Luận văn Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Công Thương

LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lợi nhuận và rủi ro luôn tồn tại song song với nhau. Có lợi nhuận chắc chắn sẽ có rủi ro, mà lợi nhuận càng cao thì rủi ro cũng sẽ càng cao. Trong môi trường kinh doanh ngày càng khó khăn như hiện nay, thương trường như chiến trường, nhà kinh doanh giống như một người lính sẵn sàng xông pha trận mạc, coi thường hiểm nguy, dám chấp nhận rủi ro mới mong giành được thắng lợi. Nếu chỉ thấy lợi nhuận mà không thấy rủi ro thì thật chủ quan, khi rủi ro đến sẽ không trở tay kịp. Ngược lại, nếu chỉ thấy rủi ro mà coi nhẹ sự tồn tại của lợi nhuận thì sẽ mất thời cơ, khó thành nghiệp lớn. Trong điều kiện đã biết chắc sẽ gặp rủi ro thì phải làm sao giảm thiểu rủi ro ở mức thấp nhất mới là điều cần thiết. Đối với doanh nghiệp, rủi ro có thể tác động và gây ảnh hưởng xấu đến doanh nghiệp, thậm chí bị phá sản và thải loại ra khỏi thị trường. Đối với ngân hàng thương mại, đối tượng kinh doanh của nó là tiền tệ - loại hàng hóa đặc biệt nhạy cảm với rủi ro nên có tính dễ lây lan rủi ro giữa các ngân hàng thương mại với nhau, chỉ cần một số ít khách hàng gặp rủi ro mà không có cách quản trị tốt sẽ không chỉ gây tác động xấu tới hình ảnh của ngân hàng đó mà còn làm tổn thương đến cả hệ thống ngân hàng. Từ xưa, những người cho vay đã luôn đòi hỏi những bảo đảm chắc chắn cho sự hoàn trả nợ vay. Mặc dù trước khi ký hợp đồng vay Ngân hàng là người có quyền đáng kể khi thương lượng, nhưng người vay ở thế có lợi hơn một khi tiền đã được giải ngân. Khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng. Khi đó, NH sẽ phải gánh chịu những thiệt hại, mất mát mà do người vay vốn hay người sử dụng vốn không trả đúng hạn, không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng tín dụng vì bất kể lý do gì. Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại tùy thuộc vào năng lực quản trị rủi ro, đặc biệt là quản trị rủi ro tín dụng vì thực tế cho thấy hoạt động tín dụng hiện đang chiếm tỷ trọng lớn nhất: từ 60- 70% trong danh mục tài sản có tại hầu hết các NHTM ở Việt Nam, đem lại nguồn thu nhập chính cho các NH. Đặc biệt, nguồn tín dụng này đang đóng vai trò kênh dẫn vốn chủ đạo cho các doanh nghiệp. Phát sinh nợ xấu là tất yếu trong hoạt động của ngành ngân hàng. Các ngân hàng thương mại luôn phải đối phó với các khoản nợ khó đòi. Chính vì vậy mà TS Vũ Viết Ngoạn - Tổng Giám đốc Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (VCB) đã có một nhận định có giá trị cảnh báo: “Nợ xấu đang là vấn đề đau đầu với hầu hết các ngân hàng Châu Á, và các ngân hàng Việt Nam không phải là ngoại lệ”. Còn Tổng Giám đốc ANZ, ngân hàng lớn thứ tư của Australia, ông Mike Smith so sánh nợ khó đòi như những dư chấn có sức tàn phá lớn sau một trận động đất mạnh. Như vậy , mỗi ngân hàng cần phải làm gì để có thể hạn chế thấp nhất những hậu quả do rủi ro tín dụng đem lại? Xuất phát từ yêu cầu cần thiết này tác giả chọn đề tài: PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN CÔNG THƯƠNG, làm mục tiêu nghiên cứu.

pdf92 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1631 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Công Thương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sẵn sàng chấp nhận. Nhưng họ không biết rằng chỉ cần chậm trả từ 10 ngày trở lên là khoản nợ của họ đã bị chuyển sang nhóm 2, nợ cần chú ý và thông tin về KH quá hạn này sẽ được chuyển đến trung tâm thông tin tín dụng CIC. Về sau nếu họ có muốn vay vốn ở bất kỳ ngân hàng nào thì uy tín của họ cũng sẽ bị đánh giá vì trước khi cho vay KH nào, dù là cá nhân hay doanh nghiệp các NH đều hỏi thông tin CIC trước tiên. Chính những KH xem nhẹ việc trả nợ đúng hạn cũng là nguyên nhân góp phần làm cho nợ quá hạn tại SGCTNH ngày một tăng. − Mặc dù biết rằng sử dụng quỹ dự phòng để bù đắp rủi ro tín dụng ít nhiều sẽ gây ra tâm lý ý lại ở một số nhân viên, thiếu trách nhiệm trong việc đôn đốc thu hồi nợ cho NH. Tuy nhiên, nếu để nợ xấu vượt quá mức quy định thì ngân hàng sẽ bị hạn chế trong việc mở rộng chi nhánh sau này. Tóm lại, tìm hiểu được đâu là nguyên nhân của những hạn chế trong việc phòng ngừa rủi ro tín dụngtại SGCTNH sẽ giúp SGCTNH khắc phục được những tồn tại trong hoạt động tín dụng của mình. Giúp hạn chế được ở mức thấp nhất rủi ro tín dụng có thể xảy ra. KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Qua việc tìm hiểu thực trạng phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại SGCTNH ta thấy được rõ hơn những giải pháp mà SGCTNH đang áp dụng tại ngân hàng mình để phòng ngừa đến mức tối đa những rủi ro tín dụng có thể xảy ra, thấy được thực trạng cho vay, huy động vốn, đặc biệt là diễn biến nợ quá hạn từ năm 2008 đến 6 tháng đầu năm 2011, ghi nhận những mặt mà SGCTNH đã đạt được. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những tồn tại nhất định và đi phân tích đâu là nguyên nhân của những tồn tại đó để có hướng khắc phục kịp thời. 67 Chương 3 GIẢI PHÁP NHẰM PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN CÔNG THƯƠNG 3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN CÔNG THƯƠNG ĐẾN NĂM 2015 Yếu tố đặc biệt quan trọng mà SGCTNH quan tâm đến chính là chất lượng các khoản vay, tình hình diễn biến nợ quá hạn, nợ xấu. Theo xu thế phát triển - hội nhập của hệ thống NHTM Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và thế giới, Ngân Hàng TMCP Sài Gòn Công Thương sẽ liên tục đổi mới hoạt động: cung ứng thêm nhiều sản phẩm dịch vụ, thay đổi phong cách phục vụ, ưu đãi các khách hàng giao dịch thường xuyên, mở rộng mạng lưới hoạt động, hướng tới phục vụ khách hàng bằng những sản phẩm dịch vụ Ngân hàng hiện đại với chất lượng tốt nhất dựa trên nền tảng công nghệ NH tiên tiến… nhằm thực hiện thành công mục tiêu là một trong những Ngân hàng TMCP lớn mạnh hàng đầu trong hệ thống NHTMCP. Mặc dù nền kinh tế đã tăng trưởng trở lại tuy nhiên suy thoái kinh tế vẫn có tác động không nhỏ. Một số diễn biến bất ổn của kinh tế thế giới (khủng hoảng nợ ở một số nền kinh tế châu Âu, những mâu thuẫn về chính sách tỷ giá của một số nền kinh tế lớn) cũng đã gián tiếp ảnh hưởng bất lợi đến Việt Nam. Thị trường bất động sản, chứng khoán chưa thực sự hồi phục cùng với biến động bất thường của giá vàng, giá USD trong nước tại một số thời điểm đã gây khó khăn nhất định đối với hoạt động của các ngân hàng. . Các chỉ tiêu chủ yếu mà SGCTNH cần đạt được trong năm 2011 như sau: − Vốn điều lệ: 3.500 tỷ đồng , tăng 42% (1.040 tỷ đồng) so với năm 2010. − Vốn huy động: 16.215 tỷ đồng, tăng 25% (3.243 tỷ đồng) so với năm 2010. 