước ngoài (tại các quầy giao dịch của các ngân hàng, công ty nước ngoài đặt các brochure hướng dẫn chuyển tiền kiều hối về Việt Nam của BIDV, nhân viên của các tổ chức này sẽ tư vấn cho khách hàng về dịch vụ chuyển tiền kiều hối về Việt Nam..). Mục đích: ü Mở rộng kênh tiếp nhận kiều hối từ nước ngoài về Việt Nam. Đây là kênh đóng vai trò là nhà cung cấp dịch vụ đầu vào cho BIDV HCMC. Những tổ chức này sẽ trực tiếp thu hút khách hàng là những người ở nước ngoài có nhu cầu chuyển tiền về Việt Nam. ü Những tổ chức này sẽ quảng cáo và giới thiệu kênh chuyển tiền kiều hối của BIDV và từ đó khách hàng trong và ngoài nước sẽ quen dần với hình ảnh về sản phẩm dịch vụ của BIDV. Tiết kiệm phần nào chi phí quảng cáo. Tuy nhiên khi ký kết với các công ty hoạt động kiều hối ở nước ngoài, các ngân hàng nước ngoài thì BIDV- HCMC: + Chỉ được hưởng hoa hồng phí trong dịch vụ kiều hối, phí rút tiền mặt bằng ngoại tệ. + Riêng đối với các công ty hoạt động dịch vụ kiều hối, do không kiểm soát được nguồn gốc của tiền nên có thể xảy ra rủi ro liên quan đến hoạt động rửa tiền. + Chịu sức ép về giá (phí dịch vụ), những đòi hỏi như BIDV-HCMC ứng trước nguồn ngoại tệ để thanh toán ngay cho ngưới thụ hưởng của các các công ty kiều hối này. Nhưng trong điều kiện hiện nay, BIDV chưa có kế hoạch thành lập công ty kiều hối ở trong nước và ở nước ngoài để trực tiếp thu hút kiều hối thì biện pháp này có thể được coi như là một cách để mở rộng kênh tiếp nhận kiều hối (đầu vào) từ nước ngoài, là bước tiền đề tạo điều kiện thuận lợi cho công ty kiều hối của BIDV ở nước ngoài trong tương lai. - Hợp tác với các công ty xuất khẩu lao động, hỗ trợ tín dụng cho các cá nhân đi lao động ở nước ngoài, các trung tâm tư vấn du học... Từ đó BIDV-HCMC kết hợp quảng cáo, giới thiệu, cung cấp thông tin dịch vụ chuyển tiền từ nước ngoài về cho thân nhân ở Việt Nam. Phối hợp với Ủy Ban “Người Việt Nam ở nước ngoài” trực thuộc UBND TP. Hồ Chí Minh để biết số lượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài tập trung nhiều ở những nước nào, khu vực nào để từ đó có hướng tiếp thị cho tốt. Tiếp cận Câu lạc bộ Doanh nghiệp Việt kiều để tiếp thị những khách hàng tiềm năng và tổ chức huy động kiều hối thông qua các buổi hội họp, gửi tài liệu quảng cáo dịch vụ của ngân hàng. Mỗi một cán bộ chuyên viên của ngân hàng là một chiến sĩ tiếp thị, phải tạo được mối quan hệ gần gũi với khách hàng khi khách hàng đến sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Không nên bỏ qua cơ hội quảng cáo dịch vụ kiều hối đối với các khách hàng sẵn có của khối dịch vụ và khối tín dụng vì đây có thể là những khách hàng tiềm năng của chi nhánh. Đồng thời, họ cũng là một kênh quảng cáo hữu hiệu cho các dịch vụ của ngân hàng. Đào tạo và huấn luyện một đội ngũ cán bộ chuyên viên ngân hàng chuyên nghiệp trong nghiệp vụ kiều hối. Nhóm chuyên viên chuyên trách này sẽ theo dõi và lập danh sách các khách hàng tiềm năng qua quen biết, giới thiệu và những khách hàng có giao dịch về dịch vụ kiều hối dù chỉ là một lần với ngân hàng. Ngoài ra, cần phải có sự kết hợp giữa các phòng trong công tác tiếp thị dịch vụ kiều hối. Ví dụ: Phòng Dịch Vụ 4 kết hợp với Phòng Tín Dụng 4 để có danh sách khách hàng đến ngân hàng vay vốn làm thủ tục đi xuất khẩu lao động, du học. Trên cở sở những danh sách khách hàng này, ngân hàng sẽ có những chính sách thích hợp để chăm sóc khách hàng. Mục đích: ü Tạo mối quan hệ với khách hàng. ü Giữ mối quan hệ giao dịch giữa khách hàng với ngân hàng. ü Tạo cho khách hàng cảm thâý quen