Trong sốcác nguyên nhân tồn tại dẫn đến sựkém phát triển thịtrường trái
phiếu VN trong thời gian qua có cảnhững nguyên nhân làm thịtrường kém phát
triển. Chính vì vậy cần có những giải pháp khắc phục từng bước tình hình kém phát
triển này. Đồng thời đưa ra các giải pháp thúc đẩy sựphát triển thịtrường trái phiếu
VN trong thời gian tới. Việc tổchức thực hiện các giải pháp cần phải có lộtrình
nhất định, từviệc hoàn thiện khung pháp lý và hệthống quản lý tạo nền tảng cho thị
trường đến việc phát triển đồng bộthịtrường sơcấp và thịtrường thứcấp nhằm tại
sự đa dạng hóa hàng hóa trên thịtrường, kết hợp với việc hình thành các tổchức
định mức tín nhiệm, , đềtài “PHÁT TRIỂN THỊTRƯỜNG TRÁI PHIẾU
VIỆT NAM” được thực hiện nhằm góp phần thúc đẩy sựphát triển thịtrường trái
phiếu Việt Nam.
96 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2246 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hút các nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức như
Ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài tại Việt Nam, quỹ đầu tư, công ty quản lý tài sản, công ty tài chính… Hình
thành một hệ thống các nhà kinh doanh trái phiếu chuyên nghiệp, tạo lập thị trường
cho trái phiếu trên thị trường thứ cấp.
Xây dựng cơ sở hạ tầng thị trường hiện đại có khả năng tích hợp với các hệ
thống công bố thông tin, giám sát của cơ quan quản lý.
3.2. CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT
NAM
3.2.1. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho thị trường trái phiếu Việt Nam
Như đã phân tích trong phần 2.2.1 về cơ sở pháp lý cho thị trường trái phiếu
VN đã đề cập. Trong thời gian tới chính phủ cần tập trung hoàn thiện khuôn khổ
pháp lý này tạo điều kiện cho sự phát triển thị trường trái phiếu chính phủ lẫn thị
trường trái phiếu doanh nghiệp. Cụ thể:
Đối với thị trường TPCP: Để tạo điều kiện cho hoạt động phát hành và giao
dịch TPCP phát triển, Nhà nước cần hoàn chỉnh các qui định về cơ chế phát hành
TPCP trên thị trường sơ cấp và thứ cấp, theo hướng:
• TPCP có các điều kiện, điều khoản thuận lợi cho việc chuyển nhượng,
mua bán sau khi được phát hành. Các đợt phát hành TPCP mang tính đại
chúng, tạo điều kiện cho TPCP được phân phối rộng rải đến nhiều nhà
đầu tư.
- 74 -
• Phát triển hệ thống các nhà đầu tư có tổ chức, đặc biệt là các Quỹ đầu tư,
Quỹ bảo hiểm, công ty bảo hiểm; tạo môi trường thuận lợi cho việc
thành lập các Quỹ đầu tư; tháo gỡ những vướng mắc, có cơ chế cho phép
các Quỹ đầu tư, Quỹ bảo hiểm, công ty bảo hiểm được sử dụng vốn linh
hoạt trong việc đầu tư vào chứng khoán nói chung, vào TPCP nói riêng.
• Mở rộng mạng lưới các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường
chứng khoán. Tháo bỏ những chính sách phân biệt đối xử, tạo môi
trường kinh doanh bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu
tư nước ngoài.
• Miễn thuế thu nhập đối với các khoản thu nhập từ hoạt động đầu tư
TPCP. Nhằm phát triển thị trường thứ cấp trong giai đoạn ban đầu mới đi
vào hoạt động, Nhà nước cần áp dụng chính sách ưu đãi miễn thuế thu
nhập cho mọi đối tương đầu tư vào TPCP, kể cả nhà đầu tư tư nhân và
các nhà đầu tư có tổ chức.
• Thực hiện miễn giảm phí giao dịch, lưu ký TPCP qua TTGDCK. Mức
thu phí đối với các giao dịch mua bán trái phiếu qua TTGDCK theo quy
định hiện nay 0,075% là quá cao. Trong thời gian tới, Chính phủ cần
phải có chính sách miễn giảm các khoản phí giao dịch nhằm thúc đẩy
hoạt giao dịch trên thị trường thứ cấp phát triển.
Đối với thị trường TPDN: Hiện có hai văn bản mới ảnh hưởng đến thị trường
TPDN, đó là Nghị định 52/2006/NĐ-CP quy định việc phát hành trái phiếu riêng lẻ
và Luật chứng khoán điều chỉnh việc phát hành trái phiếu ra công chúng, để thúc
đẩy thị trường TPDN, các cơ quan Chính phủ cần khẩn trương xây dựng và ban
hành các văn bản hướng dẫn thi hành, nhằm đưa Luật và Nghị định sớm đi vào thực
tiễn cuộc sống, đáp ứng mong mỏi của các doanh nghiệp và nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán nói chung và thị trường TPDN nói riêng.
Bên cạnh đó, chính sách tín dụng của Ngân hàng Nhà nước có tác động rất lớn
đến lựa chọn hình thức huy động vốn của các doanh nghiệp và theo đó có vai trò
quan trọng đối với sự phát triển của thị trường sơ cấp. Nếu Ngân hàng Nhà nước
thực hiện mở rộng tín dụng sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp phát hành trái
phiếu vì họ không phải khó khăn khi tiếp cận các khoản vay ngân hàng, hoặc nếu
chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước vẫn duy trì thì khó có thể khuyến khích
các doanh nghiệp tìm đến kênh huy động vốn bằng phát hành trái phiếu. Vì lẽ đó,
cần phải có sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý trong việc ban hành cơ chế chính
sách phù hợp với mục tiêu phát triển vĩ mô của nền kinh tế.
- 75 -
3.2.2. Phát triển thị trường trái phiếu chính phủ.
Phát triển thị trường vốn là mục tiêu chiến lược quan trọng trong quá trình cơ
cấu lại nền tài chính nước ta, trong đó phát triển thị trường trái phiếu là một mục
tiêu quan trọng. Qua quá trình phân tích ở chương 2 cũng đã cho thấy bức tranh của
thị trường trái phiếu VN còn quá nhỏ và chưa đa dạng, chưa đáp ứng được yêu cầu
phát triển của nền kinh tế. Chính vì vậy, trong thời gian tới cần tập trung phát triển
thị trường trái phiếu nhất là thị trường sơ cấp.
Sự ổn định về mặt chính trị, tốc độ tăng trưởng kinh tế cả nước trong những
năm qua ở mức cao, thu nhập của dân cư đã được cải thiện, đã có những tác động
tích cực đến TTCK nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng. Những thành quả
thị trường trái phiếu đạt được trong thời gian qua là tiền đề thuận lợi cho sự phát
triển trong tương lai. Qua những phân tích thực tế thời gian qua, cho thấy thị trường
trái phiếu Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức, do đó cần có các
giải pháp để thúc đẩy thị trường trái phiếu phát triển.
Trái phiếu đa dạng đảm bảo mang lại những lợi ích khác nhau cho các chủ thể
phát hành, cho nhà đầu tư. Sẽ tạo nhiều sự lựa chọn cho nhà đầu tư, trên cơ sở đó
nhà đầu tư so sánh, phân tích, đánh giá và đi đến quyết định đầu tư. Điều này sẽ
kích thích và thu hút nhà đầu tư, thúc đẩy thị trường trái phiếu thêm sôi động.
3.2.2.1.Đối với trái phiếu Chính phủ
Đa dạng hóa hình thức TPCP: Đa dạng hoá không chỉ là việc phát hành
nhiều loại TPCP với nhiều kỳ hạn khác nhau mà còn phải kết hợp việc đa dạng hóa
về lãi suất, loại hình và phương thức thanh toán vốn gốc và lãi TPCP. Bên cạnh
những loại TPCP truyền thống, Chính phủ cần triển khai thêm một số một số loại
trái phiếu:
- Trái phiếu trả lãi bằng 0 hay còn gọi là trái phiếu được chiết khấu: là loại trái
phiếu giá bán thấp hơn mệnh giá, nhà đầu tư sẽ thu được lợi nhuận tích lũy
dưới dạng lãi từ vốn khi trái phiếu đến hạn thanh toán.
