Luận văn Phòng ngừa nguy cơ ô nhiễm môi trường tài chính Việt Nam trong tiến trình hội nhập

CHƯƠNG I TỔNG LUẬN VỀ MÔI TRƯỜNG TÀI CHÍNH VÀ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TÀI CHÍNH 1.1 Môi trường đầu tư và môi trường tài chính 1.1.1 Môi trường đầu tư Môi trường đầu tư là nơi tổng hòa các yếu tố bên ngoài liên quan đến hoạt động đầu tư như chính sách, kinh tế, chính trị, luật pháp văn hoá, xã hội và các yếu tố: cơ sở hạ tầng, năng lực thị trường, cả các lợi thế của một quốc gia có liên quan, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động đầu tư trong và ngoài nước tại một quốc gia. Những yếu tố này có mối quan hệ và tác động qua lại lẫn nhau. Một môi trường đầu tư thuận lợi sẽ tạo cơ hội và động lực cho các doanh nghiệp từ các doanh nghiệp nhỏ đến các công ty đa quốc gia đầu tư có hiệu quả, tạo nhiều việc làm và mở rộng hoạt động vì thế nó có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và góp phần giảm nghèo. Khi phân tích môi trường đầu tư, có thể thấy được tính chất dài hạn và ngắn hạn của nó sẽ chi phối quyết định của nhà đầu tư. Nếu lợi thế về môi trường đầu tư của một quốc gia hiện tại là mức lương thấp thì sự bất lợi của môi trường khi xét ở giác độ dài hạn là trình độ lao động thấp, không hiệu quả. Hoặc nếu các chính sách ưu đãi về thuế tạo nên những điểm hấp dẫn nhà đầu tư ở ngắn hạn thì về dài hạn, hệ thống luật pháp hoàn chỉnh rõ ràng mới là nhân tố tích cực để thu hút đầu tư. Các nhà đầu tư có tầm nhìn chiến lược ít quan tâm đến những ưu đãi về thuế hơn là quan tâm đến hệ thống luật pháp của nước chủ nhà. Môi trường đầu tư bao gồm: ¾ Môi trường tự nhiên như vị trí địa lý, tài nguyên, là những nhân tố khách quan tác động đến hoạt động đầu tư. Nước tiếp nhận đầu tư có vị trí địa lý thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú là một đặc điểm đầu tiên mà các nhà đầu tư quan tâm.

pdf89 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1592 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phòng ngừa nguy cơ ô nhiễm môi trường tài chính Việt Nam trong tiến trình hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động công bố thông tin trên TTCK được quy định cụ -64- thể tại Nghị định 144/NĐ-CP và Thông tư 57/2004/TT-BTC. Việc công bố thông tin của doanh nghiệp (DN) đến nhà đầu tư và các cổ đông là một khâu quan trọng. Tuy nhiên, trong thời gian qua việc công bố thông tin của các DN không đồng đều, có DN công bố rất tốt nhưng cũng có DN chưa coi trọng việc công bố thông tin đến các nhà đầu tư. Nhiều DN đã niêm yết trên TTCK nhưng chưa có bộ phận chuyên trách về công bố thông tin. Do đó sự biến động bất thường đến giá cổ phiếu do những “tin đồn” chưa được sự kiểm soát và xác minh của cơ quan quản lý nhà nước. Trong khi đó các DN chưa niêm yết trên TTCK việc công bố thông tin chưa được đề cập trong nghị định và thông tư trên cũng như trong dự thảo Luật chứng khoán. Sự phát triển của TTCK tập trung hay TTCK phi tập trung liên quan mật thiết với nhau. Do đó những “tin đồn” trên thị trường phi tập trung tác động mạnh đến giá chứng khoán. Diễn biến giá chứng khoán trong thời gian qua là một minh chứng cho lập luận trên. Cũng cần phải nói thêm rằng, một phần có sự yếu kém từ phía các tổ chức kiểm toán đã không làm tốt khi kiểm toán tại các doanh nghiệp này. Trong khi đó, cơ quan quản lý thị trường chỉ căn cứ vào đánh giá của cơ quan kiểm toán. TTCK là kênh huy động vốn quan trọng nhất của thị trường tài chính. Bởi vì theo thông lệ quốc tế, các DN, các nền kinh tế cần vốn thì có 80% vốn huy động qua TTCK, 20% huy động vốn qua ngân hàng. Đấy là một cấu trúc hoàn chỉnh của thị trường tài chính. Ở Việt Nam hiện nay, điều đó ngược lại, tới 90% huy động qua ngân hàng và 10% huy động qua TTCK. Đây cũng là một phần nguyên nhân của tình trạng tín dụng nóng hiện nay. Nếu như sử dụng vốn ngắn hạn qua kênh ngân hàng mà đầu tư trung hạn và dài hạn thì sẽ dẫn đến hậu quả khủng hoảng của thị trường tài chính. Chúng ta lấy vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn và chúng ta cứ đảo nợ để kế tiếp nhau thì chắc đến một lúc nào sẽ có những cái sai lệch trong cấu trúc của thị trường tài chính. -65- 2.6 Nhận định chung về môi trường tài chính Việt Nam hiện nay Như đã trình bày ở chương 1, có 4 dấu hiệu để nhận biết một môi trường tài chính bị ô nhiễm là nền kinh tế tăng trưởng nóng và không ổn định, thị trường tài chính bất ổn định, chính sách tài chính vĩ mô không thỏa đáng, môi trường đầu tư bất bình đẳng. Từ thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay, chúng ta có thể đưa ra những nhận định chung về môi trường tài chính Việt Nam hiện nay như sau: 2.6.1 Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng chất lượng phát triển kinh tế - xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn kém. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào các nhân tố phát triển theo chiều rộng, vào những ngành và những sản phẩm truyền thống, công nghệ thấp, sử dụng nhiều tài nguyên, vốn và lao động. Nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả cao, tài nguyên đất đai và các nguồn vốn của Nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát nghiêm trọng. Vai trò của Nhà nước gây ảnh hưởng lớn tới việc phân bổ các nguồn tài chính cũng như trong việc làm cho thị trường bị mất đi những thông tin cần thiết để đưa ra các quyết định hợp lý, dẫn đến tình trạng có rất nhiều khoản đầu tư kém bền vững được thực hiện từ việc vay vốn trong nước và nước ngoài. Sự tích tụ những khoản nợ không hiệu quả và khó đòi do tình hình trên gây ra, kết hợp với cơ chế khoanh và xóa nợ đã đẩy tới nguy cơ khủng hoảng tài chính. 