thuộc với dịch vụ chuyển tiền kiều hối của BIDV. ü Chính những người thân, bạn bè của Việt kiều sẽ là một kênh quảng cáo hữu hiệu về dịch vụ chuyển tiền kiều hối của BIDV. Nếu những khách hàng này được chăm sóc tốt, được phục vụ tốt thì họ sẽ là những người đem lại cho ngân hàng nhiều khách hàng hơn nữa trong tương lai. Thực hiện các chương trình quảng cáo thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng: báo chí, đài, truyền hình, poster,...; Tham gia tài trợ các chương trình hoạt động xã hội, các cuộc thi của của đài truyền hình... Kiến nghị với BIDV H.O: ü Đẩy mạnh chiến dịch quảng cáo về dịch vụ kiều hối : + Tại các vùng, địa phương có nhiều người xuất ngoại, làm việc, định cư ở nước ngoài. + Tại tất cả các chi nhánh cấp 1, cấp 2, quỹ tiết kiệm, quầy thu đổi ngoại tệ của BIDV. + Tham gia tài trợ các chương trình, các công tác xã hội nhằm quảng bá thương hiệu của BIDV. + Tham gia chương trình quảng cáo trên các website, báo, đài, chương trình truyền hình dành cho người Việt Nam ở xa tổ quốc. ü Tạo lập một câu khẩu hiệu (Slogan) và hình ảnh cho dịch vụ kiều hối của BIDV. Đồng thời triển khai cho toàn hệ thống sử dụng nhằm tạo tính thống nhất cho dịch vụ kiều hối. Ví dụ: Câu slogan cho dịch vụ Kiều hối có thể là: “Nhanh Chóng - Đơn Giản- Tiện Lợi” ü Phối hợp với Bộ Ngoại Giao, các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài để nắm bắt tình hình, các qui định chuyển tiền của các nước sở tại, các khả năng, biện pháp hữu hiệu để giúp Việt kiều có nhu cầu chuyển tiền về Việt Nam cho thân nhân, bạn bè... có thể được thực hiện một cách thuận lợi, tiết kiệm chi phí và nhanh nhất cho kiều quyến. ü Thành lập một công ty chuyên thực hiện dịch vụ nhận kiều hối trong nước và nước ngoài nơi có lương giao dịch chuyền tiền kiều hối với doanh số lớn về Việt Nam. Xây dựng mạng lưới chi trả rộng. Thoả thuận hợp tác với các ngân hàng, công ty kiều hối trong nước có mạng lưới rộng để mở rộng mạng lưới chi trả kiều hối đến tận các nơi mà BIDV không có chi nhánh. Mục đích: ü Tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong việc nhận kiều hối từ người thân ở nước ngoài chuyển về Việt Nam. ü Tạo lợi thế cạnh tranh trước những đối thủ cạnh tranh khác. - Thiết lập nhiều phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm để thực hiện việc thu đổi ngoại tệ và chi trả kiều hối Xây dựng biểu phí dịch vụ hợp lý. Tăng sức cạnh tranh của ngân hàng so với các ngân hàng khác trên cùng một địa bàn bằng biểu phí dịch vụ. Xác lập mức phí ưu đãi với các công ty kiều hối. Kiến nghị với BIDV H.O: ü Chi nhánh BIDV-HCMC là đầu mối chi trả kiều hối. Hàng tháng, Chi nhánh đầu mối BIDV- HCMC sẽ chia phí cho các chi nhánh phục vụ người hưởng theo tỷ lệ thích hợp. ü Tìm kiếm cơ hội hợp tác và thoả thuận với các ngân hàng đại lý nước ngoài về mức phí chuyển tiền ưu đãi qua hệ thống BIDV. Thu phí dịch vụ một lần tại nơi chuyển. Sau đó cuối mỗi tháng hoặc quý trong năm chia phí phục vụ cho BIDV. Tại các chi nhánh của BIDV, miễn phí nhận kiều hối bằng tiền mặt bằng ngoại tệ đối với khách hàng đến ngân hàng nhận kiều hối sau 02 ngày kể từ ngày số tiền được ghi Có vào tài khoản của ngân hàng. Như vậy, khách hàng nhận tiền không phải trả thêm bất kỳ khoản phí nào. Nguồn ngoại tệ chi trả. - Kiến nghị với BIDV H.O về việc điều chuyển ngoại tệ từ những chi nhánh thừa sang chi nhánh Tp. HCM trong trường hợp chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh thiếu ngoại tệ để chi trả kiều hối. - Thiết lập nhiều quầy thu đổi ngoại tệ tại các trung tâm