LỜI MỞ ĐẦU
1/. Lý do chọn đề tài
Việc gia nhập WTO đã mở ra những cơ hội phát triển mới cho thị trường tài chính Việt Nam, nhằm tạo nên bức tranh toàn diện cho nền kinh tế nước nhà với một bối cảnh thuận lợi cho một nước đang phát triển. Tuy nhiên bên cạnh đó, việc hội nhập trong lĩnh vực t ài chính - ngân hàng cũng đặt ra nhiều thách thức và rủi ro đối với các NHTM Việt Nam. Sự hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng sẽ dẫn đến sự xuất hiện những sản phẩm tài chính mới và hoàn toàn xa lạ với không chỉ người dân, doanh nghiệp mà còn đối với chính những cán bộ trực tiếp làm việc trong lĩnh vực này. Trong khi đó, đối với các nước phát triển trên thế giới, những sản phẩm đó đã hình thành và tồn tại lâu đời, điển hình một trong số các sản phẩm đó chín h là “Giao dịch ký quỹ chứng khoán” ( hay còn gọi là giao dịch ký quỹ trading chứng khoán). Chính vì thế việc đẩy mạnh áp dụng các sản phẩm n ày ở nước ta là điều hiển nhiên
và cần thiết hơn bao giờ hết, bởi lẽ hoạt động này còn rất nhiều tiềm năng mà đối thủ cạnh tranh lại còn quá ít. Kể từ ngày Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO - khi lĩnh vực ngân hàng đã bắt đầu mở cửa - thì việc đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ là điều tất yếu nhằm phân tán rủi ro cũng nh ư đa dạng hóa nguồn thu nhập. Hơn nữa nếu các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam được phép thực hiện nghiệp vụ giao dịch ký quỹ thì tại sao các ngân hàng Việt nam của chúng ta lại không thực hiện ? Nhất là đó lại là một ngân hàng quốc doanh lớn. Với những lý do tr ên nên tôi đã chọn đề tài “Phát triển sản phẩm tài chính giao dịch ký quỹ chứng khoán trong hệ thống Ngân Hàng Công Thương Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2/. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của luận văn nhằm giới thiệu về sự ra đời v à phát triển của sản phẩm mới trong ngành tài chính ngân hàng, một sản phẩm vẫn còn xa lạ đối với thị trường tài chính ở Việt Nam, để từ đó có thể tiếp cận và đưa vào hoạt động trong hệ thống NHCTVN.
3/. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu về cách thức hoạt động của nghiệp vụ “Giao dịch ký quỹ chứng khoán”, về tình hình hoạt động kinh doanh của NHCTVN và về tình hình TTCKVN trong giai đoạn 2005-2007. Từ đó có cơ sở đưa nghiệp vụ “Giao dịch ký quỹ chứng khoán” vào hoạt động trong hệ thống NHCTVN .
4/. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu tổng hợp được sử dụng trong việc thực hiện luận văn gồm: phương pháp hệ thống hóa, so sánh, thống kê, phân tích, tổng hợp và luận giải nhằm làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong quá trình nghiên cứu.
5/. Giới hạn của đề tài
Giao dịch ký quỹ bao gồm hai trường hợp mua và bán chứng khoán tương ứng với hai khuynh hướng giá của chứng khoán. Tuy nhi ên nếu nghiên cứu cả hai trường hợp thì quá rộng e rằng sẽ không thể phân tích sâu đ ược. Vì vậy trong phạm vi đề tài của mình, tôi chỉ nghiên cứu phần giao dịch ký quỹ về chứng khoán đối với trường hợp mua chứng khoán nghĩa là nhà đầu tư dự đoán giá chứng khoán sẽ tăng.
6/. Hạn chế của đề tài
Đây là một đề tài còn khá mới, lần đầu được nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ cho nên nguồn tài liệu nghiên cứu chưa phong phú, chủ yếu dựa vào các trang web từ mạng và công trình nghiên cứu khoa học được thực hiện 2005. Do đó sẽ không tránh khỏi nhiều thiếu sót.
Do đề tài gắn liền với tình hình thị trường tài chính tiền tệ và TTCK do đó có một số đặc điểm, diễn biến của thị tr ường có thể chỉ phát sinh đúng ngay tại thời điểm tác giả nghiên cứu chứ không đúng với thời điểm báo cáo luận văn.
7/. Kết cấu của luận văn
Nội dung của luận văn gồm ba chương :
- Chương I : Tổng quan về sản phẩm tài chính giao dịch ký quỹ chứng khoán.
- Chương II : Thực trạng hoạt động và nhu cầu phát triển sản phẩm tài chính giao dịch ký quỹ chứng khoán trong hệ thống Ngân hàng công thương Việt nam .
- Chương III : Chiến lược và một số giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ giao dịch ký quỹ chứng khoán trong hệ thống ngân hàng công thương Việt nam.
72 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1935 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển sản phẩm tài chính giao dịch ký quỹ chứng khoán trong hệ thống Ngân Hàng Công Thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chức kinh doanh chứng khoán h àng đầu của thế giới).
Nếu như năm 2006 được xem là năm thăng hoa của TTCK thì năm
2007 giới đầu tư lại rơi vào tâm trạng thấp thỏm khi phần lớn các phi ên giao
dịch chứng khoán có xu hướng giảm giá và lại không theo một quy luật nào.
Mặc dù 3 tháng đầu năm 2007 VN-Index tiếp tục tăng đến 55,72% lên đến
1.170,67 điểm vào giữa tháng 3 và đây cũng chính là đỉnh của VN-Index đến
cuối năm 2007 chỉ số này cũng không thể trở lại đỉnh trên. Chỉ số VN-Index
đến ngày 24/12/2007 đạt 930,86 điểm tăng 23,82% so với đầu năm nh ưng vẫn
còn thấp hơn đến 6 lần so với mức tăng 2006. Nguyên nhân do đặc thù của
TTCK là một kênh huy động vốn gián tiếp, vốn vào nhanh nhưng rút ra cũng
nhanh nên trong năm 2007 nguồn cầu đổ vào TTCK không ổn định, thêm vào
đó là sự ảnh hưởng của các yếu tố sau :
- Sự ra đời của chỉ thị 03 về giới hạn cho vay kinh doanh chứng khoán
bằng 3% dư nợ cho vay của NHTM. Dưới ảnh hưởng của chỉ thị này, các
NHTM buộc phải siết chặt cho vay đối với các nh à đầu tư, từ đó kìm hãm
nguồn vốn đổ vào thị trường.
- Luật thuế thu nhập cá nhân sắp được ban hành. Theo đó, lợi tức kinh
doanh chứng khoán sẽ được tính theo một trong hai cách : Bằng 20% lợi
nhuận, hoặc bằng 0,1% giá trị giao dịch bán.
- Lạm phát cao buộc NHNN phải hạn chế mua ngoại tệ v ào, ảnh hưởng
tới khả năng giải ngân của các quỹ nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
- Sự lên giá chóng mặt của địa ốc và vàng đã giảm lực hút của TTCK
do dòng tiền bị rút ra khá nhiều đổ về 2 thị tr ường này.
- Khi Việt nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO cộng
với tâm lý lạc quan quá mức của nhà đầu tư đã đẩy giá cổ phiếu lên quá cao
31
và đi xa so với giá trị thực của nó làm cho TTCK phát triển quá nóng, và
đương nhiên sẽ có lúc giá chứng khoán trở về với giá trị thực của nó chỉ có
điều là sớm hay muộn.
Sự sôi động của TTCK trong năm 2006 đã tạo nên tính thanh khoản
cho cổ phiếu của các công ty niêm yết do đó các công ty và doanh nghiệp có
thể huy động vốn dễ dàng bằng hình thức phát hành thêm cổ phiếu. Bên cạnh
đó tiến trình cổ phần hóa của các doanh nghiệp, ngân h àng quốc doanh cũng
đến lúc không thể hẹn mãi và việc cổ phần hóa đã đem lại một khoản thặng
dư vốn lớn cho nhà nước và đã có 3 doanh nghiệp nhà nước (Bảo việt, Tài
chính dầu khí, Phân đạm và hóa chất dầu khí) và một NHTM quốc doanh
(Vietcombank) được cổ phần hóa , mặc dù còn một số NHTM quốc doanh và
doanh nghiệp quốc doanh khác đã chuẩn bị sẳn sàng cho cổ phần hóa nhưng
do cung đã vượt cầu và việc hạn chế cho vay đầu tư chứng khoán nên nhà đầu
tư đã bán cổ phiếu để trả nợ ngân hàng từ đó làm cho thị trường càng giảm
sút.
Hơn nữa, một sự kiện dễ nhận thấy ở TTCKVN trong năm 2007 l à
cung đã vượt cầu và theo quy luật cung cầu sẽ dẫn đến t ình trạng sụt giảm giá
chứng khoán. Việc tăng cung chứng khoán l à điều cần thiết nhằm nâng vốn
điều lệ cho các công ty cổ phần, tuy nhi ên nếu không khéo nó sẽ là con dao 2
lưỡi và với TTCKVN nó đã có những tác động tiêu cực. Trong năm 2007,
việc kiểm soát nguồn cung chứng khoán tr ên thị trường có những hạn chế sau :
- Hiện tượng phát hành cổ phiếu còn tràn lan, tăng vốn vội vã trong thời
điểm thị trường nóng nhằm thu về các khoản thặng d ư vốn lớn cho doanh
nghiệp.