2.6.2 Nền kinh tế có dấu hiệu bắt đầu tăng trưởng nóng biểu hiện qua lạm phát và giá chứng khoán tăng nhanh, đầu tư trong nước và nhập khẩu hàng tiêu dùng gia tăng mạnh. Trong thời kỳ 2002-2005, lạm phát trung bình của các nước đang phát triển là 4,5%/năm, thấp hơn 6,6% của việt Nam. Chênh lệch về lạm phát trung bình giữa 2 thời kỳ 1999-2001 và 2002-2004 ở các nước đang phát triển là âm 5,6% (lạm phát giảm). Ngược lại, mức chênh lệch này ở Việt Nam là 6,4% (lạm phát tăng). Như đã phân tích ở trên, nguyên nhân lạm phát tăng ở Việt Nam không chỉ bởi giá cả các mặt hàng nhập khẩu chiến lược (như phôi thép, dầu mỏ) tăng mà còn bởi thâm hụt -66- ngân sách chính phủ kinh niên, có xu hướng tăng kể từ năm 2000 và tốc độ cung VND ở mức cao. Cũng giữa hai thời kỳ 1999-2001 và 2002-2004, mức chênh lệch về tốc độ tăng trưởng đầu tư của Việt Nam là 4,7% GDP so với mức chung của các nước đang phát triển là 1,3%. Mức chênh lệch này của Việt Nam chỉ thấp hơn của Trung Quốc (5,8% - nước có nền kinh tế hiển nhiên được coi là tăng trưởng quá nóng). Về giá chứng khoán, nguồn vốn tư nhân (bao gồm vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài) đổ vào ồ ạt đã làm tăng mạnh giá các loại chứng khoán, trong khi tổng doanh thu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cổ phần chỉ tăng ở mức thấp hơn nhiều. Thực tế là chỉ số trên thị trường chứng khoán Việt Nam đã tăng nhiều lần kể từ khi thành lập, hiện đã xấp xỉ ngưỡng 1000 điểm. Đây là một sự tăng trưởng nóng, trong khi doanh thu của đa phần các công ty niêm yết chỉ tăng khoảng trên dưới 10%/năm. Điều này có nghĩa là thị trường đang bùng nổ theo kiểu bong bóng và đang đối mặt với rủi ro bong bóng xì hơi, mà hậu quả có thể là việc các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn ra khỏi Việt Nam. Tài khoản vãng lai của Việt Nam bị thâm hụt liên tục từ năm 2002, có lúc lên tới 4,9% GDP. Tăng trưởng xuất khẩu không đủ bù đắp được sự tăng mạnh mẽ của nhập khẩu ở Việt Nam trong mấy năm qua. Điều này là do tiền VND đã bị lên giá ở mức nhẹ trong thời kỳ 2002-2006, trong khi đồng bản tệ của đa phần các nước đang phát triển bị phá giá, ở các cấp độ khác nhau. 2.6.3 Thị trường tài chính đã xuất hiện những dấu hiệu gây bất ổn định với những biểu hiện: thâm hụt ngân sách triền miên, dự trữ ngoại hối quá mỏng, hoạt động của hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập. Bội chi NSNN năm 2005, tính theo chuẩn quốc tế là 1,6% GDP, đến năm 2006 ước khoảng 4,98% GDP. Bình quân 5 năm 2001-2005 chỉ ở mức 2,76% GDP. Mặc dù bội chi được kiểm soát và kiềm chế ở mức chưa thực sự cao nhưng bội chi ngân sách nhiều năm liền cũng là một nguyên nhân gây nên nợ vay của chính phủ. -67- Tình trạng thâm hụt ngân sách nước ta ngày càng tăng sẽ tạo ra nguy cơ vay nợ nước ngoài cao ở Việt Nam trong tương lai, làm gia tăng rủi ro tài chính. Dự trữ ngoại hối ở Việt Nam đang được cải thiện qua hàng năm, theo ước tính của IMF thì năm 2006 mức dự trữ ngoại hối chính thức đạt 11,456 tỷ USD tăng 33,87% so với năm 2005, và tăng hơn gấp 2 lần so với năm 2001. Tính theo tỷ lệ tăng tương đối thì dự trữ ngoại hối Việt Nam trong trong thời gian qua tăng với mức độ khá cao. Tuy nhiên, nhìn chung dự trữ ngoại hối vẫn ở mức thấp, năm 2006 đạt cao nhất cũng chỉ tương đương với 11,2 tuần nhập khẩu hay tương đương 2,5 tháng nhập khẩu, trong khi đó theo nghiên cứu của WB thì dự trữ ngoại hối cần đủ lớn để tài trợ từ 5 đến 6 tháng nhập khẩu. Về hoạt động của hệ thống ngân hàng, trong những năm qua đã có sự lớn mạnh đáng kể về quy mô và chất lượng hoạt động. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng còn rất nhiều vấn đề cần nhanh chóng cải tổ như tình trạng độc quyền, cạnh tranh không minh bạch, năng lực điều hành kém. Nợ tồn đọng ngày càng gia tăng gây nên những nguy cơ tiềm ẩn cho hệ thống tài chính quốc gia. 2.6.4 Mặc dù có nhiều nỗ lực cải cách, môi trường đầu tư ở Việt Nam vẫn chưa thực sự là một “sân chơi” bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Môi trường hoạt động cho các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân và Nhà đầu tư nước ngoài đang có nhiều sự khác biệt, mà chính những sự khác biệt đó tạo nên sự bất binh đẳng trong kinh doanh. Trong khi các doanh nghiệp nhà nước thường là đối tác chính trong hợp tác đầu tư với nước ngoài, thậm chí thường được các cơ quan quản lý nhà nước chọn chỉ định thầu trong nhiều dự án lớn và thường xuyên được tư vấn, định hướng, cung cấp thông tin cho đầu tư phát triển, hỗ trợ cho nghiên cứu triển khai, đổi mới công nghệ… thì các doanh nghiệp ngoài nhà nước ít được hưởng, thậm chí không được hưởng những ưu đãi đó. Trong lĩnh vực tài chính và tín dụng, nhiều doanh nghiệp nhà nước dễ dàng được Nhà nước bảo lãnh vay vốn thậm chí còn được khoanh nợ, xóa nợ khi gặp khó khăn trong kinh doanh …còn doanh nghiệp khu vực ngoài nhà -68- nước không được hưởng những ưu đãi này, kể các các doanh nghiệp nhà nước sau khi chuyển đổi sang công ty cổ phần cũng bị cắt những ưu đãi đó. Trong lĩnh vực đầu tư, mặc dù sử dụng các nguồn tín dụng thương mại song các doanh nghệp nhà nước vẫn thường gặp khó khăn về thủ tục trong khâu thẩm định, xét duyệt dự án, kể cả việc thanh lý các tài sản không còn hữu ích, trong khi đó, các doanh nghiệp ngoài nhà nước lại hoàn toàn được chủ động trong lĩnh vực này. Trong lĩnh vực tài chính bất động sản, vẫn còn sự bất bình đẳng giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư trong nước về quyền và nghĩa vụ. Theo quy định hiện hành. Nhà đầu tư nước ngoài chỉ được thuê đất không được giao đất, không được nhận quyền sử dụng đất và cũng chỉ được thuê đất của doanh nghiệp không được thuê trực tiếp của hộ gia đình cá nhân. Việc thế chấp quyền sử dụng đất cũng chỉ được thực hiện ở tổ chức tín dụng có pháp nhân trong nước không được thế chấp tại các TCTD có pháp nhân nước ngoài. 2.6.5 Thiếu lộ trình thật chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế, chưa gắn kết chặt chẽ tiến trình hội nhập với việc hoàn thiện pháp luật, thể chế, chính sách và cải cách cơ cấu kinh tế. Chính sách và giải pháp chưa đủ mạnh để huy động và sử dụng được tốt nhất các nguồn lực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp gặp nhiều trở ngại và khó khăn vì các điều luật không rõ ràng của Việt Nam. Một số luật và quy định không thống nhất với nhau, đặc biệt là thiếu sự phối hợp giữa các Bộ, ngành của Chính phủ. Điều này gây ra sự nhầm lẫn và không chắc chắn cho hoạt động kinh doanh và tạo kẽ hở cho việc hành xử tùy tiện và không minh bạch. Một nguyên nhân làm tổn hại đến sự hấp dẫn lâu dài của Việt nam như là điểm đến đầu tư đối với các Nhà đầu tư nước ngoài là việc khó dự đoán được trong các chính sách thuế quan vì thuế suất nhập khẩu thay đổi, ảnh hưởng đến quyết định đầu tư. Một số chính sách tài chính vĩ mô còn chưa thỏa đáng, đơn cử chính sách tiền tệ mà Nhà nước đưa ra hiện nay. Trong khi nhu cầu vốn khả dụng của các NHTM tăng cao nhưng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của cả nội tệ lẫn ngoại tệ lại được điều -69- chỉnh theo hướng ngày càng tăng lên đã tạo ra rào cản trong khả năng tiếp cận nguồn vốn cho sản xuất và đầu tư. Nhìn ở góc độ kiềm chế lạm phát, việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc cùng với các công cụ khác trong chính sách điều hành tiền tệ như lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở sẽ điều hòa dòng tiền trong lưu thông, góp phần cân đối quan hệ tiền - hàng, giảm áp lực lạm phát. Nhưng việc lạm dụng công cụ tăng dự trữ bắt buộc, hậu quả của nền kinh tế nói chung và đối với các ngân