68 − Hoạt động tín dụng: 12.500 tỷ đồng, tăng 19,55% (2.044 tỷ đồng) so với năm 2010. Nợ xấu (nợ nhóm 3 - 5): dưới 03% trên tổng dư nợ cho vay. − Thanh toán đối ngoại: 400 triệu USD, tăng 25% so với năm 2010. − Phát hành thẻ SGCTNH: 50.000 thẻ, tăng 140% (29.120 thẻ) so với năm 2010. − Mạng lưới hoạt động: thành lập các chi nhánh tại các tỉnh/ thành phố lớn trên toàn quốc sau khi đáp ứng đủ các điều kiện thành lập theo quy định của NHNN. Lợi nhuận trước thuế: 350 tỷ đồng, tăng 9,03% (29 tỷ đồng) so với năm 2010. Cổ tức chia cổ đông: 11%/năm (bao gồm cổ phiếu thưởng). Bên cạnh những chỉ tiêu cần đạt được trong năm 2011, SGCTNH xác định chiến lược quan trọng luôn luôn phải hướng đến từ năm 2011 -2015 đó là: − Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tiện ích và hiện đại. Hướng tới việc phát triển các mảng dịch vụ phi tín dụng nhằm thu về cho ngân hàng các nguồn lợi nhuận ít rủi ro hơn. Tăng cường quản trị rủi ro để tránh khủng hoảng, đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh theo xu hướng mở rộng phạm vi sang nhiều lĩnh vực, thông qua các hình thức thành lập nhiều công ty con vệ tinh hoặc liên doanh liên kết nhằm phân tán rủi ro, phát triển theo xu hướng chuyên môn hóa cao, góp phần tăng thu nhập. − Chuẩn hóa mô hình tổ chức, cơ chế quản trị, điều hành hệ thống phù hợp với xu hướng phát triển của thị trường và chuẩn mực quốc tế. Lựa chọn và áp dụng các thông lệ quốc tế tốt nhất vào mô hình tổ chức, quản trị, điều hành kinh doanh, quản lý và kiểm soát rủi ro, quy trình nghiệp vụ. − Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cải thiện căn bản chất lượng nguồn nhân lực. SGCTNH sẽ tiếp tục cơ cấu lại nguồn nhân lực một cách mạnh mẽ, không tăng mà giảm số lượng, tăng chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, tạo điều kiện cho nhân viên có thể tham gia các khóa đào tạo do Hiệp hội ngân hàng và các tổ chức trong và ngoài nước giảng dạy. 69 − Đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin: Ưu tiên tập trung phát triển mạnh công nghệ thông tin đồng bộ, hiện đại trong lĩnh vực quản trị ngân hàng, kiểm soát rủi ro, phát triển dịch vụ mới. − Tăng vốn chủ sở hữu và nâng cao năng lực tài chính. Đây là một trong những mục tiêu hàng đầu của SGCTNH. − Đối với hoạt động huy động vốn: trong điều kiện nền kinh tế dự báo còn nhiều khó khăn, cạnh tranh trên thị trường tài chính ngân hàng ngày càng cao, SGCTNH xác định công tác phát triển nguồn vốn là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, là yếu tố quyết định quy mô tài sản ngân hàng. Để tăng khả năng huy động vốn, toàn hệ thống của SGCTNH tích cực triển khai công tác tiếp thị, thường xuyên bám sát thị trường. Đặc biệt, đối với những khách hàng lớn, lượng tiền mặt luôn dồi dào, SGCTNH luôn giành những ưu đãi đặc biệt đối với những khách hàng này: ưu đãi về lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi, giải quyết các hồ sơ liên quan đến KH một cách nhanh chóng... − Đối với hoạt động sử dụng vốn: tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tín dụng và đầu tư theo nguyên tắc tăng trưởng an toàn và hiệu quả. Tiếp tục duy trì cơ cấu tín dụng phù hợp với quy định của NHNN trong từng thời kỳ như: tỷ lệ cho vay giữa nguồn vốn ngắn hạn với những khoản vay trung dài hạn, tỷ lệ cho vay đối với lĩnh vực phi sản xuất nói chung và bất động sản nói riêng so với tổng dư nợ của toàn hệ thống... Có chính sách cho vay ưu đãi đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh và đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu (đem về lượng ngoại tệ lớn cho SGCTNH). − Nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ, tái cấu trúc thu nhập của ngân hàng, theo đó tăng mạnh thu nhập từ hoạt động dịch vụ, phi tín dụng. Chú trọng nâng cao trình độ nghiệp vụ, kỹ năng khai thác dịch vụ bán hàng, thái độ phục vụ, tư vấn, chăm sóc khách hàng đối với đội ngũ tiếp xúc khách hàng trực tiếp. Bởi vì, khi tiếp xúc với khách hàng mỗi nhân viên của SGCTNH đang đại diện cho cả một ngân hàng, qua quá trình tiếp xúc KH sẽ có những nhận xét, đánh giá về thái độ, cung cách phục vụ của SGCTNH. 70 − Phát triển ngân hàng bán lẽ. Tập trung nghiên cứu chiến lược phát triển và triển khai mô hình ngân hàng bán lẽ, phối hợp với các chi nhánh, phòng giao dịch trên cả nước để bán chéo sản phẩm, đem lại lợi ích tối đa cho khách hàng, giúp tăng thu nhập từ dịch vụ. − Giới thiệu đến khách hàng những ứng dụng mới của SGCTNH trong việc tra cứu số dư tiền gửi, chuyển tiền, trả tiền trực tuyến thông qua chương trình hiện đại, tiên tiến Internet Banking, Home Banking, Phone Banking... 3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN CÔNG THƯƠNG 3.2.1 Đối với Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương Giữa phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng và xử lý rủi ro thì SGCT NH chú trọng việc phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng vì “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Từ những mặt còn chưa đạt được, toàn hệ thống SGCTNH cần phải rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm, những giải pháp nhằm khắc phục những mặt còn thiếu sót, để ngày càng hoàn thiện mình hơn, đó là:  Đào tạo, tuyển chọn cán bộ có năng lực giải quyết công việc Nhân viên phòng Thẩm định phải là những người đã được đào tạo qua nghiệp vụ cho vay thực tế, tiếp xúc và thẩm định trực tiếp khách hàng, có như vậy mới tích lũy dần được kinh nghiệm. Từ đây sẽ chọn lọc ra những cán bộ thực sự đủ năng lực để tái thẩm định hồ sơ vượt mức phán quyết mà nhân viên tín dụng của phòng tín dụng Hội sở và nhân viên tại phòng kinh doanh của các chi nhánh gửi lên. Việc này có ý nghĩa hết sức quan trọng vì đây hầu hết là các hồ sơ lớn có số tiền vay từ hàng chục đến hàng trăm tỷ đồng, tiềm ẩn nhiều rủi ro mà ngân hàng không thể lường trước được, vượt quá thẩm quyền của Trưởng phòng Tín dụng Hội sở và Giám đốc các chi nhánh. Vì vậy, trách nhiệm của những người tái thẩm định hồ sơ là rất lớn, tương ứng với trách nhiệm ấy ngân hàng cần có chế độ lương sao cho phù hợp để khuyến khích họ gắn bó với công việc. 71  Có chế độ đào tạo, khen thưởng, kỷ luật rõ ràng Bản thân ngân hàng cần phải quan tâm nhiều hơn đến việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ và tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ công tác, đồng thời phải căn cứ vào kết quả công tác của họ để có đãi ngộ, đối xử công bằng: Đối với cán bộ có thành tích suất sắc, cần biểu dương, khen thưởng cả về vật chất lẫn tinh thần tương xứng với kết quả họ mang lại, kể cả việc nâng lương trước hạn hoặc đề bạt lên đảm nhiệm ở vị trí cao hơn. Đối với cán bộ có sai phạm, tùy theo tính chất, mức độ mà có thể giáo dục thuyết phục hoặc phải xử lý kỷ luật. Khen thưởng và kỷ luật rõ ràng sẽ khuyến khích nhân viên nỗ lực hoàn thành tốt công việc của mình đồng thời những nhân viên có ý định không lành mạnh phải cân nhắc trước hậu quả việc mình làm, hạn chế bớt “những con sâu làm rầu nồi canh”. Có như vậy, không những kỷ cương trong hoạt động tín dụng và uy tín của Ngân hàng sẽ ngày càng nâng cao mà chất lượng tín dụng chắc chắn sẽ được cải thiện đáng kể.  