Luận văn Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam giai đoạn 2008 - 2020

PHẦN MỞ ĐẦU I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Hội nhập kinh tế thế giới đã trở thành một xu thế khách quan trong thế giới ngày nay khi làn sóng toàn cầu hóa đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ. Là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam không thể đứng ngoài sự vận động của kinh tế toàn cầu. Một nước đi sau như chúng ta, muốn phát triển nhanh, không tụt hậu, vươn lên ngang tầm thế giới cần phải biết cách hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới để tiến nhanh, tiến mạnh. Để thực hiện mục tiêu trên cần phải chuNn bị tốt các nguồn lực, một trong những nguồn lực đóng vai trò quan trọng đó là vốn. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng mạnh, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển là rất lớn. Việc huy động vốn trong và ngoài nước trong thời gian qua đã đạt những kết quả khả quan. Tuy nhiên, việc huy động vốn trong nước vẫn chưa thật sự phát triển mạnh, đặc biệt là vốn dài hạn. Hơn lúc nào hết, nhu cầu vốn đặt ra cho Chính phủ một sự quan tâm đặc biệt để phát triển. Phát triển thị trường vốn Việt Nam, trong đó thị trường chứng khoán đóng vai trò chủ đạo, đây là kênh dẫn vốn nhanh để phát triển nền kinh tế đất nước. Tính đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã hoạt động được hơn bảy năm, đã có những bước phát triển cả về quy mô và chất lượng hàng hóa, tiến tới phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh các hoạt động mua bán giao dịch cổ phiếu sôi động thì thị trường trái phiếu vẫn chưa thật sự thu hút được các nhà đầu tư quan tâm. So với thị trường cổ phiếu đã có những phát triển vượt bậc thì thị trường trái phiếu vẫn còn đang bỏ ngỏ. Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trở thành kênh huy động vốn nhanh và hiệu quả, giải quyết các nhu cầu vốn cho các dự án đầu tư và bù đắp thâm hụt ngân sách của Chính phủ, đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ cho quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng của các doanh nghiệp cũng như tạo thêm hàng hoá cho thị trường và nhà đầu tư. Muốn vậy, cần phải phân tích tìm hiểu nguyên nhân kém phát triển và đưa ra các giải pháp phát triển thị trường trái phiếu – một thị trường hết sức tiềm năng hiện nay. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tác giả đã nghiên cứu đề tài: “PHÁT TRIỂN THị TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008-2020” II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Vấn đề trọng tâm mà đề tài muốn giải quyết là trên cơ sở xem xét thực trạng, phân tích những mặt còn tồn tại, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra các giải pháp phù hợp để thúc đNy phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam. Thông qua đó, giúp cho nền kinh tế huy động vốn hiệu quả hơn góp phần vào công cuộc phát triển nền kinh tế quốc gia và hội nhập kinh tế quốc tế. III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề liên quan đến thực trạng hoạt động của thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp trái phiếu và những giải phát triển cả hai loại thị trường này ở Việt Nam. Về không gian, luận văn nghiên cứu trên địa bàn cả nước. Về thời gian, giới hạn nghiên cứu của đề tài là hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam từ năm 2000 đến nay. Về nội dung, đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở pháp lý cho sự hình thành và phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam, tình hình hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong thời gian tới. IV. CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Đề tài đã tổng hợp tương đối hệ thống và đầy đủ số liệu hoạt động của thị trường trái phiếu ở Việt Nam từ năm 2000 đến nay. Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam. V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để giải quyết các mục đích mà đề tài hướng đến, tác giả đã vận dụng lý thuyết các môn học Thị trường tài chính, Tài chính doanh nghiệp, Đầu tư tài chính làm nền tảng lý luận; bên cạnh đó tác giả sử dụng phương pháp thống kê lịch sử và phương pháp tổng hợp số liệu để đánh giá về tình hình hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam; vận dụng kinh nghiệm của các nước làm cơ sở đề xuất các giải pháp phù hợp, nhằm thúc đNy thị trường trái phiếu Việt Nam vận động và phát triển. Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được chia thành ba chương: Chương I: Nội dung cơ bản về thị trường trái phiếu. Chương II: Thực trạng thị trường trái phiếu Việt Nam. Nêu lên tình hình hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam trong thời gian qua, phân tích và tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng kém phát triển của thị trường trái phiếu Việt Nam. Chương III: Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam. Căn cứ vào những phân tích ở chương II và những định hướng phát triển trong thời gian tới, đề xuất một số giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam. Ở chương II và chương III, đề tài sử dụng tên Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM thay cho tên Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM phù hợp với tình hình hiện nay. Sử dụng cụm từ trái phiếu doanh nghiệp thay vì trái phiếu công ty để phù hợp với từ ngữ sử dụng trong các văn bản pháp lý tại Việt Nam, theo đó trái phiếu doanh nghiệp được hiểu là trái phiếu của các loại hình công ty đang hoạt động theo pháp luật Việt Nam.

doc97 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1946 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam giai đoạn 2008 - 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong lĩnh vực chứng khoán chưa thật sự phát triển, doanh nghiệp phát hành chưa hưởng được dịch vụ từ những tổ chức này cung cấp, chưa có niềm tin về hiệu quả phát hành trái phiếu, tâm lý e ngại phát hành trái phiếu của doanh nghiệp dẫn đến kết quả nguồn cung trên thị trường sơ cấp bị hạn chế và giao dịch trên thị trường thứ cấp tẻ nhạt. II.3.7. Công bố thông tin chưa đầy đủ Việc công khai hóa thông tin vẫn còn ở mức độ giới hạn, chưa rõ ràng, minh bạch. Chính phủ cung cấp chưa kịp thời cho nhà đầu tư các báo cáo tài chính (đến cuối tháng 7/2008 trên trang Web của Bộ Tài Chính cũng chỉ công khai đến báo cáo quyết toán NSNN của năm 2006) và kế hoạch phát hành TPCP trong năm như số lượng TPCP phát hành vay nợ trong năm chỉ được công bố khi gần đến đợt phát hành. Điều này đã làm cho các nhà đầu tư khó khăn trong việc hoạch định kế hoạch đầu tư dài hạn. Đối với các doanh nghiệp phát hành trái phiếu vẫn còn tâm lý e ngại việc công khai thông tin, chỉ thực hiện việc này theo hình thức đối phó, chưa thật sự minh bạch. Ngoài ra, các thông tin về tình hình và hiệu quả sử dụng vốn huy động từ trái phiếu ra công chúng chưa được đầy đủ. II.3.8. Hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh Hệ thống pháp lý bước đầu hình thành và đang hoàn thiện. Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của thị trường chưa đồng bộ, cơ chế hoạt động chưa thật hoàn chỉnh. Các nguyên tắc quản lý và chuẩn mực quốc tế về tính minh bạch, kế toán, kiểm toán... tuy đã được áp dụng nhưng còn ở phạm vi hẹp. Thể chế pháp luật còn thiếu các qui định cần thiết cho thị trường phi tập trung (OTC), hoạt động định mức tín nhiệm, các công cụ phái sinh …, nên chưa tạo được hành lang pháp lý nhằm giúp nhà đầu tư có thể bảo vệ rủi ro cho mình. Kết luận chương II Thị trường trái phiếu Việt Nam đang ở giai đoạn khởi động, trong thời gian qua tuy đã có sự khởi sắc nhưng vẫn còn kém phát triển. Nguyên nhân kém phát triển do thiếu tổ chức định mức tín nhiệm chuyên nghiệp, thiếu vắng đội ngũ tạo lập thị trường, chưa xác định được đường cong lãi suất chuẩn, tính cạnh tranh còn thấp, tính thanh khoản kém, khung pháp lý chưa hoàn chỉnh. Ngoài ra còn có nguyên nhân từ nhận thức của các doanh nghiệp chưa quen với phương thức huy động vốn trực tiếp qua phát hành trái phiếu, đặc biệt là các tổng công ty, các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn dựa vào nguồn vốn vay ngân hàng. Với thực tế còn nhiều hạn chế, để phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam cần có những giải pháp để hoàn thiện và thúc đẩy thị trường trái phiếu phát triển phù hợp với mục tiêu chiến lược của nền kinh tế. Chương III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM III.1 Định hướng phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam đến năm 2020 Thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước, đến năm 2010 nước ta hoàn toàn thoát khỏi tình trạng kém phát triển và đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được các mục tiêu đã đề ra đòi hỏi phải huy động từ nhiều nguồn lực, trong đó nguồn vốn đóng vai trò rất quan trọng. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn đối với sự phát triển của nền kinh tế, cần phát triển kênh dẫn vốn nhanh cho nền kinh tế đó là thị trường chứng khoán nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng. Hướng đến tầm nhìn năm 2020, thị trường trái phiếu phát triển cả về quy mô và chất lượng hoạt động đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển, đồng thời góp phần phát triển thị trường vốn Việt Nam sánh vai với các nước trong khu vực và quốc tế. III.1.1. Quan điểm phát triển Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam là một bộ phận trong sự phát triển thống nhất của thị trường tài chính, trên cơ sở phối hợp đồng bộ với các thị trường bộ phận khác nhằm đảm bảo hiệu quả, phù hợp với điều kiện thực tế và định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Xây dựng, hoàn thiện và thúc đẩy sự phát triển đồng bộ giữa thị trường trái phiếu sơ cấp và thứ cấp, phát triển thị trường trái phiếu cả về quy mô và chất lượng nhằm thúc đẩy thị trường phát triển một cách bền vững. Đẩy mạnh việc đa dạng hóa hình thức TPCP, TPCQĐP, TPDN. Thị trường trái phiếu phải đáp ứng vai trò là kênh huy động, chu chuyển vốn trung hạn và dài hạn cho nền kinh tế. Học hỏi kinh nghiệm phát triển TTTP ở các quốc gia có thị trường tài chính vững mạnh. Nâng cao và củng cố vị thế của TTTP Việt Nam trên trường quốc tế trên cơ sở bảo đảm tính ổn định tài chính quốc gia. Tạo dựng nền tảng pháp lý thống nhất và chặt chẽ để thị trường trái phiếu vận động và phát triển, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, cũng như có chính sách khuyến khích các chủ thể tham gia. III.1.2. Định hướng phát triển Ưu tiên phát triển thị trường trái phiếu nội tệ. Phát triển thị trường TPCP, nâng cao tính thanh khoản, mở rộng quy mô thị trường, xây dựng đường cong lãi suất chuẩn làm nền tảng cho lãi suất cho TPDN cũng như các công cụ nợ khác. Chỉ khi nào thị trường TPCP phát triển khi đó mới có thể khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư đối với thị trường TPDN, tạo động lực cho thị trường TPDN phát triển. Chú trọng phát triển thị trường TPDN nhằm tạo thêm kênh huy động vốn cho doanh nghiệp và tạo thêm sản phẩm cho TTCK, mặt khác làm giảm nhẹ sự tập trung vay vốn ngân hàng góp phần tạo ra cấu trúc thị trường bền vững: - Chính Phủ đẩy nhanh thực hiện việc chuyển đổi DNNN theo hướng đa sở hữu, với mục tiêu đại bộ phận các DNNN thực hiện cổ phần hóa. - Bên cạnh các quy định về phát hành TPDN đã thông thoáng hơn cần có biện pháp kỹ thuật hỗ trợ doanh nghiệp trong việc lập phương án phát hành, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhu cầu vốn rất cao nhưng vẫn còn lúng túng trong việc xây dựng phương án phát hành trái phiếu cũng như việc minh bạch các báo cáo tài chính. - Mở rộng quy mô thị trường TPDN về số lượng và chất lượng, từng bước hướng các doanh nghiệp sớm thực hiện phát hành trái phiếu ra công chúng. - Nâng cao kiến thức và nhận thức cho các nhà quản lý tài chính tại các doanh nghiệp và cho nhà đầu tư về TPDN. Phát triển hệ thống định mức tín nhiệm trong nước. Tăng cường tính minh bạch thông tin, bắt buộc các doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải định mức tín nhiệm. Tách thị trường trái phiếu ra khỏi thị trường cổ phiếu để hình thành thị trường trái phiếu chuyên biệt: tạo nên một thị trường trái phiếu sôi động, minh bạch và chuyên nghiệp; thu hút các nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức như Ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, quỹ đầu tư, công ty quản lý tài sản, công ty tài chính… Hình thành một hệ thống các nhà kinh doanh trái phiếu chuyên nghiệp, tạo lập thị trường cho trái phiếu trên thị trường thứ cấp. Xây dựng cơ sở hạ tầng thị trường hiện đại có khả năng tích hợp với các hệ thống công bố thông tin, giám sát của cơ quan quản lý. III.2. Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam Phát triển thị trường vốn là mục tiêu chiến lược quan trọng trong quá trình cơ cấu lại nền tài chính nước ta, trong đó phát triển thị trường trái phiếu là một mục tiêu quan trọng. Sự ổn định về mặt chính trị, tốc độ tăng trưởng kinh tế cả nước trong những năm qua ở mức cao, thu nhập của dân cư đã được cải thiện, đã có những tác động tích cực đến TTCK nói chung và TTTP nói riêng. Những thành quả TTTP đạt được trong thời gian qua là tiền đề thuận lợi cho sự phát triển trong tương lai. Qua những phân tích thực tế thời gian qua, cho thấy thị trường trái phiếu Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức, do đó cần có các giải pháp để thúc đẩy thị trường trái phiếu phát triển. III.2.1. Mở rộng quy mô, đa dạng hoá và tăng tính thanh khoản cho thị trường trái phiếu Trái phiếu đa dạng đảm bảo mang lại những lợi ích khác nhau cho nhà đầu tư, sẽ tạo nhiều sự lựa chọn cho nhà đầu tư, trên cơ sở đó nhà đầu tư so sánh, phân tích, đánh giá và đi đến quyết định đầu tư. Điều này sẽ kích thích và thu hút nhà đầu tư, thúc đẩy thị trường trái phiếu thêm sôi động. III.2.1.1. Đối với trái phiếu Chính phủ Đa dạng hóa hình thức TPCP, đa dạng hoá không chỉ là việc phát hành nhiều loại TPCP với nhiều kỳ hạn khác nhau mà còn phải kết hợp việc đa dạng hóa về lãi suất, loại hình và phương thức thanh toán vốn gốc và lãi TPCP. Bên cạnh những loại TPCP truyền thống, Chính phủ cần triển khai thêm một số một số loại trái phiếu: - Trái phiếu trả lãi bằng 0 hay còn