- Huy động vốn chưa đi kèm với những phương án sử dụng vốn hiệu
quả.
32
- Phần lớn hoạt động phát hành thêm cổ phiếu đều có mục đích “lấn
sân” sang lĩnh vực kinh doanh không truyền thống của do anh nghiệp là bất
động sản.
Tuy nhiên sự kém sôi động của TTCK mặc dù tạo tâm lý không tốt cho
giới đầu tư chứng khoán nhưng sẽ đưa giá cổ phiếu dần trở về với giá trị thực
của nó và hứa hẹn một TTCK phát triển ổn định h ơn.
2.2.2/. Tác động của thị trường chứng khoán đối với hoạt động của ng ành
ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
Sự phát triển bùng nổ của TTCK thời gian vừa qua đã và đang đặt các
ngân hàng, một chủ thể vốn dĩ chiếm thế độc quyền tr ên thị trường vốn lâu
nay, vào một bối cảnh mới đầy thuận lợi và thách thức.
- Trước hết TTCK có tác động tích cực đến các ngân h àng trong việc
tăng vốn điều lệ, tính đến hết quý I/2007 hầu hết các NHTM cổ phần đều đạt
mức vốn điều lệ từ 1000 tỷ đồng trở l ên, vượt trước thời hạn so với lộ tr ình
tăng vốn điều lệ được quy định tại Nghị định 146 của Chính phủ ban h ành
năm 2006.
- Mặc dù TTCK đã tước mất vai trò độc quyền của hệ thống ngân hàng
ở chức năng đầu tư vào doanh nghiệp nhưng cũng sẽ giúp ngân hàng giảm tỷ
lệ nhất định vốn đầu tư ngắn hạn vào cho vay trung và dài hạn, từ đó sẽ gánh
đỡ rủi ro cho hệ thống ngân hàng để các NHTM tập trung cho vay tín dụng
ngắn hạn và đặc biệt là phát triển các dịch vụ khác.
- Khi TTCK phát triển thì lợi nhuận của ngân hàng đã không còn phụ
thuộc chủ yếu vào hoạt động cho vay mà còn phụ thuộc vào nhiều loại dịch
vụ sinh lời khác từ hoạt động đầu t ư, và làm cho hoạt động ngân hàng thêm
phần sinh động khi phát triển thêm được các dịch vụ liên quan đến hoạt động
đầu tư chứng khoán.
33
- Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có những tác động ti êu cực đối với hoạt
động của ngân hàng khi TTCK phát triển, đó là ngân hàng sẽ gặp khó khăn
hơn trong việc huy động nguồn tiền gửi vì đã được chuyển hướng sang đầu tư
chứng khoán từ đó sẽ làm cho lãi suất huy động tăng cao dẫn đến lãi suất đầu
ra cũng tăng tương ứng. Đây là một trong những nhân tố khiến tỷ lệ lạm phát
tăng lên.
- Hơn nữa khi việc tăng vốn một cách khá dễ d àng và quá nhanh mà
không có kế hoạch sử dụng vốn hợp lý sẽ dễ dẫn đến việc sử dụng vốn không
hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực xã hội.
2.2.3/. Thực trạng cho vay đầu tư chứng khoán tại các ngân hàng thương
mại Việt nam trên địa bàn TPHCM
Pháp luật hiện hành không cấm các TCTD cấp tín dụng theo các h ình
thức cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu t ư, kinh doanh chứng khoán,
nhưng các TCTD phải tuân thủ các quy định về các điều kiện và tỷ lệ an toàn
tín dụng. Từ đầu năm 2006 đến nay, nhiều NHTM v à công ty tài chính (gọi
chung là TCTD) mở rộng cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá đối với khách
hàng đầu tư, kinh doanh chứng khoán. Theo số liệu báo cáo của các TCTD, tỷ
lệ dư nợ tín dụng để đầu tư, kinh doanh chứng khoán và cho vay cầm cố
chứng khoán của các TCTD đến cuối tháng 4/2007 (khoảng 2,5%) chỉ giảm
nhẹ (-0,1%) so với cuối năm 2006 (2,6%), do tỷ trọng d ư nợ tín dụng để đầu
tư, kinh doanh chứng khoán của các NHTMNN và công ty tài chính ở mức
thấp và có xu hướng giảm, nhưng khối NHTM cổ phần thì gia tăng cả dư nợ
và tỷ trọng so với cuối năm 2006. Nếu loại trừ các khoản cho vay cầm cố
chứng khoán, chiết khấu giấy tờ có giá để sử dụng cho các mục đ ích khác
không phải để đầu tư, kinh doanh chứng khoán, thì tỷ lệ nêu trên ở mức
khoảng 2,2% tổng dư nợ tín dụng.
34
(Xem chi tiết số liệu dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán tại các NHTM
trên địa bàn TPHCM trước và sau khi chỉ thị 03 ra đời tại phụ lục 2.3 trang
72)
Sau khi nghiên cứu số liệu ta thấy dư nợ cho vay kinh doanh chứng
khoán được xác định bao gồm dư nợ của các khoản: Cho vay và chiết khấu
giấy tờ có giá đối với công ty chứng khoán, cho vay có cầm cố bằng chứng
khoán và/hoặc bảo đảm bằng tài sản khác đối với khách hàng sử dụng vốn
vay để mua các loại chứng khoán với mục đích đầu t ư ngắn hạn và/hoặc dài
hạn, cho vay ứng trước tiền đối với khách hàng đã bán chứng khoán và sử
dụng vốn vay để mua chứng khoán, cho vay đối với khách h àng để bổ sung số
tiền thiếu khi lệnh mua chứng khoán đ ược khớp, chiết khấu giấy tờ có giá đối
với khách hàng để sử dụng số tiền chiết khấu mua chứng khoán, các khoản
cho vay và chiết khấu giấy tờ có giá dưới các hình thức khác mà khách hàng
sử dụng vốn vay để mua chứng khoán . Sở dĩ đề tài chọn thời điểm 31/5/07 và
31/7/07 để phân tích vì đó là 2 thời điểm quan trọng đối với giới kinh doanh
chứng khoán. Tháng 5 là thời điểm ban hành chỉ thị 03 để hạn chế khả năng
cho vay kinh doanh chứng khoán của các NHTM trước tình hình phát triển
quá nóng của TTCK. Tuy nhiên do việc cho vay đầu tư chứng khoán chủ yếu
ở hai nơi có hoạt động kinh doanh chứng khoán phát triển mạnh nhất đó l à
TPHCM và Hà nội mà chủ yếu phát triển nóng nhất tại TPHCM nên đề tài chỉ
phân tích số liệu trên địa bàn TPHCM.
Tại địa bàn TPHCM, chủ yếu các NHTMCP thực hiện cho vay đầu t ư
kinh doanh chứng khoán, cụ thể như sau :
- Tại thời điểm trước khi có chỉ thị (31/5/2007): Có 15 NHTM cổ phần
cho vay đầu tư chứng khoán với tổng dư nợ cho vay đầu tư kinh doanh chứng
khoán là 8.885 tỷ đồng chiếm 9,1 % tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng.
Trong đó chỉ có 3 ngân hàng là NHTMCP Sài Gòn Công thương, NHTMCP
35
Sài Gòn và NHTMCP Nam Á có dư nợ cho vay đầu tư kinh doanh chứng
khoán dưới 3%, 12 ngân hàng còn lại đều có tỷ lệ cho vay vượt mức quy định
của chỉ thị 03, cá biệt còn có ngân hàng có tỷ lệ lên đến hơn 52% (NHTMCP
Nam Việt). Ngân hàng Á châu là ngân hàng có mức dư nợ cao nhất đồng thời
cũng là ngân hàng có mức cho vay đầu tư chứng khoán cao nhất. Tuy nhiên
nếu xét về tỷ trọng dư nợ thì ngân hàng Nam Việt lại có tỷ trọng cao nhất. Sở
dĩ có tỷ lệ cho vay cao như trên vì từ thời điểm cuối năm 2006 đầu năm 2007
chỉ số VN-Index của thị trường luôn tăng cho nên nhà kinh doanh chứng
khoán chỉ có lãi chứ không có lỗ vì vậy các ngân hàng thấy khả năng thu
được lợi là rất lớn, lại không gặp phải quá nhiều đối thủ cạnh tranh ( đa số các
ngân hàng quốc doanh không cho vay đầu tư chứng khoán) nên tỷ lệ cho vay
đầu tư chứng khoán đã vượt xa giới hạn rủi ro theo tỷ lệ cho phép.