thương mại lớn, các khách sạn, khu vực có các công ty kiều hối hoạt động. - Mỗi chuyên viên ngân hàng tích cực vận động, tiếp thị khách hàng, bạn bè, thân nhân có ngoại tệ nhàn rỗi chưa dùng đến gửi tiết kiệm ở ngân hàng. - Sử dụng chức năng xuất nhập khẩu ngoại tệ trực tiếp với sự tính toán khoa học trong việc giảm chi phí xuất nhập khẩu ngoại tệ của chi nhánh Xây dựng chính sách khách hàng tốt. - Chính sách khách hàng cần phải hấp dẫn, khuyến khích vật chất, tạo sự thân mật, tin tưởng cho khách hàng. Chính sách khách hàng cần được công báo rộng rãi trên cơ sở đẩy mạnh và phát triển công tác thông tin tuyên truyền, quảng cáo ... để công chúng có thể hiểu biết cụ thể lợi ích của việc giao dịch với ngân hàng và kèm theo đó là các hình thức khuyến mại khác, tác động trực tiếp đến tâm lý của công chúng, sẽ có tác dụng tích cực trong việc thu hút gắn bó thường xuyên với ngân hàng. - Thành lập đội ngũ nhân viên thực hiện việc chi trả kiều hối tại nhà đối với những khách hàng cư trú tại các quận nội thành ở thành phố Hồ Chí Minh. - Thực hiện các chương trình khuyến mại hấp dẫn để thu hút lượng kiều hối qua chi nhánh. Giá trị quà tặng, khuyến mại sẽ tăng lên cùng với giá trị trị giao dịch hoặc mức độ thường xuyên của giao dịch. Chi nhánh có thể: ð Tặng coupon để đi mua sắm tại các siêu thị. ð Phát hành thẻ ATM miễn phí. ð Đối với những khách hàng có món tiền kiều hối giá trị lớn thì khách hàng sẽ được phiếu rút thăm trúng thưởng cơ hội đi du lịch tại một trong số những nước ở Châu Á. ð Khách hàng sẽ được nhận phiếu tích lũy để có cơ hội rút thăm trúng thưởng một chuyến du lịch ở Châu Âu. ð Khách hàng có doanh số kiều hối giao dịch thường xuyên với ngân hàng sẽ được nhận phiếu ưu đãi về phí dịch vụ hoặc lãi suất (tiền vay, tiền gửi) của ngân hàng khi sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng. - Ngoài ra, phần lớn lượng kiều hối được chuyển về kiều quyến tại Việt Nam nhằm mục đích tiêu dùng, mua sắm và đầu tư do vậy chính sách khách hàng nên chú trọng đến các khiá cạnh này để có các chương trình khuyến mãi hấp dẫn hơn. Ví dụ: Đối với những khách giao dịch dịch vụ kiều hối thường xuyên với chi nhánh hoặc đối với những khách hàng có doanh số kiều hối với giá trị lớn thì khách hàng sẽ được hưởng: Ø Những tiện ích gia tăng khi mua sắm hàng hoá, sử dụng dịch vụ tại các nhà cung cấp có thoả thuận với ngân hàng. Ø Được hưởng các chính sách ưu đãi về lãi suất vay, lãi suất tiền gửi. Các biện pháp khác đi kèm. Rút ngắn thời gian chuyển tiền. Thông tin đến khách hàng nhanh bằng cách hoàn thiện và phát triển các tiện ích của ngân hàng như: Home banking, Phone banking, Mobil banking, Internet banking. Hoàn thiện, phát triển và đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ cá nhân đi kèm với dịch vụ kiều hối nhằm tạo lợi thế cạnh tranh đối các ngân hàng trên cùng địa bàn. Ví dụ: phát triển mạng lưới ATM, đa dạng các loại hình tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, các tài khoản tiền gửi, tiết kiệm cá nhân mang tính chất sinh lợi cao.... Phát hành những tờ bướm, cập nhật và hoàn thiện thông tin giới thiệu về các sản phẩm dịch vụ và tiện ích của ngân hàng trên website của ngân hàng, trong đó hướng dẫn chi tiết các thông tin cần thiết liên quan đến dịch vụ kiều hối (hướng dẫn làm thế nào chuyển tiền về Việt Nam, làm thế nào để nhận tiền từ nước ngoài chuyển về, biểu phí dịch vụ, danh sách các ngân hàng mà ngân hàng phục vụ có mở tài khoản (tên ngân hàng, Swift Code, địa chỉ liên lạc, số tài khoản của ngân hàng phục