hàng thương mại, doanh nghiệp vay vốn nói riêng, sẽ rất khó lường. Bên cạnh đó một hệ thống mang nặng tính hình thức từ Trung ương đến địa phương đã kìm hãm tính chủ động, tự chủ và trách nhiệm của các cấp ngân sách. Mặt khác, những thông tin mà Quốc hội và HĐND các tỉnh nhận được lại mang tính chủ quan, một phía nên rất dễ dẫn đến những sai lệch khi đưa ra quyết định về NSNN. Đây là mối lo ngại lớn nhất khi mà NSNN thì hạn chế nhưng dự án đầu tư lại nhiều và không được kiểm tra kiểm soát chặt chẽ dẫn đến tình trạng thường xuyên xảy ra hiện tượng “rút ruột”, tham nhũng … thâm hụt ngân sách là điều hiển nhiên. Kết luận chương 2 Từ những phân tích trên, có thể kết luận một cách khách quan nhất đó là môi trường tài chính Việt Nam đang có dấu hiệu bị ô nhiễm. Xét một cách tổng thể có thể tạm thời yên tâm nhưng nếu nhìn nhận một cách khắt khe và kỹ lưỡng hơn ta có thể nói môi trường tài chính Việt Nam đang bị ô nhiễm. Tuy nhiên, mức độ này vẫn được coi là thấp và hầu như đây cũng là tình trạng chung của khá nhiều nước trên thế giới. Vấn đề thực sự quan tâm hiện nay là mức độ này có tăng lên hay không. Có thể nói đây là một nguy cơ rất có khả năng xảy ra. Nó phụ thuộc vào động thái của Chính phủ trong việc thực thi những biện pháp nhằm phòng tránh những nguy cơ gia tăng mức độ ô nhiễm môi trường tài chính hiện nay. -70- CHƯƠNG III GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP Kết quả đạt được về kinh tế của Việt Nam trong những năm gần đây là đáng kể, đặc biệt trong hai năm 2005 và 2006, song nhiệm vụ phát triển kinh tế trong những năm tiếp theo trong giai đoạn 2005-2010 còn khó khăn hơn. Những dấu hiệu ô nhiễm trong môi trường tài chính Việt Nam nêu trên nên được sớm khắc phục, nếu không nền kinh tế có thể gặp trở ngại, khi mà niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài suy giảm hoặc có thêm các cú sốc ngoại lai lớn khác. Để hội nhập kinh tế của Việt Nam trong những năm tới đạt được kết quả cao và hạn chế được sự gia tăng mức độ ô nhiễm trong môi trường tài chính, tác giả xin đề xuất một số giải pháp cơ bản sau: 3.1 Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững Phát triển nhanh phải đi đôi với nâng cao tính bền vững, hai mặt tác động lẫn nhau, được thể hiện ở cả tầm vĩ mô và vi mô, ở cả tầm ngắn hạn và dài hạn. Tăng trưởng về số lượng phải đi liền với nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong khi khai thác các yếu tố phát triển theo chiều rộng, phải đặc biệt coi trọng các yếu tố phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. 3.1.1 Thúc đẩy, nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế phát triển theo chiều sâu. Đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng, hạ giá thành, tăng cường năng lực khai thác thị trường theo chiều sâu, nhất là các ngành hàng, các địa phương có mức tăng trưởng thấp và sụt giảm trong năm vừa qua. Thực hiện định kỳ giao bán sản phẩm, kịp thời phối hợp, tạo điều kiện thuận lợi để sản xuất công nghiệp tăng trưởng nhanh hơn. 3.1.2 Đẩy mạnh xuất khẩu để giảm bớt mức nhập siêu của nền kinh tế: Thông qua việc đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng Việt Nam có thế -71- mạnh và có thị trường xuất khẩu như: dệt may, túi xách, dày dép, cao su, xe đạp, phụ tùng, các mặt hàng đồ gỗ. Tìm cách khai thác có hiệu quả các nguồn nguyên liệu trong nước phục vụ cho sản xuất hàng hóa, xuất khẩu, góp phần giảm giá thành sản xuất và giảm dần sự lệ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Tiếp tục cải cách thủ tục hải quan, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua các giải pháp triệt để khai thác các thị trường trong khu vực, đặc biệt là những thị trường đã ký kết AFTA để được hưởng lợi thế từ các thỏa thuận về thuế; đổi mới công nghệ và đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại tại các thị trường nhằm động viên tối đa các nguồn lực tài chính cho đầu tư và phát triển. Tăng cường xúc tiến thương mại, Bộ Công thương cần phải cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin về giá cả thị trường trong và ngoài nước đến các doanh nghiệp một cách kịp thời; đồng thời chỉ đạo, hướng dẫn các doanh nghiệp chủ động đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá. 3.1.3 Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện về cơ chế quản lý giá, hệ thống giá: 3.1.3.1 Về cơ chế quản lý giá Các Bộ, địa phương cần tăng cường chỉ đạo bảo đảm đủ nguồn cung cấp ổn định các hàng hóa phục vụ sản xuất như xi măng, sắt thép, hóa chất cơ khí, xăng điện, than … Ổn định giá cả các sản phẩm hàng hóa thiết yếu cho đời sống của dân cư như lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh nhằm tạo tâm lý ổn định cho người dân. Muốn vậy, cần tăng cường theo dõi chặt chẽ diễn biến giá cả thị trường thế giới cũng như trong nước và công tác thu thập, phân tích thông tin, dự báo sự tác động dây chuyền của việc tăng giá nhằm khắc phục nhanh những yếu tố bất ổn tiềm ẩn để chủ động xây dựng biện pháp xử lý. Bổ sung danh mục mặt hàng và dịch vụ tiêu dùng để chuẩn bị cho việc áp dụng phương pháp tính CPI mới phản ánh đúng xu hướng biến động giá cả tiêu dùng phù hợp với thị trường. Các tổng công ty lớn cần áp dụng các biện pháp kiểm soát chặt chẽ giá bán sản phẩm trên thị trường. Củng cố và phát triển hệ thống phân phối trong nước, -72- kiểm tra giám sát chặt chẽ các kênh phân phối, khắc phục tình trạng mua bán lòng vòng để giảm bớt chi phí đầu vào. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, niêm yết và bán theo giá niêm yết, chống đầu cơ, đẩy giá thị trường lên cao, nhất là các mặt hàng có nhu cầu cao trong dịp lễ tết Nguyên Đán… 3.1.3.2 Hoàn thiện hệ thống giá Hệ thống giá phải thể hiện đầy đủ giá trị của nó. Tiếp tục tính đúng theo cơ chế thị trường đối với giá trị đất đai, tài nguyên, nguyên nhiên vật liệu và các nguồn lực khác đưa vào sử dụng; xóa bao cấp qua giá đối với một số hàng hóa dịch vụ quan trọng như các loại dầu, các hình thức trợ giá không theo thông lệ quốc tế, xóa bao cấp về giá than cho sản xuất điện, xi măng, phân bón, giấy viết, chi phí về môi trường … Điều hành giá một số loại dịch vụ cùng loại, cùng tiêu chuẩn chất lượng đang còn cao theo hướng tương đương và thấp hơn các nước trong khu vực. Đưa hệ thống giá trong nước tương quan với giá thị trường thế giới, nhất là những vật tư, hàng hóa nước ta có quan hệ thương mại xuất nhập khẩu với thị trường bên ngoài. Thực hiện lộ trình điều chỉnh giá một số hàng hóa, dịch vụ độc quyền và hàng hóa dịch vụ quan trọng cùng với các biện pháp tổ chức sản xuất, nâng cao thu nhập, giảm dần và tiến tới xóa bỏ độc quyền, tình trạng “bù