- Tại thời điểm sau khi có chỉ thị 03 /NHNN : Nhằm mục đích hạn chế
rủi ro tín dụng phát sinh khi TTCK điều chỉnh , ngày 28/5/2007 NHNN đã ban
hành chỉ thị trên và đã có tác động đối với thị trường chứng khoán rõ rệt. Cụ
thể là tỷ lệ dư nợ bình quân của các ngân hàng cho vay đầu tư chứng khoán đã
giảm từ 9,1% xuống còn 6,47%, số tuyệt đối giảm 1.456 tỷ đồng trong khi
tổng dư nợ cho vay lại tăng thêm 17.085 tỷ đồng. Số ngân hàng có tỷ lệ cho
vay thấp hơn 3% tăng thêm 2 ngân hàng nên s ố ngân hàng có tỷ lệ cho vay
đầu tư chứng khoán vượt mức quy định đã giảm xuống chỉ còn 10 ngân hàng
và Ngân hàng Nam Việt (có tỷ lệ cho vay cao nhất trước khi có chỉ thị) đã
giảm xuống còn 16,82% thay vào đó là NHTMCP Thái B ình Dương
(30,58%). Ngân hàng Á Châu vẫn đứng đầu về dư nợ cho vay đầu tư chứng
khoán cũng như dư nợ cho vay chung của ngân hàng nhưng xét về tỷ trọng
chỉ chiếm 12,37% tổng dư nợ.
Qua kết quả thống kê về tình hình cho vay đầu tư kinh doanh chứng
khoán tại các NHTMCP trên địa bàn TPHCM cho thấy dư nợ cho vay đầu tư
36
kinh doanh chứng khoán của các TCTD này chiếm 6,47% so với tổng dư nợ.
Việc điều chỉnh giảm dần dư nợ còn chậm do một số nguyên nhân sau :
- Phần lớn các khoản cho vay đầu t ư kinh doanh chứng khoán là các
khoản cho vay có kỳ hạn và dựa theo hợp đồng vay, với các cam kết cụ thể
giữa ngân hàng và khách hàng. Do đó việc điều chỉnh dư nợ cũng phải phụ
thuộc vào kỳ hạn của hợp đồng.
- TTCK trong năm 2007 (đặc biệt là trong tháng 7 và tháng 8) b ị điều
chỉnh sâu, giá của nhiều cổ phiếu li ên tục giảm, chỉ số VN-Index giảm còn
908,37 điểm ( thời điểm 31/8/07), chính điều n ày đã tác động rất lớn đến nhà
đầu tư. Việc cân nhắc nắm giữ và kỳ vọng thị trường sôi động tăng điểm trở
lại để thu hồi vốn cũng như đạt được lợi nhuận kỳ vọng là những yếu tố tác
động đến tâm lý của nhà đầu tư nhằm duy trì các khoản nợ vay kinh doanh
chứng khoán.
- Bên cạnh đó sẽ có tác động ảnh hưởng “kép” từ yếu tố giá và quan hệ
cung cầu chứng khoán. Giá cổ phiếu giảm n ên nhiều nhà đầu tư muốn bán ra
tạo nên cung về chứng khoán rất cao trong khi khôn g nhiều lắm các nhà đầu
tư dám mua vào, dẫn đến cung lớn hơn sẽ tác động làm cho giá càng giảm
hơn.
(Phân tích tình hình cho vay kinh doanh ch ứng khoán tại các NHTMCP có trụ
sở chính trên địa bàn TPHCM đến 31/12/2007 tại phần phụ lục 2.4 trang 71)
Đến thời điểm 31/12/2007 tổng dư nợ của các ngân hàng có dư nợ cho
vay kinh doanh chứng khoán trên địa bàn TPHCM là 174.691 tỷ đồng trong
khi tổng dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán l à 3.134 tỷ đồng chiếm
1,79% so với tổng dư nợ, tuy nhiên điều này không nói lên được đây là tỷ lệ
an toàn (theo tinh thần của chỉ thị 03) mà phải so sánh tỷ lệ của từng ngân
hàng. Ngân hàng Á Châu là ngân hàng có dư n ợ cho vay kinh doanh chứng
37
khoán cao nhất (745 tỷ đồng) nhưng chỉ chiếm 2.37% tổng dư nợ trong khi đó
NHTMCP Thái Bình Dương lại là ngân hàng có tỷ lệ cho vay cao nhất 2.99%
mặc dù dư nợ cho vay chứng khoán chỉ có 82 tỷ đồng ( do tổng d ư nợ chỉ có
2.768 tỷ đồng). Nếu căn cứ vào số liệu tại thời điểm 31/5/07 và 31/7/07 cho
thấy các ngân hàng đã chấp hành nghiêm túc tinh thần của chỉ thị 03 nên đã
tìm mọi biện pháp khống chế dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán theo
khuôn khổ.
2.2.4/. Thực trạng hoạt động giao dịch ký quỹ chứng khoán tại Việt nam
Thị trường chứng khoán Việt nam được thành lập từ tháng 7/2000
nhưng mãi đến cuối năm 2006 thị trường mới bắt đầu sôi động. Nguyên nhân
như đã đề cập ở trên ( mục 2.2.1trang 27), trong phạm vi phần này chỉ đề cập
đến thực trạng hoạt động giao dịch ký quỹ chứng khoán tại Việt Nam. Hiện
nay các sản phẩm trên TTCK Việt nam còn khá "thô sơ", chưa có đủ nghiệp
vụ và công cụ đầu tư cần thiết giúp thị trường phát triển ổn định trong dài hạn.
Mặc dù thị trường đã thành lập hơn 7 năm nhưng những sản phẩm của thị
trường còn rất đơn điệu, chỉ thuần túy là những giao dịch mua bán giao ngay
(T+3), cho vay đầu tư chứng khoán, các hợp đồng repo chứng khoán, còn
nghiệp vụ bán khống vẫn chưa phép được thực hiện. Vì vậy việc nghiệp vụ
giao dịch ký quỹ chứng khoán chưa được thực hiện cũng là điều dễ hiểu. Tuy
nhiên không chỉ trong lĩnh vực chứng khoán, mà trong nhiều lĩnh vực kinh
doanh khác như ngoại tệ, vàng …nghiệp vụ giao dịch ký quỹ cũng chưa được
thực hiện. Mãi đến ngày 25/5/2007 lần đầu tiên hoạt động giao dịch ký quỹ về
vàng mới xuất hiện tại Việt nam với sự tham gia của các ngân hàng ACB,
Eximbank, Việt Á và Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC), sàn có tên
Trung tâm giao dịch vàng Sài Gòn, đặt tại quận Tân Bình, TP HCM. Việc áp
dụng giao dịch ký quỹ trong kinh doanh v àng qua sàn mang lại sự sôi động
cho thị trường cũng như gia tăng cơ hội cho nhà đầu tư, nhưng việc áp dụng
38
nghiệp vụ này cho TTCK lại đặt ra nhiều vấn đề hơn cho những nhà quản lý
bởi vì vàng và chứng khoán cùng là tài sản nhưng về bản chất lại có những
điểm khác nhau. Trong khi giao dịch vàng qua tài khoản được đảm bảo bằng
vàng vật chất và có thể chuyển thành tiền bất cứ lúc nào (tính thanh khoản
cao) thì chứng khoán lại là tài sản vô hình và tính thanh khoản kém hơn nhiều
thậm chí có lúc sẽ là những tờ giấy không có giá trị.
Tuy nhiên việc triển khai nghiệp vụ giao dịch ký quỹ về chứng khoán ho àn
toàn có thể thực hiện được. Vấn đề là truyền thông như thế nào để nhà đầu tư
hiểu và quyết định có sử dụng nghiệp vụ đó hay không, nếu có nhiều nghiệp
vụ mới, nhà đầu tư sẽ có thêm lựa chọn đầu tư. Bên cạnh những dịch vụ mới
vẫn có những dịch vụ truyền thống cho nh à đầu tư lựa chọn, ai cảm thấy rủi
ro thì không tham gia, hoặc CTCK không đủ khả năng tài chính cũng như khả
năng quản trị thì không triển khai.
2.3/. Nhu cầu phát triển giao dịch ký quỹ chứng khoán tại Ngân hàng
công thương Việt Nam
2.3.1/. So sánh sản phẩm dịch vụ của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam
với các Ngân hàng khác
2.3.1.1/. Các sản phẩm chính của Ngân hàng công thương Việt nam
NHCTVN có các sản phẩm chủ yếu sau :
* Về Huy động vốn
- Nhận tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn bằng VNĐ và ngoại tệ của
các tổ chức kinh tế và dân cư.
- Nhận tiền gửi tiết kiệm với nhiều h ình thức : Tiết kiệm không kỳ hạn
và có kỳ hạn bằng VNĐ và ngoại tệ, Tiết kiệm dự thưởng,Tiết kiệm
tích luỹ...
- Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu...
39
* Về cho vay và đầu tư
- Cho vay ngắn hạn bằng VNĐ và ngoại tệ.
- Cho vay trung, dài hạn bằng VNĐ và ngoại tệ.
- Tài trợ xuất, nhập khẩu; chiết khấu bộ chứng từ h àng xuất.
- Đồng tài trợ và cho vay hợp vốn đối với những dự án lớn, thời gian
hoàn vốn dài.
- Cho vay tài trợ, uỷ thác theo chương trình: Đài Loan (SMEDF); Việt
Đức (DEG, KFW) và các hiệp định tín dụng khung.
- Cho vay tiêu dùng.