gọi là trái phiếu được chiết khấu: là loại trái phiếu giá bán thấp hơn mệnh giá, nhà đầu tư sẽ thu được lợi nhuận tích lũy dưới dạng lãi từ vốn khi trái phiếu đến hạn thanh toán. - Trái phiếu đa thời hạn: trái phiếu có nhiều ngày đáo hạn khác nhau. - Trái phiếu thanh toán từng phần: đây là loại trái phiếu mà lãi suất được thanh toán khi đáo hạn nhưng gốc của trái phiếu sẽ thanh toán từng phần theo định kỳ hàng năm. Loại trái phiếu này sẽ giảm áp lực tăng lãi và giảm thiểu rủi ro tái đầu tư, tăng thêm độ an toàn cho người sở hữu trái phiếu. - Trái phiếu option: cho phép người mua trái phiếu có quyền đòi nợ đối với người phát hành tại bất kỳ một thời gian nào đó trong tương lai. - Trái phiếu có lãi suất thay đổi: lãi suất của nó có thể được thay đổi và điều chỉnh theo từng thời kỳ khi lãi suất thị trường có sự biến động, đảm bảo lãi suất thực dương cho nhà đầu tư vì mục tiêu lãi suất. Loại trái phiếu này sẽ thu hút nhà đầu tư hưởng lãi suất vừa thu hút nhà đầu tư hưởng chênh lệch giá thúc đẩy thị trường TPCP hoạt động sôi nổi. Phương thức phát hành: Kế hoạch phát hành TPCP cần được xây dựng một cách thống nhất, khoa học và tránh sự chồng chéo triệt tiêu lẫn nhau giữa các đợt phát hành hay giữa các phương thức phát hành với nhau. Đẩy mạnh phát hành TPCP qua phương thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành, tuy nhiên nên có sự phân chia khối lượng phát hành cho mỗi phương thức theo kỳ hạn trái phiếu, tránh tình trạng các đợt phát hành diễn ra quá gần nhau làm giảm hiệu quả của các đợt phát hành. Mặt khác, khi phát hành TPCP theo phương thức đấu thầu qua TTCK, cần hạn chế áp đặt lãi suất một cách chủ quan. Bên cạnh đó, để tạo đường cong lãi suất chuẩn cho thị trường, cần lập chương trình kế hoạch phát hành TPCP, chọn loại TPCP có thời hạn phù hợp để tập trung phát hành lô lớn tạo nên TPCP phát hành chuẩn và hình thành đường cong lãi suất chuẩn, tạo nền tảng cơ bản lãi suất chuẩn cho các công cụ nợ. Đẩy mạnh việc phát hành TPCP lô lớn sẽ giảm số lượng các loại TPCP lưu hành trên thị trường, giúp các nhà đầu tư cũng như các tổ chức trung gian dễ theo dõi, nắm bắt diễn biến về giá của các loại TPCP. Đồng thời giảm dần đến chấm dứt việc phát hành bán lẻ qua hệ thống KBNN. Cơ chế lãi suất, Chính phủ nên áp dụng lãi suất thả nổi đối với TPCP. Để tăng tính hấp dẫn của TPCP nên áp dụng lãi suất điều chỉnh theo lạm phát và áp dụng phương thức trả lãi linh hoạt như trả lãi trước, trả lãi định kỳ…để nhà đầu tư có thể giảm thiểu rủi ro và đa dạng hoá danh mục đầu tư. Xây dựng một cơ chế lãi suất thực sự hấp dẫn nhà đầu tư kể cả trong điều kiện lạm phát hay thiểu phát nhằm tối đa lợi nhuận của nhà đầu tư trên cơ sở dung hòa với lợi ích của Chính phủ. III.2.1.2 Đối với trái phiếu chính quyền địa phương Cần có kế hoạch phát hành trái phiếu đô thị đi kèm theo với nhiều tiện ích khác nhau nhằm giúp cho các nhà đầu tư luôn có được hàng hóa đa dạng phù hợp với chiến lược đầu tư của mình, qua đó tạo điều kiện cho chính quyền địa phương nâng cao khả năng huy động vốn trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc huy động vốn. Có thể nghiên cứu phát hành trái phiếu đô thị dưới các hình thức: trái phiếu chiết khấu, trái phiếu đa kỳ hạn, trái phiếu thanh toán từng phần, trái phiếu có lãi suất thay đổi, trái phiếu option… Hơn nữa, trong điều kiện phát triển thực tế của các địa phương, nhu cầu vốn tài trợ cho đầu tư phát triển rất lớn và cấp thiết, Chính phủ nên xem xét và bổ sung thêm một số quy định pháp lý nhằm tăng cường khả năng huy động vốn đầu tư cho các dự án đầu tư của địa phương thông qua phương thức phát hành loại trái phiếu thu nhập, loại trái phiếu được phát hành dựa trên nguồn thu tài chính của dự án, công trình và không được cân đối từ ngân sách địa phương. Chính quyền các tỉnh cần có chính sách khuyến khích các cơ quan công quyền có chức năng công ích phát hành trái phiếu để tài trợ cho các dự án, cơ sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội địa phương. Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương có thể thực hiện bảo lãnh để tăng thêm uy tín cho đơn vị phát hành. Trái phiếu thu nhập có thể phát hành theo các mục đích như: - Trái phiếu xây dựng nhà ở: tài trợ cho việc xây dựng những khu dân cư cho những gia đình có thu nhập thấp. - Trái phiếu công nghiệp: tài trợ để xây dựng các khu công nghiệp, sân bay, bến cảng, xử lý nước thải, ô nhiễm môi trường … - Trái phiếu hệ thống cấp thoát nước: tài trợ cho những dự án cấp thoát nước cho dân cư và các ngành thuộc khu vực đô thị. - Trái phiếu bệnh viện: tài trợ cho việc xây dựng và vận hành các bệnh viện. III.2.1.3 Đối với trái phiếu doanh nghiệp Thực tế cho thấy thị trường TPDN chỉ chiếm khoảng 10% thị trường trái phiếu. Việc tham gia thị trường trái phiếu của các doanh nghiệp trong nước mới chỉ là những bước đi đầu tiên với quy mô nhỏ lẻ, nên bước đầu các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ phát hành trái phiếu ra thị trường nội địa và chủ yếu là chọn hình thức phát hành riêng lẻ, tức là doanh nghiệp có thể thương lượng trực tiếp với người cung cấp vốn. Các quy định về điều kiện để doanh nghiệp phát hành trái phiếu riêng lẻ cũng đơn giản hơn việc doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu ra công chúng. Để phát triển thị trường TPDN cần có những cải cách từ phía Chính phủ và cả doanh nghiệp. Bộ Tài chính cần phải có những cải cách mạnh mẽ hơn nữa về cơ chế chính sách và kỹ thuật để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, chú trọng việc tuyên truyền phổ biến và đào tạo cho các doanh nghiệp về cách thức huy động vốn, kinh nghiệm quản lý quỹ.... Để phát triển thị trường TPDN trước hết phải phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ, thị trường trái phiếu Chính phủ vẫn phải là bước khởi đầu. Nhà nước đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Cần có chính sách khuyến khích các Tổng công ty nhà nước phát hành trái phiếu để huy động đầu tư vốn dài hạn phục vụ đổi mới công nghệ và tạo hàng hóa cho TTCK. Trước mắt, các lĩnh vực như hàng không, điện lực, dầu khí, bưu chính viễn thông là những lĩnh vực mà nền kinh tế hiện đang rất cần tăng cường đầu tư và phát triển để tạo đà cho công nghiệp hóa. Về phía các doanh nghiệp để thành công trong việc phát hành trái phiếu, doanh nghiệp cần phải xây dựng kế hoạch huy động và sử dụng vốn hiệu quả nhằm đảm bảo khả năng thanh toán và tạo sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư cũng như đảm bảo được lợi ích của doanh nghiệp. Muốn vậy, doanh nghiệp cần thực hiện tốt một số vấn đề: - Trước hết, doanh nghiệp phải xây dựng được chiến lược phát triển dài hạn trong đó gồm cả việc huy động vốn. Doanh nghiệp cần xác định nhu cầu và mục đích huy động vốn, cần gắn việc huy động với việc sử dụng vốn. - Thứ hai, việc quản lý tốt ngân quỹ là vấn đề phức tạp. Doanh nghiệp phải giải quyết cùng lúc việc thu hút một lượng vốn lớn; phải trả được các khoản nợ và phải có tiền để sản xuất kinh doanh hoặc để đầu tư. - Thứ ba, việc công bố thông tin liên quan đến việc phát hành trái phiếu phải đảm bảo tính công khai minh