vụ, mạng lưới chi trả kiều hối, …). Các chuyên viên ngân hàng khi phục vụ khách hàng thì phải khéo léo trò chuyện với khách hàng, tư vấn cho khách hàng những tiện ích, sản phẩm dịch vụ khác của ngân hàng nhằm hướng khách hàng đến việc có nhu cầu sử dụng các sản phẩm, dịch vụ khác của ngân hàng. Mục đích: ü Giữ mối quan hệ giao dịch giữa khách hàng với ngân hàng. Khách hàng không cần phải suy nghĩ nhiều đến việc phải lựa chọn ngân hàng phục vụ mình. ü Ngân hàng có thể bán kèm – bán chéo các sản phẩm dịch vụ khác của ngân hàng. ü Cung cấp các dịch vụ trọn gói cho khách hàng. Tăng thu nhập từ các dịch vụ khác. Kiến nghị với BIDV H.O triển khai dịch vụ mới với tên gọi là “Tiết kiệm kiều hối”. Khi khách hàng đến nhận kiều hối, chuyên viên chuyên trách có thể tư vấn cho khách hàng về loại dịch vụ mới “Tiết kiệm kiều hối”. Thủ tục như sau: + Khách hàng điền vào “Giấy đề nghị Mở Tài Khoản Tiết Kiệm Kiều Hối” của ngân hàng (xem Phụ Lục 2 ) + Chuyên viên chuyên trách sẽ nhận Giấy đề nghị từ khách hàng và lưu hồ sơ. + Khi có kiều hối chuyển về, chuyên viên chuyên trách sẽ liên lạc thông báo khách hàng đến nhận kiều hối. Có hai trường hợp: Trường hợp 1: Khách hàng cần tiền ngay. Ngân hàng có thể đến tận nơi giao tiền hoặc ngân hàng chỉ dẫn khách hàng đến địa điểm giao dịch của ngân hàng thuận lợi nhất để nhận tiền. Trường hợp 2: Khách hàng chưa cần tiền ngay. Ngân hàng sẽ thực hiện theo nội dung của “Giấy Đề Nghị Mở Tài Khoản Tiết Kiệm Kiều Hối”. Ngân hàng sẽ giao “Sổ Tiết Kiệm Kiều Hối” tận nhà cho khách hàng (nếu có yêu cầu). Cơ sở để khách hàng nhận được “Sổ Tiết Kiệm Kiều Hối” là Chứng Minh Thư của khách hàng. Mục đích: Tạo tính khác biệt của dịch vụ kiều hối của BIDV-HCMC so với dịch vụ cùng loại của các ngân hàng khác trên cùng địa bàn. Tăng huy động vốn ngoại tệ. 3.2.3.7. Biện pháp ghi nhận thành quả đóng góp của cán bộ nhân viên đối với sự phát triển của BIDV-HCMC. Biện pháp này góp phần tăng sự gắn bó của nhân viên với BIDV HCMC, từ đó góp phần tăng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng. Ngân hàng phải có các biện pháp khen thưởng hợp lý đối với các cán bộ nhân viên ngân hàng trong việc tìm kiếm khách hàng sử dụng dịch vụ kiều hối về cho ngân hàng. Mục đích: ü Khuyến khích các cán bộ nhân viên ngân hàng năng động hơn trong việc tìm kiếm khách hàng cho ngân hàng. NHỮNG GIẢI PHÁP BỔ TRỢ. Hoàn chỉnh và xây dựng mới các chính sách thu hút người Việt Nam ở nước ngoài hoạt động đầu tư, kinh doanh ở trong nước. Coi trọng các hình thức đầu tư, kinh doanh quy mô vừa và nhỏ do người Việt Nam ở nước ngoài trực tiếp thực hiện hoặc thông qua người thân trong nước thực hiện. Mở rộng và tạo thuận lợi hơn nữa chính sách kiều hối. Phát huy khả năng của người Việt Nam ở nước ngoài làm dịch vụ, thiết lập và mở rộng kênh tiêu thụ hàng hóa Việt Nam, các quan hệ hợp tác và đầu tư với các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân nước ngoài. Cần sớm thống nhất Luật Đầu tư trong nước và nước ngoài để tạo sự bình đẳng cho doanh nghiệp và dễ dàng trong quản lý nhà nước trong quản lý đầu tư. Tạo cơ hội kinh doanh cho họ, thông thoáng trong việc làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá. Cần phân cấp cho Hải quan trực tiếp xem xét việc nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên liệu, phụ tùng, linh kiên... tránh qua các khâu nấc không cần thiết gây trở ngại cho doanh nghiêp. Khuyến khích họ đẩy mạnh gia công hàng hoá xuất khẩu. Ở nước ngoài họ có lợi thế: kênh phân phối, nguồn vật tư, nguyên liệu, còn ở tại