- Góp vốn liên doanh, liên kết với các tổ chức tín dụng và các định chế
tài chính trong nước và quốc tế .
- Đầu tư trên thị trường vốn, thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế
* Thanh toán và Tài trợ thương mại
- Phát hành, thanh toán thư tín dụng nhập khẩu; thông báo, xác nhận,
thanh toán thư tín dụng nhập khẩu.
- Nhờ thu xuất, nhập khẩu (Collection); Nhờ thu hối phiếu trả ngay
(D/P) và nhờ thu chấp nhận hối phiếu (D/A).
- Chuyển tiền trong nước và quốc tế .
- Chuyển tiền nhanh Western Union.
- Thanh toán uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, séc.
- Chi trả lương cho doanh nghiệp qua tài khoản, qua ATM .
- Chi trả Kiều hối…
- Bảo lãnh, tái bảo lãnh (trong nước và quốc tế): Bảo lãnh dự thầu; Bảo
lãnh thực hiện hợp đồng; Bảo lãnh thanh toán.
- Mua, bán ngoại tệ (Spot, Forward, Swap…).
* Ngân quỹ
- Mua, bán các chứng từ có giá (trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc,
40
thương phiếu…)
- Thu, chi hộ tiền mặt VNĐ và ngoại tệ...
- Cho thuê két sắt; cất giữ bảo quản vàng, bạc, đá quý, giấy tờ có giá,
bằng phát minh sáng chế.
* Thẻ và ngân hàng điện tử
- Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng nội địa, thẻ tín dụng quốc tế
(VISA, MASTER CARD…)
- Dịch vụ thẻ ATM, thẻ tiền mặt (Cash card).
- Internet Banking, Phone Banking, SMS Banking.
* Hoạt động khác
- Khai thác bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ.
- Tư vấn đầu tư và tài chính.
- Cho thuê tài chính.
- Môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư, tư
vấn, lưu ký chứng khoán.
- Tiếp nhận, quản lý và khai thác các tài sản xiết nợ qua Công ty Quản
lý nợ và khai thác tài sản.
2.3.1.2/. So sánh sản phẩm dịch vụ giữa Ngân hàng công thương và các
NHTM quốc doanh khác
Mỗi NHTM quốc doanh với tên gọi, thương hiệu, logo riêng đã phần
nào thể hiện lĩnh vực hoạt động đặc thù của mình nhưng hầu như các ngân
hàng đều tham gia hoạt động nghiệp vụ tr ên mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Các
sản phẩm dịch vụ của hệ thống các NHTM quốc doanh nh ìn chung không có
sự khác biệt nhiều, có chăng là Vietcombank nổi trội hơn về nghiệp vụ thanh
toán quốc tế, thẻ tín dụng quốc tế, hệ thống máy ATM nhiều nhất trong hệ
thống các NHTMVN và đã thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu,
nhập khẩu và bao thanh toán nội địa (từ tháng 4/2005). Đồng thời cũng l à
41
NHTM quốc doanh đầu tiên thực hiện được việc gửi tiền một nơi rút tiền ở
nhiều nơi ( được triển khai năm 2005), đến nay các NHTM quốc doanh khá c
cũng đã từng bước thực hiện được nghiệp vụ này.
2.3.1.3/. So sánh sản phẩm dịch vụ giữa Ngân hàng công thương Việt
nam và các Ngân hàng thương mại cổ phần
Việc so sánh sản phẩm dịch vụ của ngân h àng công thương với các
NHTM cổ phần được giới hạn trong phạm vi NHTM cổ phần Á Châu, NHTM
cổ phần Sài gòn thương tín và Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam. Đây
được xem là 3 ngân hàng đầu tàu trong hệ thống các NHTM cổ phần tại Việt
Nam hiện nay.
2.3.1.3.1/. Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu
Theo báo cáo chưa kiểm toán vốn điều lệ của ACB đến ng ày
31/12/2007 là 2.630 tỷ đồng và vốn chủ sở hữu là 6.111 tỷ đồng. Lợi nhuận
trước thuế là 2.132 tỷ đồng, số lượng nhân viên gần 4000 người (bản tin tháng
12/2007 của NHTMCP Á châu).
Các sản phẩm dịch vụ nhìn chung có đầy đủ so với NHCTVN và đặc
biệt có các sản phẩm khác biệt mà có thể xem như “độc quyền” của Á Châu
chẳng hạn như : quyền chọn mua bán vàng, cho vay thấu chi, đặc biệt là dịch
vụ “Vay đầu tư vàng tại ACB” (được triển khai 3/12/2007) là sản phẩm tín
dụng hỗ trợ vốn đầu tư cho các khách hàng cá nhân, doanh nghi ệp tư nhân có
nhu cầu mua bán vàng (theo kỳ vọng giá vàng tăng, giảm ở tương lai). Khi
vay đầu tư vàng tại ACB, khách hàng được giao dịch mua bán vàng gấp 14
lần vốn tự có với các hình thức :
- Đầu tư giá lên: với kỳ vọng giá vàng tăng, khách hàng vay tiền đồng
(VND) tại ACB và mua vàng tại ACB. Khi giá vàng tăng đến mức kỳ vọng,
khách hàng bán lại vàng và trả nợ VND cho ACB để sinh lợi.
42
- Đầu tư giá xuống: với kỳ vọng giá vàng giảm, khách hàng vay vàng
tại ACB và bán số vàng vay được cho ACB. Khi giá vàng giảm đến mức kỳ
vọng, khách hàng mua lại vàng và trả nợ vàng cho ACB để sinh lợi.
Tiện ích:
- Khách hàng có cơ hội đầu tư sinh lợi ngay khi giá vàng tăng hoặc giá
vàng giảm.
- Được vay đến 14 lần vốn tự có, với tổng số tiền vay lên đến 100 tỷ
đồng.
2.3.1.3.2/. Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài gòn thương tín
(Sacombank)
Ngân hàng TMCP Sài gòn thương tín được thành lập ngày 21/12/1991
với số vốn điều lệ ban đầu chỉ có 3 tỉ đồng v à hoạt động ven TP.HCM. Sau
gần 16 năm hoạt động, đến nay Sacombank đ ã trở thành Ngân hàng TMCP
hàng đầu Việt Nam với :
- 4.449 tỉ đồng vốn điều lệ, lợi nhuận trước thuế là 1.452 tỷ đồng.
- Hơn 5.000 cán bộ nhân viên trẻ.
Vào ngày 12/07/2006, Sacombank là NHTMCP đ ầu tiên tại Việt Nam
được chính thức niêm yết cổ phiếu trên TTCK. Đến nay, cổ phiếu
Sacombank với mã STB luôn là cổ phiếu có khối lượng giao dịch và tính
thanh khoản hàng đầu tại TTCK Việt Nam. Các sản phẩm đặc trưng của
Sacombank so với Incombank :
- Cho vay mua chứng khoán.
- Cho vay thấu chi.
- Bao thanh toán nội địa.
43
Bên cạnh đó, Sacombank là một trong những NHTM đi đầu trong việc
đa dạng hóa các loại hình tiền gửi chẳng hạn như : Tiền gửi Vạn Phúc, Tiền
gửi Hoa Việt…
2.3.1.3.3/. Ngân hàng Thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu (Eximbank)
Cùng với Ngân hàng TMCP Á Châu và Sacombank, Eximbank c ũng là
một trong những NHTM cổ phần mạnh nhất hiện nay, v à cũng khá năng động
trong việc phát triển các sản phẩm dịch vụ. Đến tháng 12 năm 2007 vốn điều
lệ của Eximbank là 2.800 tỷ đồng VNĐ. Mặc dù so với ACB và Sacombank,
Eximbank không có sản phẩm nổi trội hơn nhưng nếu so với Vietinbank th ì
vẫn có những sản phẩm ưu việt hơn, chẳng hạn : cho vay thấu chi, giao dịch
vàng giao ngay, kỳ hạn, quyền chọn.
2.3.1.4/. So sánh sản phẩm dịch vụ giữa Ngân hàng công thương Việt
nam và Ngân hàng liên doanh, Ngân hàng 100% vốn nước ngoài
Nếu như trước đây các ngân hàng nước ngoài hoạt động chủ yếu trong
lĩnh vực bán buôn và tham gia mua cổ phần của các NHTM trong nước thì
nay họ đã dần chuyển sang dịch vụ bán lẻ ( dịch vụ cho khách hàng cá nhân).
Mặc dù khối các ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh chưa đưa ra
nhiều sản phẩm đặc biệt so với các ngân h àng trong nước nhưng họ có cách
thâm nhập thị trường rất chuyên nghiệp và hoàn toàn trái với quy trình của
các ngân hàng trong nước, cụ thể :
- Đối với các ngân hàng trong nước thì khi khách hàng muốn vay tiền
thì hầu như phải có hoa hồng cho cán bộ tín dụng, c òn ngân hàng nước ngoài
thì ngược lại : Sau khi quan hệ với các doanh nghiệp, ngân hàng nước ngoài
bắt đầu đặt vấn đề phục vụ nhân vi ên các doanh nghiệp này. Họ có thể cho
nhân viên doanh nghiệp vay tín chấp tới 200 triệu đồng. Từ h àng trăm khách
hàng doanh nghiệp, họ có hàng chục ngàn khách hàng cá nhân. Phương thức
44
phát triển khách hàng theo kiểu “vết dầu loang” đã thành công và đang phát
triển và điển hình cho phương thức kinh doanh trên là của Chi nhánh Ngân
hàng Hongkong & Thượng Hải tại TPHCM.