bạch tạo lòng tin đối với nhà đầu tư. Ngoài ra, để tăng tính hấp dẫn và đa dạng, doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu có chuyển đổi thành cổ phiếu hay trái phiếu gắn với quyền mua; đảm bảo sự ổn định trước biến động của nền kinh tế, doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu có lãi suất đảm bảo bằng vàng hay lãi suất thực được đảm bảo dương trong trường hợp lạm phát cao để thu hút nhà đầu tư. Việc phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp trong việc nâng cao năng lực huy động vốn, tăng khả năng linh hoạt trong quản trị vốn, đồng thời tăng khả năng tích tụ, tập trung và phân phối nguồn vốn có chi phí rẻ cho phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn hiện nay. III.2.1.4. Phát triển công cụ phái sinh liên quan đến trái phiếu Đầu tư chứng khoán nói chung và đầu tư trái phiếu nói riêng luôn chứa đựng rủi ro, việc bảo hiểm cho các khoản rủi ro trong quá trình đầu tư là điều cần thiết. Mặt khác, khi thị trường trái phiếu phát triển đến giai đoạn cao tất yếu dẫn đến việc hình thành các sản phẩm phái sinh liên quan đến trái phiếu nhằm đa dạng hoá và đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư từ khả năng sinh lợi đến mục tiêu giảm thiểu, hoán đổi rủi ro. Hiện nay, thị trường giao dịch trái phiếu ở Việt Nam khá đơn điệu, dừng lại ở nghiệp vụ mua bán trái phiếu giao ngay, làm hạn chế mục đích đầu tư và tính linh hoạt của thị trường. Cần phát triển các sản phẩm chứng khoán phái sinh liên quan đến trái phiếu như: quyền chọn mua, bán chứng khoán; hợp đồng tương lai; hợp đồng kỳ hạn; các sản phẩm từ chứng khoán hóa tài sản và các khoản nợ... Hệ thống ngân hàng thương mại phải đóng vai trò chủ đạo trong quá trình cung cấp các sản phẩm phái sinh cho TTCK. Ngoài ra, nghiệp vụ repo trái phiếu tạo tính thanh khoản rất cao cho thị trường trái phiếu. Các công cụ phái sinh nói chung được đánh giá là rất hữu hiệu trong phòng ngừa rủi ro, giúp nhà đầu tư tự tin hơn khi tham gia thị trường. Tuy nhiên, các công cụ này cũng có tính hai mặt, để áp dụng vào TTCK Việt Nam cần xây dựng khuôn khổ pháp luật cho hoạt động này, các cơ quan quản lý có thể đưa ra các quy định về số lượng quyền chọn tối đa của các nhà đầu tư để hạn chế tình trạng lũng đoạn thị trường. Bên cạnh đó, cần thực hiện đồng bộ với việc phát triển quy mô thị trường, hệ thống giao dịch, hệ thống tài chính ngân hàng, sự hiểu biết về TTCK của công chúng đầu tư và tăng cường khả năng giám sát thị trường của cơ quan quản lý. III.2.2. Xây dựng và phát triển hệ thống định mức tín nhiệm (ĐMTN) Tính minh bạch về thông tin là một trong những điều kiện để phát triển thị trường vốn nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng. Trong hoàn cảnh đó, dịch vụ đánh giá tín nhiệm với các thông tin chính xác, kịp thời sẽ cung cấp thêm cho các cơ quan giám sát thị trường chứng khoán và các cơ quan quản lý tài chính công cụ để quản lý và giám sát; cung cấp thông tin để cho phép các nhà đầu tư kiểm soát và hạn chế các rủi ro trong kinh doanh; đồng thời đối với nhà phát hành nó được dùng như một chiến lược huy động vốn. Do đó, việc xây dựng hệ thống ĐMTN ở Việt Nam hiện nay đã trở nên cấp thiết. Để tổ chức ĐMTN tồn tại và phát triển trong giai đoạn thị trường trái phiếu Việt Nam còn non trẻ cần chú trọng các vấn đề sau: - Nhanh chóng xây dựng khung pháp lý về hoạt động ĐMTN, có một khung pháp lý sẽ tạo điều kiện cho các công ty định mức tín nhiệm trong nước ra đời, vừa tạo điều kiện để thu hút sự tham gia của các công ty, tổ chức uy tín trên thế giới. + ĐMTN được nhắc đến trong Nghị định 52/NĐ-CP nhưng chỉ dừng lại ở mức độ mở ngoặc “nếu có”. Việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho sự hình thành và hoạt động hiệu quả của tổ chức định mức tín nhiệm, trước tiên phải mang tính chất tiền đề, là những cơ sở pháp lý cơ bản nhất để điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong lĩnh vực ĐMTN, đồng thời định ra hướng đi đúng cho cá nhân, tổ chức liên quan trong khuôn khổ mà pháp luật quy định. + Luật chứng khoán cần bổ sung một phần quy định về những vấn đề chung nhất trong hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm như: khái niệm, địa vị pháp lý, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm... + Bên cạnh những vấn đề chung, để tạo môi trường pháp lý cho hoạt động ĐMTN, Chính phủ cần ban hành các Nghị định để chi tiết hóa và hướng dẫn thi hành các điều khoản này. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, hoạt động ĐMTN là lĩnh vực hoàn toàn mới mẽ; hệ thống pháp lý chưa hoàn thiện, ta chưa lường trước được hết những phát sinh và tính phức tạp của hoạt động này. Việc sửa đổi bổ sung để hoàn thiện trong quá trình điều hành là điều không thể tránh khỏi, nếu ở mức Nghị định vừa đảm bảo được hiệu lực pháp lý vừa có thể sửa đổi bổ sung kịp thời. Do đó trong giai đoạn đầu Chính phủ ban hành ở mức Nghị định là hợp lý. Cùng với sự phát triển của thị trường vốn và trong quá trình điều hành hoạt động ĐMTN đã rút tỉa được kinh nghiệm nếu xét thấy cần thiết thì ban hành luật hoạt động ĐMTN. + Hoạt động ĐMTN là một bộ phận của TTCK, nó liên quan chặt chẽ với hoạt động của toàn TTCK và ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ thể tham gia thị trường, do đó cần phải có sự đồng bộ hóa các quy định có liên quan đến hoạt động ĐMTN với các quy định khác có liên quan. Cần giám sát và có qui định xử phạt đối với các hành vi sai trái khi tổ chức ĐMTN đưa ra các kết quả xếp hạng tín nhiệm không trung thực. - Tiêu chuẩn hoá các thông tin tài chính của các doanh nghiệp. Một tổ chức ĐMTN phụ thuộc vào sự sẵn có các thông tin chính xác tin cậy về các doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Mặt khác, các cơ quản lý không chỉ dừng lại ở việc khuyến khích xếp hạng tín nhiệm mà phải thông qua việc ban hành các quy định về ĐMTN bắt buộc, yêu cầu các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK phải thực hiện ĐMTN, nhất là các doanh nghiệp phát hành trái phiếu dù chào bán ra công chúng hay chào bán riêng lẻ. Minh bạch hoá thông tin vừa tạo sự yên tâm cho nhà đầu tư vừa tạo uy tín cho bản thân các doanh nghiệp phát hành. Một trở ngại cho sự phát triển của các tổ chức ĐMTN là có quá ít công cụ nợ để định giá, do đó cần mở rộng quy mô cung chứng khoán đặc biệt là trái phiếu doanh nghiệp. - Cần nâng cao nhận thức của nhà phát hành và nhà đầu tư về ĐMTN. Để hệ thống ĐMTN tồn tại và phát triển là sự công nhận và xem công tác ĐMTN như một trong những nhân tố toàn diện nhất để nhận biết những rủi ro tiềm ẩn. Để làm được điều này, cần phải làm cho các nhà đầu tư, các tổ phát hành trái phiếu và các tổ chức trung gian thị trường hiểu được những lợi ích mà ĐMTN mang lại. Bên cạnh đó, các tổ chức ĐMTN phải tạo được sự tin cậy, tín nhiệm từ phía những người ủy thác và công chúng đầu tư, đảm bảo nguyên tắc hoạt động tính tin cậy, tính độc lập, tính khách quan và chuyên nghiệp. - Cuối cùng, để hệ thống ĐMTN thành công còn phụ thuộc vào khuôn khổ chính sách dẫn dắt, có thể thực hiện các bước đi sau: + Hợp tác và tiếp thu kinh nghiệm, chuyên môn từ các tổ chức