- Trái phiếu đa thời hạn: trái phiếu có nhiều ngày đáo hạn khác nhau.
- Trái phiếu thanh toán từng phần: đây là loại trái phiếu mà lãi suất được thanh
toán khi đáo hạn nhưng gốc của trái phiếu sẽ thanh toán từng phần theo định
kỳ hàng năm. Loại trái phiếu này sẽ giảm áp lực tăng lãi và giảm thiểu rủi ro
tái đầu tư, tăng thêm độ an toàn cho người sở hữu trái phiếu.
- 76 -
- Trái phiếu option: cho phép người mua trái phiếu có quyền đòi nợ đối với
người phát hành tại bất kỳ một thời gian nào đó trong tương lai.
- Trái phiếu có lãi suất thả nổi: lãi suất của nó có thể được thay đổi và điều
chỉnh theo từng thời kỳ khi lãi suất thị trường có sự biến động, đảm bảo lãi
suất thực dương cho nhà đầu tư vì mục tiêu lãi suất. Loại trái phiếu này sẽ thu
hút nhà đầu tư hưởng lãi suất vừa thu hút nhà đầu tư hưởng chênh lệch giá
thúc đẩy thị trường TPCP hoạt động sôi nổi. Tuy nhiên hình thức này đòi hỏi
phải minh bạch rất lớn các thông tin phản ánh hiện trạng nền kinh tế. Nền kinh
tế đòi hỏi phải được minh bạch các thông tin kinh tế vĩ mô. Trong khi đó hiện
trạng này ở VN là rất thấp.
Phương thức phát hành: Kế hoạch phát hành TPCP cần được xây dựng một
cách thống nhất, khoa học và tránh sự chồng chéo triệt tiêu lẫn nhau giữa các đợt
phát hành hay giữa các phương thức phát hành với nhau. Đẩy mạnh phát hành
TPCP qua phương thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành, tuy nhiên nên có sự phân
chia khối lượng phát hành cho mỗi phương thức theo kỳ hạn trái phiếu, tránh tình
trạng các đợt phát hành diễn ra quá gần nhau làm giảm hiệu quả của các đợt phát
hành. Mặt khác, khi phát hành TPCP theo phương thức đấu thầu qua TTCK, cần
hạn chế áp đặt lãi suất một cách chủ quan.
Bên cạnh đó, để tạo đường cong lãi suất chuẩn cho thị trường, cần lập chương
trình kế hoạch phát hành TPCP, chọn loại TPCP có thời hạn phù hợp để tập trung
phát hành lô lớn tạo nên TPCP phát hành chuẩn và hình thành đường cong lãi suất
chuẩn, tạo nền tảng cơ bản lãi suất chuẩn cho các công cụ nợ. Đẩy mạnh việc phát
hành TPCP lô lớn sẽ giảm số lượng các loại TPCP lưu hành trên thị trường, giúp
các nhà đầu tư cũng như các tổ chức trung gian dễ theo dõi, nắm bắt diễn biến về
giá của các loại TPCP. Đồng thời giảm dần đến chấm dứt việc phát hành bán lẻ qua
hệ thống KBNN.
Cơ chế lãi suất: như đã phân tích trong phần diễn biến thị trường trái phiếu
chính phủ cho thấy việc quy định trần lãi suất cho việc phát hành đã không phù hợp
cho những đợt phát hành trái phiếu gân đây, nhất là những tháng đầu năm 2009.
Chính vì vậy, Chính phủ cần phải áp dụng lãi suất thả nổi đối với TPCP. Để tăng
tính hấp dẫn của TPCP đề nghị áp dụng lãi suất điều chỉnh theo lạm phát và áp dụng
phương thức trả lãi linh hoạt như trả lãi trước, trả lãi định kỳ… để nhà đầu tư có thể
giảm thiểu rủi ro và đa dạng hoá danh mục đầu tư. Xây dựng một cơ chế lãi suất
thực sự hấp dẫn nhà đầu tư kể cả trong điều kiện lạm phát hay thiểu phát nhằm tối
đa lợi nhuận của nhà đầu tư trên cơ sở dung hòa với lợi ích của Chính phủ.
- 77 -
3.2.2.2. Đối với trái phiếu chính quyền địa phương
Cần có kế hoạch phát hành trái phiếu đô thị đi kèm theo với nhiều tiện ích
khác nhau nhằm giúp cho các nhà đầu tư luôn có được hàng hóa đa dạng phù hợp
với chiến lược đầu tư của mình, qua đó tạo điều kiện cho chính quyền địa phương
nâng cao khả năng huy động vốn trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc huy động vốn.
Nghiên cứu phát hành trái phiếu đô thị dưới các hình thức: trái phiếu chiết khấu, trái
phiếu đa kỳ hạn, trái phiếu thanh toán từng phần, trái phiếu có lãi suất thay đổi, trái
phiếu option…
Hơn nữa, trong điều kiện phát triển thực tế của các địa phương, nhu cầu vốn
tài trợ cho đầu tư phát triển rất lớn và cấp thiết, Chính phủ cần phải xem xét và bổ
sung thêm một số quy định pháp lý nhằm tăng cường khả năng huy động vốn đầu tư
cho các dự án đầu tư của địa phương thông qua phương thức phát hành loại trái
phiếu thu nhập, loại trái phiếu được phát hành dựa trên nguồn thu tài chính của dự
án, công trình và không được cân đối từ ngân sách địa phương. Chính quyền các
tỉnh cần có chính sách khuyến khích các cơ quan công quyền có chức năng công ích
phát hành trái phiếu để tài trợ cho các dự án, cơ sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội địa
phương. Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương có thể thực hiện bảo
lãnh để tăng thêm uy tín cho đơn vị phát hành. Trái phiếu thu nhập có thể phát hành
theo các mục đích như:
- Trái phiếu xây dựng nhà ở: tài trợ cho việc xây dựng những khu dân cư cho
những gia đình có thu nhập thấp.
- Trái phiếu công nghiệp: tài trợ để xây dựng các khu công nghiệp, sân bay, bến
cảng, xử lý nước thải, ô nhiễm môi trường…
- Trái phiếu hệ thống cấp thoát nước: tài trợ cho những dự án cấp thoát nước
cho dân cư và các ngành thuộc khu vực đô thị.
- Trái phiếu bệnh viện: tài trợ cho việc xây dựng và vận hành các bệnh viện.
- 78 -
3.2.3. Đa dạng hóa các loại trái phiếu doanh nghiệp
Hiện tại, tất cả các trái phiếu phát hành đều là trái phiếu trả lãi sau, với phương
thức trả lãi hàng năm, lãi suất cố định. Riêng Tổng công ty Sông Đà và Tập đoàn
Điện lực (EVN) phát hành trái phiếu có lãi suất được điều chỉnh căn cứ vào lãi suất
trái phiếu Chính phủ hoặc lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng và một số
ngân hàng phát hành trái phiếu chuyển đổi như Ngân hàng quân đội, Ngân hàng
Ngoại thương, Ngân hàng Á Châu. Việc đa dạng hóa các sản phẩm không chỉ làm
tăng sự lựa chọn cho các nhà đầu tư mà còn có thể giúp các nhà đầu tư giảm thiểu
rủi ro. Với nền kinh tế Việt Nam ngày càng chịu nhiều biến động bởi các yếu tố vĩ
mô, việc phát hành trái phiếu với lãi suất cố định sẽ gây nhiều rủi ro cho tổ chức
phát hành. Để hạn chế rủi ro, ngoài phát hành các trái phiếu ổn định, doanh nghiệp
cũng nên đẩy mạnh phát hành các trái phiếu có lệnh gọi và trái phiếu chuyển đổi.
Giá của trái phiếu có thể có lệnh gọi = giá của trái phiếu - giá call option.