- Thứ hai, ngân hàng nước ngoài cho vay tín chấp, ngân hàng trong
nước cho vay thế chấp. Cụ thể hơn, ngân hàng nước ngoài cho doanh nghiệp
vay tiền thuê đất, lập xưởng sản xuất, làm ăn. Họ bán hàng hay xuất nhập
khẩu, ngân hàng thu, trả tiền hộ. Nghĩa là ngân hàng góp phần tạo ra thành
công từ đầu và cũng từ đó tạo ra sự gắn bó với khách h àng. Còn doanh nghiệp
muốn vay tiền ngân hàng trong nước, phải có quyền sử dụng đất hay nh à
xưởng, bất động sản trước để thế chấp. Rõ ràng đây là hai quy trình ngược
nhau.
- Thứ ba, về cách thức kinh doanh: Ngân hàng trong nước đặt lợi nhuận
lên đầu, ngân hàng nước ngoài đặt khách hàng lên hàng đầu. Thực ra mục
đích cuối cùng của ngân hàng nước ngoài cũng là lợi nhuận, nhưng họ xem
khách hàng là chiếc cầu bắc đến lợi nhuận, là vốn kinh doanh lớn nhất. Nếu
kinh doanh 5 lời 5 lỗ, thì ngân hàng nước ngoài vẫn tính là lời bởi họ được
khách hàng. Năm nay khách hàng chưa mang l ại lợi nhuận cho ngân hàng,
nhưng năm sau hoặc năm sau nữa, lời sẽ đến.
Rõ ràng Ngân hàng nước ngoài đang tạo những vòng kín ảnh hưởng
đến các doanh nghiệp. Đầu tiên họ sử dụng nguồn tài chính lớn hỗ trợ các
công ty nước ngoài vào làm ăn ở Việt Nam. Với những công ty nước ngoài đã
có mặt ở Việt Nam, họ thiết lập quan hệ khách h àng. Từ khách hàng công ty,
họ tiến dần sang khách hàng cá nhân của công ty. Cứ thế, đến khi họ có quyền
huy động tiền gửi và cung ứng tất cả các dịch vụ cho cá nhân nh ư ngân hàng
trong nước, họ chỉ cần dùng uy tín thương hiệu vốn có từ lâu để chinh phục
khách hàng.
45
Tóm lại : Nhìn chung so với các NHTM trong nước thì Vietinbank không
bằng về đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ c òn đối với khối ngân hàng liên doanh
và ngân hàng nước ngoài thì ngân hàng công thương cũng như các ngân hàng
nội địa khác không bằng họ trong chiến l ược hoạt động và chiến lược thu hút
khách hàng.
2.3.2/. Sự cần thiết của việc phát triển giao dịch ký quỹ chứng khoán
trong hệ thống ngân hàng công thương Việt Nam
Việt nam đã gia nhập WTO thì việc phải mở cửa là chuyện tất yếu chỉ
còn yếu tố thời gian mà thôi, nếu các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt
Nam được phép thực hiện nghiệp vụ giao dịch ký quỹ th ì tại sao các ngân
hàng Việt nam của chúng ta lại không thực hiện ? Nhất l à đó lại là một ngân
hàng quốc doanh lớn.
Điểm yếu của của thị trường tài chính nước ta nói chung là cơ cấu hệ
thống tài chính còn mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp
vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tính chung cả nội tệ v à ngoại
tệ, thì số vốn vay huy động ngắn hạn chuyển cho vay trung v à dài hạn chiếm
tới khoảng 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn (Nguồn : Báo cáo kết quả
hoạt động năm 2007 của ngân hàng nhà nước). Theo quyết định số
457/QĐ/NHNN ngày 19/4/2005 th ì tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn m à
NHTM được sử dụng để cho vay trung và dài hạn là 40%. Vì thế nếu duy trì
tỷ lệ 50% như trên là quá cao và lâu dần sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn và có nguy
cơ gây ra thiếu an toàn cho toàn bộ hệ thống. Do đó có thể thấy khi phát triển
nghiệp vụ giao dịch ký quỹ chứng khoán sẽ góp phần thay đổi cơ cấu cho vay
của hệ thống ngân hàng công thương Việt Nam.
Trong năm 2006 và 2007 hoạt động huy động vốn của hệ thống Ngâ n
hàng công thương phát triển khá mạnh và dẫn đến tình trạng thặng dư vốn do
tốc độ tăng của hoạt động tín dụng phát triển không kịp tốc độ tăng của hoạt
46
động huy động vốn. Vì vậy khi phát triển nghiệp vụ giao dịch ký quỹ chứng
khoán sẽ phần nào giúp giải quyết đầu ra cho hệ thống Ngân hàng công
thương.
Sản phẩm giao dịch ký quỹ tuy đã phát triển lâu đời ở thị trường các
nước trên thế giới nhưng đối với Việt Nam đó lại là sản phẩm mới . TTCKVN
đang phát triển và đang có khuynh hướng thặng dư “cung chứng khoán” thì
khi có đòn bẩy sẽ góp phần giải quyết sự khan hiếm vốn cho nh à đầu tư trong
hoạt động đầu tư chứng khoán giúp hoạt động của TTCK phát triển tốt h ơn.
2.3.3/. Những thuận lợi và khó khăn khi phát triển giao dịch ký quỹ
chứng khoán trong hệ thống ngân hàng công thương Việt nam
2.3.3.1/. Những thuận lợi khi phát triển giao dịch ký quỹ chứng khoán
trong hệ thống ngân hàng công thương Việt nam
- Như phần trên đã đề cập, hoạt động giao dịch ký quỹ đã được phát
triển từ lâu trên thế giới nên khi Việt nam cho phép áp dụng giao dịch ký quỹ
trong bối cảnh đã là thành viên của WTO sẽ đáp ứng tối ưu nhu cầu tài chính
đa dạng của giới đầu tư chứng khoán nhất là các nhà đầu tư nước ngoài, từ đó
tạo hình ảnh vững chắc cho hệ thống Ngân Hàng Công Thương Việt nam.
- Là ngân hàng thương mại Việt nam đầu tiên phát triển hoạt động giao
dịch ký quỹ nên sẽ có lợi thế độc quyền trong kinh doanh, từ đó có thể gia
tăng hơn nữa mức lợi nhuận cho ngân hàng.
- Một phương châm kinh doanh mà bất kỳ nhà đầu tư khôn ngoan nào
cũng phải biết đó là “ không nên để trứng vào cùng một giỏ”, do đó khi thực
hiện giao dịch ký quỹ, ngân hàng sẽ phân tán được rủi ro, tránh việc tập trung
quá mức vào việc cho vay truyền thống.
- Ngày 24/4/2007 Thủ tướng chính phủ ban hành chỉ thị 27 quy định
công ty chứng khoán không được phép mở tài khoản tiền gửi cho nhà đầu tư
47
chứng khoán mà thay vào đó nhà đầu tư phải mở tài khoản tại một NHTM
khác, do đó khi chỉ thị 27 được thực hiện nghiêm sẽ phần nào giúp cho ngân
hàng thuận lợi hơn khi quản lý hoạt động kinh doanh chứng khoán của nh à
đầu tư. Hơn nữa, hiện nay Tổng giám đốc Vietinbank đ ã chỉ đạo và khuyến
khích tất cả các chi nhánh ngân hàng công thương đều thành lập đại lý chứng
khoán do đó sẽ tạo thuận lợi hơn cho ngân hàng khi triển khai hoạt động giao
dịch ký quỹ vì có sự hổ trợ của đại lý chứng khoán và có một số cán bộ đã có
kiến thức về chứng khoán ( v ì muốn mở đại lý chứng khoán đòi hỏi phải có ít
nhất 2 cán bộ có chứng chỉ về luật chứng khoán v à kiến thức cơ bản về chứng
khoán). Như vậy ngân hàng đã tận dụng tối đa được nguồn lực sẳn có mà
không phải tốn thêm quá nhiều chi phí đào tạo.
2.3.3.2/. Những khó khăn khi phát triển giao dịch ký quỹ chứng khoán
trong hệ thống Ngân hàng công thương Việt nam
Mặc dù phát triển giao dịch ký quỹ có nhiều thuận lợi, nhưng cũng sẽ
gặp không ít khó khăn khi phát triển tại Việt Nam, cụ thể nh ư sau :
2.3.3.2.1/. Về khía cạnh pháp lý
- TTCKVN mặc dù đã phát triển nhưng cũng chưa thật sự ổn định do
đó khi áp dụng giao dịch ký quỹ nếu không khéo sẽ không chỉ gây rủi ro cho
NHCTVN nói riêng mà còn rủi ro cho cả hệ thống ngân hàng .
