Luận văn Phát triển và hoàn thiện hệ thống bảo hiểm y tế tại Việt Nam

MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM Y TẾ 3 1.1 KHÁI NIỆM, TÍNH CHẤT VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA BẢO HIỂM Y TẾ 1.1.1 Khái niệm .3 1.1.2 Tính chất 4 1.1.3 Sự cần thiết .4 1.2 VAI TRÒ CỦA BẢO HIỂM Y TẾ .6 1.2.1 Phục vụ xã hội 6 1.2.1 Phục vụ xã hội 7 1.2.3 Góp phần thực hiện chính sách an sinh .7 1.2.4 Góp phần thực hiện chủ trương xã hội hóa lĩnh vực y tế .8 1.2.5 Điều tiết thu nhập .8 1.2.6 BHYT là một trong những nguồn cung cấp tài chính ổn định cho các cơ sở y tế .9 1.3 CÁC LOẠI HÌNH BẢO HIỂM Y TẾ 9 1.3.1 BHYT bắt buộc 9 1.3.2 BHYT tự nguyện 11 1.4 BẢO HIỂM Y TẾ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI .12 1.4.1 Bảo hiểm y tế tại Anh 12 1.4.2 Bảo hiểm y tế tại Mỹ 13 1.4.3 Bảo hiểm y tế tại Thái Lan .13 Trang 3 1.4.4 Bảo hiểm y tế tại Canada .14 1.4.5 Bảo hiểm y tế tại Inđônêxia .16 1.4.6 Bảo hiểm y tại Cộng hòa Liên bang Đức .18 Nhận xét và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .20 CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ BHYT TẠI VIỆT NAM22 2.1 SƠ LƯỢC VỀ BHYT TẠI VIỆT NAM .22 2.2 TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI BHYT TẠI VIỆT NAM THỜI GIAN QUA23 2.2.1 Các giai đoạn phát triển của BHYT ở Việt Nam .23 2.2.2 Cơ cấu chi phí các dịch vụ y tế trong khám chữa bệnh 28 2.2.3 Phương thức quản lý và sử dụng thuốc cho bệnh nhân BHYT .32 2.2.4 Các phương thức thanh toán khám chữa bệnh BHYT .33 2.2.5 Công tác giám định BHYT 37 2.2.6 Quy trình khám chữa bệnh .39 2.2.7 Tình hình thực hiện BHYT tự nguyện .41 2.2.8 BHYT tại các đơn vị bên ngoài .44 2.2.9 Mối quan hệ giữa người mua, người bán và cơ sở khám chữa bệnh.48 2.2.10 Ảnh hưởng tình hình tài chính của các chủ thể tham gia BHYT .52 2.3 THÀNH TỰU VÀ KHÓ KHĂN .57 2.3.1 Thành tựu .57 2.3.2 Khó khăn 59 2.4 NGUYÊN NHÂN VÀ TỒN TẠI .60 2 4.1 Tồn tại .60 2.4.2 Nguyên nhân 62 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN BẢO HIỂM Y TẾ Ở VIỆT NAM .64 3.1 MỤC TIÊU .64 3.2 GIẢI PHÁP .67 3.2.1 Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa ba nhân tố chủ chốt .67 3.2.2 Mở rộng phương thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh, phương thức tham gia 73 Trang 4 3.2.3 Điều chỉnh mức phí Bảo hiểm y tế cho phù hợp .74 3.2.4 Quyền lợi của người tham gia Bảo hiểm y tế phải bình đẳng .74 3.2.5 Đổi mới cơ chế tài chính bệnh viện .75 3.2.6 Nâng cao năng lực của hệ thống Bảo hiểm xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý thực hiện .76 3.2.7 Các cơ sở khám chữa bệnh không đặt trọng tâm là lợi nhuận .77 3.2.8 Sớm xây dựng Luật Bảo hiểm y tế 78 3.2.9 Đổi mới công tác giám định chi .80 3.2.10 Quản lý giá thuốc .80 3.2.11 Thực hiện BHYT bắt buộc với học sinh, sinh viên .81 KẾT LUẬN .83 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

pdf98 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1768 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển và hoàn thiện hệ thống bảo hiểm y tế tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công ty thực hiện ở phạm vi hẹp như: bảo hiểm phẫu thuật nằm viện, bảo hiểm toàn diện cho học sinh. Với đại đa số người dân Việt Nam, bảo hiểm nói chung, BHYT nói riêng vẫn còn là lĩnh vực xa lạ. Do vậy, việc tuyên truyền giới thiệu chính sách này từ những người am hiểu là cần thiết. Đây là thách thức lớn cho đội ngũ những người làm bảo hiểm và là cơ hội để người dân được khám chữa bệnh công bằng thông qua hình thức BHYT. Hoạt động BHYT chịu sự tác động trực tiếp của thị trường lao động hay cụ thể hơn là việc làm và thu nhập của người lao động. Vì vậy, để đạt được mục tiêu BHYT toàn dân thì cần phải quan tâm đến vấn đề dân số, lực lượng lao động và thu nhập. - Dân số nước ta năm 2005 khoảng 82,1 triệu người và năm 2010 khoảng 88,4 triệu người. Tốc độ tăng dân số khoảng 1,02-1,05% năm. Dân số trong độ tuổi lao động năm 2005 đạt 51,9 triệu; năm 2010 đạt 57,2 triệu. Mức tăng dân số trong độ tuổi lao động hàng năm khoảng 1,1 triệu người (1,05% năm). Trang 71 - Lực lượng lao động cả nước năm 2005 đạt 42,7 triệu; năm 2010 đạt 48,2 triệu. Mức tăng lực lượng lao động hàng năm đạt từ 0,8-1,0 triệu người bằng 1,8-2%. - Tổng số người dự kiến được bố trí việc làm năm 2005 là 42,4 triệu người và năm 2010 là 47,8 triệu người. Lực lượng lao động trong nông thôn còn lớn, nhưng tỷ trọng có xu hướng giảm dần. Lực lượng lao động nông thôn năm 2005 đạt 31,4 triệu, chiếm tỷ trọng 66,5%; năm 2010 đạt 32,8 triệu người, chiếm tỷ trọng 61,5%. Cũng theo dự báo, lao động làm công ăn lương chỉ chiếm 22,8% - tương đương 9,27 triệu lao động năm 2004 và tăng lên 26,185 – tương đương 12,5 triệu lao động năm 2010- những người này thuộc diện tham gia BHYT bắt buộc . Trong khi đó từ năm 2004-2010 nước ta có từ 32 đến 35 triệu lao động (chiếm khoảng từ 73 đến 78% nguồn lao động xã hội) là lao động tự tạo việc làm, lao động tự do trong các ngành kinh tế khác nhau, nhất là trong nông, lâm, ngư nghiệp. + Hướng tới BHYT toàn dân: BHYT đóng vai trò quan trọng trong chăm sóc y tế, nhận thức được vấn đề này Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ “…thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe, tiến tới BHYT toàn dân”. Nghị quyết số 46- NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị tiếp tục khẳng định “…Phát triển BHYT toàn dân, nhằm từng bước đạt tới công bằng trong chăm sóc sức khỏe, thực hiện chia sẻ giữa người khỏe và người ốm, giàu với nghèo, người trong độ tuổi lao động với trẻ em, người già”. Đây là mục tiêu quan trọng hàng đầu mà Đảng, Nhà nước và mọi người dân đều mong muốn. Mọi người đều tham gia BHYT và được chia sẻ rủi ro, tổn thất với nhau, đặc biệt là những người thuộc diện nghèo khó. Mục tiêu này làm chính sách BHYT trở thành một chính sách nhân đạo, không vì mục đích lợi nhuận. Đất nước ta hiện nay tuy đạt được những bước phát triển đáng đánh dấu mốc, nhưng so với các nước khác thì thu nhập vẫn còn khiêm tốn, sự chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư thể hiện rõ nét trong cuộc sống hàng ngày. Do vậy, chi phí bỏ ra để thanh toán các khoản khám chữa bệnh cũng song song với thu nhập được hưởng, người có thu nhập cao hầu hết đều không màng đến tấm thẻ BHYT, họ tập Trang 72 trung khám bệnh tại các bệnh viện lớn và phòng tư của các bác sĩ tiếng tăm, còn những người nghèo, chính sách, hưu trí thì tấm thẻ BHYT như là tấm bùa hộ mệnh đối với họ. Mục tiêu BHYT toàn dân không những đạt được về diện rộng mà còn phải đảm bảo tính bền vững lâu dài và phải trở thành nhu cầu thiết yếu của mọi công dân. Để thực hiện