Việt Nam họ cũng có lợi thế vì người thân gia đình họ, bè bạn thân thiết của họ có thể tham gia quản lý doanh nghiệp thực hiện các hợp đồng gia công. Khuyến khích họ tham gia xuất khẩu hàng hoá của Việt nam. Vì sinh sống ở nước ngoài nên họ nắm được rất kịp thời sự thay đổi thị hiếu, mẫu mã, chất lượng, số lượng của khách hàng, đồng thời họ cũng năm chắc được nguồn hàng tại Việt Nam. Khuyến khích họ thiết lập các Trung tấm xúc tiến đầu tư và thương mại ở nhiều nước trên thế giới, trước hết là các thị trường trọng điểm như Hoa kỳ, EU... Các bộ cần định kỳ hàng năm có Hội nghị lắng nghe những kiến nghị của họ, qua đó sửa đổi những quy định lỗi thời, đồng thời đặt hàng Việt kiều về Kinh nghiệm của các nước trong quản lý xuất nhập khẩu hàng VIệt Nam. Kết luận chương 3: Việc xây dựng nên những chính sách, giải pháp phù hợp với tình hình, kinh tế, xã hội như trên không thể xem là hoàn chỉnh để có thể thu hút được tối đa nguồn lực kiều hối về Việt Nam nói chung, về BIDV HCMC nói riêng. Những biện pháp trên chỉ mong nhấn mạnh nguồn lực kiều hối là rất quan trọng, đây là những biện pháp gợi mở, phù hợp với đặc trưng của BIDV HCMC, giúp BIDV HCMC xem xét, chọn lọc áp dụng triển khai nhằm nâng cao vị thế và năng lực canh tranh của mình. Từ đó có sự chuẩn bị, sẵn sàng cạnh tranh hơn với các hệ thống Ngân hàng khác đang hoạt động trên địa bàn với cùng lĩnh vực hoạt động. KẾT LUẬN Trên cơ sở lý luận chung về dịch vụ Kiều hối của các ngân hàng trong giai đoạn đất nước hội nhập và phát triển, kết hợp với việc nghiên cứu các tài liệu, báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Thành phố Hồ chí Minh, của Ngân hàng Thế giới về lượng kiều hối chuyển về Việt Nam qua các năm. Đồng thời cũng kết hợp nghiên cứu thực tiễn hoạt động kiều hối của các Ngân hàng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; Luận văn đã chọn lọc đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực canh tranh của Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam-chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh với những nội dung chính được đề cập trong các chủ đề: Nhấn mạnh được những ưu diểm và nhược điểm trong công tác dịch vụ kiều hối tai BIDV HCMC để từ đó xác lập hướng phát triển, kiến tạo lợi thế cạnh tranh và triển khai các chiến lược phát triển dịch vụ phù hợp với dặc trưng của mình. Nâng cao dịch vụ huy động vốn từ kiều hối như xác định đúng đối tượng phục vụ, xác định đúng nhu cầu khách hàng, xác định đúng thị trường tiềm năng. Những giải pháp của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế vĩ mô nhằm thu hút hơn nửa nguồn tiền kiều hối về nước, phục vụ cho công cuộc đầu tư phát triển đất nước. Những giải pháp của BIDV Hội sở và BIDV HCMC nhằm nâng cao năng lực canh tranh của toàn hệ thống. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng bằng cách phát huy các dịch vụ thế mạnh của mình là một trong những hướng đi đúng đắn hiện nay. Do đó, việc xác định cho mình loại dịch vụ nào là cần thiết để đầu tư có hiệu quả góp phần nâng cao thương hiệu của mình là rất quan trọng. Trong cuốn luận văn này đã thấy được dịch vụ kiều hối cũng là một trong những dịch vụ trọng tâm để BIDV HCMC có thể quan tâm và phát huy đúng mức. Những giải pháp trong luận vãn được nghiên cứu dựa trên những đặc trưng cơ bản của BIDV HCMC đang có, do đó nó mang tính thiết thực có thể áp dụng được để góp phần đẩy mạnh dịch vụ kiều hối như các ngân hàng thương mại trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5lvhoanchinh.DOC
Tài liệu liên quan