ĐMTN nổi tiếng trên thế giới. Vai trò của các tổ chức ĐMTN quốc tế, ngay cả trong giai đoạn đầu, cần được xem xét một cách phù hợp. Bên cạnh đó, sự hiện diện của các tổ chức ĐMTN quốc tế sẽ gia tăng sự lựa chọn và chất lượng của các dịch vụ cung cấp cho các tổ chức phát hành và nhà đầu tư. Áp lực cạnh tranh từ các tổ chức ĐMTN quốc tế cũng sẽ buộc các tổ chức ĐMTN trong nước tăng cường chất lượng và tính cạnh tranh về dịch vụ của họ. Tuy nhiên, với mục đích phát triển các tổ chức ĐMTN trong nước, trong giai đoạn đầu nên hạn chế sự tham gia của các tổ chức ĐMTN nước ngoài, chỉ dừng ở mức hỗ trợ thu hút vốn nước ngoài. Việc tham gia vào các mảng thị trường khác chỉ nên cho phép khi đã qua một số giai đoạn nhất định, với điều kiện lộ trình đó phải được minh bạch và có độ tin cậy cao. + Trong điều kiện hiện tại của VN, có một số lý do không ủng hộ việc cho phép các Công ty định mức tín nhiệm tư nhân hoạt động. Thứ nhất, các tổ chức tư nhân này thường có quy mô nhỏ. Thứ hai, có rủi ro là một số tổ chức phát hành có thể thành lập các Công ty định mức tín nhiệm của chính mình để đạt được những kết quả sai lệch về tình hình tín dụng của họ. Mặc dù vậy, các tổ chức ĐMTN nhà nước cũng vẫn có những điểm yếu, vấn đề phức tạp nhất có thể xảy ra là sự can thiệp của Chính phủ đối với kết quả định mức tín nhiệm. Để đảm bảo chất lượng định mức tín nhiệm, việc thực thi công tác kiểm soát, giám sát và phân định trách nhiệm rõ ràng phải được chú trọng. Ngoài ra, việc lựa chọn quyền sở hữu đối với các tổ chức ĐMTN đòi hỏi phải xem xét kỹ tới quy mô và tính chuyên nghiệp cần thiết.... Trong giai đoạn đầu có thể thành lập một tổ chức ĐMTN thuộc sở hữu nhà nước và sau đó có thể cho phép chuyển thành sở hữu tư nhân. III.2.3. Thu hút và phát triển đội ngũ tạo lập thị trường Ở các thị trường chứng khoán phát triển, các nhà tạo lập thị trường là các trung gian tài chính. Họ niêm yết giá mua, giá bán và sẵn sàng thực hiện giao dịch với các mức giá đã niêm yết. Các hoạt động của họ tạo tính linh hoạt cho thị trường trái phiếu; tăng khả năng thực hiện giao dịch trái phiếu làm cho thị trường giao dịch trái phiếu sôi động hơn thông qua cạnh tranh về giá cả đặt ra giữa các nhà tạo lập thị trường khác nhau… Trong điều kiện thị trường trái phiếu còn sơ khai, hình thành và phát triển đội ngũ các nhà tạo lập thị trường là điều cần thiết. Cần có đội ngũ chuyên gia có năng lực làm tư vấn cho Chính phủ để xây dựng chính sách phối hợp đồng bộ giữa các kênh huy động vốn. Để xây dựng đội ngũ các nhà tạo lập thị trường có tiềm năng tài chính đủ mạnh sẵn sàng mua - bán một lượng trái phiếu nhất định khi có yêu cầu của nhà đầu tư, cần có chủ trương khuyến khích các ngân hàng thương mại và các công ty bảo hiểm có tiềm năng tài chính lớn tham gia. III.2.4. Xây dựng thị trường trái phiếu chuyên biệt Trái phiếu với những đặc điểm riêng đòi hỏi phải có cơ chế phát hành và giao dịch riêng. Giao dịch trái phiếu trên thị trường thứ cấp cần tách khỏi thị trường cổ phiếu, xây dựng một thị trường trái phiếu chuyên biệt nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư của các nhà đầu tư có tổ chức trên thị trường. Cần tìm ra một mô hình giao dịch phù hợp cho thị trường trái phiếu chuyên biệt. Một số thị trường trái phiếu trên thế giới đã và đang áp dụng các mô hình giao dịch điển hình sau: - Hệ thống khớp lệnh chéo (cross-matching system): các nhà đầu tư được kết nối với nhau thông qua các nhà kinh doanh trái phiếu. - Hệ thống một nhà kinh doanh (single-dealer system): nhà đầu tư thực hiện giao dịch với một nhà kinh doanh trái phiếu duy nhất để thương lượng và thực hiện giao dịch. Nhà kinh doanh trái phiếu này đưa ra yết giá hai chiều mua-bán trái phiếu. - Hệ thống liên định chế (Interdealer system): hệ thống giao dịch giữa các nhà kinh doanh trái phiếu với nhau thông qua mạng lưới giao dịch điện tử của các nhà môi giới liên định chế; các tổ chức đầu tư có thể biết được các chào giá tốt nhất trên thị trường tại một thời điểm và tiến hành giao dịch thông qua nhà môi giới. - Hệ thống đa định chế (Multi-dealer system): nhà đầu tư kết nối với nhiều nhà kinh doanh trái phiếu, cho phép hiển thị các giá chào bán và chào mua có trên hệ thống tại một thời điểm để so sánh và chọn chào giá tốt nhất của từng loại trái phiếu. Hệ thống này còn cho phép các nhà đầu tư yêu cầu lấy giá cho một loại trái phiếu từ một hoặc nhiều nhà kinh doanh tham gia hệ thống giao dịch. Hệ thống này tăng khả năng tiếp cận thông tin cho nhà đầu tư cuối cùng và có nhiều lựa chọn giao dịch. - Hệ thống đấu giá (Auction system): thành viên bán trái phiếu sẽ đăng các thông tin chi tiết về trái phiếu được chào bán và các điều kiện cụ thể trong đấu giá, các thành viên tham gia đấu giá nộp đơn đấu giá và khối lượng trái phiếu chào bán sẽ được chuyển cho thành viên nào trả giá cao nhất. Việc lựa chọn hệ thống giao dịch phù hợp cho thị trường thứ cấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó mức độ phát triển của thị trường trái phiếu là quan trọng nhất, đặc biệt là thị trường TPCP đóng vai trò chủ đạo. Trong điều kiện thị trường trái phiếu còn non trẻ, số lượng nhà đầu tư có tổ chức còn hạn chế và mức giao dịch trái phiếu thấp thì hệ thống giao dịch thỏa thuận là phù hợp để tăng tính thanh khoản. Tuy nhiên, khi thị trường trái phiếu phát triển, quy mô thị trường lớn, đã có hệ thống các nhà kinh doanh trái phiếu đủ lớn và chuyên nghiệp, việc ứng dụng công nghệ thông tin ở mức độ cao, nhu cầu về tính hiệu quả và minh bạch của thị trường càng lớn, lúc này cần vận dụng các mô hình hệ thống hiện đại hơn vào thị trường trái phiếu. Giao dịch trái phiếu tập trung sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái phiếu trong nước, là một kênh huy động vốn hiệu quả của nền kinh tế. Với sự ra đời của thị trường trái phiếu chuyên biệt, nhà đầu tư, các quỹ đầu tư sẽ ngày càng quan tâm hơn đến thị trường trái phiếu với niềm tin vào một thị trường trái phiếu sôi động và minh bạch hơn, thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của thị trường trái phiếu sơ cấp và tính thanh khoản của thị trường thứ cấp. III.2.5. Thực hiện công khai hóa thông tin Việc công khai và minh bạch hoá thông tin là một yếu tố quan trọng để thị trường trái phiếu hoạt động lành mạnh. Do đó, Chính phủ và doanh nghiệp cần tích cực thực hiện công khai hóa thông tin, khắc phục tình trạng bưng bít thông tin hoặc công khai mang tính hình thức. Công bố thông tin một cách tùy tiện, không có hệ thống và chuẩn mực sẽ tạo tâm lý e ngại đối với nhà tư là nguyên nhân làm cho thị trường trái phiếu kém phát triển. Độ tin cậy của thông tin là cơ sở để nhà đầu tư đưa ra các quyết định đầu tư, giảm thiểu rủi ro. Về phía Chính phủ, công tác công khai hóa thông tin trong thời gian tới cần hoàn thiện các mặt sau: - Tăng cường công bố kế hoạch phát hành trái phiếu, các thông tin về khối lượng phát hành, lãi suất và thời hạn. Bên cạnh đó cần tăng khả năng tiếp cận thông tin về cơ cấu nợ, lý do huy động vốn và đặc biệt là chiến lược quản lý nợ. Cụ thể vào đầu năm, Chính phủ công khai kế hoạch phát hành trái phiếu trong năm gồm