được mục tiêu đầy nhân đạo này thì sự kết hợp của Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương ;sự đổi mới tầm nhận thức của các cơ sở khám chữa bệnh, sự nhiệt tình hoạt động của cơ quan Bảo hiểm xã hội và ý thức của người dân là sức mạnh. Ví dụ như sự chi Ngân sách của Nhà nước về y tế, sự tuyên truyền trong dân sâu rộng của cơ quan Bảo hiểm xã hội kết hợp với các đoàn thể tại địa phương, nâng cao thu nhập của người dân đồng thời tăng chi phí về BHYT để người dân được hưởng những dịch vụ hiện đại, cơ sở hạ tầng về y tế cũng cần được chỉnh trang cho đúng tiến trình phát triển, không còn tình trạng quá tải tại các bệnh viện, cơ sở y tế. + Hướng tới BHYT mọi người cùng có quyền lợi thụ hưởng như nhau: Theo đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới, Việt Nam đứng thứ 187/191 về tình trạng công bằng trong chăm sóc sức khỏe, gần cuối bảng xếp loại. Mọi người dân khi tham gia BHYT đều có quyền thụ hưởng như nhau, không phụ thuộc vào thu nhập của từng cá nhân. Để thực hiện được mục tiêu này thì chỉ Nhà nước mới đảm đương nổi, mục tiêu này rất đúng, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, là mục tiêu phi lợi nhuận. Do vậy, mục tiêu này rất khó thực hiện. Việt Nam là một trong số các quốc gia đông dân trên thế giới. Đến năm 2004, dân số Việt Nam lên tới trên 82 triệu người, với dân số trẻ chiếm đa số, trong đó số người chưa có BHYT hơn 70%. Nếu tiến tới mọi người dân đều tham gia và phải đều được hưởng mọi quyền lợi như nhau khi sử dụng thẻ BHYT để khám chữa bệnh thì gánh nặng về Ngân sách Nhà nước khi chi để thực hiện việc này rất không khả thi, cũng như cơ quan Bảo hiểm xã hội không đủ điều kiện, nhân lực,..để thực hiện tốt cả hai chính sách Bảo hiểm xã hội và BHYT. Cần chăng chia sẻ với các công ty bên ngoài với hình thức đấu thầu để chia sẻ bớt một phần gánh nặng, nhưng mục tiêu phi lợi nhuận sẽ bị phá bỏ, vì không ai kinh doanh lại không vì mục tiêu lợi nhuận cả. Vì vậy, nghiên cứu mục tiêu này trong dài hạn và đưa ra Trang 73 giải pháp để thực hiện là một mô hình khó cho Nhà nước lẫn cơ quan Bảo hiểm xã hội. 3.2 Giải pháp: Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị đưa ra giải pháp chung để thực hiện BHYT toàn dân với nội dung: “Xây dựng và thực hiện tốt lộ trình tiến tới BHYT toàn dân vào năm 2010. Tuyên truyền, giáo dục để mọi người dân tự nguyện tham gia BHYT. Đa dạng hóa các loại hình BHYT, chú ý các loại hình BHYT dựa vào cộng đồng. Tạo nguồn tài chính từ ngân sách Nhà nước, viện trợ, các quỹ từ thiện, quỹ cộng đồng, quỹ xóa đói giảm nghèo để trợ giúp cho người nghèo, người sống ở vùng sâu, vùng xa tham gia các loại hình BHYT phù hợp. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, củng cố tổ chức và nâng cao năng lực quản lý, điều hành của hệ thống BHYT. Có phương thức thanh toán phù hợp để người tham gia BHYT được chăm sóc với chất lượng tốt, không bị phân biệt đối xử trong khám chữa bệnh”. Từ giải pháp chung trên cộng với thực tế diễn tiến của việc thực hiện chính sách BHYT trên cả nước thì những giải pháp chi tiết cần quan tâm như sau: 3.2.1 Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa ba nhân tố chủ chốt: Để hoàn thiện và phát triển chính sách BHYT thì việc giải quyết mối quan hệ giữa Cơ quan Bảo hiểm xã hội, Cơ sở khám chữa bệnh và bệnh nhân BHYT là ưu tiên hàng đầu. Do vậy, tự thân của mỗi chủ thể trong quan hệ về BHYT này phải vận động không ngừng theo những biện pháp riêng của mình. Nhìn lại mối quan hệ giữa BHYT và người tham gia BHYT sẽ thấy: + Đây không phải là quan hệ xin – cho hoặc ban phát mà là quan hệ sòng phẳng, thuận mua vừa bán, vì khi đóng tiền mua BHYT, người tham gia BHYT trở thành thân chủ của BHYT. + Trong quan hệ trên thì BHYT phải phục vụ thân chủ của mình tốt hơn. Nhưng trên thực tế điều này chưa thực hiện được. Để giải quyết hài hòa được mối quan hệ sòng phẳng này thì mỗi chủ thể tham gia vào quan hệ phải tự thân vận động, cải cách bản thân mình. Cụ thể: Trang 74 3.2.1.1 Cơ quan Bảo hiểm xã hội: Với tư cách là người đại diện cho quyền lợi và lợi ích của người tham gia BHYT, người bán sản phẩm BHYT thì phải tự cải tiến theo những giải pháp như sau: Cải cách trong nội bộ: Cơ quan Bảo hiểm xã hội phải nghiên cứu và phối hợp với các Ban, ngành khác như Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Tài chính đưa ra được những chính sách hoặc trình cấp cao hơn (Chính phủ) để đưa ra được những Nghị định, thông tư hướng dẫn rõ ràng, hợp với ý nguyện của nhân dân nhưng vẫn đảm bảo cho Quỹ khám chữa bệnh hoạt động hiệu quả, không còn tình trạng bội chi,…Muốn vậy, từ phía cơ quan Bảo hiểm xã hội phải cải cách từ bên trong, từ đội ngũ cán bộ làm công tác giám định chi như tập huấn nghiệp vụ không chỉ làm công tác giám định mà còn phải tham mưu, tư vấn từ thực tế cho lãnh đạo, song song đó phải từng bước cải cách, nâng cao thu nhập của họ; sau đó khảo sát tình hình thực tế của người dân khám chữa bệnh đưa ra được những sản phẩm cạnh tranh không thể chung chung khám chữa bệnh sàn cho tất cả mọi người được. Ví dụ: chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo đã có, vậy chính sách khám chữa bệnh cho những đối tượng còn lại thì sao? Cần cụ thể và chi tiết hơn. Công tác tuyên truyền chính sách BHYT cũng chẳng kém phần quan trọng, cơ quan Bảo hiểm xã hội đang rất yếu kém trong vấn đề này, cần tuyên truyền rộng rãi, nhất là BHYT tự nguyện đến từng hộ gia đình, từng em học sinh, từng anh đạp xích lô hay chị lao công,…phối hợp với các cơ quan, ban ngành khác để rà soát nhằm nắm bắt đối tượng có thu nhập thuộc diện tham gia BHYT bắt buộc theo quy định, nếu thực hiện tốt sẽ khai thác thêm nhiều đối tượng tham gia và gia tăng nguồn thu BHYT. Cụ thể như sau: ¾Công tác tuyên truyền cần phải thường xuyên, liên tục, sâu rộng với nhiều hình thức phong phú và cách tiếp cận khác nhau như: báo đài, truyền hình,lập các kênh thông tin riêng của cơ quan Bảo hiểm xã hội. ¾Hình thành kênh thông tin trực tiếp đến người lao động- những người mua BHYT, phải làm cho mỗi người dân hiểu rõ ý nghĩa to lớn và quyền được tham gia BHYT của mình để người dân có trách nhiệm khi tham gia BHYT ¾ Chính quyền các cấp cũng cần được thông tin để có trách nhiệm đầy đủ với thực trạng tuân thủ chính sách BHYT. Trang 75 ¾Hợp tác thường xuyên và chặt chẽ với các cơ quan truyền thông đại chúng, vì đây là công cụ đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện công tác tuyên truyền chính sách BHYT đến người dân. Về quản lý tài chính Quỹ BHYT: thanh quyết toán chi phí khám chữa bệnh đòi hỏi phải đảm bảo chặt chẽ về mặt thủ tục. Cơ quan Bảo hiểm