Sử dụng dự phòng rủi ro đúng lúc SGTNH không nên vì chạy theo việc mở chi nhánh mà cố gắng sử dụng dự phòng cụ thể để giảm tỷ lệ nợ xấu xuống. Làm như vậy vô tình sẽ gây tâm lý ỷ lại đối với CBTD không chịu đôn đốc thu hồi nợ. Bởi vì, khi khoản nợ đã được sử dụng dự phòng thì dư nợ của KH đó sẽ được hạch toán ngoại bảng, trách nhiệm của CBTD cũng nhẹ đi phần nào. Dẫn đến tình trạng, trong khi các khoản nợ cũ chưa thu hồi được thì các khoản nợ quá hạn mới lại phát sinh. Chính vì vậy, cần phải cân nhắc kỹ thời điểm nào cần thiết sử dụng dự phòng rủi ro. 3.2.2 Đối với cán bộ tín dụng  Tăng cường công tác kiểm tra sau cho vay Sau khi cho giải ngân định kỳ 3 tháng/lần CBTD phải đến tận nơi sản xuất kinh doanh của KH để kiểm tra tình hình thực tế. Ngoài việc kiểm tra KH có sử dụng vốn vay đúng mục đích hay không, CBTD phải quan tâm đến tình hình pháp lý, nhân sự của công ty đặc biệt là các thành viên thuộc Hội đồng quản trị/ Hội đồng thành viên những người trực tiếp điều hành hoạt động của doanh nghiệp. Nợ quá hạn của ngân hàng không chỉ phát sinh từ phía doanh nghiệp mà còn phát sinh từ các KH cá nhân. Nên trong thời gian vay vốn cũng cần nắm bắt được 72 thông tin về công việc hiện tại của KH cá nhân đặc biệt đối với các KH mà nguồn trả nợ chủ yếu bằng tiền lương. Bởi vì khi mới bắt đầu vay vốn KH có công việc ổn định nhưng sau đó do yêu cầu công việc phải chuyển công tác hay nghỉ việc sẽ ảnh hưởng lớn đến nguồn trả nợ của KH.  Thực hiện bảo đảm tín dụng chặt chẽ Trong quá trình đi công chứng hay đăng ký giao dịch bảo đảm nhân viên tín dụng phải trực tiếp đi cùng khách hàng, không được lơ là, chủ quan trong công việc, tránh tình trạng hoán đổi sổ thật thành sổ giả (đã làm giả công chứng sẵn). Tránh những trường hợp tương tự xảy ra tại chi nhánh, làm mất đi của ngân hàng 2 tỷ đồng mà từ đó cho đến nay vẫn chưa có khả năng thu hồi được. Tại SGCTNH tất cả các khoản vay có thế chấp bằng tài sản đủ điều kiện thế chấp thì hợp đồng thế chấp đều phải được công chứng đầy đủ trước mặt công chứng viên và phải có biên nhận hoặc kết quả đăng ký giao dịch bảo đảm đầy đủ thì khoản vay đó mới được giải ngân ra. Như vậy, phần nào cũng giảm được rủi ro cho ngân hàng. Nên nhớ rằng, nếu một khách hàng có ý định lừa đảo ngân hàng thì họ có thể giữ uy tín với ngân hàng đến lần thứ 1000 nhưng đến lần thứ 1001 sẽ là lần lừa đảo lớn nhất của khách hàng. Là nhân viên tín dụng, việc tin tưởng khách hàng là cơ sở để hai bên hợp tác với nhau nhưng người làm tín dụng cần phải tỉnh táo trong mọi trường hợp, chỉ tin tưởng khách hàng ở một chừng mực nào đó mà thôi, thậm chí đôi khi cần phải biết nghi ngờ. - Tùy vào từng trường hợp cụ thể, có thể bỏ bớt một số thủ tục rườm rà, không cần thiết (tất nhiên là không ảnh hưởng đến sự an toàn của ngân hàng) để phục vụ khách hàng một cách nhanh nhất thông qua việc tìm hiểu quy trình làm việc của các ngân hàng bạn.  Phân tích đúng xu hướng phát triển ngành Tùy từng phương án sản xuất kinh doanh và dự án đầu tư cụ thể mà nhân viên tín dụng phân tích một số nội dung để đánh giá tình hình và triển vọng tương lai của khách hàng trong mối quan hệ với tình hình thị trường hiện tại như: Xu hướng phát triển của ngành, các vấn đề liên quan đến cải tiến kỹ thuật, sản phẩm và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước, vị thế hiện 73 tại của khách hàng trong ngành, xu hướng giá cả và những triển vọng trong tương lai của nguyên liệu đầu vào, sự thay đổi về số lượng và giá cả trong cung cầu sản phẩm… - Tại các chi nhánh của SGCTNH - những nơi có nhiều doanh nghiệp kinh doanh, vận tải bằng sà lan - đặc trưng của vùng sông nước thường đem lại rủi ro cao. Thực tế là các khoản nợ quá hạn phát sinh tại chi nhánh đều có liên quan đến việc cho vay mua sà lan và thế chấp bằng chính chiếc sà lan đó để vận chuyển cát, đá trên sông. Khi doanh nghiệp không có khả năng trả được nợ thì tài sản thế chấp là chiếc sà lan cũng không biết bán cho ai, giá trị khấu hao tài sản cũng đã giảm qua mỗi năm, trong khi đó khoản vay liên quan đến sà lan lên đến hàng chục tỷ đồng. Chính vì có giai đoạn cho vay đầu tư sà lan kiếm được lợi nhuận nhiều nên ai cũng muốn vay mua sà lan, đến khi thua lỗ thì ngân hàng là người gánh chịu, vì vậy mới đây SGCTNH đã có thông báo đến toàn bộ chi nhánh trong hệ thống phải hạn chế, thậm chí không cho vay đối với các khoản vay đầu tư và thế chấp bằng sà lan. SGCTNH cần rút ra bài học không cho vay tập trung vào một ngành quá nhiều mà phải biết phân tán rủi ro. Sắp tới đây SGCTNH sẽ đi vào áp dụng việc xếp hạng tín dụng nội bộ đối với toàn bộ khách hàng cá nhân, doanh nghiệp tại SGCTNH. Để có thể áp dụng được các tiêu chí trong cẩm nang xếp hạng tín dụng nội bộ đòi hỏi cán bộ tín dụng phải nắm rõ từ các chỉ tiêu tài chính cũng như phi tài chính của khách hàng, các chỉ tiêu phi tài chính gồm có: đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, trình độ quản lý và môi trường nội bộ, quan hệ với Ngân hàng, các nhân tố ảnh hưởng đến ngành, các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của Doanh nghiệp. Các chỉ tiêu tài chính gồm có: chỉ tiêu thanh khoản, chỉ tiêu hoạt động, chỉ tiêu cân nợ, chỉ tiêu thu nhập... số liệu của các chỉ tiêu tài chính được lấy từ bảng cân đối kế toán và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này sẽ giúp cán bộ tín dụng sâu sát hơn tình hình “sức khỏe” của các khách hàng mà mình đang quản lý, giảm rủi ro ở mức tối đa cho ngân hàng.  Kiểm tra tính chính xác của báo cáo tài chính Một điều quan trọng là phải kiểm tra tính chính xác của báo cáo tài chính của khách hàng vay vốn trước khi bắt đầu đi vào phân tích chúng. Các báo cáo tài 74 chính, kể cả những báo cáo đã kiểm toán, nhiều khi không chỉ được mô tả theo hướng tích cực có dụng ý, mà còn có thể vô tình sai lệch. Việc kiểm tra bao gồm xem xét các nguồn dữ liệu, dữ liệu do doanh nghiệp lập, chế độ kế toán áp dụng. Thông thường một doanh nghiệp tồn tại đến 3 báo cáo tài chính: 1 báo cáo với doanh thu và lợi nhuận “như mơ” dành để vay vốn ngân hàng, 1 báo cáo với con số lỗ hoặc lời rất ít dành để nộp thuế và 1 là báo cáo tài chính với con số thực tế để doanh nghiệp biết mình đang đứng ở vị trí nào. Nhân viên tín dụng cần phải là người sắc bén, có nhiều kinh nghiệm để có thể biết được báo cáo nào là cần thiết cho mình để có thể đi đến quyết định cho vay.  