Đối với trái phiếu có quyền chọn, các công ty có thể hạn chế rủi ro của mình
bằng cách thu hồi trái phiếu. Và vấn đề ở đây, là các nhà đầu tư sẽ chấp nhận trái
phiếu này như thế nào? Với trái phiếu có thể bị thu hồi nhà đầu tư sẽ bị thiệt hại,
thiệt hại này tổ chức phát hành sẽ phải tinh toán để đưa ra mức giá trái phiếu hợp lí.
Giá trái phiếu chuyển đổi = giá của trái phiếu + giá trị của quyền chuyển đổi
Để xác định được chính xác mức giá của trái phiếu có lệnh gọi cần phải tồn tại
1 trái phiếu có cùng lãi suất, có cùng kì hạn nhưng không có lệnh gọi, không thể
chuyển đổi, giá call option hay giá của quyền chuyển đổi muốn tính toán được
chúng ta có thể dùng Mô hình cây lãi suất và Mô hình định giá của hai nhà khoa học
Black-Scholes. Tuy nhiên, khó khăn hiện nay đối với việc phát hành các loại trái
phiếu này đó chính là sự e dè tham gia của các nhà đầu tư do chưa có văn bản pháp
lý nào bảo vệ nhà đầu tư khi mua các loại trái phiếu này. Ngoài quy định về thời
hạn chuyển đổi, quy định thu hồi, Chính phủ cần có những chính sách quản lí về
việc pha loãng giá trước khi thực hiện quyền chọn. Việc phát hành thêm cổ phiếu,
thưởng cổ phiếu, trả cổ tức bằng cổ phiếu đều làm cho quyền lợi của các trái chủ
thiệt hại. Do đó, nhà đầu tư cần có thêm những thông tin từ các doanh nghiệp, thực
hiện những điều khoản hạn chế nào đó trong thời gian trái phiếu chưa được chuyển
đổi. Ví dụ như mức cổ tức chi trả là bao nhiêu? Cách thức chi trả cổ tức bằng tiền
mặt hay bằng phát hành thêm? Trước thời điểm chuyển đổi, các cổ đông hiện hữu
thực hiện việc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu.
- 79 -
Bên cạnh đó, cần thúc đẩy hơn nữa việc thực hiện chứng khoán hóa các khoản
nợ. Một cách dễ hiểu, chứng khoán hóa là một quá trình tập hợp và tái cấu trúc các
tài sản thiếu tính thanh khoản nhưng lại có thu nhập bằng tiền cao trong tương lai
như các khoản phải thu, các khoản nợ rồi chuyển chúng thành các trái phiếu và đưa
chúng giao dịch trên thị trường tài chính. Cho nên các chứng khoán hóa đôi khi
được gọi là trái phiếu hóa. Thông thường, kỹ thuật chứng khoán được thực hiện đối
với 2 loại tài sản chủ yếu sau: các khoản vay được thế chấp bằng bất động sản và
các tài sản tài chính không được thế chấp bằng bất động sản. Tương ứng với hai loại
tài sản này, sau khi chứng khoán hóa sẽ hình thành hai loại chứng khoán đó là: các
chứng khoán dựa trên thế chấp bất động sản (Mortgage bached securities) và các
chứng khoán tài sản tài chính (Asset backed securities – ABS). Như vậy, ABS đơn
giản là các trái phiếu hoặc các giấy tờ có giá được hình thành từ các tài sản tài
chính. Các tài sản tài chính ở đây được hiểu là các khoản phải thu khác với các
khoản vay có thế chấp, ví dụ như các khoản phải thu từ thẻ tín dụng, khoản vay mua
ô tô, vay để xây nhà, vay tiêu dùng cho gia đình. Vận dụng chứng khoán hóa, làm
đa dạng hóa giao dịch trên sàn, mở rộng quy mô thị trường, đồng thời mở ra thêm
một kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp.
Để tăng tính hấp dẫn cho trái phiếu, doanh nghiệp có thể lựa chọn phát hành
trái phiếu có kèm theo quyền mua ví dụ như trường hợp của Vinaconex phát hành
trái phiếu gắn với quyền mua cổ phiếu của một công ty thành viên. Và gần đây,
Công ty cổ phần địa ốc Sài Gòn Thương Tín (Sacomreal) đã phát hành trái phiếu
doanh nghiệp kèm theo quyền mua sản phẩm căn hộ chung cư với tổng số vốn huy
động là 100 tỉ đồng. Mỗi trái phiếu có mệnh giá 500 triệu đồng, lãi suất 4,4% trong
vòng sáu tháng. Khách hàng mua một trái phiếu được quyền ưu tiên mua một căn
hộ tại dự án chung cư cao cấp Phú Lợi, quận 8 và được giảm 5% trên giá bán tại
thời điểm công bố. Cuôc phát hành đã nhanh chóng được các nhà đầu tư đón nhận.
Hiện nay, một số các công ty cổ phần đã đưa ra hình thức phát hành trái phiếu kèm
theo quyền mua sản phẩm căn hộ chung cư, với hình thức này, nhà đầu tư có thể
chuyển nhượng trái phiếu, quyền mua trên thị trường mà không bị hạn chế. Đến
thời điểm đáo hạn, nếu nhà đầu tư không có nhu cầu mua căn hộ sẽ được hoàn trả
tiền vốn và lãi.
Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các cơ quan chức năng địa
phương nên tạo điều kiện thuận lợi giúp các doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Các
doanh nghiệp nhỏ có thể không phát hành độc lập mà kết hợp với nhau, các thủ tục
phát hành nên đơn giản, không cần xin phép chính phủ.
- 80 -
Hiện nay, CTCK Habubank, NH Habubank cùng NH Deutsche Bank (Đức) đã
kết hợp cung cấp cho doanh nghiệp Việt Nam sản phẩm tư vấn và bảo lãnh phát
hành trái phiếu quy mô vừa và nhỏ từ quí 2-2008. Đây là hình thức huy động vốn
bằng trái phiếu với lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất vay dài hạn, nhu cầu vốn linh
hoạt từ 20 tỉ đến 200 tỉ đồng trong kỳ hạn 5 năm (trả gốc cuối kỳ và trả lãi hàng
năm). Đây cũng là lần đầu tiên, giải pháp tài chính này được cung cấp tại Việt Nam,
góp phần khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia huy động vốn trên
thị trường. Tuy nhiên khó khăn chính đối với doanh nghiệp cỡ nhỏ và vừa là lòng
tin của các nhà đầu tư. Việc thành lập các tổ chức ĐMTN đánh giá tín dụng và dự
án của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là giải pháp cần phải được quan tâm, và cần
phải có văn bản quy định cụ thể về điều kiện cũng như cách thức quản lý của các
trái phiếu của các doanh nghiệp này. Với sự rộng mở về điều kiện pháp lý, trong
tương lai gần, phát hành trái phiếu sẽ không chỉ là cách huy động vốn dành riêng
cho khối DN lớn, mà ngay cả DN có quy mô vốn trung bình cũng có thể huy động
vốn bằng trái phiếu, nếu DN tìm được dự án đầu tư hiệu quả để giải ngân.
3.2.4. Các giải pháp mang tính kỹ thuật của thị trường
3.2.4.1.Xây dựng được đường cong lãi suất chuẩn
Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến thị trường trái phiếu Việt
Nam chưa phát triển đó là thị trường trái phiếu chưa có đường cong lãi suất chuẩn.
Thực tế tại các nước có thị trường trái phiếu phát triển cho thấy, đường cong lãi suất
có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với các nhà phát hành (hạn chế rủi ro), các nhà
đầu tư (xác định được giá theo thị trường, quyết định đầu tư trên cơ sở phân tích
được rủi ro của khoản đầu tư cũng như lợi tức thu được) mà còn rất có ý nghĩa đối
với các nhà trung gian (phát triển các công cụ phát sinh và tạo lập thị trường qua
các giao dịch mua bán có kỳ hạn và giao dịch tương lai).