xã hội cần nghiên cứu cải cách hành chính trong thủ tục thanh toán BHYT theo hướng chặt chẽ, gọn nhẹ, rõ ràng nhưng không gây phiền hà; thường xuyên giám sát, kiểm tra chất lượng dịch vụ y tế mà bệnh viện cung cấp, kiểm tra cả chi phí và chất lượng chuyên môn. Cơ quan Bảo hiểm xã hội cần học tập kinh nghiệm các nước trên thế giới về vấn đề giám sát chất lượng dịch vụ y tế vì ở nước ngoài có hẳn một bộ phận chuyên giám sát những chỉ định của bác sĩ , nếu những chỉ định nào không đúng, không hợp lý mà bệnh viện không lý giải được thì bệnh viện phải chịu về số chi phí đó, do hiện nay tại nước ta những chỉ định của bác sĩ chưa được giám sát chặt nhất là những cơ sở y tế ngoài công lập vì khi bác sĩ lạm dụng chỉ định cho chụp CT, xét nghiệm chuyên sâu hoặc “phóng tay” cho nhiều loại thuốc đắt tiền thì quỹ BHYT phải thanh toán những phần này, vỡ quỹ là điều khó tránh khỏi. Muốn thực hiện tốt việc quản lý tài chính quỹ BHYT thì cần phải nghiên cứu để tin học hóa toàn bộ quá trình quản lý chi phí khám chữa bệnh có sự liên kết, kết nối dữ liệu ngay từ khâu khai thác, phát hành thẻ BHYT, phân bổ quỹ khám chữa bệnh, giám định chi phí khám chữa bệnh và thanh quyết toán với cơ sở khám chữa bệnh. Phần mềm giám định chi phí khám chữa bệnh tại cơ sở khám chữa bệnh cần có sự kết hợp với ngành Y tế để tạo sự thống nhất giữa hai cơ quan. Danh mục chi trả: Cơ quan Bảo hiểm xã hội nên thường xuyên cập nhật hóa danh mục chi trả để sát thực tế, tư vấn một cách sát thực, tránh tình trạng bội chi, không đảm bảo quyền lợi cho người tham gia BHYT. Việc nghiên cứu sản phẩm “ thẻ từ BHYT” cũng là một giải pháp cần quan tâm do thực tế số lượng bệnh nhân đông và mã thẻ, ký hiệu trên thẻ lại nhiều dễ dẫn đến sự sai sót khi nhập dữ liệu, làm báo cáo là nguyên nhân cho việc tính chi phí thanh quyết toán khám chữa bệnh sai, tổn thất xảy ra là điều khó tránh khỏi. Và tấm “thẻ từ BHYT” này phải có giá trị lưu hành trên toàn quốc, thông qua tấm thẻ từ BHYT thì chủ thẻ có thể đến khám chữa bệnh ở bất kỳ bệnh viện nào có ký hợp đồng Trang 76 khám chữa bệnh với cơ quan Bảo hiểm xã hội thuận lợi cho điều kiện sinh hoạt và công tác của họ. Mở rộng đối tượng tham gia BHYT, quan tâm nhiều hơn đến đối tượng tự nguyện. Từ khi có Nghị định 63 thì đã triển khai được đối tượng BHYT bắt buộc tham gia đông do doanh nghiệp có 1 lao động cũng phải tham gia BHYT. Đặc điểm lớn nhất của Việt Nam là 2/3 dân số là nông dân, nông nghiệp là ngành nghề chủ yếu; điều kiện sống cũng như thu nhập của đại bộ phận dân cư này thấp dẫn đến nguy cơ bệnh tật là điều hiển nhiên, nhất là những bệnh nan y, hiểm nghèo, chưa kể đến những vùng đất trên đất nước ta còn bị di chứng của chiến tranh để lại hậu quả nặng nề như nhiễm chất độc màu da cam hay những bệnh có liên quan tới nguồn nước nhiễm xạ, khuẩn. Vì vậy, để tiến tới được ngưỡng cửa thực hiện BHYT toàn dân thì những đối tượng như nông dân, người làm nông nghiệp,…phải tuyên truyền đến từng người và khai thác tham gia triệt để. Muốn làm được điều này thì việc thay đổi mức phí, sự hỗ trợ của Nhà nước, các cơ quan đoàn thể sẽ là động lực thực hiện để những đối tượng trên được tham gia BHYT ở những hình thức phù hợp thông qua những hình thức như trích một phần ngân sách địa phương, vận động sự tài trợ của các cơ quan doanh nghiệp trên địa bàn, các tổ chức quốc tế. Ngoài ra, những người lao động tự do tại Việt Nam cũng không ít như những anh thợ hớt tóc, những chị làm móng tay, chân, những người làm việc theo hợp đồng khoán, những người không đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú do công việc chưa ổn định,…những đối tượng này thu nhập không cao và khó quản lý thu nhập của họ, chưa có tổ chức nào quản lý cả; Vì thế, cơ quan Bảo hiểm xã hội cũng cần nghiên cứu, khảo sát nhóm đối tượng này để giúp họ có điều kiện chăm sóc bản thân, bảo vệ khỏi bệnh tật và hoàn thiện chính sách nhân đạo BHYT. Cộng thêm vào là phần lợi ích mà họ được hưởng ngoài khám chữa bệnh khi có bệnh thì đối với những đối tượng vùng sâu, vùng xa, vùng núi, điều kiện đi lại khó khăn thì cơ quan Bảo hiểm xã hội phải tính đến việc quy định cho những đối tượng này được hưởng khám chữa bệnh định kỳ sức khỏe ít nhất một lần một năm. Đầu tư công tác y tế dự phòng: “phòng bệnh hơn chữa bệnh” là câu nói từ đời xưa nhưng đến nay giá trị của nó không đổi và vĩnh hằng. Cơ quan Bảo hiểm xã hội cần quan tâm đến vấn đề này bằng những biện pháp cụ thể như sau: Trang 77 + Thực hiện việc trích lại một phần quỹ khám chữa bệnh tại những cơ quan có số lượng lao động lớn (trên 500 lao động) (trước kia là trích lại 5% tổng số tiền nộp BHYT cả năm) và trường học để thực hiện việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho học sinh, sinh viên. + Đầu tư cho công tác tuyên truyền những căn bệnh phổ biến thông thường như cảm cúm, đau bao tử, …và vệ sinh an toàn tránh nhiễm bệnh 3.2.1.2 Cơ sở khám chữa bệnh: khi khám chữa bệnh cho bệnh nhân BHYT, cơ sở khám chữa bệnh có trách nhiệm khám, điều trị theo đúng chuyên môn và y đức ngành y, đồng thời tuân thủ các quy định về quyền lợi BHYT. Cụ thể như sau: Tập huấn cho đội ngũ y bác sĩ về chính sách BHYT, không để tình trạng bệnh nhân BHYT vào khám bệnh thì thái độ của các y bác sĩ thay đổi hoàn toàn, thiếu sự nhiệt tình, khám qua loa, kê đơn thuốc cho có, thiếu trình độ chuyên môn (đặc biệt là các cơ sở y tế tuyến dưới), bởi vì quan hệ giữa cơ sở khám chữa bệnh và người tham gia BHYT khi đi khám chữa bệnh là quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân. Cơ sở khám chữa bệnh và cơ quan Bảo hiểm xã hội cũng cần phối hợp nhịp nhàng trong việc cung cấp số liệu giữa hai bên để việc định lượng được số lượng thuốc, quỹ khám chữa bệnh luôn ứng phó kịp thời, tránh tình trạng bội chi,.. Tăng cường cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế cho tuyến cơ sở là điều cần thiết cần tập trung bây giờ. Chấn chỉnh công tác dược bệnh viện: cần chấn chỉnh các nhà thuốc tại bệnh viện, giá thuốc cung ứng trong bệnh viện phải thấp hơn giá thị trường cùng thời điểm, không bán thuốc ở khoa, phòng khám, thực hiện nghiêm túc các quy định sử dụng hợp lý, an toàn về thuốc, quy chế kê đơn và bán thuốc theo đơn. Các cơ sở khám chữa bệnh cần thực hiện tốt chức năng tham mưu xây dựng giá viện phí và triển khai các văn bản hướng dẫn liên quan đến chính sách BHYT, chủ động trong việc ký hợp đồng khám chữa bệnh BHYT với cơ quan Bảo hiểm xã hội. Song song đó, các cơ sở khám chữa bệnh cần có biện pháp kiểm soát việc chống lạm dụng thuốc, vật tư y tế và các dịch vụ không cần thiết, nhất là xét nghiệm, chẩn đoán đồng thời thực