Nâng cao nhận thức của người vay Nhân viên tín dụng phải phân tích cho người vay hiểu được rằng những bất lợi của việc chậm trả hoặc không trả lớn hơn rất nhiều so với những lợi ích từ việc họ chậm trả hoặc không trả. Từ đó, nhận thức của khách hàng được tốt hơn và hiểu rõ họ cần phải làm thế nào để hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với ngân hàng. Trên đây là một số giải pháp nhằm giúp cho hệ thống SGCTNH có thể phòng ngừa và hạn chế được phần nào rủi ro tín dụng, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng và chủ động kiểm soát được tình hình nợ xấu tại ngân hàng mình. 3.3 GIẢI PHÁP NHẰM PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NÓI CHUNG 3.3.1 Về phía các Ngân hàng thương mại Theo nhận định của các chuyên gia tài chính, nợ xấu của các ngân hàng thương mại sẽ bộc lộ rõ ở giai đoạn cuối năm, khi mà doanh nghiệp đã đuối sức với món lãi vay quá cao. Thêm vào đó, dấu hiệu của nền kinh tế sẽ còn nhiều khó khăn, khó lòng để các doanh nghiệp xoay trở trả nợ đúng hạn. Để bảo đảm thanh khoản cũng như quy định tăng trưởng tín dụng đạt 20% dư nợ cho vay, một mặt các ngân hàng triệt để “thắt” các khoản vay phi sản xuất, mặt khác khẩn trương thu hồi vốn. Từ đây, nợ xấu dần lộ diện. Theo nhiều ngân hàng, không ít doanh nghiệp có các khoản nợ thuộc diện “khó đòi” từ hàng chục đến hàng trăm tỷ đồng. 75 Thực tế cho thấy, việc thắt chặt tín dụng phi sản xuất đã làm ảnh hưởng lớn đến thị trường động sản. Các công trình đang xây dựng dỡ dang nay phải “trùm mền” do các ngân hàng ngưng giải ngân các hợp đồng tín dụng đã ký kết. Doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực bất động sản không hoàn thành được công trình, không có đầu ra dẫn đến không có nguồn thu sẽ không trả nợ được cho ngân hàng. Khi đó, nợ quá hạn, nợ xấu là điều tất nhiên mà ngân hàng phải gánh chịu. Một số ngân hàng cho biết, nợ xấu phát sinh không xuất phát từ thái độ dây dưa, chây ỳ của khách hàng mà là do hoạt động kinh doanh khó khăn, khiến khách hàng khó có khả năng trả nợ. Đặc biệt, với những khách hàng thân thiết, có quan hệ giao dịch hai chiều lâu dài, có khoản vay lớn thì ngân hàng quả thật rất khó xử. Nhiều ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu lên đến 2 – 2,5% tổng dư nợ. Mặc dù gần đây, các ngân hàng ráo riết siết chặt tín dụng và thu hồi vốn bằng nhiều biện pháp, song nhiều ý kiến vẫn e ngại nợ xấu sẽ gia tăng vào cuối năm. Nợ xấu hiện phân bố không đều ở các ngân hàng. Chính điều này phản ánh năng lực hoạt động của ngân hàng trong việc thẩm định, xét duyệt hồ sơ cho vay và kiểm soát nguồn vốn vay, cũng như hỗ trợ khách hàng. Bởi trong nhiều trường hợp, khi xét duyệt hồ sơ cho vay, các dấu hiệu xấu chưa xuất hiện, chỉ đến tháng thứ 3 hoặc tháng thứ 6 mới bắt đầu lộ diện. Lúc này, cần thiết phải có sự theo dõi, kiểm soát và hỗ trợ lập tức của ngân hàng cho vay. Muốn vậy, các ngân hàng phải có hệ thống phòng thủ, tức quỹ dự phòng khá chu đáo. Nếu không tuân thủ điều này, thì ngân hàng phải nhận lấy hậu quả. Điều đó là hoàn toàn sòng phẳng trong kinh doanh. Hiện nợ xấu của các ngân hàng vẫn đang trong tầm kiểm soát (hơn 2,7% GDP). Theo thông lệ, khi tỷ lệ này tăng quá 5% GDP thì sẽ tác động xấu đến nền kinh tế. Thế nhưng, với mức lãi suất cho vay lên đến 27 – 28% tại nhiều ngân hàng như hiện nay, sẽ rất khó khăn cho doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh cũng như trả nợ ngân hàng, và áp lực đó sẽ dồn về cuối năm. Mặt khác, cho đến nay, tình hình các nền kinh tế lớn chi phối thế giới vẫn bộc lộ nhiều tín hiệu xấu. Do vậy, rất khó để các doanh nghiệp Việt Nam lội ngược dòng, tạo cú đột phá ngoạn mục nào trong kinh doanh để có doanh thu tốt và xoay sở trả nợ. Nợ xấu đe dọa hoạt động ngân hàng là tất yếu. Tuy nhiên, ta không bi quan về vấn đề này vì bản chất của nền kinh 76 tế giai đoạn này rất khó khăn, cả người tiêu dùng, doanh nghiệp và ngân hàng cũng không ngoại lệ. Nếu như người dân phải bươn chải với gánh nặng cuộc sống khi giá tiêu dùng leo thang, doanh nghiệp phải chật vật cố sức trụ lại thì phía ngân hàng cũng phải chấp nhận tình thế khó khăn chung. Đây là lúc thanh lọc các doanh nghiệp yếu và ngân hàng cũng cần như vậy. Để chất lượng tín dụng ngày càng tốt hơn, không chỉ riêng SGCTNH mà các ngân hàng thương mại nói chung cần phải:  Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý Chính sách tín dụng của NHTM là một hệ thống các biện pháp nhằm mở rộng hay thu hẹp hoạt động cho vay của một NHTM, nhằm mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận cao, đảm bảo an toàn, lành mạnh. Đây là cơ sở pháp lý cho vay, đảm bảo hiệu quả vốn tín dụng, chính sách cho vay cần quy định cụ thể trong việc xem xét đối tượng khách hàng cho vay, tiêu chuẩn ngân hàng có thể cho vay. Chính sách tín dụng là kim chỉ nam bảo dảm cho hoạt động tín dụng đi đúng quỹ đạo. Do đó, khi nhìn vào cơ cấu và chất lượng tín dụng của một ngân hàng có thể thấy được chính sách tín dụng của ngân hàng đó như thế nào. Nếu một ngân hàng quá quan tâm đến chính sách tăng trưởng tín dụng thì rủi ro tín dụng sẽ cao vì khi đó mục tiêu an toàn tín dụng không được đặt lên hàng đầu, vì mục tiêu tăng trưởng tín dụng sẽ nới lỏng điều kiện vay vốn, việc lựa chọn khách hàng sẽ không còn chặt chẽ. Ngược lại, với chính sách tín dụng thắt chặt thì việc lựa chọn khách hàng sẽ khắt khe và chỉ cho vay các khoản tín dụng an toàn, đảm bảo chắc chắn. Thông qua chính sách tín dụng, các ngân hàng cũng định hướng cho mình lĩnh vực khuyến khích cho vay và lĩnh vực hạn chế cho vay, đồng thời xây dựng cơ cấu dư nợ một cách hợp lý để phát triển bền vững.  Thực hiện đúng quy trình tín dụng Thực hiện đúng quy trình tín dụng, đủ các bước trong quy trình sẽ giảm được rủi ro về đạo đức, hạn chế tổn thất khi rủi ro xảy ra. Việc thực hiện đúng quy trình cho vay các cán bộ tín dụng có thể đánh giá được khả năng xảy ra rủi ro của khách hàng và khoản vay đó, từ đó có biện pháp để lường trước khi rủi ro xảy ra. 77  Phân tích tín dụng và đánh giá khả năng xảy ra rủi ro của mỗi khoản vay trước khi ra quyết định cho vay Trước khi quyết định cấp tín dụng, cán bộ tín dụng cần phân tích những rủi ro có thể xảy ra nếu cho vay, những rủi ro cần phân tích như rủi ro về thị trường đầu ra: do nhu cầu sản phẩm giảm, rủi ro do môi trường kinh doanh, rủi ro cạnh tranh, rủi ro do người mua chậm hoặc không thanh toán, rủi ro thiếu hụt nguyên vật liệu…từ đó đề ra các biện pháp phòng ngừa để giảm tổn thất nếu rủi ro xảy ra.  