- Hiện nay chưa có văn bản pháp lý nào của nhà nước đề cập cũng như
điều chỉnh đến hoạt động giao dịch ký quỹ mà chỉ có một số thông tư, chỉ thị
liên quan đến hoạt động cho vay đầu tư chứng khoán mà nổi bật nhất là chỉ thị
03 đã “góp phần” làm cho TTCK đảo chiều khi đang trên đà tăng trưởng
nóng.
48
2.3.3.2.2/. Về phía Ngân hàng Công thương Việt Nam
- Chưa có được đội ngũ cán bộ giỏi về lĩnh vực chứng khoán cũng nh ư
các sản phẩm tài chính hiện đại, do đó việc triển khai trong toàn hệ thống
ngân hàng công thương sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
- Khi phát triển hoạt động giao dịch ký quỹ thì NHCT rất cần sự hỗ trợ
từ đơn vị hạch toán độc lập là Công ty chứng khoán công thương trong việc
đưa ra danh mục các chứng khoán cho phép hoạt động giao dịch ký quỹ từ đó
giúp giảm rủi ro cho việc kinh doanh . Tuy nhiên, hiện nay không chỉ Công ty
chứng khoán Công thương mà hầu như tất cả các công ty chứng khoán tại
Việt nam chưa đủ khả năng phân tích để đưa ra danh mục đầu tư .
- Một trong những đặc trưng của sản phẩm tài chính là chúng dễ bị sao
chép, do đó nếu ngân hàng công thương đi đầu trong việc phát triển sản phẩm
giao dịch ký quỹ thì bên cạnh việc có được một số lợi ích nhất định còn có
một số khó khăn phải đối mặt đó là khi sản phẩm đã dần ổn định thì các ngân
hàng TMCP khác sẽ sao chép và họ ít gặp rủi ro cũng như chi phí hơn so với
người đi trước.
2.3.3.2.3/. Về phía các nhà đầu tư
- Khi giao dịch ký quỹ được phép thực hiện tại Việt nam th ì các nhà
đầu tư nước ngoài sẽ phấn khởi nhưng ngược lại các nhà đầu tư trong nước sẽ
rất xa lạ và bỡ ngỡ.
- Hơn nữa, hoạt động giao dịch ký quỹ đòi hỏi nhà đầu tư phải có kiến
thức tốt về chứng khoán để có thể phân tích, từ đó dự đoán đ ược xu hướng giá
trong tương lai. Do đó nếu nhà đầu tư chỉ dựa vào sự may rủi hoặc thông tin
không có chọn lọc sẽ dễ dẫn đến phá sản. V ì vậy có lời khuyên cho nhà đầu tư
không nên kinh doanh giao dịch ký quỹ nếu chưa thật sự am hiểu về chứng
khoán.
49
Kết luận chương II : Qua những phân tích trên có thể thấy rằng việc phát
triển hoạt động giao dịch ký quỹ tại Việt nam nói chung và trong hệ thống
ngân hàng công thương nó i riêng là cần thiết và hoàn toàn phù hợp với xu
hướng hội nhập. Tuy nhiên cần phải có sự chuẩn bị thật kỹ cũng nh ư lựa chọn
thời điểm thích hợp nhất để cho phép các ngân h àng thực hiện giao dịch ký
quỹ nhằm phát huy hết những lợi ích của sản phẩm đồng thời hạn chế phần
nào rủi ro từ hoạt động này.
50
CHƯƠNG III
CHIẾN LƯỢC VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN
NGHIỆP VỤ GIAO DỊCH KÝ QŨY CHỨNG KHOÁN TRONG HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
3.1/. Chiến lược phát triển giao dịch ký quỹ chứng khoán trong hệ thống
Ngân hàng Công thương Việt nam
3.1.1/. Nghiên cứu thị trường
Khi phát triển một sản phẩm mới th ì việc nghiên cứu thị trường đóng
vai trò rất quan trọng, có nghiên cứu kỹ thị trường mới có thể tạo nên sự hấp
dẫn cho sản phẩm đồng thời đưa sản phẩm đến đúng đối tượng khách hàng, từ
đó tạo nên thành công cho việc phát triển sản phẩm mới. Nghi ên cứu thị
trường bao gồm 2 vấn đề chính : Nghiên cứu phân khúc thị trường và xác
định giá.
- Nghiên cứu phân khúc thị trường : Đối với sản phẩm giao dịch ký
quỹ chứng khoán thì phân khúc thị trường chính là nhà đầu tư cá nhân có khả
năng phân tích chứng khoán tốt, ưa thích rủi ro, thích mạo hiểm và các quỹ
đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Thật vậy do tính chất của giao dịch ký
quỹ là hình thức kinh doanh có đòn bẩy mang tính chất đầu cơ vì vậy không
thích hợp cho các tổ chức kinh tế. Tuy nhiên trong giai đoạn đầu phát triển
sản phẩm thì chỉ nên hướng đến khách hàng cá nhân, khi đã dần ổn định thì
mới mở rộng sang các quỹ đầu tư chứng khoán. Đồng thời trước mắt khi cho
phép giao dịch ký quỹ thì chỉ nên thí điểm ở hai nơi là Hà nội và TPHCM, vì
đây là những nơi có hoạt động kinh doanh chứng khoán sôi động, đồng thời
giới đầu tư chứng khoán nơi đây cũng có nhiều kiến thức về kinh doanh
chứng khoán hơn. Có như vậy sẽ thu hút được nhiều khách hàng tiềm năng
đồng thời làm giảm bớt những rủi ro cho ngân hàng .
51
- Xác định giá : Ngoài việc xác định phân khúc thị trường thì yếu tố
giá cũng đóng vai trò quan trọng đối với việc phát triển một sản phẩm mới.
Muốn cho sản phẩm có chỗ đứng vững chắc tr ên thị trường thì doanh nghiệp
phải có chính sách giá thích hợp. Như phần trên đã phân tích, một trong
những ưu điểm của đầu tư bằng tài khoản giao dịch ký quỹ so với hình thức
đầu tư thông thường là lãi suất vay hấp dẫn hơn và thông thường là không
đáng kể so với lãi từ giá chứng khoán tăng , nên có thể áp dụng chính sách giá
thâm nhập để tạo thêm sự hấp dẫn cho sản phẩm giao dịch ký quỹ. Đồng thời
điểm đặc trưng của giao dịch ký quỹ là kinh doanh ngắn hạn nên có thể xác
định lãi suất cho vay dựa vào bình quân lãi suất huy động vốn ngắn hạn ( từ 1
đến 6 tháng) cộng thêm một mức lợi nhuận kỳ vọng hợp lý, chẳng hạn
3%/năm.
3.1.2/. Xác định kênh phân phối
Hoạt động ngân hàng sẽ đạt hiệu quả cao hơn nếu như ứng dụng được
lợi ích kinh tế theo quy mô. Điều đó có nghĩa l à quy mô sản xuất càng lớn sẽ
càng tiết kiệm được chi phí và đối với hoạt động giao dịch ký quỹ chứng
khoán cũng vậy, nghĩa là nên kết hợp với công ty chứng khoán công th ương
để thành lập bộ phận giám sát hoạt động giao dịch ký quỹ, theo đó nhiệm vụ
cụ thể của bộ phận này và chi nhánh là :
52
Bộ phận giám sát tại công ty chứng
khoán
Chi nhánh
- Quản lý danh mục chứng khoán
được phép đầu tư từ giao dịch ký
quỹ.
- Theo dõi diễn biến của giá chứng
khoán được đầu tư từ giao dịch ký
quỹ dựa vào chương trình và thông
báo cho các chi nhánh hàng ngày s ố
dư tài khoản của khách hàng cũng
như các khách hàng có lệnh gọi. Việc
này được thực hiện thông qua
chương trình tính toán tự động.
- Tìm kiếm , tiếp thị khách hàng.
- Thông qua thông tin được cung cấp
từ bộ phận giám sát để phát lệnh gọi
đến khách hàng.
- Theo dõi thu lãi từ khoản tiền đầu
tư.
- Việc quản lý danh mục phải có sự phân định r õ ràng là loại chứng
khoán nào tỷ lệ giao dịch ký quỹ được phép <= 60%,50%,40% bởi v ì mỗi loại
chứng khoán có mức độ rủi ro khác nhau n ên không thể đánh đồng tỷ lệ giao
dịch ký quỹ, chứng khoán càng rủi ro thì tỷ lệ cho phép giao dịch ký quỹ càng
thấp.
3.1.3/. Tăng cường công tác Marketing
- Đối tượng phục vụ của sản phẩm giao dịch ký quỹ đa phần là khách
hàng cá nhân nên công tác marketing, qu ảng bá sản phẩm đóng vai trò cực kỳ
quan trọng. Theo khuyến cáo của các ngân hàng trên thế giới, hoạt động
marketing đóng góp tới 20% tổng lợi nhuận của các ngân h àng bán lẻ.
53
- Do không thực hiện việc thăm dò khách hàng hàng năm nên dữ liệu
thông tin về khách hàng ở hầu hết các ngân hàng Việt nam không đầy đủ vì
vậy ngân hàng rất khó hành động theo mong muốn của khách hàng do không
hiểu đối tượng mình phục vụ. Vì vậy trước khi triển khai giao dịch ký quỹ
ngân hàng phải có một cuộc thăm dò trong giới đầu tư chứng khoán để xem
mức độ hiểu biết cũng như mức độ chấp nhận của họ đối với sản phẩm như
thế nào để có thể có đưa ra những chính sách marketing thích hợp nhằm giới
thiệu những lợi ích cũng như những rủi ro của sản phẩm.