hiện nghiêm chỉnh việc chuyển tuyến , chuyển Trang 78 viện cho bệnh nhân BHYT theo quy định phân tuyến điều trị hiện hành, không được giữ người bệnh vì lý do chi phí. Tinh gọn quy trình khám chữa bệnh BHYT: hiện nay quy trình khám chữa bệnh đối với người có thẻ BHYT vẫn còn phức tạp gây tình trạng quá tải ở những bệnh viện lớn; vì vậy các cơ sở khám chữa bệnh cần nghiên cứu phối hợp với Giám định viên tại bệnh viện đưa ra quy trình đơn giản hơn. Có thể đưa ra tham khảo quy trình: Khâu tiếp nhận: 1. Thẻ BHYT 2. Giấy CMND 3. Giấy chuyển viện 4. Sổ khám bệnh 5. Phát số thứ tự 6. Thu phí KCB (bệnh viện tư) Phòng khám bệnh: Bác sĩ khám Xét nghiệm, siêu âm Quầy thuốc và Thu phí: - Cấp thuốc trong danh mục - Bán thuốc ngoài danh mục Đủ khả năng điều trị Không đủ khả năng: chuyển viện Về (có sổ khám bệnh kèm thêm giấy chuyển viện nếu bệnh cần chuyển) (3) (6) (4) (5) (1) (2) Chưa biết nguyên nhân Biết nguyên nhân Bệnh nhân đến Để đơn giản và giảm thời gian chờ đợi, đi lại từ khâu này qua khâu khác thiết nghĩ nơi cấp thuốc và thu phí nên chung một nơi, không nên chia tách, nếu cơ sở khám chữa bệnh nào thường xuyên có số lượng bệnh nhân nhiều thì nên có từ hai đến 3 quầy thuốc và thu phí chung một phòng. Mỗi cơ sở khám chữa bệnh (nhất là những bệnh viện lớn) cần có một khu vực riêng để đón tiếp nhân có thẻ BHYT, khu vực riêng dành cho bệnh nhân thu viện phí để vừa dễ quản lý vừa tránh tâm lý đối xử không chu đáo với bệnh nhân BHYT Trang 79 3.2.1.3 Bệnh nhân BHYT: đối với đối tượng này ý thức trong khám chữa bệnh là quan trọng nhất, sau khi họ hiểu được chính sách BHYT của Nhà nước là chính sách nhân đạo, vì dân thì thái độ của họ sẽ khác; sẽ không còn khai gian bệnh để lấy thuốc cho người không có thẻ, họ sẽ vận động người thân tham gia,…và hơn cả là ổn định được cuộc sống để phục vụ cho công việc tốt nhất. Khi đi khám chữa bệnh sử dụng thẻ BHYT bị đối xử thiếu công bằng thì người tham gia BHYT cần lên tiếng để bảo vệ quyền lợi của mình cũng như giúp cải thiện môi trường y học. 3.2.2 Mở rộng phương thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh, phương thức tham gia: Hiện nay đang áp dụng hình thức thanh toán theo phí dịch vụ ( như phần 2 đã đề cập). Phương thức thanh toán này bộc lộ nhiều khuyết điểm như dễ dẫn đến vỡ quỹ khám chữa bệnh, tình trạnng bội chi, cơ sở khám chữa bệnh không tiết kiệm được chi phí. Cần áp dụng nhiều phương thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh khác như thanh toán theo định suất ,…nhằm tạo lập quyền chủ động cho cơ quan Bảo hiểm xã hội cũng như cơ sở khám chữa bệnh, nâng cao trách nhiệm của bệnh viện và chất lượng cung cấp dịch vụ y tế cho mọi đối tượng tham gia BHYT. Cơ chế thanh toán giữa cơ quan Bảo hiểm xã hội với các cơ sở khám chữa bệnh cần xác định rõ ràng. Không nên khống chế nguồn chi đối với các cơ sở khám chữa bệnh ( dễ dẫn đến việc khám bệnh hình thức, không đủ liều, thuốc qua loa như thực tế dư luận phản ánh) Các phương thức cần nghiên cứu để thay thế phương thức thanh toán theo phí dịch vụ mà các nước trên thế giới đang áp dụng: ™ Thanh toán theo định suất với những quy định công bằng hơn. Quỹ phải được khoán hợp lý ở nơi đăng ký ban đầu, được tính toán đầy đủ, có tính đến trình độ chuyên môn của từng tuyến điều trị, tính đến cơ cấu đối tượng đăng ký ban đầu, quỹ được chuyển kịp thời cho bệnh viện tự quản lý chi tiêu. ™ Thanh toán theo định mức ngân sách ™ Thanh toán theo chẩn đoán (Nhật Bản đang áp dụng) ™ Kết hợp nhiều phương thức thanh toán cho từng nhóm đối tượng khám chữa bệnh nội trú và ngoại trú. Muốn thực hiện được sự đa dạng hóa phương Trang 80 thức này thì phải làm thí điểm tại một số địa phương chọn lọc theo vùng trên cơ sở khảo sát hướng khám chữa bệnh của nhân dân và của các nhóm đối tượng. Phương thức tham gia cũng cần điều chỉnh mở rộng hơn trong BHYT tự nguyện, không nên khống chế phần trăm tham gia trong hộ gia đình. Vì mục tiêu là hướng tới BHYT toàn dân nên ai có nhu cầu tham gia thì nên đáp ứng. Việc này không dễ nhưng thiết nghĩ phải cố gắng thực hiện và phải thực hiện đồng bộ với việc phát hiện gian lận trong khám chữa bệnh, có bệnh thì mới chữa và cấp thuốc, không bệnh thì từ chối thẳng; vì nếu chúng ta mở rộng phương thức tham gia, không khống chế mà nhiều người cùng tham gia thì nguy cơ gian lận trong khám chữa bệnh, lợi dụng tấm thẻ BHYT rất cao 3.2.3 Điều chỉnh mức phí BHYT cho phù hợp: Hiện nay mức phí thu từ BHYT cho người tham gia BHYT bắt buộc là 3% lương phụ cấp được hưởng (hay 3% thu nhập thường xuyên đối với lao động ngoài quốc doanh), BHYT tự nguyện thực hiện thu mức phí theo TT06/2007/TTLT-BYT-BTC ngày 30/03/2007 Mức đóng BHYT ở hai khu vực BHYT bắt buộc và BHYT tự nguyện chênh lệch quá lớn, chưa đáp ứng được so với nhu cầu chi phí thực tế. Điều chỉnh mức phí cho phù hợp là điều kiện cần thiết để đảm bảo cho mọi người dân tham gia BHYT được hưởng những dịch vụ kỹ thuật tiên tiến trong điều kiện kỹ thuật y tế ngày một hiện đại , nâng cấp. Ta thấy sự bất hợp lý xảy ra khi mà quyền lợi khám chữa bệnh như nhau nhưng mức đóng BHYT tự nguyện chỉ bằng một nửa hoặc có nhóm tự nguyện chỉ bằng một phần ba mức đóng của BHYT bắt buộc, riêng người nghèo thì mức đóng chỉ bằng một phần sáu mức đóng của đối tượng bắt buộc. Vì vậy, việc tính mức phí phải dựa trên cơ sở khoa học để đảm bảo khả năng chi trả và điều kiện tham gia đủ để hạn chế hiện tượng lựa chọn ngược. Nhà nước cần hỗ trợ cho người nông dân một phần mức phí, giúp người nông dân làm quen với chính sách BHYT và giảm bớt khó khăn khi họ và gia đình tham gia BHYT tự nguyện. 3.2.4 Quyền lợi của người tham gia BHYT phải bình đẳng: Việc phân biệt đối xử của các y bác sĩ tại các cơ sở khám chữa bệnh đối với bệnh nhân BHYT khá phổ biến. Vì vậy, hiện tại và tương lai các cơ sở y tế phải Trang 81 huấn luyện tư tưởng cho tập thể y, bác sĩ, trách nhiệm của họ trong khám chữa bệnh làm sao cho quyền lợi của người tham gia phải được khám chữa bệnh bình đẳng theo yêu cầu của tình trạng bệnh tật, không phụ thuộc vào số tiền đóng góp. Quyền lợi bình đẳng giữa những người tham gia BHYT chính là đặc trưng cơ bản nhất để phân biệt BHYT và bảo hiểm thương mại. Để thực hiện tốt điều này thì nên chăng Quỹ BHYT chi trả chi phí khám chữa bệnh cho người tham gia các chi phí dịch vụ y tế cơ bản như thu phí thủ thuật, phẫu thuật, các chi phí trực tiếp cho người bệnh, còn các chi phí vật tư y tế đắt tiền sẽ thanh toán thống nhất theo một mức trần chung cho tất cả những người tham gia BHYT; Cụ thể là điều chỉnh có hệ thống quyền lợi của người tham gia BHYT nhất là vấn đề chi trả chi phí khám chữa