các nội dung: thời điểm phát hành, khối lượng phát hành, lãi suất dự kiến, đối tượng tham gia… Vào cuối năm, cần công khai báo cáo tổng hợp, chi tiết về tình hình sử dụng vốn huy động từ TPCP, TPCQĐP trong năm. Bên cạnh đó, TPCP là một hàng hóa niêm yết trên thị trường, để thu hút nhà đầu tư hơn nữa, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, TPCP cần được các tổ định mức tín nhiệm có uy tín trên thế giới như Moody’s, S&P, Fitch đánh giá. - Ngày nay, cần khai thác và ứng dụng công nghệ thông tin để đưa thông tin đến nhà đầu tư, đặc biệt là phương tiện thông tin trực tuyến từ internet, thông qua các website giúp cho nhà đầu tư dễ truy cập. UBCKNN cần thiết lập hệ thống thông tin tự động để nhà đầu tư trong và ngoài nước có thể tra cứu thông tin bất cứ lúc nào. Xây dựng website chuyên cung cấp thông tin về trái phiếu và thị trường trái phiếu trong đó bao gồm các thông tin về: thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp, các chính sách, chiến lược phát triển, khung pháp lý có liên quan để cung cấp thông tin đến các nhà đầu tư. Lựa chọn nhà cung cấp thông tin về thị trường trái phiếu trên cơ sở gắn kết về tính chuyên nghiệp và cơ sở vật chất kỹ thuật của các thành viên tham gia thị trường. - Để đảm bảo thông tin được công bố chính xác và minh bạch cần nâng cao tính cưỡng chế của pháp luật; nâng cao kiến thức, kinh nghiệm cho các nhà đầu tư, các tổ chức trung gian thị trường để phân tích thông tin của các tổ chức phát hành; hệ thống kế toán kiểm toán đảm bảo tuân thủ các chuẩn mực trong nước và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đối với các trường hợp vi phạm về công bố thông tin trên TTCK, cần có các biện pháp chế tài xử lý vi phạm. Mặt khác, Chính phủ nên đi đầu trong công tác đào tạo kiến thức trong các lĩnh vực như: pháp lý, kế toán… Về phía doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần tổ chức bộ phận chuyên trách công tác thông tin để công bố thông tin kịp thời và nâng cao chất lượng thông tin của doanh nghiệp. Thông tin cần cập nhật định kỳ, thường xuyên, có số liệu thống kê và phân tích xu hướng phát triển. Bên cạnh đó, cần nâng cao trình độ của bộ máy quản lý, đội ngũ kế toán… III.2.6. Phát triển thị trường phi tập trung (OTC) Trên thế giới, thị trường trái phiếu thường được tổ chức theo hình thức thị trường OTC, đây vốn là thị trường giao dịch của những chứng khoán chưa niêm yết hoặc chưa đủ kiện niêm yết trên thị trường tập trung. Cụ thể, thị trường trái phiếu ở Mỹ, toàn bộ TPCP phải được tập trung phát hành và giao dịch qua thị trường OTC; thị trường trái phiếu tại Hàn Quốc, giao dịch OTC là chủ yếu. Các tổ chức tài chính trung gian như các NHTM, tổ chức kinh doanh bảo hiểm sẽ thực hiện vai trò tạo lập thị trường. Trái phiếu có độ rủi ro thấp nên chủ yếu được các tổ chức tài chính trung gian nắm giữ, đặc biệt là các ngân hàng phát triển, các NHTM và các tổ chức bảo hiểm. Các tổ chức tài chính này không muốn giao dịch qua Sở giao dịch chứng khoán do chi phí quá cao so với thu nhập của trái phiếu. Việc giao dịch thẳng giữa các tổ chức tài chính trung gian không chỉ giúp họ tiết kiệm chi phí mà còn tạo được phương thức giao dịch, thanh toán linh hoạt và phù hợp. Hơn nữa, để thực hiện vai trò tạo lập thị trường, các tổ chức tài chính trung gian phải có một lượng vốn đủ lớn, và như vậy với quy mô rất lớn của thị trường trái phiếu, các công ty chứng khoán thường không thể đáp ứng yêu cầu vốn cho hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu. TTGDCK Hà Nội thành lập năm 2005, hoạt động gần giống thị trường phi tập trung cũng đã đạt được những thành công nhất định. Nhưng hiện nay, thị trường trái phiếu sơ cấp khá phức tạp với nhiều kênh phát hành đan xen với kênh đấu thầu qua TTCK, thị trường trái phiếu thứ cấp còn kém phát triển với khối lượng giao dịch chủ yếu là TPCP. Do vậy việc xây dựng và phát triển thị trường OTC đóng một vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển TTCK Việt Nam trong thời gian tới. Cần xây dựng thị trường trái phiếu Việt Nam theo mô hình thị trường OTC, trên cơ sở đồng bộ với thị trường trái phiếu tập trung và phù hợp với chiến lược phát triển TTCK. Trong đó, cho phép các NHTM, các công ty bảo hiểm và các tổ chức Tài chính trung gian khác đủ khả năng trở thành nhà tạo lập thị trường trái phiếu. Với lượng trái phiếu lớn đang được các NHTM và tổ chức kinh doanh bảo hiểm nắm giữ, với hệ thống thanh toán liên ngân hàng đang vận hành tốt, thị trường OTC đối với trái phiếu sẽ sớm vận hành có hiệu quả. III.2.7. Hoàn thiện hệ thống pháp lý và hệ thống quản lý Để thị trường trái phiếu vận hành tốt đòi hỏi một hệ thống pháp lý hoàn thiện mang lại một sân chơi công bằng, luật sở hữu rõ ràng và thông tin minh bạch cũng như một cơ quan quản lý thị trường có năng lực. Hiện nay, hoạt động của thị trường trái phiếu được điều chỉnh bởi các văn bản pháp quy: Nghị định 141/2003/NĐ-CP (quy định việc phát hành TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và TPCQĐP), Nghị định 52/2006/NĐ-CP (quy định việc phát hành TPDN), Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 (quy định về chứng khoán và thị trường chứng khoán) và một số các văn bản pháp quy khác có liên quan. Tiếp tục rà soát, bổ sung và sửa đổi để hoàn thiện khung pháp lý. Quốc hội bên cạnh việc đã thông qua Luật chứng khoán đồng thời phải từng bước hoàn thiện Luật Chứng khoán cho phù hợp với tình hình đặc thù của TTCK sơ khai đang từng bước phát triển và hội nhập. Phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong việc hoàn thiện các văn bản pháp luật để giảm bớt sự chồng chéo và mâu thuẫn. Các quy định về đấu thầu TPCP và việc công khai hóa thông tin của Chính phủ về TPCP cần được thể hiện trong Luật Chứng khoán, không nên quy định riêng lẻ trong các văn bản dưới Luật như hiện nay. Cần có các quy định để ràng buộc trách nhiệm của các thành viên tham gia đấu thầu và bảo lãnh phát hành. Xây dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động công bố thông tin, nền tảng là Luật Chứng khoán và Luật Kế toán. Tạo khuôn khổ pháp lý điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh cũng như các tranh chấp, kiện tụng giao dịch. Hiện nay, hoạt động của thị trường OTC không trái với pháp luật hiện hành, tuy nhiên Luật Chứng khoán Việt Nam vẫn chưa có những điều khoản về thị trường OTC. Các đối tượng tham gia thị trường đang đứng trước nguy cơ phải gánh chịu rủi ro nếu không được bảo vệ bởi bất kỳ khung pháp lý nào, do đó cần có khung pháp lý rõ ràng để bảo vệ các đối tượng tham gia thị trường. Cụ thể trong Luật Chứng khoán cần quy định rõ đối tượng được phép thành lập, thủ tục thành lập, cơ cấu điều hành Trung tâm OTC, quy định đối với trường hợp giải thể trung tâm OTC… Ban hành các quy định để tạo cơ sở pháp lý cho các công ty chứng khoán tái cơ cấu theo hướng tăng quy mô vốn, mở rộng mạng lưới cung cấp dịch vụ; cần có cơ chế hỗ trợ khuyến khích các quỹ đầu tư chứng khoán trong và ngoài nước tham gia thị trường. Bên cạnh đó, Chính phủ cần thực hiện chương trình cải cách sâu, rộng các quy định pháp lý về chuẩn mực quản lý, giám sát