chéo” trong một số giá hiện nay như điện, bưu chính viễn thông, than … Thực hiện việc giảm giá một số hàng hóa dịch vụ hiện đang cao hơn giá thị trường thế giới thông qua các giải pháp: giảm bảo hộ qua thuế và phi thuế theo các lộ trình đã cam kết; kiểm soát chi phí, tiền lương, tiền thưởng, thu nhập chịu thuế để loại bỏ việc hạch toán các chi phí không hợp lý. Kiểm soát giá độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh về giá. Xóa bỏ hết cơ chế hai giá đang còn tồn tại ở một số ít hàng hóa, dịch vụ phân biệt giữa đối tượng tiêu dùng trong nước và đối tượng tiêu dùng nước ngoài trên đất nước Việt Nam (giá cho thuê đất đa, than, giá bán điện, giá lắp đặt điện thoại, giá vé máy bay …). -73- 3.1.3.3 Yếu tố con người, cơ sở hạ tầng Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để có thể nâng cao hiệu quả, giảm giá thành sản phẩm và cạnh tranh vững vàng trên thị trường trong cũng như ngoài nước, cần hết sức chú trọng yếu tố con người và công nghệ, phải có chiến lược đào tạo, nâng cao trình độ cho người lao động để họ có thể tiếp cận và sử dụng được các công nghệ mới. Quản lý chặt chẽ hơn đối với các quỹ đất đai quốc gia hiện có như việc tổ chức tốt công tác quy hoạch, thực hiện việc tổ chức đấu giá đất, đấu thầu một cách công khai. Mở rộng việc áp dụng hình thức công ty cổ phần và việc bán hoặc nhượng quyền quản lý, khai thác có thời hạn một số công trình cơ sở hạ tầng nhằm kiểm tra giám sát tài chính đối với tất cả các khâu trong quá trình đầu tư để giảm lãng phí, thất thoát, tham nhũng. 3.2 Ngăn chặn kịp thời những dấu hiệu không bình thường biểu hiện của nền kinh tế tăng trưởng nóng. Một nền kinh tế tăng trưởng nóng sẽ nhanh chóng rơi vào tình trạng suy thoái sau cơn “phát nhiệt”, đặc biệt khi có những cú sốc ngoại lai, nếu không có những biện pháp ngăn chặn kịp thời để làm nguội dần nền kinh tế trước khi đưa nó về trạng thái phát triển cân bằng và ổn định. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay có dấu hiệu bắt đầu tăng trưởng nóng, mà một trong những nguyên nhân quan trọng là sự gia tăng mạnh mẽ nguồn vốn nước ngoài (gồm vốn ODA, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đầu tư gián nước ngoài (FII), và kiều hối) đều có xu hướng tăng mạnh gần đây. Vì vậy, để giảm thiểu tác động tiêu cực đi kèm với dòng vốn nước ngoài trong khi vẫn khai thác được tác động tích cực của nó đến tăng trưởng kinh tế, chúng ta cần áp dụng các biện pháp: - Tăng dự trữ ngoại hối: Vay và Trả nợ luôn chịu áp lực rủi ro về lãi suất, tỷ giá và thu nhập xuất khẩu, vì thế nền kinh tế cần duy trì mức dự trữ đủ mạnh để đối phó với những cơn sốc xảy ra. Mức dự trữ ngoại tệ của Việt Nam thời gian gần đây -74- đã tăng lên nhanh chóng. Nhưng nếu không quản lý tốt, điều này lại là một cái hại lớn vì dự trữ ngoại hối nếu tập trung vào tay NHNN sẽ trút toàn bộ gánh nặng rủi ro về tiền tệ và lãi suất lên bảng cân đối tài sản của mình và có thể gây ra những ảnh hưởng xấu về ngân sách. Vì vậy cần phải giảm rủi ro này bằng cách đa dạng hóa danh mục đầu tư cho nguồn dự trữ này và san xẻ nó cho khu vực tư nhân. Nói cách khác, cần khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư ra nước ngoài thay vì chỉ chú trọng đến kêu gọi đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. - Thực thi cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt hơn: cần có biện pháp và chính sách mềm dẻo, uyển chuyển trong việc giữ tỷ giá VND/USD cho phù hợp với giá dầu mỏ và những biến động lớn về lạm phát trong nước và quốc tế, bởi nếu kìm nén tỷ giá càng lâu thì áp lực lạm phát càng lớn. - Giảm phụ thuộc vào nợ nước ngoài và vốn ngắn hạn: có thể nói hiện tại Việt Nam đã thực hiện tốt biện pháp này. Tỷ trọng nợ nước ngoài trên GDP trung bình trong các nước phát triển là 34% năm 2004. Tỷ trọng này của Việt Nam cũng là 34% và có xu hướng giảm dần trong các năm tới. Tính theo tỷ trọng của giá trị xuất khẩu, mức nợ của Việt Nam khoảng 78%. Năm 2005 tổng dư nợ nước ngoài của Việt Nam bằng 32,5%GDP giảm so với các năm trước đó, và chiếm 52% tổng kim ngạch xuất khẩu và khoảng gần 2 lần dự trữ ngoại hối. Năm 2006 tổng nợ ước tính là 32,6% GDP, chiếm 51% tổng kim ngạch xuất khẩu. Mức nợ của nước ta như vậy là khá thấp so với trung bình của nhóm các nước có thu nhập thấp (con số tương ứng khoảng 46% và 100%). Như vậy, các chỉ số này đang nằm trong giới hạn an toàn về nợ cho phép theo các chỉ tiêu của Bộ Tài chính đề xuất. Mặt khác, cũng giống như xu thế chung, tỷ trọng nợ ngắn hạn trong tổng nợ nước ngoài của Việt Nam đang có xu hướng giảm. - Biện pháp thứ tư là tự do hóa các giao dịch tài sản tài chính giữa cá nhân và tổ chức trong nước với nước ngoài: cần chủ động hình thành các điều kiện và tiêu chuẩn minh bạch hóa, củng cố quản lý tài chính doanh nghiệp, thắt chặt các quy định quản lý rủi ro trong hệ thống tài chính để giữ chân các nhà đầu tư nước ngoài -75- và phòng ngừa rủi ro mang tính hệ thống. Khi đã đạt được những điều kiện này, nên tiến hành tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vốn để tiếp tục thu hút vốn nước ngoài, kể cả ngắn hạn, phục vụ cho các mục tiêu phát triển. Sự cứng nhắc trong kiểm soát vốn có thể làm tăng sự nghi ngờ của các nhà đầu tư vào tính lành mạnh của hệ thống tài chính. 3.3 Phát triển thị trường tài chính lành mạnh và hiệu quả Mục tiêu phát trển Thị trường tài chính: Phát triển thị trường vốn, huy động vốn đầu tư cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2006-2010 đạt mức tăng trưởng bình quân khoảng 20% GDP. Thông qua thị trường để phân phối và sử dụng hiệu quả nguồn tài chính, tập trung đầu tư cho các nguồn lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cả nền kinh tế. Giám sát Thị trường tài chính hoạt động an toàn và hiệu quả, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia, có cơ chế kiểm tra, giám sát các nguồn vốn của nền kinh tế, thực hiện mở cửa khu vực tài chính theo các cam kết đồng thời với việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho các tổ chức tài chính, các thể chế tham gia hoạt động trên thị trường. Để đạt được mục tiêu trên cần: 3.3.1 Đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô là cơ sở hoạt động hiệu quả Thị trường tài chính: Lãi suất và tỷ giá hối đoái phải được thỏa thuận theo quan hệ cung cầu trên thị trường, được kiểm soát gián tiếp thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ. Để điều hành chính sách tỷ giá hối đoái, nước nào cũng phải đối phó với nhiều vấn đề. Nhưng có một đặc điểm chung đó là: chính sách tỷ giá hối đoái phải trở thành một tín hiệu để các nhà đầu tư có một kỳ vọng hợp lý về những bước đi