bệnh, xây dựng khung chế độ BHYT cơ bản, gói dịch vụ y tế cơ bản , còn các dịch vụ y tế khác sẽ được chi trả nếu tham gia các loại hình BHYT bổ sung ( khác); loại hình BHYT bổ sung này phải do tư nhân thành lập, hỗ trợ. Do vậy, để thực hiện thì phụ thuộc vào nguồn thu BHYT nên ngoài nguồn thu từ hoạt động BHYT cơ bản còn có nguồn thu từ BHYT bổ sung, tránh tình trạng “ gián tiếp bao cấp” khi quỹ khám chữa bệnh bội chi, thực hiện tốt mục tiêu xã hội hóa BHYT. Các tiêu chí để đánh giá chất lượng khám chữa bệnh công bằng: + Mọi người dân phải được tiếp cận các dịch vụ y tế + Dịch vụ y tế phải được cung cấp dựa theo nhu cầu chứ không phải theo khả năng chi trả. + Mọi người dân không phải từ bỏ các nhu cầu thiết yếu khác (ăn, học,…) để trả cho dịch vụ y tế. + Mọi sự cắt giảm trong sử dụng dịch vụ phải liên quan đến giảm “cầu không cần thiết” chứ không phải do gánh nặng về tài chính. + Người nghèo phải nhận được cùng một chất lượng dịch vụ như là người không nghèo. Tóm lại thì điều chỉnh quyền lợi BHYT phải thực hiện song hành với tăng mức đóng BHYT thông qua nhiều yếu tố liên quan về kinh tế, xã hội, ngân sách. 3.2.5 Đổi mới cơ chế tài chính bệnh viện: Trang 82 Mục tiêu của giải pháp này là tạo quyền chủ động về tài chính cho các cơ sở y tế theo nguyên tắc lấy thu bù chi. Ưu tiên đầu tư cho chăm sóc sức khỏe cho nhân dân từ ngân sách Nhà nước và hạn chế dần việc cấp kinh phí từ Ngân sách Nhà nước đến bệnh viện, chuyển dần nguồn kinh phí này hỗ trợ mua thẻ BHYT cho các đối tượng như người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, diện chính sách, học sinh, sinh viên, nông dân; bên cạnh đó tập trung Ngân sách Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất cho các y tế cơ sở nhất là y tế cơ sở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo. Cần phải sửa đổi cơ chế thu một phần viện phí, thu đủ chi phí khám chữa bệnh nhằm giảm sự bao cấp tràn lan trong chăm sóc sức khỏe; trên cơ sở đó huy động được sự đóng góp của những người có điều kiện kinh tế. Nâng giá viện phí lên sẽ tác động thúc đẩy nhiều người tham gia và người nghèo cũng sẽ ít bị ảnh hưởng do có Nhà nước hỗ trợ. Giao quyền tự chủ về tài chính cho cơ sở khám chữa bệnh trong việc phân bổ sử dụng nguồn thu để sử dụng trong chi phí quản lý, đầu tư xây dựng và mua sắm trang thiết bị, gắn việc tăng nguồn thu với việc tăng thu nhập nhân viên ngành y tế. Việc chuyển đổi cơ chế tài chính như trên sẽ khắc phục được sự phân biệt đối xử trong khám chữa bệnh, cơ sở khám chữa bệnh tự chủ và năng động trong việc tính toán sử dụng hiệu quả nguồn thu , việc gắn nguồn thu với thu nhập của ngành y tế sẽ nâng cao chất lượng thái độ phục vụ của nhân viên ngành y tế, các cơ sở khám chữa bệnh sẽ chú trọng đến việc đầu tư trang thiết bị, mở rộng nâng cao chất lượng thu hút bệnh nhân đến khám chữa bệnh. 3.2.6 Nâng cao năng lực của hệ thống Bảo hiểm xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý thực hiện: Khi hai cơ quan Bảo hiểm xã hội và BHYT sáp nhập đầu năm 2003 thì gánh nặng đè lên vai một cơ quan chủ quản mới là Bảo hiểm xã hội, cùng lúc quản lý hai hình thức Bảo hiểm xã hội và BHYT, mỗi hình thức có một sự phức tạp khác nhau. Thực tế đã chứng minh sự bội chi trong thời gian qua, một phần nguyên nhân là do năng lực của hệ thống Bảo hiểm xã hội vẫn chưa rõ ràng, chưa có đủ quyền lực để điều chỉnh những vướng mắc, tồn tại phát sinh. Muốn ra một điều Trang 83 chỉnh nào về lĩnh vực của mình quản lý thì cơ quan Bảo hiểm xã hội phải trình Chính phủ và các Bộ ngành liên quan, nên đến khi trình được thì thời gian đã qua, sự phù hợp không còn khả thi và lúc đó lại phát sinh những vấn đề phức tạp khác. Rõ ràng cơ quan Bảo hiểm xã hội chỉ là cơ quan thực hiện, không có quyền xử phạt,..chỉ có quyền kiến nghị, hoặc tham gia đoàn kiểm tra liên ngành kiến nghị những cơ quan chức năng kiểm tra và xử phạt. Vì vậy, việc trốn đóng BHYT còn khá phổ biến ở các đơn vị ngoài quốc doanh. Ở các tỉnh, thành phố thì mối quan hệ giữa cơ quan Bảo hiểm xã hội và Sở y tế chỉ dừng lại ở một bên là đơn vị nhận cung ứng dịch vụ và một bên thanh toán một phần chi phí cho dịch vụ để đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho người tham gia thông qua Hợp đồng khám chữa bệnh, dẫn đến tình trạng còn cơ sở y tế từ chối ký hợp đồng khám chữa bệnh BHYT, nhận đăng ký khám chữa bệnh BHYT có sự lựa chọn đối tượng hoặc hạn chế nhận bệnh nhân, việc thống nhất giá dịch vụ kỹ thuật cao phục vụ bệnh nhân BHYT rất khó khăn. Trong quản lý thực hiện thì các nguồn đóng góp của BHYT được quản lý tập trung, nhưng hạch toán riêng theo từng nhóm như quỹ BHYT bắt buộc, quỹ BHYT tự nguyện, quỹ BHYT cho người nghèo nhằm kiểm tra mức đóng và khả năng chi trả chung của từng nhóm để có sự điều chỉnh mức đóng những năm tiếp theo. Tuy nhiên, sẽ có sự điều chỉnh kịp thời giữa các nhóm đối tượng tham gia BHYT khi có sự thiếu hụt quỹ của một nhóm đối tượng nào đó, không để tình trạng người bệnh của nhóm đó bị hết quỹ mà không được khám chữa bệnh. 3.2.7 Các cơ sở Khám chữa bệnh không đặt trọng tâm là lợi nhuận: Chính sách BHYT là chính sách nhằm chăm sóc sức khỏe người dân tốt nhất, không vì mục tiêu lợi nhuận, là chính sách xã hội. Vì vậy, nếu cơ sở khám chữa bệnh nào đã ký hợp đồng khám chữa bệnh với cơ quan Bảo hiểm xã hội thì mục tiêu đạt lợi nhuận từ hình thức này khó xảy ra. Thực tế đã chứng minh điều này. Như phần hai đã phân tích thì các doanh nghiệp bên ngoài kinh doanh thị phần bảo hiểm sức khỏe chiếm tỷ lệ chưa cao nhưng đa dạng về hình thức như bảo hiểm sức khỏe toàn diện, bảo hiểm sức khỏe cho giáo viên, bảo hiểm sức khỏe gia đình,…Vì vậy, cơ quan Bảo hiểm xã hội cần sớm thành lập doanh nghiệp chuyên Trang 84 kinh doanh về BHYT; doanh nghiệp này sẽ phải thu thập thông tin, tham khảo đối tượng tham gia bảo hiểm sức khỏe tại các đơn vị bên ngoài để đưa ra những hình thức thích hợp nhằm kéo các đối tượng này về tham gia BHYT tự nguyện bổ sung ngoài phần BHYT bắt buộc. Muốn thực hiện được thì cải tiến quy trình cấp thẻ, mức phí phù hợp, cạnh tranh công bằng, liên kết với cơ sở khám chữa bệnh thay đổi quy trình khám bệnh và thanh toán. Thành lập doanh nghiệp chuyên kinh doanh về BHYT vẫn giữ được tính chất truyền thống của BHYT là mục đích an sinh khó nhưng vẫn có thể làm được. Lý do: - Trong nhân dân có người giàu, người nghèo. Nếu thành lập được doanh nghiệp chuyên kinh doanh BHYT thì doanh nghiệp này sẽ chuyên về lĩnh vực BHYT và sẽ dùng những hình thức phù hợp để vận động được những người giàu tham gia BHYT tự nguyện, bổ sung từ đó góp phần san sẻ gánh nặng rủi ro, vì những đối