và tổ chức hệ thống giám sát phù hợp với thông lệ quốc tế. Thực hiện quản lý theo chuẩn mực để sớm hình thành cơ chế quản lý bình đẳng; nâng cao hiệu quả giám sát từ phía Nhà nước. Thành lập hiệp hội thị trường trái phiếu sẽ giúp xây dựng và chuẩn hoá các phương thức cũng như điều kiện giao dịch chung. III.2.8. Nâng cao nhận thức về chứng khoán nói chung và trái phiếu nói riêng cho các doanh nghiệp và công chúng đầu tư Doanh nghiệp và công chúng đầu tư là bộ phận không thể thiếu và góp phần quan trọng tạo nên sự phát triển của thị trường trái phiếu. Chú trọng hơn nữa trong công tác tuyên truyền, đào tạo kiến thức về chứng khoán cho các doanh nghiệp và công chúng. Trong thời gian qua, tuy các doanh nghiệp và công chúng có quan tâm tìm hiểu về thị trường chứng khoán nhưng hầu như chỉ tập trung vào cổ phiếu. Thông qua các phương tiện đại chúng, hệ thống thông tin trực tuyến internet để tuyên truyền cho doanh nghiệp và công chúng một sự hiểu biết toàn diện về thị trường chứng khoán trong đó có thị trường trái phiếu. Giúp các doanh nghiệp nhận thức được vai trò, lợi ích của việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu. Nâng cao nhận thức trong công chúng về vai trò, rủi ro và tính hữu ích của việc đầu tư trái phiếu. Kết luận chương III Trong thời gian qua thị trường trái phiếu đã chứng minh được tiềm năng huy động vốn của mình và Chính phủ cũng đã có nhiều giải pháp phát triển. Tuy nhiên để thị trường trái phiếu phát huy tốt vai trò của mình, cần có những giải pháp mang tính đồng bộ, cần có những nổ lực cụ thể và hiệu quả từ nhiều phía: Chính phủ, Chính quyền địa phương, các cấp, các ngành và các doanh nghiệp. Xây dựng lộ trình triển khai thực hiện phù hợp với từng giai đoạn phát triển và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư tiếp cận với thị trường trái phiếu. Trên cơ sở thực hiện tốt các định hướng và giải pháp đã trình bày trong phần này, sẽ góp phần phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam, đảm bảo các mục tiêu chiến lược phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. KẾT LUẬN Nền kinh tế Việt Nam trong gian qua đã đạt được sự tăng trưởng ấn tượng, trong đó yếu tố về vốn đóng một vai trò hết sức quan trọng. Đứng trước những cơ hội và thách thức hiện tại, chiến lược phát triển thị trường vốn để đáp ứng nhu cầu huy động vốn và đầu tư cho mọi đối tượng trong nền kinh tế, đảm bảo nguồn lực phát triển kinh tế. Qua phân tích thực tế hoạt động thị trường trái phiếu Việt Nam, cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế, tỷ lệ dư nợ trái phiếu/GDP vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nguyên nhân do thị trường trái phiếu còn non trẻ, với quy mô chưa phát triển, chưa có nền tảng lãi suất chuẩn, tính cạnh tranh của trái phiếu còn thấp, chưa xây dựng được hệ thống định mức tín nhiệm chuyên nghiệp, thiếu đội ngũ tạo lập thị trường, khung pháp lý và hệ thống quản lý chưa được hoàn thiện, nhận thức và kiến thức của doanh nghiệp và công chúng đầu tư còn kém, tâm lý e ngại rủi ro… Vấn đề cần giải quyết là từng bước khắc phục các nguyên nhân dẫn đến tình hình kém phát triển và đưa ra các giải pháp thúc đẩy thị trường trái phiếu phát triển.. Việc tổ chức thực hiện các giải pháp cần phải có lộ trình nhất định, từ việc hoàn thiện khung pháp lý và hệ thống quản lý tạo nền tảng cho thị trường đến việc phát triển đồng bộ thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, kết hợp với việc nhất thiết phải hình thành các tổ chức định mức tín nhiệm, phát triển đội ngũ tạo lập thị trường, đẩy mạnh công tác đào tạo và tuyên truyền kiến thức về chứng khoán đến doanh nghiệp và công chúng đầu tư. Xuất phát từ những nhu cầu trên, đề tài “PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008 - 2020 ” được thực hiện với mong muốn các giải pháp nêu trên góp phần thúc đẩy thị trường phát trái phiếu Việt Nam phát triển. Hy vọng rằng với sự phối hợp thực hiện đồng bộ giữa các cấp các ngành, với sự quan tâm của Nhà nước, trong tương lai thị trường trái phiếu Việt Nam sẽ có những phát triển mạnh mẽ góp phần tạo thành công cho chiến lược phát triển thị trường vốn và công cuộc phát triển kinh tế đất nước. ĐỀ XUẤT CHO HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu về thị trường trái phiếu, tìm hiểu về thực tế thị trường trái phiếu Việt Nam và những nguyên nhân dẫn đến tình trạng kém phát triển của thị trường trái phiếu Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy thị trường trái phiếu Việt Nam phát triển. Nhưng do hạn chế về kiến thức và thời gian nên vẫn còn nhiều vấn đề mà tầm vóc của một luận văn Thạc sĩ Kinh tế chưa thể đề cập và trình bày hết được. Do vậy, tác giả hy vọng rằng trong thời gian tới, các nhà khoa học, các chuyên gia nghiên cứu về lĩnh vực chứng khoán nói chung và trái phiếu nói riêng sẽ có những công trình nghiên cứu bao quát hơn, chuyên sâu hơn về các chủ đề sau: - Hình thành và phát triển ngành định mức tín nhiệm ở Việt Nam. - Xây dựng đường cong lãi suất – Kinh nghiệm các nước và bài học cho Việt Nam. - Phát triển chứng khoán phái sinh ở Việt Nam. Nếu được thực hiện, những nghiên cứu trên sẽ rất có ích cho các nhà quản lý trong việc xây dựng pháp luật và hoạch định chính sách phát triển thị trường. PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1 PHỤ LỤC 2 Phương thức tổ chức đấu giá trên TTCK - Phương thức đấu thầu theo kiểu Anh: trước khi tổ chức phiên đấu thầu TPCP, chủ thể phát hành sẽ thông báo khối lượng TPCP mời thầu. Nhà đầu tư tham gia phiên đấu thầu sẽ đưa ra giá đặt thầu và khối lượng đặt thầu. Thông tin về giá đặt thầu và khối lượng đặt thầu sẽ được giữ kín. Phiên đấu thầu được bắt đầu, các phiếu đặt thầu được sắp xếp theo thứ tự tự từ giá cao nhất đến giá thấp nhất tương ứng với khối lượng TPCP đặt mua. Sẽ có nhiều mức giá trúng thầu bắt đầu từ người trả giá cao nhất và tiếp tục bán cho người trả giá thấp hơn cho đến khi đạt được khối lượng TPCP cần bán. Đấu giá theo kiểu Anh là phương thức “đấu giá kín”, người tham gia phiên đấu giá không thể thay đổi giá đặt thầu và hoàn toàn không nắm được thông tin đặt thầu của các nhà đầu tư khác cùng tham gia phiên đấu thầu. Phương thức này gần như không có lợi cho nhà đầu tư nhưng có lợi cho nhà phát hành. - Phương thức đấu thầu theo kiểu Hà Lan: đấu thầu theo kiểu Hà Lan còn gọi là đấu thầu theo kiểu đơn giá, thủ tục đấu thầu cũng giống như đấu thầu theo kiểu Anh. Tuy nhiên khi mở thầu dù cũng được sắp xếp theo thứ tự từ giá cao nhất đến giá thấp nhất nhưng sẽ không có nhiều mức giá trúng thầu khác nhau mà chỉ có một giá trúng thầu duy nhất. Giá trúng thầu sẽ là mức giá mà ở mức giá đó toàn bộ TPCP mời thầu được bán hết. Phương thức đấu thầu này khác với phương thức đấu thầu theo kiểu Anh là toàn bộ TPCP mời thầu sẽ bán hết với cùng một mức giá cho tất cả nhà đầu tư tham gia đấu thầu. Đấu thầu theo kiểu Hà Lan cũng được thực hiện theo hình thức “đấu giá kín”. Đấu thầu theo phương thức này do giá bán thống nhất nên không hình thành chênh lệch giá bán như phương thức đấu thầu theo kiểu Anh. PHỤ LỤC 3 THỐNG KÊ HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU TRÁI PHIẾU TẠI TRUNG TÂM GDCKHN Từ ngày 01/01/2007 đến 31/12/2007 STT CHỈ TIÊU NỘI DUNG 1 Tổng số đợt đấu thầu đã thực hiện 44 2 Tổng số loại trái phiếu đấu thầu 3 3 Tổng khối lượng trái phiếu gọi thầu 29.016.