- Thông qua các kênh thông tin đại chúng như đài phát thanh, truyền
hình, báo chí, quảng cáo ngoài trời, tờ rơi…để khách hàng biết được sản
phẩm và chủ động tìm đến ngân hàng khi có nhu cầu. Đồng thời trước khi
triển khai hoạt động giao dịch ký quỹ nên tổ chức các buổi hội nghị, họp
mặt… đối với khách hàng tiềm năng nhằm giới thiệu để họ biết về sản phẩm
rõ hơn.
3.1.4/. Quản lý rủi ro đối với hoạt động giao dịch ký quỹ chứng khoán
Giao dịch ký quỹ là nghiệp vụ mang lại lợi nhuận cao cho ngân h àng,
vì ngoài việc thu tiền lãi từ khoản đầu tư cho khách hàng còn có thể thu thêm
các khoản phí từ đầu tư chứng khoán. Đồng thời theo nguyên tắc đầu tư :
Nghiệp vụ nào càng mang lại lợi nhuận cao thì rủi ro cũng càng cao, do đó
cần phải có quy trình cũng như biện pháp quản lý rủi ro từ nghiệp vụ giao
dịch ký quỹ, chẳng hạn quy định một tỷ lệ tối đa d ư nợ giao dịch ký quỹ đối
với một khách hàng, tỷ lệ giao dịch ký quỹ phù hợp với từng loại chứng
khoán.
Để thực hiện được hoạt động giao dịch ký quỹ đòi hỏi phải có khâu
thẩm định khách hàng. Theo đó khách hàng đầu tư bằng giao dịch ký quỹ phải
là người có uy tín trong hoạt động tín dụng (nếu là khách hàng đã có quan hệ
tín dụng) và là người am hiểu về chứng khoán. Đây l à tiêu chí rất khó thực
54
hiện vì vậy chỉ có thể xem xét đến thời gian họ tham gia đầu t ư chứng khoán
khoảng 2 năm đồng thời thiết lập buổi phỏng vấn về kiến thức chứng khoán
của nhà đầu tư trước khi cho phép họ tham gia nghiệp vụ giao dịch ký quỹ
chứng khoán.
- Để cung cấp khoản đầu tư cho khách hàng phải có sự chọn lọc bởi v ì
giao dịch ký quỹ rất rủi ro nên không thể đầu tư tràn lan tất cả các loại cổ
phiếu mà chỉ là những loại cổ phiếu tốt . Do đó đòi hỏi phải có sự kết hợp với
công ty chứng khoán công thương trước khi quyết định cho phép thực hiện
giao dịch ký quỹ đối với một loại cổ phiếu. Nhiệm vụ của công ty chứng
khoán là dùng các phương pháp phâ n tích cơ bản để đưa ra danh sách các loại
chứng khoán được phép đầu tư vào từng thời điểm. Tuy nhiên kèm theo đó
phải là việc tuyên bố ngân hàng không chịu trách nhiệm gì về bất cứ thiệt hại
nào phát sinh từ việc đầu tư vào loại chứng khoán đó của khách hàng vì ngân
hàng chỉ là người trung gian thực hiện lệnh của khách h àng .
3.2/. Một số kiến nghị và giải pháp
3.2.1/. Kiến nghị đối với nhà nước
- Chính phủ, UBCKNN. NHNN nên nghiên cứu học tập kinh nghiệm
của một số nước có đặc điểm về kinh tế, TTCK t ương đồng với Việt Nam để
xây dựng khung pháp lý hoàn chỉnh cho hoạt động giao dịch ký quỹ được
phát triển.
- Cần đẩy mạnh việc mở cửa tự do cho các định chế tài chính triển khai
hoạt động, nhưng hiện nay là Ngân hàng nhà nước chỉ cho phép một số ngân
hàng thực hiện thí điểm các sản phẩm t ài chính mới, do đó rất dễ dẫn đến t ình
trạng độc quyền của các ngân hàng được phép thực hiện. Vì vậy ngân hàng
nhà nước chỉ nên quy định các điều kiện cần và đủ để ngân hàng có thể thực
hiện giao dịch ký quỹ chứng khoán, đó là : Vốn điều lệ phải lớn hơn hoặc
55
bằng 10.000 tỷ đồng, cơ sở vật chất kỷ thuật phải trang bị hiện đại nh ư quy
mô của các ngân hàng ở các nước tiến tiến trên thế giới, cán bộ phải được
trang bị về trình độ và kiến thức nhất định về chứng khoán để thực hiệ n giao
dịch ký quỹ.
- Cần có chỉ đạo của chính phủ cũng nh ư sự phối hợp giữa Ủy ban
chứng khoán nhà nước và Ngân hàng nhà nước Việt nam nhằm hình thành
môi trường pháp lý để hoạt động giao dịch ký quỹ có thể phát triển đồng thời
nhằm đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ ngân hàng, tăng tính thanh khoản, năng
động cho thị trường chứng khoán nhưng không làm “xáo trộn” thị trường.
3.2.2/. Kiến nghị đối với thị trường chứng khoán
Để có thể phát triển giao dịch ký quỹ chứng khoán trong hệ thống các
NHTM Việt nam nói chung và hệ thống NHCT nói riêng thì điều kiện trước
tiên là phải có TTCK tương đối phát triển. Những diễn biến trong thời gian
qua ở TTCK Việt nam có thể thấy rằng c òn cần rất nhiều giải pháp để có thể
phát triển một TTCK bền vững. Sau đây tôi xin đ ưa ra một số giải pháp để
phát triển TTCK trong thời gian tới :
- TTCKVN có lẽ đã qua rồi thời kỳ “ cứ mua là thắng”, tình trạng mua
bán theo “ phong trào” đã ảnh hưởng không nhỏ đến tính bền vững của thị
trường. Vì vậy cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức ra
công chúng, giúp các nhà đầu tư, đặc biệt nhà đầu tư cá nhân có những kiến
thức cơ bản về chứng khoán và TTCK để có thể tự phân tích đánh giá tr ước
khi quyết định đầu tư và cũng để bảo vệ chính họ . Đây chính l à yếu tố quan
trọng nhất.
- Phát triển cầu chứng khoán dựa trên nòng cốt là các nhà đầu tư có tổ
chức nhằm đảm bảo tính ổn định cho TTCK; khuyến khích việc tham gia của
các định chế đầu tư chuyên nghiệp vào TTCK (ngân hàng, công ty chứng
56
khoán, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư). Có thể xem xét việc cấp phép hoạt
động, xây dựng tiêu chí cấp phép rõ ràng với nguyên tắc không cấp phép lại
cho những nhà đầu tư đã rút khỏi Việt Nam.
- Xem xét áp dụng việc đánh thuế đối với dòng vốn đầu tư gián tiếp
nước ngoài; Hạn chế sự gia tăng của luồng vốn đầu tư gián tiếp ngắn hạn của
nước ngoài thông qua chính sách thuế. Đây là giải pháp đơn giản và linh hoạt
nhất bởi mức thuế có thể thay đổi theo thời gian đầu t ư; Mức thuế có thể áp
dụng tùy theo tính chất của các nhà đầu tư; Nguồn thu thuế có thể được sử
dụng để phát triển thị trường, củng cố cơ sở pháp lý, điều tiết thị trường. Do
vậy, Bộ tài chính trong thời gian tới cần đề xuất các giải pháp thuế áp dụng
đối với đầu tư gián tiếp của nước ngoài vào Việt Nam ( như thuế cổ tức, thuế
giao dịch). Áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp và cá nhân lũy thoái theo
thời gian đầu tư là giải pháp cần ưu tiên thực hiện : đối với khoản đầu tư trên
1 năm thì áp dụng như hiện nay (nghĩa là tạm thời chưa áp dụng), dưới một
năm sẽ chịu mức thuế cao hơn. Mức thuế cụ thể cần cân nhắc kỹ trên cơ sở
tham khảo ý kiến nhà đầu tư và điều tra số liệu cụ thể để đạt được hiệu quả
nhưng không quá cao làm nản lòng nhà đầu tư. Có thể đặt mức thấp rồi sẽ
điều chỉnh lên và điều chỉnh tùy theo diễn biến tình hình. Đồng thời việc tính
thuế nên thực hiện tính hàng năm để có thể bù trừ các khoản lãi, lỗ, tránh
trường hợp lãi thì nộp thuế nhưng lỗ thì không được khấu trừ. Giải pháp này
có tác dụng làm hạn chế đầu cơ, sàng lọc nguồn vốn chứ không ngăn chặn
nguồn vốn nên dễ được nhà đầu tư chấp nhận hơn.