Thường xuyên đánh giá, phân loại tín dụng, xếp loại khách hàng Phân loại tín dụng là quá trình xác định cập độ rủi ro tín dụng theo một tiêu thức nhất định. Thông qua việc phân loại tín dụng ngân hàng đánh giá được các khoản tín dụng đủ tiêu chuẩn, có khả năng trả nợ. Các khoản tín dụng được theo dõi là các khoản tín dụng tiềm ẩn rủi ro, cần được giám sát thường xuyên. Các khoản nợ có khả năng mất vốn: khó thu hồi được vốn và phải theo dõi, bám sát, thậm chí kiện ra tòa để có thể phát mãi tài sản, thu hồi nợ. Xếp loại khách hàng: thông qua tiêu thức xếp loại khách hàng, ngân hàng có chính sách tín dụng thích hợp. Đối với những khách hàng xếp loại cao, có uy tín trong thanh toán nợ gốc và lãi ngân hàng sẽ có chính sách ưu đãi về lãi suất, phí cấp tín dụng, tài sản bảo đảm…Ngược lại, khách hàng xếp loại thấp ngân hàng cần thắt chặt các điều kiện tín dụng.  Trích lập quỹ dự phòng rủi ro đầy đủ Trích lập quỹ dự phòng rủi ro được coi là một biện pháp quan trọng để hạn chế rủi ro, nhất là rủi ro tín dụng. Do rủi ro là điều tất yếu xảy ra trong kinh doanh của các NHTM, các NHTM không thể giảm nó xuống bằng không, do vậy để giảm bớt tổn thất do rủi ro xảy ra, các NHTM cần trích lập đầy đủ dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Hiện các NHTMVN đang trích lập dự phòng rủi ro chung và dự phòng rủi ro cụ thể. 78  Tăng cường việc kiểm soát việc tăng trưởng tín dụng, tuân thủ đúng quy trình, nguyên tắc Trước mắt, các ngân hàng nên tăng cường hơn nữa việc kiểm soát các chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng, tăng cường kiểm tra, kiểm soát trước trong và sau khi cho vay để phát hiện, xử lý kịp thời những tình huống có dấu hiệu ảnh hưởng đến an toàn vốn. Tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 mà ngân hàng nhà nước quy định đối với các tổ chức tín dụng là dưới 20%, đến nay một số ngân hàng đã gần đạt đến mức quy định của NHNN vì vậy từ nay đến cuối năm các NH này chỉ tập trung kiểm tra, kiểm soát các khoản đã cho vay ra và thu hồi nợ đúng hạn. Nâng cao chất lượng thẩm định trên cơ sở thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn và các lĩnh vực nghiệp vụ khác. Trong quá trình thẩm định, phải tuân thủ đúng quy trình, nguyên tắc, tránh tùy tiện, cảm tính. Xem xét năng lực của khách hàng trên nhiều phương diện: tài chính, pháp luật dân sự và hành vi dân sự, hiệu quả của phương án sản xuất, kinh doanh, tính khả thi của phương án, nguồn trả nợ cho ngân hàng, những lợi ích cũng như rủi ro mà dự án đem lại khi quyết định tài trợ cho dự án. Thực hiện chuyển đổi cán bộ quản lý hồ sơ với nhau nhằm đảm bảo cán bộ tín dụng có thêm nhiều kinh nghiệm trong việc xử lý hồ sơ và các nghiệp vụ mới phát sinh, tránh tiêu cực có thể xảy ra dẫn đến việc cán bộ tín dụng cấu kết với khách hàng để rút tiền của ngân hàng. Bố trí đúng và đủ số cán bộ tín dụng theo quy định xử lý nghiêm túc đối với cán bộ có sai phạm. Việc bố trí hợp lý số lượng hồ sơ đối với từng cán bộ tín dụng sẽ giúp họ sâu sát hơn tình hình kinh doanh của doanh nghiệp mình đang quản lý, giải quyết nhanh yêu cầu của khách hàng, không bố trí quá nhiều hồ sơ cho một cán bộ tín dụng vì như thế sẽ không quản lý hết các khách hàng, quá tải công việc dẫn đến làm mất cơ hội kinh doanh của khách hàng, công việc bị tồn đọng. Đối với các dự án lớn, khoản vay lớn có tổ thẩm định riêng. Phân định rõ trách nhiệm của giám đốc, cán bộ thẩm định, cán bộ tín dụng… giúp nâng cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp trong quyết định cho vay hay từ chối cho vay của mình. 79  Xây dựng và hoàn thiện chiến lược chính sách quản trị rủi ro đúng đắn Mỗi ngân hàng phải xây dựng và hoàn thiện chiến lược chính sách quản trị rủi ro đúng đắn. Thực hiện cải tổ toàn diện các yếu tố có ảnh hưởng tác động đến năng lực quản trị rủi ro, bao gồm hoạch định và xây dựng chiến lược và chính sách quản trị rủi ro, tái cơ cấu bộ máy tổ chức, đẩy mạnh áp dụng các công cụ đo lường. Nâng cao năng lực tự quản trị rủi ro của các ngân hàng chứ không phải là khống chế từ trên ngân hàng trung ương xuống theo các tỷ lệ, chỉ tiêu nhất định, để từ đó ngân hàng thương mại cố gắng làm mọi việc để đạt chỉ tiêu đó, kể cả chuyện bóp méo số liệu. Việc đảm bảo an toàn chỉ có mỗi yêu cầu từ ngân hàng trung ương dội xuống thì vô cùng mỏng manh, bởi cơ chế đó do ngân hàng trung ương đưa ra và rồi chính ngân hàng trung ương kiểm soát và đánh giá.  Minh bạch và công khai hóa thông tin Thực hiện minh bạch và công khai hóa thông tin. Chức năng này chính là cơ sở, động lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro. Việc minh bạch và công khai hóa thông tin không chỉ được thực hiện giữa các NHTM với NHNN mà còn phải thực hiện ngay trong nội bộ các ngân hàng thương mại. 3.3.2 Về phía nhà nước Để giảm bớt rủi ro, không chỉ riêng các ngân hàng có thể làm được mà bên cạnh đó cần có sự hỗ trợ từ phía nhà nước về các mặt:  Sửa đổi văn bản pháp luật cụ thể, tránh chồng chéo Trên thực tế cho thấy các văn bản hướng dẫn liên quan đến xử lý nợ còn chưa cụ thể, chồng chéo do đó ngân hàng chưa chủ động xử lý được tài sản bảo đảm. Xử lý tài sản là một trở ngại lớn đối với ngân hàng khi chưa được tự phát mãi tài sản - nhất là khi khách hàng không hợp tác và các cơ quan chức năng nhiều khi chưa hỗ trợ hiệu quả. Hay khi bán tài sản trên đất của doanh nghiệp nhà nước, giá trị quyền sử dụng đất thường bị chính địa phương thu vào ngân sách nhà nước, không dùng để trả ngân hàng. Có trường hợp ủy ban nhân dân tỉnh thu hồi đất đang thế chấp ngân hàng cho đơn vị khác thuê, chỉ đền bù giá trị tài sản trên đất với mức thấp. Việc bán tài sản công khai chưa có hướng dẫn cụ thể vì tổ chức đấu giá liên quan đến giấy phép và quy định đấu giá. 80  Nâng cao năng lực thanh tra, giám sát của ngân hàng nhà nước Nâng cao năng lực thanh tra, giám sát của ngân hàng nhà nước đối với hoạt động ngân hàng. Để làm tốt việc này, cần khẩn trương tiến hành cải cách thanh tra ngân hàng theo hướng tập trung hóa, hình thành Tổng cục giám sát ngân hàng có Chi cục ở một số khu vực, đồng thời thay đổi phương pháp tiếp cận, quy trình nghiệp vụ thanh tra giám sát. Bởi vì: Thanh tra, giám sát hoạt động của ngân hàng là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngân hàng trung ương nhằm phát hiện và phòng ngừa những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng hiện nay đang tỏ ra yếu kém so với yêu cầu quản lý, giám sát hệ thống ngân hàng hiện đại, không theo kịp đà phát triển” (Phó Chánh Thanh Tra Ngân hàng nhà nước Nguyễn Đình Quang nhận định). Hiện nay, hệ thống ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro và yếu kém về tài chính và hoạt động. Tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh đi đôi với năng lực quản lý yếu kém trong môi trường kinh doanh nhiều rủi ro (năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh thấp). Trong khi đó, chức năng, nhiệm vụ giám sát an toàn hoạt động ngân hàng còn bị phân tán ở nhiều đơn vị. Thanh tra ngân hàng nhà nước còn hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh. Khả năng giám sát toàn bộ thị trường tiền tệ, phát hiện cảnh báo sớm, ngăn chặn, phòng ngừa và xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng còn yếu. 3.4 ỨNG DỤNG NGUYÊN TẮC BASEL VỀ QUẢN LÝ NỢ XẤU VÀ NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG TRONG XÂY DỰNG MÔ HÌNH QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG HIỆN ĐẠI Quan điểm của Ủy ban Basel là: sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng của một quốc gia, dù quốc gia phát triển hay đang phát triển, sẽ đe dọa đến sự ổn định về tài chính trong cả nội bộ quốc gia đó. Vì vậy, nâng cao sức mạnh của hệ thống tài chính là điều mà Ủy ban Basel quan tâm. Ủy ban Basel không chỉ bó hẹp trong phạm vi các nước thành viên mà mở rộng mối liên hệ với các chuyên gia trên toàn cầu. Ủy ban Basel đã đưa ra các nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín dụng, đảm bảo 81 tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động cấp tín dụng. Các nguyên tắc này tập trung vào các nội dung cơ bản sau đây: - Xây dựng môi trường tín dụng thích hợp: trong nội dung này, Ủy ban Basel yêu cầu Hội đồng quản trị phải thực hiện phê duyệt định kỳ chính sách rủi ro tín dụng, xem xét rủi ro tín dụng và xây dựng một chiến lược xuyên suốt trong hoạt động của ngân hàng (tỷ lệ nợ xấu, mức độ chấp nhận rủi ro…). Trên cơ sở này, Ban Tổng giám đốc có trách nhiệm thực thi các định hướng này và phát triển các chính sách, thủ tục nhằm phát hiện, đo lường, theo dõi và kiểm soát nợ xấu trong mọi hoạt động, ở cấp độ của từng khoản tín dụng và cả danh mục đầu tư. Các ngân hàng cần xác định và quản lý rủi ro tín dụng trong mọi sản phẩm và hoạt động của mình, đặc biệt là các sản phẩm mới phải có sự phê duyệt của Hội đồng quản trị hoặc Ủy ban của Hội đồng quản trị. - Thực hiện cấp tín dụng lành mạnh: các ngân hàng cần xác định rõ ràng các tiêu chí cấp tín dụng lành mạnh (thị trường mục tiêu, đối tượng khách hàng, điều khoản và điều kiện cấp tín dụng…). Ngân hàng cần xây dựng các hạn mức tín dụng cho từng loại khách hàng vay vốn và nhóm khách hàng vay vốn để tạo ra các loại hình rủi ro tín dụng khác nhau nhưng có thể so sánh và theo dõi được trên cơ sở xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng trong các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Ngân hàng phải có quy trình rõ ràng trong phê duyệt tín dụng, các sửa đổi tín dụng với sự tham gia của các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân tích tín dụng và bộ phận phê duyệt tín dụng cũng như trách nhiệm rạch ròi của các bộ phận tham gia, đồng thời, cần phát triển đội ngũ nhân viên quản lý rủi ro tín dụng có kinh nghiệm, kiến thức nhằm đưa ra các nhận định thận trọng trong việc đánh giá, phê duyệt và quản lý rủi ro tín dụng. Việc cấp tín dụng cần được thực hiện trên cơ sở giao dịch công bằng giữa các bên, đặc biệt, cần có sự cẩn trọng và đánh giá hợp lý đối với các khoản tín dụng cấp cho các khách hàng có quan hệ. - Duy trì một quá trình quản lý, đo lường và theo dõi tín dụng phù hợp: Các ngân hàng cần có hệ thống quản lý một cách cập nhật đối với các danh mục đầu tư có rủi ro tín dụng, bao gồm cập nhật hồ sơ tín dụng, thu thập thông tin tài chính hiện hành, dự thảo các văn bản như hợp đồng vay… theo quy mô và mức độ phức 82 tạp của ngân hàng. Đồng thời, hệ thống này phải có khả năng nắm bắt và kiểm soát tình hình tài chính, sự tuân thủ các giao kèo của khách hàng… để phát hiện kịp thời những khoản vay có vấn đề. Ngân hàng cần có hệ thống khắc phục sớm đối với các khoản tín dụng xấu, quản lý các khoản tín dụng có vấn đề. Các chính sách rủi ro tín dụng của ngân hàng cần chỉ rõ cách thức quản lý các khoản tín dụng có vấn đề. Trách nhiệm đối với các khoản tín dụng này có thể được giao cho bộ phận tiếp thị hay bộ phận xử lý nợ hoặc kết hợp cả hai bộ phận này, tùy theo quy mô và bản chất của mỗi khoản tín dụng. Ủy ban Basel cũng khuyến khích các ngân hàng phát triển và xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ trong quản lý rủi ro tín dụng, giúp phân biệt các mức độ rủi ro tín dụng trong các tài sản có tiềm năng rủi ro của ngân hàng. Như vậy, trong xây dựng mô hình quản lý rủi ro tín dụng, nguyên tắc Basel có một số điểm cơ bản: - Phân tách bộ máy cấp tín dụng theo các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân tích tín dụng và bộ phận phê duyệt tín dụng cũng như trách nhiệm rạch ròi của các bộ phận tham gia. - Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý rủi ro tín dụng. - Xây dựng một hệ thống quản lý và cập nhật thông tin hiệu quả để duy trì một quá trình đo lường, theo dõi tín dụng thích hợp, đáp ứng yêu cầu thẩm định và quản lý rủi ro tín dụng. Trên cơ sở những nguyên tắc Basel về quản lý nợ xấu và đặc thù hoạt động ngân hàng tại Việt Nam, những định hướng có thể áp dụng trong xây dựng mô hình quản trị rủi ro tín dụng như sau: - Thực hiện phân tách chức năng bán hàng, chức năng thẩm định, quản lý rủi ro tín dụng và chức năng quản lý nợ trong hoạt động cấp tín dụng cho các doanh nghiệp. Theo đó, toàn bộ việc xây dựng giới hạn tín dụng trên cơ sở xác định rủi ro tổng thể (thông qua thực hiện xếp hạng tín dụng, phân tích ngành, khả năng phát triển của khách hàng trong tương lai…) sẽ do bộ phận quản lý rủi ro tín dụng thực hiện độc lập, đảm bảo tính khách quan cũng như hạn chế sự phân tán thông tin khi cung cấp các sản phẩm tín dụng (cho vay, tài trợ thương mại…). Đối với đánh giá các rủi ro giao dịch (được hiểu theo nghĩa xem xét từng lần vay cụ thể), tùy theo 83 mức độ phức tạp và/hoặc giới hạn tín dụng được xác định, có thể giao cho bộ phận quan hệ khách hàng trực tiếp thực hiện thẩm định hoặc giao cho bộ phận phân tích tín dụng (đối với những doanh nghiệp có dư nợ lớn, tính phức tạp của các khoản vay cao). Cách thức này sẽ giúp đáp ứng nhu cầu khách hàng một cách nhanh chóng và phù hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam. Trên cơ sở sự phân tách trên, bộ phận quan hệ khách hàng sẽ chịu trách nhiệm tiếp xúc, tiếp nhận các yêu cầu của khách hàng, cung cấp thông tin cho bộ phận quản lý rủi ro tín dụng, đồng thời kiểm tra giám sát quá trình thực hiện các cam kết của khách hàng (sử dụng vốn vay, các cam kết về bảo đảm tiền vay…). Bộ phận quản lý rủi ro tín dụng thực hiện việc “giám sát song song” quá trình bộ phận quan hệ khách hàng thực hiện các quyết định phê duyệt tín dụng để phát hiện các dấu hiệu rủi ro cũng như can thiệp kịp thời như giám sát việc thực hiện kiểm tra sử dụng vốn vay, kiểm tra tài sản bảo đảm, các điều kiện giải ngân… Như vậy, quá trình đánh giá rủi ro tín dụng được thực hiện một cách tổng thể, liên tục trước, trong và sau khi cho vay, nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng, khắc phục được tình trạng không kịp thời khi chỉ sử dụng một cơ chế hậu kiểm của kiểm tra nội bộ. - Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm pháp lý