Hiện nay thị trường trái phiếu của Việt Nam chưa xác định được đường cong
lãi suất chuẩn chủ yếu là do chưa có cơ chế định giá theo thị trường một cách đáng
tin cậy, lãi suất trái phiếu Chính phủ chưa hoàn toàn được hình thành trên các
nguyên tắc thị trường theo quan hệ cung cầu mà vẫn có lãi suất chỉ đạo, khối lượng
phát hành các trái phiếu Chính phủ còn hạn chế, chưa đa dạng về chủng loại, kế
hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ tuy đã được xây dựng theo quý và theo năm,
nhưng việc công bố thông tin còn chậm... Điều này đã gây khó khăn cho các thành
viên thị trường trong việc nghiên cứu, định giá để chủ động về nguồn vốn đầu tư
vào các trái phiếu đó.
- 81 -
Doanh nghiệp khi phát hành trái phiếu trên thị trường hiện nay chỉ dựa trên
nguyên tắc là tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm, chấp nhận được mức độ nào thì
chấp nhận. Các doanh nghiệp dựa vào 2 thông số: (i) hệ số sinh lời của dự án để xác
định đến mức độ nào thì phải dừng lại, nếu quá đà, dự án sinh lời không đủ trả lãi.
(ii) dựa vào trái phiếu Chính phủ ở kỳ hạn tương ứng để tham chiếu. Lãi suất của
trái phiếu Chính phủ bao giờ cũng là lãi suất nền. Lãi suất của các tổ chức khác dựa
trên lãi suất Chính phủ cộng thêm với độ rủi ro của tổ chức mình. Ngoài ra, các
doanh nghiệp tham khảo lãi suất của tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó, lãi suất còn phụ
thuộc vào phương thức và thời điểm phát hành. Chẳng hạn, thời điểm đó đấu thầu
thì các tổ chức tham gia bỏ thầu sẽ chọn lãi suất thấp nhất. Nếu nhiều tổ chức tham
gia bảo lãnh, các doanh nghiệp sẽ phải chọn lãi suất tốt nhất để thương thảo.
Cơ chế xác định lãi suất đấu thầu trên thị trường sơ cấp hiện không mang tính
thị trường vì áp dụng lãi suất chỉ đạo. Quy định lãi suất đặt thầu phải cao hơn lãi
suất chỉ đạo sẽ khiến cho lãi suất trúng thầu mang tính khiên cưỡng chủ quan hơn là
mang tính khách quan thị trường. Điều này dẫn tới tình trạng khối lượng trúng thầu
bị hạn chế đi rất nhiều so với khối lượng dự định phát hành và chỉ bó hẹp trong
phạm vi một số nhỏ các nhà đầu tư. Khối lượng trúng thầu thấp cộng với một số
nhỏ các nhà đầu tư nắm giữ làm giảm tính thanh khoản của trái phiếu trên thị trường
thứ cấp.
Đường cong lãi suất (yield curve) mô tả mối quan hệ giữa thời gian đáo hạn
với lãi suất đáo hạn của trái phiếu tại một thời điểm nhất định. Thông thường,
đường cong lãi suất chuẩn được xây dựng cho các trái phiếu là trái phiếu chính phủ
hoặc các trái phiếu của các công ty có uy tín. Các trái phiếu này được coi là trái
phiếu có rủi ro thấp hoặc bằng không. Do đó, các mức lãi suất của các trái phiếu
này được sử dụng làm lãi suất chuẩn cho các trái phiếu khác. Phần chênh lệch giữa
lãi suất chuẩn và lãi suất của các trái phiếu khác phản ánh mức độ rủi ro của các trái
phiếu đó, mức chênh lệch càng lớn thì trái phiếu đó càng rủi ro.
Lãi suất trái phiếu doanh nghiệp = lãi suất trái phiếu chính phủ + rủi ro của
doanh nghiệp
Vì đường cong này được hình thành từ lãi suất chính phủ nên yêu cầu đặt ra là
phải xây dựng một thị trường trái phiếu chính phủ đủ mạnh.
Muốn làm được điều đó, cần phải thực hiện tốt việc kế hoạch hoá công tác
phát hành và công khai hoá thông tin; đa dạng hoá kỳ hạn phát hành TPCP (từ 90
ngày đến 15 năm) và hình thành các kỳ hạn chuẩn; thực hiện tái cơ cấu lại các loại
TPCP đã phát hành. Trái phiếu chính phủ phải chuẩn hóa về số lượng, kỳ hạn cũng
- 82 -
như lãi suất, lô trái phiếu được dùng tính toán cho đường cong lãi suất phải có tính
chất giống nhau, có mức lãi suất coupon như nhau và các điều khoản phát hành
giống nhau trong cùng một ngành.
¾ Chính phủ thực hiện thu gom nhiều loại TPCP phát hành trước đây thành một
số loại TPCP có mã giao dịch giống nhau. Đồng thời phải tiến hành đổi mới
phương thức phát hành bằng cách hạn chế bán lẻ TPCP, giảm bớt tần suất phát
hành và chủ yếu tập trung vào phát hành trái phiếu theo lô lớn. Chẳng hạn như
thay vì phát hành liên tục TPCP theo lô nhỏ vài trăm tỷ đồng thì nên để dồn lại
và phát hành lô 1.000 – 2.000 tỷ đồng, có cùng ngày thanh toán, cùng một lãi
suất. Việc phát hành TPCP lô lớn sẽ giảm số lượng các loại TPCP lưu hành
trên thị trường, giúp các nhà đầu tư cũng như các tổ chức trung gian dễ theo
dõi, nắm bắt diễn biến về giá của các loại trái phiếu. Cách làm này cũng sẽ tạo
thuận lợi cho các cơ quan quản lý cũng như các nhà đầu tư trong quá trình
quản lý phát hành, giao dịch thanh toán. Tạo cơ sở cho việc yết giá mua bán
trái phiếu.
¾ Hiện nay, trái phiếu chính phủ đã từng bước được đa dạng về kỳ hạn nhưng
chủ yếu là kỳ hạn 5 năm, các loại kỳ hạn khác như (2 năm; 3 năm; 7 năm; 10
năm và 15 năm...) chưa được duy trì đều đặn, Chính phủ cần khuyến khích
phát hành trái phiếu dài hạn như 10 năm.
Ðể đạt được kết quả cao hơn, trong thời gian tới cần thiết phải triển khai đồng
bộ các giải pháp: Từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về huy động vốn
thông qua phát hành TPCP nói chung và phát hành TPCP theo lô lớn nói riêng; thiết
lập một hệ thống đại lý cấp I là các ngân hàng, công ty chứng khoán... có uy tín làm
ăn có hiệu quả, thực hiện đa dạng hóa kỳ hạn trái phiếu; công bố công khai kế
hoạch phát hành các loại trái phiếu hằng năm, hằng quý, hằng tháng; thực hiện tốt
công tác đối thoại với thị trường, tìm tiếng nói chung và sự ủng hộ tích cực của các
thành viên thị trường...
Hiện tại, ở Việt Nam chưa có đơn vị nào xây dựng đường cong lãi suất chuẩn.
Ngân hàng ngoại thương đã phối hợp với Reuters xây dựng đường cong lãi suất
chuẩn cho Việt Nam. Với sự phát triển của dịch vụ Reuters 3000 Xtra V5, Reuters
đã giới thiệu ba đường cong lãi suất chuẩn mới ở Việt Nam: đường cong lãi suất phi
rủi ro, đường cong lãi suất liên ngân hàng và đường cong thông tin về lãi suất cho
vay đồng Việt Nam. Việc công bố ra đường cong lãi suất chuẩn mở ra 1 tương lai
cho việc xác định lãi suất cho các doanh nghiệp.
- 83 -
3.2.4.2.Khuyến khích sự phát triển hệ thống định mức xếp hạng tín nhiệm
chuyên nghiệp
Đặc biệt, đối với một nền tài chính mới nổi như Việt Nam thì sự có mặt của
các công ty ĐMTN lớn trên thế giới đang là nhu cầu cấp thiết.
¾ Đối với nhà đầu tư, kết quả tín nhiệm giúp họ xác định rủi ro của một loại
chứng khoán, đưa ra quyết định đầu tư phù hợp với khẩu vị rủi ro của mình.