- Tăng cường tính minh bạch của thị trường : Tăng cường việc công bố
thông tin, cả thông tin về doanh nghiệp, thị trường và các thông tin về điều
hành chính sách nhằm giảm bớt các tin đồn không có lợi, ngăn chặn các giao
dịch nội gián; tăng cường công tác thống kê và công bố các số liệu thống kê,
57
đặc biệt các số liệu thống kê về tình hình đầu tư của các nhà đầu tư nước
ngoài.
- Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, đặc biệt là hoàn thiện môi
trường pháp lý đồng bộ, rõ ràng, nhất quán. Mở cửa hội nhập theo lộ trình và
các cam kết quốc tế nhằm duy tr ì xu hướng đầu tư dài hạn tại Việt nam.
- Bên cạnh đó UBCKNN cần phải kiểm tra thật kỹ tr ước khi quyết định
chấp thuận cho một doanh nghiệp ni êm yết hoặc niêm yết bổ sung cổ phiếu ra
công chúng nhằm tránh trường hợp các công ty cổ phần phát hành cổ phiếu
tràn lan, sử dụng vốn sai mục đích, không đúng với ng ành nghề kinh doanh.
3.2.3/. Kiến nghị đối với Ngân hàng Công thương Việt nam
3.2.3.1/. Đối với Ban lãnh đạo ngân hàng công thương
Một trong những yếu tố chủ chốt cho việc đưa ra được sản phẩm mới
thành công là con người, đặc biệt là vai trò định hướng và thúc đẩy của Ban
lãnh đạo.
- Qua việc phân tích đánh giá kết quả hoạt động của ngân h àng công
thương theo mô hình CAMELS phần nào cho thấy được điểm mạnh, điểm
yếu của hệ thống. Mặc dù các chỉ tiêu hoạt động tương đối tốt nhưng ngân
hàng công thương vẫn mới vượt tiêu chuẩn để xếp hạng A 1 điểm, đây lại là
một trong những tiêu chuẩn để niêm yết cổ phiếu của ngân hàng trên TTCK
theo thông lệ quốc tế. Theo kết quả phân tích, sở dĩ ngân hàng công thương
chưa được xếp loại A vì chưa đáp ứng được tỷ lệ an toàn trên vốn tối thiểu
theo Hiệp ước BASEL II là 8% và còn nợ khó đòi trong hoạt động tín dụng.
Vì vậy ban lãnh đạo ngân hàng cần có những chính sách để tăng bổ sung vốn
tự có thông qua việc tăng vốn điều lệ nhằm nâng tỷ lệ an to àn vốn tối thiểu
lên 8%. Bên cạnh đó cần tích cực thu hồi các khoản nợ khó đ òi đồng thời thực
58
hiện quy trình thẩm định cho vay thật chặt chẽ để không phát sinh bất kỳ
khoản nợ khó đòi mới.
- Khi phát triển giao dịch ký quỹ thì việc đưa ra danh mục các chứng
khoán được phép hoạt động giao dịch ký quỹ là việc làm hết sức rất quan
trọng, quyết định đến hiệu quả , đến thành công của của hoạt động này. Do đó
NHCTVN phải có kế hoạch đào tạo hoặc thu hút nguồn nhân lực ( có thể thu ê
các chuyên gia nước ngoài) giỏi về việc phân tích chứng khoán để có thể xây
dựng nên danh mục các chứng khoán được phép kinh doanh giao dịch ký quỹ.
- Bên cạnh đó khi áp dụng giao dịch ký quỹ vào hoạt động tại ngân
hàng công thương thì Ban lãnh đạo cần nghiên cứu lại các nguyên tắc hoạt
động của giao dịch ký quỹ ở các nước có thị trường tài chính và TTCK phát
triển tương đồng với Việt nam để thiết lập nên các nguyên tắc giao dịch vừa
đảm bảo tính hòa nhập với thế giới vừa phù hợp với đặc điểm riêng của nền
kinh tế Việt nam. Đồng thời nếu cần có thể thay đổi một số nguyên tắc để
đảm bảo cho việc phát triển giao dịch ký quỹ được bền vững. Chẳng hạn, khi
công ty môi giới phát hành lệnh gọi thì căn cứ vào giá thị trường của chứng
khoán tại thời điểm hiện tại nhưng theo tôi thì nên căn cứ vào giá tại thời
điểm ban đầu, có như vậy có thể phần nào hạn chế được rủi ro khi giá chứng
khoán giảm.
3.2.3.2/. Đối với cán bộ ngân hàng
Nếu khách hàng cần có sự am hiểu về hoạt động giao dịch ký quỹ với
một chỉ số thì cán bộ ngân hàng tối thiểu phải cần đến hai chỉ số bởi v ì họ là
người trực tiếp kinh doanh sản phẩm đó v à họ phải giải thích cho khách hàng
hiểu khi khách hàng đến giao dịch. Do đó NHCTVN phải có kế hoạch đào tạo
nguồn nhân lực, luân phiên đào tạo và thường xuyên cử cán bộ giỏi đi đào tạo
và học hỏi kinh nghiệm ở nước ngoài vì kinh nghiệm trong nước hầu như
không có, những người này sẽ là cán bộ nòng cốt hướng dẫn lại cho toàn bộ
59
cán bộ ngân hàng vì mặc dù không trực tiếp làm nhưng cũng phải biết về sản
phẩm của ngân hàng.
Kết luận chương III : Với những chiến lược đưa ra nhằm phát triển sản
phẩm giao dịch ký quỹ trong hệ thống ngân hàng công thương cùng với
những giải pháp trên tôi tin tưởng rằng có thể phát triển thành công sản phẩm
giao dịch ký quỹ trong hệ thống ngân hàng công thương từ đó có thể nhân
rộng mô hình cho các NHTM khác để cùng tham gia hoạt động nhằm phát
triển hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam ngày càng hiện đại.
60
KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế hội nhập, cạnh tranh gay gắt giữa các NHTM diễn ra
khốc liệt là điều tất yếu, ngân hàng nào nhanh hơn, mạnh hơn trong việc nắm
bắt để phát triển các sản phẩm dịch vụ mới ngân h àng đó sẽ thắng. Sản phẩm
giao dịch ký quỹ tuy còn khá mới mẽ và xa lạ tại thị trường Việt nam nhưng
lại là sản phẩm đã phát triển khá lâu tại thị trường các nước. Thị trường cạnh
tranh ngày càng khốc liệt đòi hỏi mỗi ngân hàng phải quan tâm đến vấn đề đa
dạng hóa sản phẩm dịch vụ và phải tìm kiếm những thị trường mà ngân hàng
có thể tiếp cận được, phù hợp với năng lực của mình. Chính vì vậy, tạo dựng
được hình ảnh và vị thế riêng bằng việc phát triển các sản phẩm dịch vụ mới
bên cạnh những dịch vụ truyền thống l à vấn đề vừa cấp bách, vừa có tính
chiến lược trong hoạt động của các ngân hàng phát triển theo hướng hiện đại.
Với những diễn biến như hiện nay của TTCK thì việc triển khai hoạt
động giao dịch ký quỹ chắc chắn sẽ gặp nhiều rủi ro. Tuy nhi ên khi thị trường
ổn định lại thì để tăng tính thanh khoản và năng động của một thị trường thì
hoạt động giao dịch ký quỹ lại rất cần thiết. Đồng thời nó cũng l à một đòn bẩy
kích thích TTCK nếu nó được sử dụng đúng cách. Vấn đề đặt ra hiện nay l à
cần xây dựng một khung pháp lý hoàn chỉnh và chọn lựa thời điểm thích hợp
để đưa hoạt động giao dịch ký quỹ ra áp dụng để có thể phát huy hết những
lợi ích cũng như để hạn chế bớt những rủi ro vốn có của sản phẩm giao dịch
ký quỹ.
---HẾT---
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/. Nguyễn Đăng Dờn (2005), Tín dụng ngân hàng, NXB Thống Kê. Trường
Đại học Kinh tế TPHCM.
2/. Trần Huy Hoàng (2007), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Lao Động
Xã hội.Trường Đại học Kinh tế TPHCM.
3/. Trầm Thị Xuân Hương & Nguyễn Thanh Phong, “Đánh gía năng lực cạnh
tranh của NHTMNN trong quá tr ình cổ phần hóa”. Web : http\\
www.ueh.edu.vn – truy cập ngày 2/7/2008 .
4/. Vụ chiến lược phát triển ngân hàng (2007), Thị trường chứng khoán và tác
động của nó tới thị trường tài chính Việt nam trong bối cảnh hội nhập WTO ,
kỷ yếu hội thảo khoa học, NXB văn hóa thông tin. Hà nội.
5/. Nhóm sinh viên khoa Tài chính doanh nghiệp Khóa 28- Trường Đại học
Kinh tế TPHCM, Giao dịch ký quỹ – Hình thức giao dịch dùng đòn bẩy trên
thị trường quốc tế,2005.
6/. Thống đốc Ngân hàng nhà nước, Quyết định số 400/2004/QĐ-NHNN,
ngày 16 tháng 4 năm 2004 .
7/. Thống đốc Ngân hàng nhà nước, Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN,
ngày 19 tháng 4 năm 2005.
Các trang web :
giao dịch ký quỹ+trading
giao
dịch ký quỹtrading.html.
giao dịch ký quỹtrading/.
tity=llc.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luanvan cdrom.pdf