trong tương lai của thị trường. Theo IMF thì chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi có kiểm soát là thích hợp cho hoàn cảnh của Việt Nam, nhưng Việt Nam cần phải linh hoạt hơn nữa, để cho phép có sự biến động nhiều hơn nữa trong chính sách tỷ giá. Do vậy, chính sách tỷ giá của Việt Nam nên duy trì một mức linh hoạt nhất định để khuyến -76- khích người vay phải chịu phần nào trách nhiệm về rủi ro tỷ giá. Điều này cũng phù hợp với những chuyển động của lộ trình trong các cam kết hội nhập WTO và các nước trong khu vực. 3.3.2 Khuyến khích cạnh tranh, mở rộng hoạt động cho các ngân hàng mới ở trong nước. Các chính sách cản trở cạnh tranh như: hạn chế hoạt động đối với các ngân hàng nước ngoài vì sự lo ngại khuyến khích cạnh tranh của ngân hàng nước ngoài sẽ làm suy yếu hệ thống ngân hàng trong nước, chiếm lĩnh thị trường của hệ thống ngân hàng trong nước cần phải xóa bỏ. Thực tế, sự cạnh tranh của các ngân hàng nước ngoài đã giúp để tạo ổn định trong hoạt động ngân hàng, làm giảm chênh lệch lãi suất, tiếp thu được kinh nghiệm quốc tế và mở rộng khả năng tiếp cận các nguồn tài chính. Ngoài ra, các trung gian tài chính phi ngân hàng cũng có thể phát triển thị trường tài chính trở nên sôi động hơn như việc chuyển tài sản của họ thành chứng khoán, làm cho thị trường chứng khoán phát triển mạnh hơn. 3.3.3 Kiểm soát việc chấp nhận rủi ro. Nhằm ngăn chặn khủng hoảng mang tín hệ thống, giảm rủi ro về các nguồn cứu trợ của Chính phủ, cần giám sát thận trọng trong việc duy trì một tỷ lệ tối thiểu vốn trên khoản tiền cho vay của các ngân hàng, lựa chọn các quy định phù hợp và thực hiện một cách có hiệu quả. Do vậy, đòi hỏi phải có các nguồn lực và năng lực thực hiện tránh méo mó do tình trạng tham nhũng và quan hệ thân quen giữa các chủ thể nhằm đảm bảo quyền của người đi vay, người cho vay, các cổ đông, như thế họ mới tăng thiện chí cung cấp tài chính của họ cho thị trường. 3.3.4 Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn trong và ngoài nước Nguồn tài chính được ví như “dầu nhờn bôi trơn” hoạt động cho các doanh nghiệp và nền kinh tế. Khi nền kinh tế ngày càng lớn mạnh, phức tạp và vận hành với tốc độ cao hơn thì cũng đòi hỏi chất lượng “dầu nhờn bôi trơn” phải được nâng -77- cấp lên nhiều hơn nữa. nhưng làm thế nào nâng cao chất lượng của chúng khi mà tính bất ổn của nền kinh tế trong nước và quốc tế ngày càng trở nên cao độ? - Xây dựng khung pháp lý cho hoạt động của thị trường theo hướng bao quát, toàn diện và phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. - Thành lập thị trường chứng khoán phi tập trung để giảm bớt áp lực và hạn chế những hoạt động chứng khoán ngoài tầm quản lý của Nhà nước. - Phổ cập kiến thức cơ bản về chứng khoán và TTCK. Phát triển hệ thống các công ty quản lý quỹ, tổ chức định mức tín nhiệm và các tổ chức phụ khác cung cấp dịch vụ cho thị trường (lưu ký, thanh toán bù trừ). - Áp dụng các biện pháp cụ thể và hữu hiệu để phát triển hoạt động giao dịch trái phiếu Chính phủ như: đa dạng hóa các loại hình trái phiếu chính phủ, sử dụng các công cụ kỳ hạn trái phiếu tạo ra các giao dịch lô lớn, hình thành và xây dựng đường cong lợi tức trái phiếu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đánh giá hiệu quả của nhà đầu tư. - Gắn chương trình chuyển đổi sở hữu các DNNN với việc niêm yết chứng khoán của các DN này trên thị trường nếu có đủ điều kiện nhằm tạo thêm hàng hóa cho TTCK. - Cần tăng tỷ trọng vốn trung và dài hạn, mở rộng các loại trái phiếu vô danh tạo thuận lợi cho việc mua bán, chuyển nhượng trên thị trường các loại trái phiếu có mệnh giá được tự do trao đổi, có thể chuyển đổi thành cổ phiếu và có thể sử dụng làm tài sản thế chấp vay vốn. - Xúc tiến việc phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế. Đây là một kênh huy động vốn hữu hiệu đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, cần phải có những biện pháp quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn này nếu không sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh tài chính quốc gia. Vì vậy, Nhà nước cần thận trọng nghiên cứu phân tích diễn biến tình hình tài chính quốc tế, -78- nhu cầu và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời thực hiện việc cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia cũng như đánh giá chính xác mức cung trái phiếu: Cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia: đây là hệ số đánh giá khả năng về tài chính cũng như khả năng hoàn trả tiền gốc và lãi của Chính phủ phát hành. Nó còn có tác dụng đối với các nước phát triển là tạo điều kiện thuận lợi đối với các khoản vay thương mại. Đối với các nước đang phát triển vì đang được hưởng ưu đãi qua các khoản vay ODA nên nếu hệ số tín nhiệm thấp sẽ gây khó khăn cho các khoản vay thương mại, ngược lại, hệ số tín nhiệm càng cao thì thuận lợi cho khoản vay thương mại nhưng khoản vay ưu đãi ODA sẽ giảm. Để nâng cao mức tín nhiệm của chủ thể phát hành trong quá trình tiếp cận nguồn vốn cần thiết lựa chọn đối tác bảo lãnh phát hành, có thể là một tập đoàn tài chính hoặc một ngân hàng đầu tư có uy tín, có kinh nghiệm trên thị trường vốn quốc tế. Việc lựa chọn sẽ thông qua phương thức đấu thầu cạnh tranh để đảm bảo có lợi nhất cho Chính phủ phát hành. Để đánh giá chính xác mức cung trái phiếu, Chính phủ phát hành cần phải tìm hiểu quy mô, giá cả của các loại trái phiếu mới phát hành và tình hình lãi suất thực tế trên thị trường tài chính quốc tế tại thời điểm phát hành cùng với các tài liệu có liên quan như: bản cáo bạch, thỏa thuận của các nhà quản lý trái phiếu … nhằm cung cấp các thông tin cần thiết cho các nhà đầu tư. 3.4 Hoàn thiện chính sách tài chính vĩ mô Xu hướng tất yếu khách quan ngày nay là hòa nhập kinh tế toàn cầu, gắn liền với quá trình tự do hóa thương mại và dòng vốn lưu chuyển không biên giới. Nếu tách biệt ra khỏi quá trình này, một quốc gia không thể đạt được sự phát triển cao và bền vững. Đối với Việt Nam, đổi mới trong chính sách tài chính là một bộ phận cấu thành của tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, thành công của việc thực hiện chính sách tài chính sẽ góp phần không nhỏ vào thành công của công cuộc đổi mới nền kinh tế - xã hội. Có như vậy, Việt Nam mới có thể thực hiện thành công tự do hóa -79- tài chính – một bước tất yếu quan trọng, một xu thế tất yếu của quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Với mục tiêu đặt ra: tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng từ 7-8%/năm. Chủ trương của Chính phủ Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010 về chính sách tiền tệ sẽ tương đối thắt chặt, trong