tượng này nguy cơ bệnh tật không nhiều. - Doanh nghiệp này sẽ kinh doanh những dịch vụ BHYT bổ sung ngoài phần BHYT căn bản đã đề cập ở phần trên; vì cơ quan Bảo hiểm xã hội cùng lúc thực hiện nhiều công việc thì sẽ không thể chuyên môn hóa công việc nào được (ví dụ: thu BHYT, kiểm tra tình hình chi BHYT tại các bệnh viện, theo dõi danh mục thuốc, ….) nên cần thiết phải có doanh nghiệp chia bớt rủi ro, cạnh tranh cùng các đơn vị bên ngoài. - Rà soát những cá nhân sử dụng hai thẻ BHYT bắt buộc và tự nguyện để nhập thành một thẻ ( ví dụ: thẻ BHYT VIP) mang đặc điểm riêng phân biệt với thẻ BHYT có trước. Biến đổi hình thức thì phải kèm theo nội dung, chất lượng. Nghĩa là phải có những chế độ ưu tiên khi sử dụng thẻ BHYT VIP như mức thanh toán dịch vụ kỹ thuật cao tối đa hiện nay là 20 triệu đồng thì khi sử dụng thẻ BHYT VIP thì mức thanh toán tối đa sẽ cao hơn; hay khi điều trị nội trú thì được ưu tiên hơn, khi đi khám chữa bệnh trình thẻ thì được khám nhanh, thanh toán tận nơi,… Tựu chung lại thì doanh nghiệp chuyên kinh doanh BHYT sẽ hướng tới những đối tượng có thu nhập cao, người giàu và cung cấp những dịch vụ chuyên nghiệp, đa dạng về bảo hiểm sức khỏe vừa đảm bảo thực hiện chính sách an sinh, san sẻ rủi ro vừa làm tròn vai trò kinh doanh của mình khi cung cấp được hàng hóa tốt theo khuynh hướng “thuận mua, vừa bán”, hướng đến chất lượng phục vụ. Trang 85 3.2.8 Sớm xây dựng Luật BHYT: Trên thực tế vi phạm pháp luật BHYT diễn ra phổ biến qua các hình thức: - Hành vi gian lận BHYT từ khâu tham gia đến khâu hưởng quyền lợi BHYT (như bác sĩ và bệnh nhân thông đồng lấy thuốc ra ngoài bán, một người tham gia BHYT có nhiều thẻ BHYT cùng lúc do quen biết cán bộ làm công tác cấp thẻ) - Chiếm dụng tiền đóng BHYT hoặc trốn đóng BHYT cho người lao động của các đơn vị sử dụng lao động trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. - Chậm làm các thủ tục để có thẻ kịp thời cho người mua BHYT ảnh hưởng đến sức khỏe và quyền lợi của người tham gia. Ngoài vi phạm pháp luật BHYT thì các quy định về BHYT tự nguyện còn chắp vá chưa đáp ứng mục tiêu đề ra, những bất cập trong quy định về địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật BHYT Vì vậy, muốn đạt được mục tiêu BHYT toàn dân, muốn mang lại quyền bình đẳng cho những người tham gia BHYT thì nhiệm vụ đưa ra những chế tài hay hoàn thiện pháp luật BHYT đang là vấn đề cấp bách hiện nay. Xây dựng Luật BHYT cần bổ sung và hoàn thiện những điều sau: - Trách nhiệm pháp lý của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật BHYT bao gồm: cơ quan Bảo hiểm xã hội, cơ sở khám chữa bệnh, người mua BHYT. - Quy định về chế định hợp đồng khám chữa bệnh BHYT. Vì hợp đồng khám chữa bệnh BHYT được ký kết giữa cơ quan Bảo hiểm xã hội (người bán BHYT, người đại diện cho quyền và lợi ích của người mua) và cơ sở khám chữa bệnh (đơn vị cung ứng dịch vụ y tế) vì lợi ích của bên thứ 3 (người mua BHYT). Đây là nội dung quan trọng mà pháp luật BHYT hiện hành chưa có quy định cụ thể. - Quy định chế tài áp dụng cho những hành vi vi phạm và gian lận về BHYT. Các chế tài có thể áp dụng là trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hành chính và thậm chí cả trách nhiệm hình sự. Pháp luật nhiều nước quy định chủ doanh nghiệp trốn đóng BHYT có thể bị phong tỏa tài khoản, … thậm chí có thể bị khởi tố khi vi phạm nghĩa vụ đóng BHYT. Như vậy khi xây dựng luật BHYT cần xuất phát từ thực trạng về điều kiện và các vấn đề đặt ra trong chăm sóc y tế song hành với việc nghiên cứu, tham khảo có Trang 86 chọn lọc kinh nghiệm pháp luật của các nước và vận dụng phù hợp với thực tiễn Việt Nam. 3.2.9 Đổi mới công tác giám định chi: Như phần 2 về thực trạng công tác giám định chi chúng ta đã thấy công việc giám định có khâu rất phức tạp như xem bệnh án có đúng không, đối chiếu danh mục thuốc,..do đó, đổi mới công tác này cũng cần làm ngay, là một mắc xích quan trọng trong tiến tới BHYT toàn dân. Cụ thể: + Phân công cán bộ Giám định phải đảm bảo tính công bằng, ổn định; nếu người có kinh nghiệm nhiều thì nên phân công tại những bệnh viện quá tải bệnh nhân BHYT để họ có thể giải quyết công việc nhanh chóng. + Thực hiện luân chuyển Giám định viên từ bệnh viện này đến bệnh viện khác tránh tình trạng thông đồng cùng bệnh viện. + Nâng cao trình độ chuyên môn của Giám định viên thông qua những khóa đào tạo về y tế. 3.2.10 Quản lý giá thuốc: Như đã phân tích ở phần 2 thì giá thuốc ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng khám chữa bệnh cũng như quỹ BHYT, vì thế việc cần thiết là phải quản lý giá thuốc một cách chặt chẽ, việc làm này đòi hỏi phải có sự kết hợp của nhiều bên liên quan, nhất là từ phía cơ quan công quyền, nhà nước: + Cần xóa bỏ độc quyền trong nhập khẩu thuốc, song song sản xuất thuốc theo hợp đồng và chấn chỉnh công tác xét duyệt nhập khẩu thuốc theo nguyên tắc đảm bảo thông thoáng, công khai, kịp thời và dân chủ. + Kiểm soát chặt giá thuốc trên thị trường, khu vực để từ đó đưa ra giá cả hợp lý chung cho các cơ sở kinh doanh thuốc trên phạm vi toàn quốc, thực hiện nghiêm quy chế kê bán thuốc theo đơn. + Ban hành khung giá bán lẻ thuốc thiết yếu và Nghị định quản lý giá thuốc + Sửa đổi quy chế đấu thầu cung ứng thuốc cho bệnh viện, phải thực hiện công khai, rộng rãi, không phân biệt các thành phần kinh tế. Hiện nay việc cung ứng thuốc cho bệnh viện thông qua tổ chức đấu thầu, chỉ định thầu. Do vậy, ngoài những bệnh viện lớn như Chợ Rẫy, Hữu Nghị...đảm bảo cung ứng 100% loại thuốc Trang 87 cho người bệnh, còn đa phần các bệnh viện, trung tâm y tế xã, phường do công ty dược phẩm tỉnh cung ứng hoặc phải đi mua thuốc với giá khác nhau tùy thuộc vào kinh tế xã hội vùng khác nhau. + Tuyên truyền, nâng cao nhận thức về sử dụng thuốc an toàn, tránh lạm dụng biệt dược. + Tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm về việc nâng giá thuốc, trốn thuế. 3.2.11 Thực hiện BHYT bắt buộc với học sinh, sinh viên: Nhìn nhận thực tế thì loại hình BHYT học sinh là loại hình BHYT mang tính bắt buộc, vì khi nhập học thì đóng học phí bao gồm tất cả các chi phí cho học tập và sinh hoạt, các phụ huynh bắt buộc phải đóng phí BHYT chung với học phí cho con em mình. Để thực hiện được BHYT cho học sinh từ tự nguyện sang bắt buộc thì công tác tuyên truyền rất quan trọng phải chia ra từng đối tượng cụ thể: + Đối với giáo viên: phải tuyên truyền lợi ích của nhiều học sinh tham gia BHYT thì nhà trường sẽ có nhiều kinh phí để duy trì và thực hiện công tác y tế trường học. + Đối với phụ huynh học sinh: tuyên truyền để các phụ huynh thấy được nếu đóng tiền BHYT cho con em mình thì