Định mức tín nhiệm thường được sử dụng cho các quyết định mua trên thị
trường sơ cấp. Nếu rủi ro được chấp nhận, chứng khoán sẽ được mua và giữ
cho đến khi đáo hạn. Tuy nhiên với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường thứ
cấp trong tương lai của Việt Nam, định mức tín dụng sẽ cung cấp những chỉ
dẫn cho nhà đầu tư lúc nào nên bán chứng khoán theo biến động của thị
trường. Việc tổ chức định mức tín dụng thông báo về một tổ chức phát hành,
hoặc một nghĩa vụ nợ nào đó được xem xét để nâng hạng hay xuống hạng rất
có ích cho nhà đầu tư, vì đó là dấu hiệu cảnh báo sớm nhất giúp nhà đầu tư
điều chỉnh danh mục của mình. Ngoài ra, các báo cáo nghiên cứu, các dịch vụ
phân tích tài chính liên quan đến việc giải thích lý do phía sau quyết định xếp
hạng của các tổ chức định mức tín nhiệm sẽ cung cấp những thông tin quan
trọng cho các nhà đầu tư có tổ chức hỗ trợ những nghiệp vụ của riêng họ.
¾ Đối với tổ chức phát hành Việt Nam, ĐMTN sẽ giúp các tổ chức phát hành
huy động vốn với chi phí hợp lý, hiệu quả; là một phương tiện để các công ty
quảng bá thương hiệu của mình với thị trường trong và ngoài nước. Nhà phát
hành chứng khoán không được định mức tín nhiệm thì dù cho khả năng tín
dụng mạnh đến đâu cũng chỉ thu hút được sự đầu tư tương đối. Với kết quả
xếp hạng, việc mở rộng những đợt phát hành mới đến nhà đầu tư sẽ được thực
hiện 1 cách nhanh chóng với chi phí phát hành thấp hơn. Ngoài ra, xếp hạng
tín dụng sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp cải thiện tốt hơn nữa các hoạt động
quản lý, sản xuất kinh doanh, cơ cấu tài chính của mình để hấp dẫn các nhà
đầu tư, đây sẽ tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
¾ Đối với các tổ chức tài chính trung gian trên thị trường, với kết quả xếp hạng
tín dụng của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính tham gia bảo lãnh phát
hành và kinh doanh chứng khoán sẽ dễ dàng xác định chiến lược định giá hợp
lý. Một chứng khoán cụ thể dễ dàng tung ra thị trường khi được định mức tín
nhiệm. Định mức tín nhiệm sẽ giúp các trung gian tài chính kiểm soát rủi ro và
xác định giá trị thị trường, lựa chọn chứng khoán đầu tư.
- 84 -
¾ Đối với các cơ quan quản lý thị trường, sự tham gia của các tổ chức định mức
tín dụng giúp giảm bớt chi phí quản lý, các cơ quan quản lý nhà nước có thể
dựa trên các thông tin ĐMTN công khai để ban hành chính sách, giám sát thực
hiện, cấp phép phát hành… và quản lý tốt hơn. Với sự phát triển 1 hệ thống tín
nhiệm chuyên nghiệp, các tổ chức định mức tín nhiệm có uy tín không chỉ
thực hiện định mức các trái phiếu doanh nghiệp mà còn xếp hạng cả trái phiếu
Chính phủ. Giúp Chính phủ không chỉ huy động vốn trong nước mà còn có thể
huy động vốn ở nước ngoài.
Để định mức tín nhiệm thực sự hiệu quả và chuyên nghiệp, các tổ chức tín
nhiệm VN cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
¾ Thứ nhất, các tổ chức ĐMTN phải có tính độc lập, Chính phủ cần xây dựng
các văn bản pháp lý quy định tư cách đạo đức quản lý lãnh đạo của các tổ chức
ĐMTN. Do bởi các tổ chức phát hành luôn muốn có xếp hạng tín dụng cao, họ
sẵn sàng hối lộ các tổ chức ĐMTN che dấu những vấn đề khó khăn của công
ty, dẫn đến các kết quả báo cáo sai lệch, làm trầm trọng thêm sự bất cân xứng
thông tin giữa các nhà đầu tư và tổ chức phát hành. Việc đánh giá tín nhiệm
liên quan đến ý kiến chủ quan của con người, vì vậy, viêc phân tích đánh giá
cần được phân tích tổng hợp qua hệ thống tự động hóa hiện đại, các tiêu chuẩn
đánh giá quốc tế của các nước phát triển, nhằm làm tăng tính khách quan cho
kết quả.
¾ Thứ hai, về cơ cấu quản lý, qua nhiều kinh nghiệm của thế giới cho thấy, mô
hình tổ chức hoạt động của ĐMTN ở các nước đều chủ yếu là doanh nghiệp tư
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Đáng chú ý là không
có nước nào áp dụng mô hình tổ chức định mức tín dụng thuộc sở hữu nhà
nước hoàn toàn. Căn cứ vào điều kiện kinh tế của VN và xem xét đến tính chất
hoạt động linh hoạt, cơ chế quản lý tương đối dân chủ, khả năng huy động vốn
dễ dàng và một số ưu điểm của của công ty cổ phần, loại hình tổ chức hoạt
động của các tổ chức ĐMTN VN trong giai đoạn này là công ty cổ phần trước
mắt là công ty cổ phần nội bộ hoạt động tuân thủ theo các quy định hiện hành
của luật doanh nghiệp. Sau thời gian, các công ty nội bộ này có thể được phép
phát hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết giao dịch trên thị trường để trở
thành công ty đại chúng. Bên cạnh đó, có thể cho phép mở rộng loại hình tổ
chức và hoạt động của ĐMTN sang loại hình doanh nghiệp khác như doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn. Chính phủ cũng cần ban hành
văn bản quy định việc góp vốn của các doanh nghiệp nước ngoài trong lĩnh
- 85 -
vực này. Cụ thể có thể cho phép tổ chức nước ngoài có kinh nghiệm trong
định mức tín nhiệm được góp vốn thành lập tổ chức ĐMTN nhưng tỷ lệ góp
vốn của bên nước ngoài sẽ ngang bằng với hoặc nhỏ hơn tỷ lệ cổ đông trong
nước. Thông qua việc tham gia của tổ chức nước ngoài chúng ta có thể tranh
thủ học hỏi kinh nghiệm trong lĩnh vực xếp hạng tín nhiệm đồng thời là tiền
đề để mở rộng quy mô sang các nước trong khu vực sau này.
¾ Thứ ba, về mô hình tổ chức đánh giá hoạt động, hiện nay nền kinh tế của Việt
Nam còn yếu kém về trình độ cũng như các điều kiện phát triển, vì vậy, các tổ
chức ĐMTN có thể xây dựng mô hình tổ chức theo Thái Lan, hay Hàn Quốc.
Cơ cấu tổ chức của ĐMTN sẽ được phân ra nhiệm vụ của từng phòng ban.
¾ Thứ tư, về phương thức xếp hạng, quá trình ĐMTN phải đảm bảo tính chính
xác và tính đạt tiêu chuẩn quốc tế và phù hợp với tình hình kinh tế của Việt
Nam. Hiện nay, trong điều kiện Việt Nam, các chỉ số phi tài chính chiếm tới
60% trong một bản báo cáo tín nhiệm. Rất nhiều khi, những chỉ số phi tài
chính này đã đưa khách hàng tới quyết định đầu tư, làm ăn với đối tác tưởng
chừng như không có cơ hội (do năng lực về vốn, cơ sở hạ tầng, về “danh
tiếng”…).
Tại Mỹ, S&P là một chỉ số đáng tin cậy luôn được các quỹ đầu tư tin dùng.