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 2 năm - Trái phiếu kỳ hạn 3 năm 1.900.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 5 năm 20.960.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 10 năm 2.806.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 15 năm 3.350.000.000.000 4 Tổng số phiếu đăng ký tham gia đấu thầu 403 Phiếu đăng ký cho thành viên 305 Phiếu đăng ký dành cho khách hàng của thành viên 98 5 Tổng số phiếu đăng ký đấu thầu hợp lệ 403 6 Tổng khối lượng đăng ký đầu thầu hợp lệ 88.627.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 2 năm - Trái phiếu kỳ hạn 3 năm 1.770.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 5 năm 75.748.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 10 năm 5.845.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 15 năm 5.264.000.000.000 7 Tổng khối lượng trái phiếu trúng thầu 18.939.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 2 năm7 - Trái phiếu kỳ hạn 3 năm 850.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 5 năm 15.620.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 10 năm 1.095.000.000.000 Trái phiếu kỳ hạn 15 năm 1.374.000.000.000 8 Tổng số tiền thanh toán trái phiếu trúng thầu 18.966.046.522.563 Nguồn: TTGDCK Hà Nội PHỤ LỤC 4 Thang điểm để đánh giá mức độ tín nhiệm của các Công ty xác định hệ số tín nhiệm khi vay vốn dài hạn Moody’s S&P Nội dung Aaa AAA Điểm tối cao: khoản nợ này được đánh giá vào hạng mạnh nhất, có khả năng hoàn trả cả gốc và lãi cực mạnh. Aa A Điểm cao: mức độ này được đánh giá là cao trong việc trả nợ cả gốc và lãi, chỉ khác với mức trên rất nhỏ. A A Điểm trung bình khá: khoản nợ này được đánh giá là có khả năng trả nợ gốc và lãi mạnh, nhạy cảm hơn với các tác động bất lợi của điều kiện và hoàn cảnh kinh tế so với các nhóm trên. Baa BBB Điểm trung bình: khoản nợ này được đánh giá là có khả năng vừa đủ mạnh để hoàn trả trả nợ gốc và lãi, nhạy cảm mạnh hơn trước các tác động bất lợi của các điều kiện và hoàn cảnh so với các nhóm trên. Ba BB Điểm đầu cơ: khoản nợ này được đánh giá là ít rủi ro vỡ nợ, song lại phải đối mặt với khả năng thanh toán gốc và lãi thấp do những điều kiện tài chính kinh tế bấp bênh của nhà phát hành. B B Điểm đầu cơ rõ ràng: khoản nợ này dễ bị rủi ro phá sản hơn, nhưng hiện tại nó vẫn có khả năng thanh toán cả gốc lẫn lãi. Caa CCC Khoản nợ này được đánh giá là có khả năng rủi ro vỡ nợ lớn, việc thanh toán gốc và lãi phụ thuộc vào điều kiện tài chính kinh tế của nhà phát hành. Ca CC Khoản nợ này có tính chất đầu cơ cao nhưng lại thường bị vỡ nợ hoặc những khiếm khuyết đáng lưu ý khác. C C Khoản nợ được xác định ở mức độ tính nhiệm này có khả năng thanh toán cả gốc và lãi thấp, khả năng vỡ nợ lớn. D Khoản nợ này có khả năng vỡ nợ cực lớn, hoặc sẽ bị vỡ nợ khi đến hạn thanh toán. Ghi chú: Moody’s kèm theo các số 1,2 và 3 sau mỗi các xếp loại từ Aa đến Caa; số 1 biểu diễn mức cao nhất trong một mức xếp hạng, số 2 là mức trung bình, và số 3 là mức thấp nhất trong một mức xếp hạng. S&P sử dụng kèm theo sau mỗi xếp hạng là các dấu +,- Ví dụ: Moody’s S&P Aa1, Aa2,Aa3 AA+, AA, AA- A1, A2, A3 A+, A, A- Baa1, Baa2, Baa3 BBB+, BBB, BBB- Ba1, Ba2, Ba3 BB+, BB, BB- B1, B2, B3 B+, B, B- Caa1, Caa2, Caa3 CCC+, CCC, CCC- Thông thường, mỗi mức thấp hơn thì tỷ lệ bù cộng thêm 0,15% -> 0,25%; tuy nhiên từ Baa3 xuống Ba1 tỷ lệ bù có thể 0,5% hoặc hơn. Triển vọng định mức tín nhiệm của Việt Nam: Tổ chức đánh giá Xếp loại Triển vọng Thời gian xếp loại S&P BB Tiêu cực 5/2008 Moody’s Ba3 Tiêu cực 6/2008 Fitch BB- Tiêu cực 5/2008 (Nguồn Asianbondsonline, cập nhật ngày 15/08/08) PHỤ LỤC 5 Thống kê tình hình giao dịch trái phiếu từ năm 2000-30/06/2008 tại Sở GDCK TP.HCM Năm Giao dịch khớp lệnh Giao dịch thoả thuận Tổng cộng KLGD GTGD (triệu đồng) KLGD GTGD (triệu đồng) KLGD GTGD (triệu đồng) 2000 21.790 2.143 - - 21.790 2.143 2001 81.730 7.804 612.000 62.898 693.730 70.702 2002 37.890 3.554 1.254.820 118.008 1.292.710 121.562 2003 48.920 4.575 25.032.920 2.463.312 25.081.840 2.467.887 2004 53.520 5.290 171.625.712 17.877.992 171.679.232 17.883.282 2005 - - 232.110.825 23.837.588 232.110.825 23.837.588 2006 - - 477.500.447 48.654.248 477.500.447 48.654.248 2007 - - 380.987.007 39.918.828 380.987.007 39.918.828 6 tháng Đầu 2008 - - 234.195.714 23.716.897 234.195.714 23.716.897 Tổng cộng 243.850 23.366 1.523.319.445 156.619.771 1.523.319.445 156.619.771 Nguồn: Sở GDCK TP.HCM Thống kê tình hình giao dịch trái phiếu từ năm 2005-30/06/2008 tại TGDCK Hà Nội Năm Giao dịch báo giá Giao dịch khớp lệnh Tổng cộng KLKL GTGD KLKL GTGD (triệu đồng) KLKL GTGD (triệu đồng) 2005 - - 781.830 78.062 781.830 78.062 2006 - - 68.593.370 7.001.817 68.593.370 7.001.817 2007 - - 752.732.400 77.521.337 752.732.400 77.521.337 30/06/2008 - - 618.934.035 57.749.376 618.934.035 57.749.376 Tổng cộng 1.441.041.635 142.350.592 1.441.041.635 142.350.592 Nguồn: TTGDCK Hà Nội Thống kê quy mô giao dịch trái phiếu của nhà đầu tư nước ngoài tại các TTGDCK Năm Khối lượng (trái phiếu) Giá trị (tỷ đồng) 1 - Sở GDCK TP.HCM: 2003 200.000 20 2004 7.030.989 719 2005 40.770.226 4.133 2006 142.202.868 14.498 2007 258.274.881 27.375 6 tháng đầu 2008 217.714.500 22.309 Cộng 666.193.464 69.055 2 – Trung tâm GDCK Hà Nội: 2006 77.965.180 7.911 2007 1.199.375.690 123.752 6 tháng đầu năm 2008 951.923.564 89.351 Cộng 2.229.264.434 221.014 Nguồn: Tập hợp từ Sở GDCK TP.HCM & TTGDCK HN Những kết quả đạt được của đề tài: Phân tích chi tiết thực trạng phát hành và giao dịch của thị trường trái phiếu Việt Nam, từ đó phân tích các nguyên nhân kém phát triển của thị trường này: quy mô nhỏ, thanh khoản thấp; thiếu tổ chức định mức tín nhiệm chuyên nghiệp; thiếu đội ngũ các nhà tạo lập thị trường; chưa xác định được đường cong lãi suất chuẩn; tính cạn tranh của thị trường trái phiếu thấp, nhận thức của doanh nghiệp; công bố thông tin chưa đầy đủ; hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh. Trong những năm gần đây thị trường trái phiếu Việt Nam tuy đã có những phát triển khả quan nhưng qui mô vẫn còn nhỏ, hàng hóa trên thị trường chưa được đa dạng… Thực tế thị trường trái phiếu còn nhiều hạn chế cần có giãi pháp để hoàn thiện và phát triển thị trường.Từ những định hướng phát triển, đề tài đã đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy triển thị trường trái phiếu Việt Nam phát triển như: mở rộng quy mô, đa dạng hóa và tăng tính thanh khoản cho thị trường trái phiếu, xây dựng và phát triển hệ thống định mức tín nhiệm, thu hút và phát triển đội ngũ tạo lập thị trường, xây dựng thị trường trái phiếu chuyên biệt, thực hiện công khái hóa thông tin, phát triển thị trường phi tập trung, hoàn thiện hệ thống pháp lý và quản lý, nâng cao nhận thức về chứng khoán nói chung và trái phiếu nói riêng cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van Thac si kinh te Pham Thi Anh Thu.doc
Tài liệu liên quan