khi đó chính sách tài khóa sẽ tiếp tục điều chỉnh theo hướng mở rộng nhằm hỗ trợ cho việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế. 3.4.1 Chủ động trong điều hành chính sách tiền tệ và tín dụng Thực hiện phương châm: tích cực, linh hoạt, chủ động trong điều hành chính sách tiền tệ, thận trọng trong cung ứng tiền và trong tổng phương tiện thanh toán, sử dụng linh hoạt và có hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ để kiểm soát một cách phù hợp lãi suất, tỷ giá. Tăng tín dụng phải đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng và giảm nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. Điều đó đặt ra những vấn đề: - Xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, khẩn trương thực hiện đầy đủ các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về hoạt động ngân hàng, mở rộng nhanh các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán qua qua ngân hàng. Thực hiện chính sách lãi suất thỏa thuận theo nguyên tắc thị trường và đi tới loại bỏ quy định hành chính đối với lãi suất ngoại tệ. - Tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt theo nguyên tắc thị trường với biên độ được mở rộng phù hợp với mức độ mở cửa thị trường tài chính và năng lực kiểm soát của NHNN, tiến tới thực hiện cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi có kiểm soát. - Phải cải cách bộ máy, đổi mới công tác tổ chức, xem xét quy trình đầu vào, và quan trọng nhất phải xây dựng cơ chế quản lý minh bạch, công khai để không còn kẽ hở cho tham nhũng. - Tiếp tục theo dõi và điều hành chặt chẽ các cân thanh toán, cân đối tiền hàng, kiểm soát và hạn chế nhập siêu, giữ bội chi ngân sách ở mức dự kiến trong kế hoạch. -80- - Điều chỉnh nhằm giảm bớt tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước trong toàn bộ nền kinh tế. Tái cơ cấu DNNN theo hướng chuyển đổi thành công ty cổ phần hoặc phá sản, bán khoán …chỉ giữ lại những DNNN thực sự liên quan tới huyết mạch của nền kinh tế để tạo lập quyền tự chủ tối đa cho các doanh nghiệp, gắn lợi ích kinh tế của người lao động với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hóa. Muốn vậy, phải lựa chọn được mô hình thích hợp xử lý được nợ tồn đọng thúc đẩy cổ phần hóa DNNN. - Tạo môi trường để khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân phát triển, ưu tiên, ưu đãi rành mạch nhằm tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng, rõ ràng. Để đạt được mục tiêu trong vòng 5 năm tới, thu ngân sách cần tiếp tục giữ ở mức 19- 20% GDP thông qua hai biện pháp: Một là: Cắt giảm thuế, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh. Hai là: đảm bảo nguồn thu cho ngân sách thông qua mở rộng diện thu thuế, cải tiến quy trình hành thu, tích cực chống thất thu. Tác dụng kích thích sản xuất kinh doanh dựa trên thuế suất thấp (giảm thuế suất thuế GTGT và thuế TNDN), tính chất bình đẳng thể hiện ở sự bình đẳng đối tượng thu và hạn chế tới mức thấp nhất ưu đãi, miễn giảm thuế (căn cứ vào hoạt động kinh tế chứ không căn cứ vào chủ thể hoạt động kinh tế). - Kiến thiết cơ sở hạ tầng, nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo và một số lĩnh vực khác mà các thành phần kinh tế khác không thể, không được phép hay không muốn đầu tư. Chính như thế thì quy mô NSNN có thể tiếp tục tăng. - Bên cạnh đó, cần đặc biệt quan tâm đến chất lượng của việc lựa chọn và quản lý các khoản chi và đầu tư trên cơ sở rút kinh nghiệm từ các chương trình kém hiệu quả như công nghệ sản xuất xi măng hay sản xuất đường nhập từ Trung Quốc gần đây, hay việc cho vay vốn đầu tư tàu thuyền đánh bắt xa bờ … -81- - Mở rộng quan hệ hợp tác tài chính với các nước, các tổ chức tài chính quốc tế. Tích cực đàm phán, ký kết các hiệp định bảo hộ đầu tư, tránh đánh thuế hai lần, các hiệp định tự do hóa thương mại. - Xây dựng, thực hiện cơ chế quản lý nợ nước ngoài theo hướng gắn nghĩa vụ và trách nhiệm quản lý, sử dụng và trả nợ. Hoàn thiện quy hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA. Cùng với việc tăng quỹ dự trữ ngoại tệ quốc gia, duy trì cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý đảm bảo khả năng trả nợ nước ngoài. 3.4.2 Điều chỉnh mở rộng chính sách tài khóa 3.4.2.1 Đối với hệ thống chi NSNN: Trong giai đoạn phục hồi tăng trưởng, chúng ta chủ trương “tăng tỷ lệ chi ngân sách theo tốc độ tăng trưởng kinh tế và hiệu quả quản lý kinh tế, tài chính. Tăng chi ngân sách cho các mục tiêu xã hội trọng điểm… chuyển cơ cấu phân bổ nguồn vốn vay nhà nước mang tính hành chính sang cho vay theo cơ chế thị trường, tiếp tục cải cách hệ thống thuế, đơn giản hóa các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, bồi dưỡng và đạo tạo cán bộ, sử dụng NSNN phải chủ động và có hiệu quả, tăng cường kiểm soát các khoản chi, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng lãng phí, thất thoát; nâng cao hiệu quả đầu tư bằng vốn NSNN, thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm và tách bạch tài chính nhà nước và tài chính doanh nghiệp”. Với mục đích giữ bội chi NS ở mức hợp lý, tiến tới giảm dần bội chi. Tiếp tục thực hiện đề án phát hành trái phiếu Chính phủ và phát hành trái phiếu quốc tế gắn với chương trình dự án đầu tư lớn trên cơ sở cân đối giữa nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển. - Đối với các dự án trọng điểm sử dụng vốn từ NSNN hoặc nguồn vốn phát hành trái phiếu Chính phủ trong và ngoài nước cần tăng cường giám sát tính hiệu quả. - Tăng cường xây dựng hoàn chỉnh và áp dụng các chuẩn mực, luật lệ quốc tế trong hệ thống luật pháp kinh tế của Việt Nam. -82- - Ngân hàng Trung ương phải sử dụng các công cụ với mức độ rộng hẹp nhất định trong từng thời kỳ, muốn thị trường tiền tệ ngày càng phát triển nhanh chóng thì cần hoàn thiện điều hành lãi suất trong giai đoạn tới. Lãi suất phải đáp ứng lợi ích của người cho vay và cả lợi ích của người đi vay. Đối với người đi vay, mức lãi suất vay phải nhỏ hơn lợi nhuận mà họ thu được từ hoạt động kinh doanh. Còn đối với người cho vay, lãi suất tiền gửi phải bao gồm lạm phát dự kiến, rủi ro, lợi nhuận mong muốn. Vì vậy, về phía ngân hàng cần xác định chính xác mức lạm phát dự kiến, rủi ro và lợi nhuận mong đợi để xác định mức lãi suất hợp lý nhằm kích thích sản xuất và tiêu dùng. - Để duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao, Chính phủ đã phải huy động một lượng lớn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư lại rất thấp, thể hiện nợ đọng trong xây dựng cơ bản ngày càng gia tăng, tình trạng thất thoát, lãng phí nguồn vốn đầu tư ngày càng báo động. Để nâng cao hiệu quả đầu tư, đối với các dự án đầu tư từ NSNN chỉ thực hiện