S&P 500 gồm 500 mã cổ phiếu có mức vốn hoá lớn nhất của Hoa Kỳ được tính
toán và công bố bởi Công ty Standard & Poors, trong đó 400 công ty ngành công
nghiệp, 20 công ty ngành giao thông vận tải, 40 công ty ngành phục vụ, 40 công ty
ngành tài chính. Với S&P 500 các nhà đầu tư có thể lựa chọn được trong phạm vi
hẹp đó, để đầu tư nhanh chóng, thay vì tự khảo sát điều tra một cách không chuyên
nghiệp. Hoặc Fortune 500 - Danh sách xếp hạng top 500 công ty đại chúng hàng
đầu của Hoa Kỳ dựa trên tổng doanh thu do tạp chí Fortune đưa ra. Fortune 500 là
danh hiệu đo lường sức mạnh của các DN dựa trên doanh thu, nên có hạn chế trong
việc phản ánh thực chất của các DN cũng như tương quan thứ hạng. Bên cạnh đó,
Fortune cũng có công bố các danh sách xếp hạng khác nhau dựa trên các chỉ tiêu cụ
thể như: top 100 về doanh thu, top các công ty có tốc độ tăng trưởng doanh thu cao
(top revenue growth), DN có số nhân công cao (big employer), công ty có tốc độ
tăng trưởng lợi nhuận cao (high profit growth)…
Với hiện trạng hiện nay của VN, một mô hình như Forbes 500 hay Fortune
500 (tất nhiên không rập khuôn), cũng là điều nhiều nhà đầu tư đang mong mỏi.
Tuy vậy, áp dụng mô hình hiện đại như vậy không phải là điều dễ dàng. Chẳng hạn,
nếu theo mô hình Forbes 500 và chỉ dựa trên những chỉ tiêu hiện tại để đánh giá
- 86 -
như: doanh thu, tài sản, tốc độ tăng trưởng, lợi nhuận và số lao động thì vẫn gặp
nhiều hạn chế như: tài sản của các DNNN rất khó xác định và thường không tính đủ
(vấn đề về sở hữu đất đai, vấn đề cấp phát vốn của Nhà nước, vấn đề công nợ của
các DNNN…) hoặc sự mất cân bằng giữa lao động trong các ngành như dệt may và
tài chính ngân hàng… đồng thời cả sự hạn chế về hệ thống cơ sở dữ liệu, sự không
thống nhất trong mô hình quản lý hạch toán của các tổng công ty nhà nước và các
đơn vị thành viên. Nền kinh tế của Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi, do
vậy sẽ gây khó khăn cho việc xác định mô hình sở hữu cũng như tổng hợp dữ liệu.
Về tổng thể, vẫn có thể đưa ra bức tranh tổng quát về xếp hạng doanh nghiệp, tuy
nhiên, kết quả đưa ra sẽ có nhiều sai lệch.
Vì vậy, các tổ chức ĐMTN với hiện trạng cơ sở dữ liệu cũng như tình hình
thực tế các doanh nghiệp hiện nay của Việt Nam, mô hình đánh giá của Standard &
Poors, Moodys… là phù hợp nhất.
¾ Thứ năm, các tổ chức ĐMTN phải đảm bảo tính bảo mật thông tin, đây là
nguyên tắc cốt lõi đối với hoạt động của các ĐMTN. Để cung cấp 1 báo cáo
tín nhiệm chính xác, các tổ chức ĐMTN thường yêu cầu thông tin chi tiết, đặc
biệt là thông tin về tình hình hoạt động và tài chính của tổ chức phát hành.
Thông thường những thông tin đầu vào cho việc ĐMTN là thông tin nội bộ, ở
mức chi tiết và toàn diện hơn các thông tin công bố công khai, nếu như các
thông tin này bị tiết lộ, các tổ chức phát hành có thể bị tổn thất nghiêm trọng.
Để bảo vệ quyền lợi của tổ chức phát hành, Chính phủ cần ban hành một số
quy định đối với các ĐMTN về việc giữ bí mật những thông tin nội bộ, nếu
không các tổ chức phát hành có thể e ngại sử dụng dịch vụ ĐMTN hoặc có xu
hướng cung cấp thông tin không đúng sự thật nếu việc ĐMTN là bắt buộc để
phát hành trái phiếu.
Điều lý tưởng nhất cho sự phát triển của một thị trường trái phiếu doanh
nghiệp là trên thị trường đó phải có nhiều tổ chức ĐMTN cùng đồng thời hoạt động,
có như vậy mới thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các tổ chức này về mặt hiệu quả và chất
lượng chuyên môn, đồng thời cho phép những người sử dụng dịch vụ xếp hạng tín
nhiệm so sánh các đánh giá xếp hạng khác nhau mà về bản chất vốn là những ý kiến
phần nào mang tính chủ quan. Một hệ thống tín dụng chuyên nghiệp sẽ góp phần
giải quyết vấn đề bấy lâu nay, rủi ro của doanh nghiệp được xác định, từ đó không
chỉ giúp các doanh nghiệp huy động vốn với chi phí hợp lý mà còn giúp nhà đầu tư
có thể kiểm soát rủi ro, có quyết định phù hợp.
- 87 -
3.2.4.3.Phát triển hệ thống giao dịch trái phiếu chuyên biệt
Cho đến nay, các thị trường trái phiếu trên thế giới đã áp dụng một số hệ thống
giao dịch điển hình như sau:
¾ Hệ thống đấu giá (Auction system): Hệ thống này có thể được xây dựng
nhằm hỗ trợ cho các đợt phát hành trái phiếu trên thị trường sơ cấp. Một số hệ
thống đấu giá khác thì tập trung vào đấu giá các trái phiếu do các nhà đầu tư
chào bán trên thị trường thứ cấp. Theo đó, thành viên bán trái phiếu sẽ đăng
các thông tin chi tiết về trái phiếu đang được chào bán và các điều kiện cụ thể
trong đấu giá, các thành viên tham gia đấu giá nộp đơn đấu giá và khối lượng
trái phiếu sẽ được chuyển cho những thành viên tham gia trả giá cao nhất.
¾ Hệ thống khớp lệnh( Cross-matching system): Hệ thống này nhìn chung là
cơ chế giúp cho các nhà kinh doanh trái phiếu và nàh đầu tư có tổ chức gặp
nhau trong hệ thống giao dịch điện tử. Khách hàng có thể nhập lệnh mua hoặc
bán với nhiều đối tác khác, sau đó các lệnh này sẽ được tự động khớp lệnh đối
ứng có cùng mức giá hoặc khi giá đối ứng là giá tốt nhất. trong một số trường
hợp, các nhà đầu tư có thể thỏa thuận về các điều kiện thực hiện giao dịch.
¾ Hệ thống liên định chế (inter-dealer system): Hệ thống này cho phép các nhà
kinh doanh trái phiếu thực hiện các giao dịch với các nhà kinh doanh khác
thông qua mạng lưới giao dịch điện tử của các nhà môi giới liên định chế. Đặc
trưng của hệ thống này là giao dịch ẩn danh, tức là toàn bộ thông tin sổ lệnh
được công khai, nhưng danh sách các thành vên yết giá không được tiết lộ.
điều đó có nghĩa là chỉ có những nhà môi giới mới nắm được thông tin chi tiết.
¾ Hệ thống một nhà kinh doanh (single-dealer system): Hệ thống này cho phép
nhà đầu tư thực hiện giao dịch trực tiếp với một nhà kinh doanh trái phiếu duy
nhất. Nhà kinh doanh trái phiếu này cũng hoạt động bằng nghiệp vụ tự doanh
trong hệ thống nhiều nhà kinh doanh nói trên. Các thành viên hệ thống cung
cấp mạng lưới giao dịch thông qua dịch vụ của một bên thứ ba khác, có thể là
một mạng nội bộ hoặc thông qua internet.
¾ Hệ thống nhiều nhà kinh doanh (Multi-dealer system): Hệ thống này nhà
đầu tư có cơ hội lựa chọn trên nhiều bảng giá trái phiếu của từ hai nhà kinh
doanh trở lên. Điều đó có nghĩa nhà đầu tư trái phiếu được so sánh với giá của
một loại trái phiếu từ các báo giá của nhiều thành viên hệ thống giao dịch.
Thông qua hệ thống giao dịch này cho phép hiển thị cho khách hàng các giá
chào bán hoặc chào mua tốt nhất của từng loại trái phiếu trong tất cả các mức
- 88 -
giá chào của nhiều loại trái phiếu trong hệ thống. bên cãnh đó, hệ thống này
cũng cho phép các nhà đầu tư yêu cầu lấy giá cho một loại trái phiếu từ một
hoặc nhiều nhà kinh doanh tham gia hệ thống giao dịch. Đặc biệt, các tổ chức
kinh doanh trái phiếu tham gia hệ thống này chủ yếu hoạt động tự doanh trái
phiếu.