không phải lo chi phí khám chữa bệnh cả năm. Lực lượng học sinh học nghề, sinh viên các trường chuyên nghiệp không phân biệt công lập hay dân lập đang chiếm một tỷ lệ rất lớn trong dân số. Đây là lực lượng thanh niên trẻ, khỏe, có ý thức cao, dễ chấp hành chế độ chính sách. Rèn luyện ý thức tham gia BHYT bắt buộc cho họ, phải cho họ hiểu rằng sự đóng góp của họ ngày hôm nay, một mặt là thực hiện nghĩa vụ với bản thân và cộng đồng xã hội trong hiện tại nhưng mặt khác cũng là sự đóng góp cho tương lai khi họ về già, yếu. Để thực hiện được việc bắt buộc học sinh nghề và sinh viên cần phải có quy định rõ ràng, cụ thể như sau: + Tiêu chí bắt buộc cho sinh viên khi tham gia nhập học là phải tham gia BHYT, nếu không tham gia sẽ không được nhập học hoặc không được tiếp tục học. + Hình thức đóng thông qua thu học phí từ nhà trường và có trích tỷ lệ cho nhà trường làm công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho sinh viên. Trang 88 Kết luận chương 3: Từ việc phân tích tình hình thực hiện BHYT tại Việt Nam, đề tài đã nêu ra 2 mục tiêu để định hướng hoàn thiện chính sách BHYT tại Việt Nam trong giai đoạn mới, trên cơ sở đó đề xuất 11 giải pháp cơ bản có tính hệ thống và khả thi cho sự phát triển của hệ thống BHYT Trang 89 KẾT LUẬN BHYT là một phạm trù kinh tế - xã hội tất yếu của xã hội phát triển. Tổ chức thực hiện BHYT không chỉ giải quyết các quan hệ phát sinh trong nội tại của lĩnh vực thanh toán chi phí y tế và cơ cấu ngân sách y tế, mà còn giải quyết vấn đề kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Quá trình tổ chức thực hiện chính sách BHYT ở Việt Nam hơn 10 năm qua đã khẳng định được sự ưu việt, tính hợp lý, song cũng bộc lộ những vấn đề cần được hoàn thiện cả về chính sách cũng như tổ chức thực hiện. Để phấn đấu đạt được mục tiêu tiến tới BHYT toàn dân thì phải kết hợp nhiều yếu tố về chính sách, mối quan hệ giữa các cơ quan, ban ngành liên quan, nhân sự thực hiện công tác BHYT,… Dựa trên cơ sở phân tích và tổng hợp trong đề tài nghiên cứu này, các giải pháp cơ bản có tầm vĩ mô lẫn vi mô nhằm hoàn thiện và phát triển BHYT tại Việt Nam, đảm bảo hành trình tiến tới BHYT toàn dân được tựu lại như sau: - Kết hợp hài hòa mối quan hệ giữa ba nhân tố chủ chốt: cơ quan bán BHYT (cơ quan Bảo hiểm xã hội), kênh cung cấp dịch vụ BHYT (cơ sở khám chữa bệnh) và người mua hàng hóa BHYT (bệnh nhân BHYT). Bắt đầu là sự tự thân vận động của mỗi chủ thể trong quan hệ, kế đến là sự kết hợp với nhau để đảm bảo chính sách BHYT phát triển bền vững. - Mở rộng đối tượng tham gia BHYT: kiểm soát chặt đối tượng BHYT bắt buộc, tuyên truyền vận động đối tượng tham gia BHYT tự nguyện, Nhà nước hỗ trợ kinh phí thêm cho đối tượng nông dân, trẻ em dưới 6 tuổi, người lao động tự do. - Thay đổi phương thức thanh toán: ngoài thanh toán theo phí dịch vụ nên thử áp dụng thanh toán theo những hình thức khác, tìm ra phương thức thanh toán thích hợp nhưng phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội tại Việt Nam. - Quản lý chặt chẽ thị trường thuốc phục vụ khám chữa bệnh BHYT, đặc biệt là giá thuốc. Để thực hiện được điều này thì sự kết hợp giữa những ban ngành là cần Trang 90 - Ban hành Luật BHYT: nâng cao vai trò của từng chủ thể trong mối quan hệ ba bên đã nêu trên, đồng thời tránh trốn nộp phí BHYT từ người sử dụng lao động. - Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, phục vụ bệnh nhân BHYT, tránh phân biệt đối xử, thực hiện công bằng trong việc khám và điều trị đối với bệnh nhân BHYT. - Khuyến khích sự tham gia kinh doanh bảo hiểm sức khỏe của một số công ty, xóa tình trạng độc quyền về BHYT. Nâng cao năng lực của cơ quan Bảo hiểm xã hội, đào tạo nhân lực đủ chuyên môn để thực hiện tốt công tác BHYT. Tương xứng với trình độ chuyên môn phải có nguồn thu nhập xứng đáng nhằm khuyến khích sự cống hiến Trang 91 DANH MUÏC TAØI LIEÄU THAM KHAÛO Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2006), Báo cáo tổng kết hoạt động của Bảo hiểm xã hội Việt Nam từ 1995-2005, Hà Nội. 1. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2006), Báo cáo tổng kết hoạt động BHYT năm 2006, Hà Nội. 2. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2007), Công văn số 1302/BHXH-TN ngày 20/4 về việc hướng dẫn tổ chức thực hiện bảo hiểm y tế tự nguyện, Hà Nội. 3. Bảo hiểm xã hội thành phố Hồ Chí Minh (2006), 10 năm xây dựng và phát triển 1995-2005, Thành phố Hồ Chí Minh. 4. Bảo hiểm xã hội thành phố Hồ Chí Minh (2006), Sơ kết tình hình thực hiện BHYT năm 2006, Thành phố Hồ Chí Minh. 5. TS. Nguyễn Huy Ban (2004), “Tình hình thực hiện chính sách BHYT và lộ trình tiến tới BHYT toàn dân”. Tạp chí Bảo hiểm xã hội, 67(07/2004), tr. 6-9. 6. Bộ Y tế - Tài chính (2007), Thông tư liên tịch số 06/2007/TTLT-BYT-BTC ngày 30/3 hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế tự nguyện, Hà Nội. 7. Chính phủ (2005), Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16/5 về Ban hành điều lệ Bảo hiểm y tế, Hà Nội. 8. Công ty cổ phần Bảo Minh (2006), Báo cáo tổng hợp tình hình khai thác và bồi thường từ tháng 01 năm 2006 đến tháng 12 năm 2006, Thành phố Hồ Chí Minh. 9. 10. Công ty cổ phần Bảo Minh (2007), Chương trình bảo hiểm dành cho nhân viên công ty, Thành phố Hồ Chí Minh. 11. Nghiêm Trần Dũng (2006), “Giải pháp nào cho việc khám chữa bệnh bảo hiểm y tế hiện nay ”. Báo Người lao động, (02/03/2006). 12. Danh Đức (2006), “Bảo hiểm y tế vì an ninh xã hội ”. Báo Tuổi Trẻ, (02/10/2006). 13. Hồ Nga (2004), “Bảo hiểm y tế - những bất cập cần sớm giải quyết”. Tạp chí công nghiệp, 33(06/2004), tr. 25-28. Trang 92 14. Hồng Ninh (2006), “Nhiều bất cập khi thực hiện chính sách bảo hiểm y tế mới”. Báo Đồng Nai, (13/07/2006). 15. Nguyễn Huy Nghị (2007), “Phương thức thanh toán BHYT tác động đến thầy thuốc và người bệnh”. Tạp chí Bảo hiểm xã hội, 101(05/2007), tr. 32-34. 16. Bùi Hữu Phước (2005), Những giải pháp thực hiện bảo hiểm y tế ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. 17. Quang Phương (2006), “Cứu nguy bảo hiểm y tế ”. Báo Sài Gòn Giải Phóng, (02/10/2006). 18. Trần Quỳ (2004), “Một số vấn đề cần tiếp tục làm tốt trong thực hiện BHYT học sinh”. Tạp chí Bảo hiểm xã hội, 71(11/2004), tr. 27-29. 19. Sở Lao động Thương binh Xã hộ Thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo tình hình thu nhập thực tế từ năm 2004-2006, Thành phố Hồ Chí Minh. 20. Ths. Lưu Viết Tĩnh (2007), “Một số vấn đề rút ra từ thực tiễn đóng góp xây dựng Luật BHYT”. Tạp chí Bảo hiểm xã hội, 102(06/2007), tr. 29-31. 21. Trần Văn Tiến (2007), “Thanh toán chi phí khám chữa bệnh theo phí dịch vụ - những nguy cơ tiềm ẩn”. Báo Người lao động, (03/01/2007). 