của bộ phận quan hệ khách hàng, quản lý rủi ro tín dụng và quản lý nợ. Sự rạch ròi trong phân định trách nhiệm sẽ đảm bảo tính công bằng trong đánh giá chất lượng công việc, là điều kiện để quá trình xử lý các dấu hiệu rủi ro tín dụng được nhanh chóng, hịêu quả và kịp thời cũng như tạo sự yên tâm trong suy nghĩ, hành động của cán bộ các bộ phận. Đồng thời, mỗi bộ phận trong chức năng, nhiệm vụ của mình cần xây dựng các mục tiêu trong hoạt động cấp tín dụng (tỷ lệ nợ xấu chấp nhận được, số lượng và nhóm khách hàng cần thiết lập, mức độ tăng trưởng tín dụng…), các giải pháp hiện thực hóa các mục tiêu đó, đảm bảo sự phối hợp uyển chuyển, nhịp nhàng giữa các bộ phận tác nghiệp khi thực thi các mục tiêu quản trị rủi ro tín dụng đã đề ra, phù hợp với đặc thù của mỗi ngân hàng cũng như chính sách tín dụng mà ngân hàng đó đề ra. - Tiêu chuẩn hóa cán bộ theo dõi rủi ro tín dụng để đáp ứng các yêu cầu của nguyên tắc Basel. Theo đó, cần xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý rủi ro tín dụng có 84 kinh nghiệm, có kiến thức và khả năng nhanh nhạy khi xem xét, đánh giá các đề xuất tín dụng. Ngân hàng có thể xây dựng một hệ tiêu chuẩn đối với cán bộ rủi ro tín dụng như trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế, có thời gian trải qua công tác tại bộ phận quan hệ khách hàng… Những yêu cầu này sẽ giúp cho đội ngũ cán bộ quản lý rủi ro tín dụng có đủ trình độ, kinh nghiệm thực tế để xử lý nhanh chóng, hiệu quả và một sự thận trọng hợp lý trong quá trình phân tích, thẩm định và giám sát tín dụng. Đồng thời, cần nâng cao tính chuyên nghiệp của cán bộ ngân hàng, theo đó mỗi cán bộ ngân hàng trong chức năng, nhiệm vụ của mình phải thực hiện một cách đầy đủ, hết trách nhiệm và thái độ tất cả vì công việc chung trong xử lý mối quan hệ giữa các bộ phận. - Xây dựng cơ chế trao đổi thông tin hiệu quả, đảm bảo sự liên lạc thường xuyên, liên tục và cập nhật kịp thời các thông tin trọng yếu giữa các bộ phận chức năng trong hoạt động cấp tín dụng. Mô hình quản lý rủi ro tín dụng hiện đại theo nguyên tắc Basel chỉ có thể thành công khi giải quyết được vấn đề cơ chế trao đổi thông tin, đảm bảo sự phân tách các bộ phận chức năng để thực hiện chuyên môn hóa và nâng cao tính khách quan nhưng không làm mất đi khả năng nắm bắt và kiểm soát thông tin của bộ phận quản lý rủi ro tín dụng. Muốn vậy, những thông tin trọng yếu trong quá trình cho vay cần phải được bộ phận quan hệ khách hàng cập nhật định kỳ và/hoặc đột xuất và chuyển tiếp những thông tin này cho bộ phận quản lý rủi ro tín dụng phân tích, đánh giá những rủi ro tiềm ẩn. Như vậy, sự vận hành của mô hình mới có thể thông suốt và giảm thiểu những e ngại của bộ phận quản lý rủi ro tín dụng trong các nhận định cấp tín dụng. Đồng thời, ngân hàng cần xây dựng hệ thống thông tin và phân tích thông tin toàn diện, cung ứng nguồn thông tin chính xác, đáng tin cậy cho các bộ phận chuyên môn có liên quan. Các phân tích về ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế đang được các ngân hàng bắt đầu thực hiện để xây dựng kho dữ liệu phân tích tín dụng nhưng chưa được đầy đủ và thiếu tính kết nối, hỗ trợ giữa các ngân hàng trong chia sẻ thông tin. Sự hợp tác một cách toàn diện giữa các ngân hàng trong xây dựng và chia sẻ cơ sở dữ liệu thông tin về doanh nghiệp, về ngành là con đường ngắn nhất để hoàn thiện hệ thống thông tin và giảm chi phí khai thác thông tin một cách hợp lý nhất. 85 - Nâng cao tính thực tiễn và khả năng đánh giá chính xác của hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, thực hiện xếp hạng tín dụng theo định kỳ và duy trì một cách liên tục để làm cơ sở trong xây dựng chính sách khách hàng về giới hạn tín dụng, áp dụng hình thức bảo đảm tiền vay thích hợp, các định hướng tín dụng với từng khách hàng. Xếp hạng tín dụng là một công cụ hiệu quả, mang tính khoa học trong quản trị rủi ro tín dụng thông qua lượng hóa các đánh giá và đưa ra các quyết định phù hợp. Hệ thống xếp hạng tín dụng khách hàng mới được các ngân hàng Việt Nam ứng dụng trong một vài năm trở lại đây và còn cần nhiều trải nghiệm để sửa đổi, hiệu chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tế. Do đó, hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ đang và sẽ là một trong những công việc trọng tâm để nâng cao chất lượng tín dụng. Ngành Ngân hàng Việt Nam đang ở chặng đường đầu của sự phát triển, cần có nhiều đổi mới và phát triển để đạt được những chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng. Nghiên cứu và ứng dụng có chọn lọc những kinh nghiệm quốc tế trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là con đường ngắn nhất để thực hiện mục tiêu này. Nguyên tắc Basel về quản lý nợ xấu có thể xem là một trong những cơ sở nền tảng khi xây dựng mô hình quản trị rủi ro tín dụng tại Việt Nam để đảm bảo tính an toàn, hiệu quả và phục vụ cho sự phát triển kinh tế đất nước. 3.5 TIỀN ĐỀ CƠ BẢN ĐỂ THỰC HIỆN BASEL 3 ĐỐI VỚI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM Như chúng ta đã biết, điều kiện của các nền kinh tế phát triển và đang phát triển hoàn toàn khác nhau, vì vậy Basel 3 không thể áp đặt cùng một bộ tiêu chuẩn cho cả hai. Các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính cho rằng một số ngân hàng của Việt Nam chưa sẵn sàng với Basel 2 ngay tại thời điểm này, chứ chưa nói đến Basel 3. Để đạt được Basel 3 đòi hỏi phải đặt ra nhiều cơ chế mới như đầu tư về công nghệ, cơ sở hạ tầng có chất lượng, cơ sở dữ liệu thực sự phát triển trước khi bắt đầu suy nghĩ về mô hình tiên tiến để tối ưu hóa vốn của ngân hàng. Việt Nam dự định thực thi Basel 3 vào năm 2015 là hơi gấp, nếu căn cứ vào kinh nghiệm của các 86 nước khác trong việc quản lý rủi ro tín dụng. Basel 3 là giải pháp tối ưu, nhưng nếu hệ thống ngân hàng Việt Nam không có yếu tố căn bản về cơ sở hạ tầng thì không thể tiếp cận. Minh chứng cho khó khăn này, nhiều chuyên gia tài chính ngân hàng cho biết, ngay cả những NHTM lớn của Việt Nam như ngân hàng Ngoại Thương, Công Thương, Đầu Tư & Phát Triển VN, mặc dù hiện đều đảm bảo hệ số an toàn vốn tối thiểu CAR 8% theo Quyết định 457 và các quyết định bổ sung, nhưng là được tính toán theo chuẩn mực kế toán Việt Nam, nên có sự sai lệch khá xa khi tính lại theo chuẩn mực kế toán quốc tế. Bên cạnh đó, vốn cấp 2 của các ngân hàng Việt Nam hiện còn hạn chế; vốn vay mượn dài hạn để tính vào vốn tự có là hạn chế. Mặt khác, việc đánh giá lại tài sản cố định của các ngân hàng Việt Nam hàng năm để tính lại vốn tự có là chưa được thực hiện. Muốn thực hiện được Basel 3 các NHTM cần phải có chiến lược rõ ràng, phải đánh giá cụ thể tình hình hiện tại, xác định những vấn đề có thể triển khai ngay để thực hiện cũng như thay đổi việc quản lý. Việc này sẽ mất thời gian khoảng 4 - 5 