Tất cả các loại trái phiếu giao dịch trong hệ thống đều được lưu ký tập trung
tại Trung tâm Lưu ký Chứng khoán. Trái phiếu giao dịch sẽ có mã giao dịch và mã
định danh riêng biệt để tạo thuận lợi cho hoạt động giao dịch và quản lý. Phương
thức giao dịch được áp dụng là giao dịch thỏa thuận. Thành viên có thể thực hiện
giao dịch thỏa thuận từ xa thông qua hệ thống mạng máy tính nội bộ mở rộng.
Việc tổ chức thị trường giao dịch TPCP tại Việt Nam sẽ được chia làm 2 giai đoạn:
• Giai đoạn 1 (từ năm 2007-2010): sẽ sử dụng mô hình đa định chế (multi-
dealer system). Theo đó, nhà đầu tư kết nối với nhiều nhà kinh doanh (công
ty chứng khoán môi giới) trái phiếu, cho phép xem tất cả các chào giá có trên
hệ thống tại một thời điểm để so sánh và tìm chào giá tốt nhất. Nhà đầu tư
liên hệ với nhà kinh doanh có chào giá tốt nhất để thương lượng mua/bán.
Theo mô hình này, thành viên tham gia thị trường sẽ có thành viên chính (các
công ty chứng khoán thành viên làm nghiệp vụ môi giới và tự doanh) và thành viên
phụ (các ngân hàng thương mại thực hiện nghiệp vụ tự doanh). Cơ chế giao dịch sẽ
thực hiện giao dịch báo giá và thoả thuận từ xa (không có đại diện tại sàn). Hệ
thống mạng riêng biệt kết nối giữa các thành viên tham gia thị trường và nhà quản
lý. Nhà quản lý có vai trò giám sát thị trường. Các thành viên chính truy cập hệ
thống, xem thông tin trước và sau giao dịch, đưa ra các báo giá 2 chiều cho từng
loại TPCP muốn giao dịch cho chính mình hoặc cho khách hàng.
Hệ thống trên sẽ cho phép thành viên phụ tham gia yết giá và giao dịch cho
chính mình bằng cách thoả thuận trực tiếp với các thành viên chính hoặc thành viên
phụ khác để tìm giá tốt nhất. Các nhà đầu tư có thể truy cập hệ thống để tìm báo giá
tốt nhất của một loại TPCP bất kỳ do các thành viên chính yết và mức giá thực hiện
tốt nhất tại một thời điểm.
Trái phiếu sẽ được yết giá theo giá và lãi suất, với kỳ hạn thanh toán là T+1.
• Giai đoạn 2 (sau năm 2011): mô hình thị trường liên định chế (interdealer
system) sẽ được áp dụng. Mô hình này phụ thuộc vào mô hình tổ chức của
thị trường phát hành theo Dự án xây dựng một hệ thống các nhà kinh doanh
TPCP sơ cấp (PD) do Viện Nghiên cứu Nomura làm tư vấn chính (Bộ Tài
- 89 -
chính Nhật Bản tài trợ). Theo dự thảo Báo cáo mới nhất do Viện Nghiên cứu
Nomura công bố, đến sau 2010 Việt Nam có khả năng sẽ xây dựng được hệ
thống nói trên.
Để xây dựng thị trường TPCB, trước hết cần sửa đổi, bổ sung các quy định
pháp lý cho thị trường giao dịch trái phiếu này. Bộ Tài chính cần đưa ra khung lãi
suất cho từng thời kỳ, đặc biệt là lãi suất của trái phiếu Chính phủ cần phản ánh sát
hơn với lãi suất thị trường và nên được điều chỉnh một cách linh hoạt. Ngoài ra, cần
đẩy mạnh phát hành trái phiếu qua các phương thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành,
tuy nhiên nên có sự phân chia khối lượng phát hành cho mỗi phương thức theo kỳ
hạn trái phiếu, tránh tình trạng các đợt phát hành diễn ra quá gần nhau trong cùng
thời kỳ, gây ra sự chồng chéo và làm giảm hiệu quả của đợt phát hành.
3.2.4.4.Chuẩn hóa hệ thống thông tin công bố, đơn giản hóa các thủ tục phát
hành trái phiếu
Trong thời đại ngày nay, việc sử dụng phương tiện công bố thông tin hiệu quả
nhất là trên website, các báo điện tử vì kênh thông tin này giúp nhà đầu tư dễ truy
cập khi cần thiết. Tuy nhiên, hiện nay chỉ tại có các công ty niêm yết hay tổ chức
phát hành trái phiếu ra công chúng mới có thông tin được công bố qua phương tiện
này. Trong khi đó, Nghị định 52/2006/NĐ/CP có quy định thực hiện công bố thông
tin trên 3 số báo liên tiếp của một tờ báo Trung ương và một tờ báo địa phương nơi
tổ chức phát hành đặt trụ sở chính đồng thời có thể sử dụng thêm các phương tiện
khác như website, báo điện tử…. Việc quy định như vậy dẫn đến thực tế các nhà
đầu tư chỉ dễ dàng tìm thấy thông tin của những tổ chức phát hành niêm yết, còn
thông tin của những tổ chức phát hành riêng lẽ thì mờ mịt, đó là lý do khiến cho các
trái phiếu doanh nghiệp được biết đến nhưng tính thanh khoản của trái phiếu không
cao. Việc phát hành các thông tin về doanh nghiệp cần phải có nhiều biện pháp chế
tài đủ mạnh để xử lý những trường hợp tung tin thất thiệt làm sai lệch tình hình hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần hỗ trợ phát triển khuyến khích
sự tham gia của các nhà chuyên nghiệp như ngân hàng đầu tư, luật sư, kế toán viên
và các nhà phân tích nghiên cứu để cải tiến hệ thống thông tin và nâng cao chất
lượng của thông tin.
Để khuyến khích phát hành, bên cạnh việc minh bạch hóa thông tin, cần đơn
giản các thủ tục, thuế, lệ phí phát hành. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đều
đăng kí phát hành riêng lẽ theo Nghị định 52/2006/NĐ/CP, vì việc phát hành trái
phiếu riêng lẻ được thực hiện đơn giản hơn, các doanh nghiệp chủ động xác định
khối lượng vốn cần huy động, số lượng trái chủ ít dễ kiểm soát. Vì vậy, chính phủ
- 90 -
cần xem xét lại điều kiện phát hành trái phiếu ra công chúng, xây dựng lại theo
hướng mở hơn, đơn giản hơn, nhằm khuyến khích doanh nghiệp tham gia phát hành
trái phiếu ra công chúng.
3.2.4.5. Đa dạng hóa các chủ thể phát hành trái phiếu:
Cần có chính sách khuyến khích các tổng công ty nhà nước, các doanh
nghiệp lớn uy tín thuộc các thành phần kinh tế phát hành trái phiếu huy động vốn
dài hạn cho đầu tư đổi mới công nghệ. Đặc biệt là các ngành cần vốn lớn như hàng
không, điện lực, bưu điện, dầu khí… Đây là những lĩnh vực mà nền kinh tế hiện rất
cần được công nghiệp hóa. tăng cường đầu tư và phát triển để tạo đà cho công
nghiệp hóa.
Bên cạnh việc xây dựng một khung hành lang pháp lý thích hợp thì để thu
hút các chủ thể phát hành trái phiếu, đặc biệt là các doanh nghiệp, cũng cần có
những chính sách khuyến khích lợi ích. Cụ thể như đơn giản hóa thủ tục đăng ký
phát hành trên cơ sở tự đăng ký và cáo bạch theo những tiêu chuẩn nhất định; cho
phép các chủ thể phát hành trái phiếu được sử dụng miễn phí các dịch vụ phụ trợ từ
hệ thống trang thiết bị của thị trường chứng khoán hay xem xét việc ưu đãi thuế đối
với các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK, qua đó đem lại lợi ích thiết thực cho các
doanh nghiệp khi phát hành trái phiếu và dần tạo thói quen phát hành trái phiếu huy
động vốn.