22. TS. Phạm Đình Thành (2006), “Cần mở rộng mạng lưới an sinh xã hội”. Tạp chí Bảo hiểm xã hội , 87(03/2006), tr. 26-28. 23. TS. Phạm Đình Thành (2005), “Về mô hình BHYT toàn dân ở nước ta”. Tạp chí Bảo hiểm xã hội, 73 (01/2005), tr. 25-29. 24. Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc Hội (2005), Văn bản thuyết trình trước Quốc Hội số 359-BC/UBTVQH11 ngày 30/5, về báo cáo kết quả giám sát thực hiện chính sách khám chữa bệnh cho nhân dân, Hà Nội. 25. Viện Nghiên cứu và Phổ biến tri thức bách khoa (1998), Đại từ điển Kinh tế thị trường, Hà Nội. 26. Vụ Điều trị, Báo cáo kiểm tra bệnh viện hàng năm, Hà Nội. 27. Vụ Tài chính-Hành chính sự nghiệp, Hướng tới mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân, Hà Nội. Trang 93 PHỤ LỤC 01: Số đối tượng tham gia BHYT hàng năm từ năm 1997 đến năm 2004 Đơn vị: ngàn người TT Đối tượng tham gia BHYT 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 A B 1 2 3 4 5 6 7 8 I BHYT bắt buộc 5,735 6,069 6,355 6,394 6,685 6,975 8,123 8,594 HCSN 1,487 1,543 1,598 1,714 1,789 DNNN 1,598 1,619 1,660 1,753 1,831 DNNQD 144 208 272 527 626 DNĐTNN 296 373 450 715 799 Hưu trí, mất sức 1,541 1,583 1,596 1,640 1,657 Người có công CM 1,155 1,134 1,127 1,113 1,162 Cán bộ xã phường 110 135 152 190 198 Đại biểu HĐND 63 74 78 88 93 Lưu học sinh 1 1 2 2 Nạn nhân chất độc hóa học 15 35 65 89 Thân nhân sĩ quan 195 215 Ngoài công lập 65 72 Hơp tác xã 9 12 Bắt buộc khác 47 49 II Người nghèo 493 841 1,214 1,665 3,253 3,416 III BHYT tự nguyện 3,816 3,689 3,684 3,387 3,441 4,392 4,847 5,705 Nhân dân, đoàn thể 77 14 57 28 249 HSSV 3,295 3,403 4,306 4,819 5,456 Nhân đạo 5 6 2 Tự nguyện khác 10 18 27 Cộng 9,551 9,758 10,232 10,622 11,340 13,032 16,223 17,715 Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam Trang 94 PHỤ LỤC 02: Tình hình thu BHYT từ năm 1997 đến năm 2004 Đơn vị: ngàn đồng TT Đối tượng tham gia BHYT 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 A B 1 2 3 4 5 6 7 8 I BHYT bắt buộc 496,000 624,000 689,000 848,634 1,046,736 1,137,129 1,733,994 1,887,270 HCSN 227,967 283,321 302,607 451,818 478,906 DNNN 219,874 260,830 275,926 401,605 427,468 DNNQD 19,401 31,072 42,647 89,810 120,304 DNĐTNN 117,129 150,747 183,311 265,889 310,102 Hưu trí, mất sức 173,484 211,859 219,762 323,783 335,400 Người có công CM 74,692 85,792 85,182 116,191 121,304 Cán bộ xã phường 11,007 16,133 18,404 32,424 34,809 Đại biểu HĐND 4,080 5,632 5,884 9,213 9,719 Lưu học sinh 229 336 372 506 Nạn nhân chất độc hóa học 1,121 2,638 6,776 9,301 Thân nhân sĩ quan 20,342 22,485 Ngoài công lập 9,696 10,825 Hơp tác xã 1,172 1,742 Bắt buộc khác 4,903 5,119 II Người nghèo 11,000 25,453 28,264 35,808 162,683 170,847 III BHYT tự nguyện 44,000 70,000 66,000 69,696 71,874 97,378 173,311 202,532 Nhân dân, đoàn thể 3,883 911 2,595 2,530 18,342 HSSV 64,830 69,530 93,052 170,781 184,190 Nhân đạo 275 294 80 Tự nguyện khác 708 1,139 1,651 Cộng 540,000 694,000 766,000 943,783 1,146,874 1,270,315 2,069,988 2,260,649 Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam Trang 95 PHỤ LỤC 03: Dự báo số lao động tham gia BHYT đến năm 2020 Đơn vị: Triệu người Số lao động trong độ tuổi có tham gia lao động Số lao động trong độ tuổi lao động Năm Dân số Số lao động tham gia BHYT 2005 82.176 51.956 41.565 6.242 2006 83.912 53.235 42.588 6.991 2007 85.070 54.450 43.560 7.812 2008 86.195 55.553 44.443 8.711 2009 87.292 56.506 45.204 9.691 2010 88.423 57.282 45.826 10.757 2011 89.625 57.910 46.328 11.913 2012 90.897 58.429 46.743 13.164 2013 92.240 58.906 47.125 14.513 2014 93.652 59.385 47.508 15.965 2015 94.900 59.832 47.866 17.402 2016 96.157 60.285 48.228 18.794 2017 97.425 60.746 48.597 20.203 2018 98.706 61.212 48.970 21.618 2019 100.004 61.682 49.346 23.023 2020 101.178 62.129 49.703 24.404 2025 107.380 65.501 53.153 31.518 2030 113.505 68.670 56.184 38.903 2035 119.755 71.853 59.279 47.331 Nguồn: Sở Lao động – Thương binh – Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh. Trang 96 PHỤ LỤC 04: Dự báo thu BHYT từ năm 2007 đến năm 2020 tại Thành phố Hồ Chí Minh Tổng tiền thu BHXH và BHYT (triệu đồng) Số lao động tham gia BHYT (người) Lương bình quân đóng BHYT (đồng) Năm Tổng tiền thu BHYT ( triệu đồng) 2007 1.365.194 1.259.358 4.126.243 538.205 2008 1.519.995 1.363.880 4.975.417 648.967 2009 1.710.971 1.495.629 6.141.514 801.067 2010 1.899.168 1.655.196 7.544.388 984.050 2011 1.998.211 1.713.159 9.037.388 1.178.789 2012 2.110.913 1.904.475 10.613.277 1.384.340 2013 2.229.556 2.193.878 14.087.137 1.837.452 2014 2.355.200 2.377.384 16.125.738 2.103.357 2015 2.590.512 2.526.031 20.416.386 2.663.006 2016 2.733.942 2.709.853 23.114.772 3.014.970 2017 2.985.979 2.934.641 27.339.862 3.566.068 2018 3.247.138 3.177.413 32.190.595 4.198.773 2019 3.417.966 3.339.606 35.613.738 4.645.270 2020 3.599.044 3.558.170 39.954.752 5.211.489 38.174.537 2.333.103 261.800.5211.1.1 Coäng 32.775.803 Nguồn: Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh. Trang 97 PHỤ LỤC 05: PHIẾU THĂM DÒ TÌNH HÌNH BẢO HIỂM Y TẾ Ở VIỆT NAM (PHỤC VỤ XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH BHYT Ở VIỆT NAM) HỌ TÊN: TUỔI ĐỊA CHỈ: xã (phường) Quận(huyện): tỉnh: 1. Ông (Bà) đang làm việc trong ngành: 4. Cty, XN HCSN Hưu trí mất sức Khác 2. Ông ( Bà ) có tham gia bảo hiểm y tế: Có Không 3. Loại BHYT: Ngoài BHYT của nhà nước, ông (bà) có tham gia BHYT tự nguyện không? Nếu có thì BHYT của nhà nước ( BHYT+BHXH Việt Nam) hay đơn vị khác? Tự nguyện Bắt buộc Không Có tham gia của nhà nước Có tham gia ở đơn vị khác 5. Khi đau ốm, Ông (Bà) thường khám bệnh ở đâu: Bệnh viện lớn Bệnh viện, phòng khám gần nhà Khác 6. Khi đau ốm, Ông (Bà) có đến khám bệnh ở nơi đăng ký BHYT: Có Không 7. Ông (Bà) có tin tưởng vào chất lượng khám bệnh của BHYT? Tin tưởng Không Không tin lắm Không có ý kiến tin Trang 98 8. Ông ( Bà) có yêu cầu bác sĩ cho loại thuốc quen dùng không? PHỤ LỤC 05 9. hân viên y tế ở nơi khám chữa bệnh như thế nào khi 10. Ông ( Bà) đánh giá thế nào về chất lượng BHYT: 12. g ( Bà) nên hay không nên đồng chi trả viện phí đối với bệnh nhân hưởng 13. Các ý kiến khác của Ông ( Bà) về BHYT: - Tổ chức quản lý của ngành BHYT: Thanh toán BHYT: Có Không Ông ( Bà) thấy thái độ của n khám bệnh bằng thẻ BHYT: Ân cần Bình thường Thiếu thiện cảm Tốt Trung bình Kém Không rõ 11. Theo Ông ( Bà) phí bảo hiểm y tế hiện nay: Theo Ôn BHYT - Quản lý bệnh viện: - Cao Bình thường Thấp Không nên Khác Có nên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfPht tri7875n v hon thi7879n h7879 th7889ng b7843o hi7875m y .pdf
Tài liệu liên quan