năm, nhưng làm được sẽ là điều tốt cho nền kinh tế Việt Nam. Đặc biệt, trong con mắt các nhà đầu tư nước ngoài, họ sẽ yên tâm hơn khi nhìn vào thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam. Thế nhưng, lại có ý kiến cho rằng: “Không nên coi Basel 2, Basel 3 như là những biểu tượng chất lượng đảm bảo an toàn. Basel 1 được tạo ra những năm 90 của thế kỷ trước để đối phó với tác động của sự sụp đổ TTCK. Sau đó là Basel 2 nhưng vẫn xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 và giờ đây là Basel 3. Vấn đề là sắp tới sẽ là gì? Các nhà quản lý cần quan sát, theo dõi đâu là tập quán tốt để áp dụng trên thị trường trong nước. Việt Nam sẽ còn đi xa hơn, chứ không phải là câu hỏi: liệu năm 2015, Việt Nam thực hiện Basel 3 không? Quan trọng là ngân hàng tốt nhất, chứ không phải là ngân hàng tuân thủ tốt nhất” (ông Philippe Carrel, Phó chủ tịch điều hành, quản lý rủi ro của Thomson Reuters). Việc tiếp cận với các chuẩn mực của Basel, đặc biệt là Basel 3 đòi hỏi kỹ thuật phức tạp và chi phí khá cao. Đối với một nước có hệ thống ngân hàng mới đang ở giai đoạn phát triển ban đầu như Việt Nam, việc áp dụng Basel 3 gặp nhiều 87 khó khăn, thách thức và mất nhiều thời gian. Tuy nhiên, trước xu thế hội nhập và mở cửa thị trường dịch vụ tài chính – ngân hàng với nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng mới, việc từng bước áp dụng các chuẩn mực Basel tại Việt Nam là yêu cầu cấp thiết nhằm tăng cường năng lực hoạt động, giảm thiểu rủi ro đối với các ngân hàng thương mại và nâng cao năng lực cạnh tranh trong thị trường tài chính quốc tế, tạo điều kiện cho các ngân hàng Việt Nam có thể mở rộng thị trường trong thời gian tới. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Tác giả nêu ra mục tiêu mà ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương phải đạt được trong năm 2011 và định hướng phát triển từ đây đến năm 2015. Từ việc phân tích những tồn tại trong việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại SGCTNH, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế như: đối với SGCTNH là đào tạo, tuyển chọn cán bộ có năng lực giải quyết công việc, có chế độ đào tạo, khen thưởng, kỷ luật rõ ràng, thực hiện bảo đảm tín dụng chặt chẽ. Đối với cán bộ tín dụng tại SGCTNH thì phải biết phân tích xu hướng phát triển ngành, kiểm tra tính chính xác của báo cáo tài chính, không ngừng nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng, nâng cao nhận thức của người vay. Bên cạnh những kiến nghị cho SGCTNH, tác giả cũng đề ra những giải pháp chung về phía các ngân hàng thương mại và về phía nhà nước. 88 KẾT LUẬN Rủi ro tín dụng là khả năng vỡ nợ của khách hàng, là khả năng khách hàng nhận khoản vốn vay không thực hiện, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân hàng, gây tổn thất cho ngân hàng, đó là khả năng khách hàng không trả, không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi ngân hàng. Hậu quả mà rủi ro tín dụng đem lại cũng thật khôn lường, khiến cho ngân hàng không thu được nợ gốc và lãi, NH bị suy giảm doanh thu, trong khi đó NH vẫn phải trả lãi tiền gửi cho khách hàng của mình, chi phí tăng do các vụ kiện tụng, làm cho lợi nhuận giảm dần tới lỗ. Nợ quá hạn chính là hậu quả mà NH phải gánh chịu. Thời gian qua, tình hình thị trường có nhiều biến động bất lợi ảnh hưởng không tốt đến hoạt động của doanh nghiệp như lãi suất cao, nguồn vốn bị siết chặt, Ngân hàng không cho vay nên nhiều doanh nghiệp cố tình chây ỳ không trả nợ khi đến thời hạn đáo hạn khoản vay vì họ cho rằng thà chịu lãi suất quá hạn để giữ lại vốn kinh doanh còn hơn thanh lý hợp đồng mà không được vay lại. Chính điều này đã góp phần làm cho tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng ngày càng tăng. Thực tế chỉ ra rằng, tại hầu hết các ngân hàng, chính áp lực tăng trưởng tín dụng cao để hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế là một trong những cản trở đối với việc giảm mạnh tỷ lệ nợ xấu. Nếu như các ngân hàng tập trung xử lý nợ xấu một cách quyết liệt và không để phát sinh thêm các khoản nợ xấu mới thì chắc chắn sẽ phải thắt chặt tín dụng. Một hệ quả tiếp theo là các doanh nghiệp sẽ khó khăn hơn trong việc tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng. Đó là điều mà chắc chắn không Ngân hàng nào mong muốn. Vậy phải làm thế nào để vừa có thể tăng trưởng tín dụng vừa đảm bảo an toàn cho khoản vay? Chúng ta cần làm gì để phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng? Với mục tiêu phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng ở mức thấp nhất có thể, luận văn đã đi sâu tìm hiểu phân tích những nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan dẫn đến rủi ro tín dụng như môi trường kinh tế, môi trường pháp lý không thuận lợi, sự nhận thức chưa đầy đủ, thực hiện chưa nghiêm túc các quy định hiện hành từ phía Ngân hàng, rủi ro đạo đức trong kinh doanh NH, chưa phát huy hết 89 vai trò công tác kiểm tra nội bộ, công tác giám sát và quản lý nợ sau khi cho vay còn yếu, sự thiếu thông tin về khách hàng, báo cáo tài chính thiếu minh bạch, sự thiếu thiện chí trong trả nợ của khách hàng... Bên cạnh việc phân tích những mặt đạt được trong hoạt động tín dụng tại SGCTNH, luận văn còn chỉ ra những tồn tại trong hoạt động cho vay như dư nợ cho vay trung dài hạn vẫn chiếm tỷ lệ cao so với nguồn vốn huy động trung dài hạn, nợ nhóm 2 - 5 đang có xu hướng tăng, SGCTNH vẫn chưa “hiện đại hóa” công tác kiểm tra giám sát nội bộ, cho vay tập trung vào một ngành nghề nào đó dẫn đến nếu thua lỗ thì KH cũng sẽ mất khả năng chi trả cho NH, công tác kiểm tra sau khi cho vay, quản lý tài sản bảo đảm còn yếu kém,... Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân, những tồn tại trong hoạt động cho vay dẫn đến rủi ro tín dụng, luận văn đã tập trung đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, góp phần phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương. Các giải pháp đó là đào tạo, tuyển chọn cán bộ có năng lực giải quyết công việc, kiểm tra tính chính xác của báo cáo tài chính, không ngừng nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng, tăng cường kiểm tra giám sát vốn vay trước trong và sau khi giải ngân, thường xuyên kiểm tra tài sản bảo đảm và nâng cao nhận thức của người vay... Từ những giải pháp mà luận văn đã đưa ra, mong rằng SGCTNH có thể lựa chọn cho mình giải pháp khả thi nhất, phù hợp nhất để có thể nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động tín dụng, góp phần phòng ngừa và hạn chế rủi ro từ các khoản vay ở mức thấp nhất. Đảm bảo tăng trưởng tín dụng dựa trên nguyên tắc an toàn, bền vững.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphong_ngua_va_han_che_rui_ro_tin_dung_tai_ngan_hang_tmcp_sai_gon_cong_thuong.pdf
Tài liệu liên quan