3.2.4.6. Nâng cao nhận thức về chứng khoán nói chung và trái phiếu nói riêng
cho các doanh nghiệp và công chúng đầu tư
Doanh nghiệp và công chúng đầu tư là bộ phận không thể thiếu và góp phần
quan trọng tạo nên sự phát triển của thị trường trái phiếu. Chú trọng hơn nữa trong
công tác tuyên truyền, đào tạo kiến thức về chứng khoán cho các doanh nghiệp và
công chúng. Trong thời gian qua, tuy các doanh nghiệp và công chúng có quan tâm
tìm hiểu về thị trường chứng khoán nhưng hầu như chỉ tập trung vào cổ phiếu.
Thông qua các phương tiện đại chúng, hệ thống thông tin trực tuyến internet để
tuyên truyền cho doanh nghiệp và công chúng một sự hiểu biết toàn diện về thị
trường chứng khoán trong đó có thị trường trái phiếu. Giúp các doanh nghiệp nhận
thức được vai trò, lợi ích của việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu.
Nâng cao nhận thức trong công chúng về vai trò, rủi ro và tính hữu ích của việc đầu
tư trái phiếu.
- 91 -
Kết luận chương III
Trong thời gian qua thị trường trái phiếu đã chứng minh được tiềm năng huy
động vốn của mình và Chính phủ cũng đã có nhiều giải pháp phát triển. Tuy nhiên
để thị trường trái phiếu phát huy tốt vai trò của mình, cần có những giải pháp mang
tính đồng bộ, cần có những nổ lực cụ thể và hiệu quả từ nhiều phía: Chính phủ,
Chính quyền địa phương, các cấp, các ngành và các doanh nghiệp. Xây dựng lộ
trình triển khai thực hiện phù hợp với từng giai đoạn phát triển và tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư tiếp cận với thị trường trái phiếu.
Trên cơ sở thực hiện tốt các định hướng và giải pháp đã trình bày trong phần
này, sẽ góp phần phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam, đảm bảo các mục tiêu
chiến lược phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm
2020.
- 92 -
KẾT LUẬN
Đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế là một yêu cầu cấp thiết cho sự
phát triển thị trường vốn ở VN trong thời gian tới. Một trong những thị trường vốn
cần tập trung phát triển là thị trường chứng khoán trong đó có thị trường trái phiếu.
Việc phát triển thị trường trái phiếu không chỉ tập trung vào một trong hai thị
trường sơ cấp hoặc thứ cấp mà cần sự đồng bộ trên cả hai thị trường này. Đó chính
là yêu cầu mà đề tài đặt ra trong việc thực hiện các giải pháp phát triển thị trường
trái phiếu Việt Nam trong thời gian đến.
Qua phân tích thực tế hoạt động thị trường trái phiếu Việt Nam trong chương
2, cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế, tỷ lệ dư nợ trái phiếu/GDP vẫn còn thấp so với
các nước trong khu vực và trên thế giới. Nguyên nhân thì có nhiều mà cũng đã đề
cập trong đề tài và cũng có thể kể đến từ những lý do khác quan là thị trường trái
phiếu còn non trẻ, với quy mô chưa phát triển, cho đến những nguyên nhân từ nội
tại nền kinh tế, nội tại thị trường như: chưa có nền tảng lãi suất chuẩn, tính cạnh
tranh của trái phiếu còn thấp, chưa xây dựng được hệ thống định mức tín nhiệm
chuyên nghiệp, thiếu đội ngũ tạo lập thị trường, khung pháp lý và hệ thống quản lý
chưa được hoàn thiện, nhận thức và kiến thức của doanh nghiệp và công chúng đầu
tư còn kém, tâm lý e ngại rủi ro…
Trong số các nguyên nhân tồn tại dẫn đến sự kém phát triển thị trường trái
phiếu VN trong thời gian qua có cả những nguyên nhân làm thị trường kém phát
triển. Chính vì vậy cần có những giải pháp khắc phục từng bước tình hình kém phát
triển này. Đồng thời đưa ra các giải pháp thúc đẩy sự phát triển thị trường trái phiếu
VN trong thời gian tới. Việc tổ chức thực hiện các giải pháp cần phải có lộ trình
nhất định, từ việc hoàn thiện khung pháp lý và hệ thống quản lý tạo nền tảng cho thị
trường đến việc phát triển đồng bộ thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp nhằm tại
sự đa dạng hóa hàng hóa trên thị trường, kết hợp với việc hình thành các tổ chức
định mức tín nhiệm,…, đề tài “PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
VIỆT NAM” được thực hiện nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển thị trường trái
phiếu Việt Nam.
- 93 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu hội thảo Phát hành trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam được vụ Tài
chính Ngân hàng - Bộ Tài chính tổ chức.
2. Bond Market Development: The Case of Singapore
3. Developing Bond Markets in APEC Conference, June 21-22 2005
4. www.Asianbondonline.adb.org
5. Thống kê trên trang tin của Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội -
hastc.org.vn, Sở giao dịch Tp.HCM - hsx.com.vn và trang web của Bộ tài
chính – mof.org.vn.
6. Ngân hàng phát triển Á Châu, “Asian bond monitor 2007”.
7. Ngân hàng phát triển Á Châu, “Asian bond monitor 2008”.
8. Ngân hàng Hồng Kông thượng Hải; “Vietnam Monitor 18”, 2008
- 94 -
Phụ lục:
MÔ HÌNH CỦA CÁC TỔ CHỨC ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM
Mô hình tổ chức của Hàn Quốc
Hội đồng quản trị
Mô hình tổ chức của Nhật Bản
Đối với mô hình tổ chức của Mỹ, do quy mô toàn cầu nên những tổ chức ĐMTN
thường có cơ cấu tổ chức kết hợp lĩnh vực và khu vực trong đó chú trọng đến phân
tích theo nhóm như mô hình của Moody’s.
Giám đốc điều hành Kiểm toán
trưởng
Bộ phận
Hỗ trợ
Quản lý
Phòng
kiểm toán
Bộ phận
định mức
Bộ phận Bộ phận
nghiên cứu Thông tin
Tín nhiệm
Giám đốc
điều hành
Bộ phận dịch vụ thông tin
Hội đồng thẩm định
Bộ phận định giá đầu tư
Bộ phận tư vấn quản trị
Bộ phận định mức tín nhiệm
Hội đồng đánh giá
Hội đồng
quản trị
- 95 -
Mô hình nhóm phân tích (Áp dụng cho việc đánh giá xếp hạng một nhà máy
sản xuất ô tô Nhật Bản)
Trợ lý
Giám đốc
Chuyên viên
về tài chính
công ty
Chuyên viên về phương
thức thanh toán L/C và
tài chính cấu trúc
Chủ tịch hội
đồng xếp hạng
Chuyên gia phụ
trách xếp hạng
Nhật Bản
Kết luận xếp
hạng của
Moody’s
Các chuyên gia
của Nhật Bản
Trưởng nhóm phân tích về lĩnh
vực ô tô
- 96 -
Cơ cấu chức năng bộ phận định mức tín nhiệm của Moody’s
Giám đốc chuyên môn
Chủ tịch hội đồng xếp
hạng công ty
Chi nhánh
Moody’s ở
London
Giám đốc xếp
hạng công ty
GĐ phụ trách chi
nhánh nước ngoài Phó chủ tịch
HĐQT phụ trách
thông tin xếp
hạng công ty
Chủ tịch hội đồng xếp
hạng tín dụng tiện ích
công cộng
GĐ phụ trách ngành
công nghiệp
Bộ phận thông tin
về thị trường
Chi nhánh
ở Tokyo
Chi nhánh
ở Sydney
GĐ phụ trách tài chính
cấu trúc
GĐ phụ trách ngành
công nghệ-năng lượng
GĐ phụ trách định chế
tài chính và xếp hạng
Chi nhánh
ở Paris
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thi truong trai phieu.pdf