giải ngân với các dự án trong kế hoạch; không thanh toán cho các dự án ngoài kế hoạch. Ưu tiên các dự án có thể tiến hành sản xuất kinh doanh ngay; giảm bớt các dự án nhóm C không có hiệu quả. - Tiếp tục đổi mới phân cấp quản lý NSNN, đảm bảo tính thống nhất của NSNN, khắc phục tình trạng lồng ghép ngân sách giữa các cấp, đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương. Đồng thời tăng cường phân cấp, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của ngân sách các cấp. Phấn đấu đến năm 2010 có 50 địa phương có số thu trên 500 tỷ đồng, trong đó có 40 địa phương có số thu 1.000 tỷ đồng; 20- 25 tỉnh thành phố có tỷ lệ điều tiết về ngân sách trung uơng. 3.4.2.2 Đối với hệ thống thu NSNN: Hệ thống thu NSNN cần hướng đến đơn giản, xóa bỏ phân biệt đối xử, hoàn thiện công tác hành thu, giảm thuế suất, cụ thể: - Tăng cường công tác quản lý hóa đơn nhằm ngăn chặn các vi phạm quy định về quản lý, sử dụng hóa đơn và tăng mức hình phạt đối với hành vi trốn thuế, -83- giả mạo chứng từ để chiếm đoạt tiền NSNN, bổ sung một số chế tài xử lý hình sự đối với các hành vi mua bán khống hóa đơn, phát hành hóa đơn giả... - Quản lý chặt cơ chế quản lý tiền tệ, bắt buộc các quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ phải thanh toán bằng chuyển khoản, hạn chế mức thấp nhất sử dụng tiền mặt để thanh toán. Từ đó, Nhà nước có thể quản lý được các hoạt động kinh tế phát sinh, hạn chế tham nhũng, trốn lậu thuế. - Cần nghiên cứu để kéo dài tổng thời gian lập dự toán NSNN, thay đổi hoặc giảm bớt tính lồng ghép giữa các cấp ngân sách, nâng cao trình độ chuyên môn về kinh tế - tài chính cho các cơ quan của Quốc hội để có ý kiến xác đáng, có chiều sâu về chuyên môn nhằm hoạch định ngân sách thật phù hợp với tình hình tài chính của đất nước. Tổ chức tốt việc giao kế hoạch và dự toán NSNN của các cấp các ngành cho các đơn vị, các Bộ ngành địa phương cần bố trí theo cơ cấu được giao, đúng mục tiêu kế hoạch, không bố trí dàn trải, phân tán. Các dự án khởi công mới phải có đầy đủ thủ tục đầu tư theo quy định hiện hành. Chỉ bố trí vốn cho các công trình có trong kế hoạch được duyệt, đã có quyết định đầu tư, thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán được duyệt. 3.5 Xây dựng và phát triển định chế tài chính trung gian và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đó làm cho vốn thực sự trở thành hàng hóa được lưu chuyển trên thị trường đem lại hiệu quả kinh tế cao. 3.5.1 Nâng cao chất lượng và mở rộng hoạt động của các tổ chức trung gian tài chính Mở rộng hoạt động của các loại quỹ như quỹ tương trợ, quỹ hưu trí … đến mọi khu vực trong cả nước để thu hút các nhà đầu tư nhỏ ít vốn, các cá nhân có ít tiền tiết kiệm vào quỹ tương trợ, đảm bảo cho cá nhân khi về hưu có thu nhập đầu tư chủ yếu vào các chứng khoán dài hạn và các tài sản sinh lãi khác. -84- Phát triển và tăng cường hoạt động của các công ty trung gian tài chính để cùng với NHTM là những cầu nối chi phối mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp nhân dân có thu nhập cho hoạt động của nền kinh tế. Là những công cụ cho phép tập trung vốn nhanh và phân phối vốn khớp không theo kiểu bao cấp mà theo cơ chế thị trường, kết hợp quan hệ sở hữu với quan hệ sử dụng vốn đúng mục đích và hiệu quả, bao gồm các loại như: - Công ty tài chính thương mại: để cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp mua máy móc thiết bị và thế chấp các máy móc thiết bị, tài trợ cho các khoản sẽ thu của doanh nghiệp, mua nợ của họ. - Công ty tài chính bán hàng: cung cấp các mẫu hợp đồng để doanh nghiệp bán hàng ký kết với khách hàng, hợp đồng bán hàng trả góp và được bán lại cho công ty tài chính. - Công ty tài chính cung cấp tín dụng cho người tiêu dùng: mua dụng cụ gia đình, đài thọ chi phí giao dục … - Công ty chứng khoán - Công ty bảo hiểm: công ty bảo hiểm nhân thọ, công ty bảo hiểm phi nhân thọ để cung ứng tài chính rất quan trọng cho thị trường vốn. - Công ty thuê mua tài chính: cho các doanh nghiệp thuê máy móc, dụng cụ, trang thiết bị, phương tiện vận chuyển… - Khuyến khích, tiến tới bắt buộc các công chức, viên chức , người lao động mở tài khoản cá nhân và trả thu nhập qua tài khoản này. Việc này vừa có lợi cho ngân hàng trong huy động vốn nhàn rỗi, vừa có lợi cho người dân trong việc tiếp cận với phương tiện thanh toán văn minh, hiện đại, tiết kiệm thời gian, đảm bảo an toàn, vừa có lợi cho NSNN hạn chế được những hành vi tiêu cực tham nhũng, trốn thuế thu nhập cá nhân. -85- 3.5.2 Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng 3.5.2.1 Đối với hệ thống các NHNN: - Cấu trúc lại hệ thống NHNN từ trung ương xuống chi nhánh tinh gọn hơn, hiện đại hơn, tránh sự can thiệp của chính quyền các cấp, từng bước hoàn thiện các khung pháp lý đảm bảo sự bình đẳng cho hoạt động của các tổ chức tín dụng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. - Xóa bỏ cơ chế bao cấp đối với các NHTM, đặc biệt là các NHTM quốc doanh. Buộc các ngân hàng này phải thực sự hoạt động theo nguyên tắc thị trường, xóa bỏ dần cơ chế tín dụng chỉ định, giao nghiệp vụ tín dụng ưu đãi theo chính sách của nhà nước cho các ngân hàng chính sách. - Tiêu chuẩn hóa cán bộ, công chức ngân hàng - Xây dựng hệ thống thông tin tài chính hiện đại, đảm bảo cho hệ thống tài chính hoạt động an toàn và hiệu quả, dễ giám sát theo thông lệ quốc tế. - Để hạn chế sai sót trong việc cung ứng tiền, phương thức giao dịch được áp dụng trên thị trường mở nên là phương thức mua bán có kỳ hạn nhằm làm tăng tạm thời hay giảm tạm thời một lượng tiền nhất định trong thời gian giao dịch mua bán. Trong thời gian tới, cần bổ sung vào cơ cấu hàng hóa trên thị trường mở các hàng hóa như: trái phiếu kho bạc có thời hạn dưới một năm, các loại chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, chấp phiếu ngân hàng, cao hơn nữa là các loại trung dài hạn. Thêm vào đó, cần trang bị phần mềm kết nối giữa nội bộ trong NHNN, kết nối giữa NHNN với các tổ chức tín dụng thành viên nhằm đảm bảo thực hiện các công đoạn giao dịch một cách nhanh chóng. 3.5.2.2 Đối với hệ thống NHTM: Với mục tiêu đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa các NHTM quốc doanh và tiếp tục cải cách các NHTM nhà nước trên 3 mặt: cơ chế tổ chức và công nghệ, cơ chế chính sách, con người. Chúng ta cần: -86- - Nâng cao năng lực quản lý và tiềm lực tài chính của các NHTM trên cơ sở cơ cấu lại tài chính, bao gồm: xử lý nợ quá hạn, đẩy mạnh tái đầu tư và cơ cấu lại sở hữu nhằm tăng vốn điều lệ. Tiến hành tổng kiểm kê, kiểm soát đối với hệ thống NHTM bằng kiểm toán độc lập và nghiêm túc theo tiêu chuẩn quốc tế. Trên cơ sở đó tổ chức sắp xếp lại, sát nhập hoặc giải thể các NH hoạt động kém hiệu quả. - Cấu trúc lại hệ thống ngân hàng và khu vực tài chính: những tổ chức này phải được thiết lập trong khuôn khổ điều chỉnh bộ luật ngân hàng. Nếu không sẽ gây nên rối loạn trên thị trường tiền tệ và thị trường tài chính. Để đẩy mạnh quá trình sắp xếp lại các tổng công ty, Chính phủ đã xây dựng lộ trình cải cách NHNN và hệ thống ngân hàng. Đặc biệt năm 2006, bốn NHTM quốc doanh (gồm ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng công thương, Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông cửu long) sẽ bắt đầu được cổ phần hóa. Vì vậy, cần phải có những nỗ lực quyết tâm từ các cấp, ban ngành cao nhất để đảm bảo các bước đề ra trong chương trình cải tổ ngân hàng sẽ được thực hiện đúng tiến độ. - Hiện đại hóa hoạt động ngân hàng, xây dựng và áp dụng cơ chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ theo thông lệ quốc tế nhằm tạo sức cạnh tranh mở rộng thị phần trong nước và tranh thủ thời cơ mở thị trường kinh doanh ra nước ngoài. - Xây dựng một nền tảng công nghệ hiện đại, đảm bảo các yêu cầu về quản lý nội bộ của ngân hàng, thỏa mãn yêu cầu phát triển của các giao dịch kinh doanh ngày càng đa dạng, yêu cầu quản trị rủi ro, quản trị thanh khoản, có khả năng kết nối với các ngân hàng khác. Phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại trên cơ sở đảm bảo phòng chống được rủi ro, bảo mật và hoạt động an toàn. - Đảm bảo chất lượng nguồn nhận lực ngân hàng với những tiêu chí như năng lực, trình độ, khả năng hội nhập, hiệu quả công tác và phẩm chất đạo đức tốt. - Xây dựng được chiến lược kinh doanh trung và dài hạn, trong quá trình xây dựng chiến lược phải chú ý một số vấn đề: từng bước xây dựng và định vị thương hiệu của ngân hàng Việt Nam, chú trọng phát triển những sản phẩm dịch vụ là lợi thế của ngân hàng. Cần xác định cạnh tranh không chỉ ở yếu tố chi phí mà còn ở cả -87- việc cung cấp sản phẩm đa dạng và tiện ích cho khách hàng, ngân hàng phải nỗ lực tạo ra vị thế cạnh tranh đặc thù và mang tính dài hạn. 3.6 Cải thiện môi trường đầu tư tạo sức hút các nhà đầu tư nước ngoài Đầu tư nước ngoài được đánh giá có sự tăng trưởng cao hơn các thành phần kinh tế khác, góp phần không nhỏ nâng cao tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Thời gian qua Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện môi trường đầu tư, như hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, tạo môi trường pháp lý bình đẳng, thông thoáng và minh bạch cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Mặc dù có nhiều cải cách nhằm cải thiện môi trường đầu tư, nhưng thực tế hiện nay môi trường đầu tư ở Việt Nam vẫn thua kém nhiều nước trong khu vực. Vì vậy, để tạo được môi trường pháp lý, “sân chơi” bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, không phân biệt đối xử nhằm tạo ra một môi trường đầu tư lành mạnh, Việt Nam cần phải: - Tiếp tục xóa bỏ những hàng rào bảo hộ sản xuất có thời hạn đối với những ngành phát triển và có khả năng cạnh tranh. Đa dạng hóa các hoạt động ĐTNN, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án hoạt đông hiệu quả, khuyến khích mở rộng quy mô đầu tư. Xóa bỏ những hạn chế phân biệt đối xử: khuyến khích các nhà đầu tư tham gia đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng, nhất là đối với công trình giao thông cảng biển, cung cấp điện nước, bệnh viện, trường học, khu vui chơi giải trí… - Triển khai thực hiện có hiệu quả Luật đầu tư, Luật Doanh nghiệp năm 2005. Tiếp tục xây dựng các văn bản hướng dẫn còn thiếu và các văn bản hướng dẫn thi hành các luật mới khác có liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh. Tiến hành rà soát để sửa đổi bổ sung các chính sách thuế, chính sách ưu đãi đầu tư và các chính sách khác nhằm khuyến khích hơn nữa đầu tư vào các lĩnh vực và địa bàn ưu tiên. Rà soát và có chương trình triển khai đầy đủ, theo đúng tiến độ các cam kết hội nhập liên quan đến mở cửa thị trường. -88- - Đẩy mạnh cải cách hành chính công, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội. Minh bạch hóa qui trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài; thực hiện cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết thủ tục đầu tư; rà soát các vướng mắc hành chính ở tất cả các lĩnh vực, các cấp nhằm đẩy nhanh tiến độ cấp phép đầu tư mới và điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư, các thủ tục liên quan tới triển khai dự án đầu tư như thủ tục về đất đai, XNK, cấp dấu, xử lý tranh chấp. - Thực hiện đồng bộ, kiên quyết các giải pháp để phòng, chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước: điều tra, xử lý nghiêm minh, kịp thời, công khai các vụ tham nhũng đã được phát hiện; ban hành và thực hiện quy định để xử lý thích đáng đúng pháp luật người đứng đầu cơ quan đơn vị nơi xảy ra tham nhũng, gây hiệu quả nghiêm trọng… - Tiếp tục chính sách tự do hóa tài khoản vãng lai nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự luân chuyển của dòng vốn. Ưu đãi thuế đối với các quĩ đầu tư nước ngoài. Tăng cường các kênh thông tin, quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới. - Thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm gia tăng tính minh bạch thị trường tài chính. Hoàn thiện việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực thi luật chứng khoán, bổ sung sửa đổi các văn bản pháp quy đáp ứng nhu cầu phát triển và quản lý thị trường. - Tăng cường an ninh tài chính, thực hiện các chính sách kiểm soát các dòng vốn. Đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ngân hàng – tài chính – chứng khoán trong việc quản lý dòng vốn nhằm bảo bảo an toàn vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính. Kết luận chương 3: Việt Nam đã xác định cần sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển vào trước năm 2010, tạo đà phát triển để đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để thực hiện được mục tiêu này thì một trong những nhiệm vụ quan trọng là Việt Nam cần phải tạo dựng được một môi trường tài chính -89- lành mạnh. Trong chương này tác giả đã đề xuất sáu giải pháp cơ bản nhằm phòng ngừa ô nhiễm môi trường tài chính Việt Nam trong những năm đầu đầy thách thức hậu WTO. Sự thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên, bằng việc kết hợp, giữa huy động các nguồn nội lực và ngoại lực cùng với xây dựng bộ máy quản lý trong sạch mà chúng ta có thể chủ động được, chắc chắn sẽ là yếu tố quan trọng cho lành mạnh hóa môi trường tài chính của Việt Nam trong quá trình hội nhập.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf47480.pdf
Tài liệu liên quan