Chè là loại uống phổ biến nhất ở nước ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới. Trong điều kiện của nền sản xuất hàng hoá như hiện nay, để sản xuất chè thì cần phải giải quyết nhiều vấn đề, như thị trường, nhất là thị trường xuất khẩu được xem là nhân tố quyết định .
Với những kết quả mà Tổng công ty Chè Việt Nam đã đạt được trong hoạt động xuất khẩu chè tuy chỉ là bước khởi đầu, song nó đã góp phần vào sự phát triển của ngành chè nói riêng và nền kinh tế nói chung, tuy nhiên chúng ta phải cố gắng nhiều hơn nữa để đẩy mạnh quá trình Công Nghiệp Hoá - Hiện Đại Hoá đất nước .
Qua quá trình thực tập ở Tổng công ty chè Việt Nam, em đã tập trung nghiên cứu hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty. Cùng với tình hình thực tế, học hỏi kinh nghiệm của các cán bộ nghiệp vụ của Tổng công ty em đã đưa ra một số giải pháp cũng như kiến nghị với Nhà nước nhằm mục đích nâng cao hiệu qủa hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Tổng công ty. Qua đây, em hy vọng phần nào giúp Tổng công ty khảo sát, tìm ra những giải pháp tối ưu nhằm mục đích duy nhất là hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động và kinh doanh xuất khẩu của Tổng công ty trong thời gian tới.
Tuy nhiên, do thời gian và trình độ của bản thân còn nhiều hạn chế nên những phân tích đánh giá, kiến nghị chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong được lượng thứ và chỉ bảo để tiếp tục nghiên cứu được hoàn chỉnh hơn .
97 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1348 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chè tại Tổng Công Ty chè Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
loại quả tinh dầu…
b. 2006-2010:
- Thâm canh 104.000 ha chè kinh doanh.
- Chăm sóc 2 năm 6.500 ha chè mới trồng của 2004-2005.
- Sản lượng chè khô đạt 116,1-147,7 nghìn tấn, trong đó xuất khẩu 85-110 nghìn tấn.
- Kim ngạch đạt 136-200 triệu USD, doanh thu chè nội tiêu 775-1.000 tỉ đồng.
- Mặt hàng chè bao gồm: chè đen OTD (7 mặt hàng) với cơ cấu 80% ba mặt hàng tốt, chè đen CTC (9 mặt hàng) với cơ cấu 70% ba mặt hàng tốt, chè Nhật Bản (4măt hàng), chè xanh Pouchung Đài Loan và trên 30 mặt hàng chè xanh, chè ướp nội tiêu, chè túi nhúng 6 loại, chè xanh đặc sản từ các vườn chè giống mới dạng Olong, chè bán lên men, chè banh xuất khẩu và chè đen đặc biệt cao cấp của vùng Mộc Châu, Tam Đường, chè nước uống nhanh…
- Các mặt hàng khác bao gồm : các loại chè thanh nhiệt, bồi bổ sức khoẻ, chè chữa bệnh…
- Các sản phẩm khác từ khai thác các tiềm năng của vùng chè như: bột khoai NA dùng làm nguyên liệu cho mỹ phẩm và dược phẩm, đậu đỗ, các loại quả, tinh dầu, các sản phẩm đồ hộp khác…
3. Các chỉ tiêu kế hoạch trong xuất khẩu chè của Tổng CôngTy Chè Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2005.
Trên cơ sở quan điểm định hướng phát triển và xuất nhập khẩu của ngành chè Việt Nam, Tổng công ty Chè Việt Nam đưa ra một số chỉ tiêu phấn đấu sau:
Đến năm 2001 tăng các chỉ tiêu từ 6-10%, giá trị tổng sản lượng tăng10% kim ngạch xuất khẩu tăng10%, sản lượng chè búp tươi tự sản xuất tăng6%, các khoản nộp ngân sách tăng 9%, trồng mới chè 1000 ha.Đến năm 2005 phấn đấu các chỉ tiêu đều tăng 5-10% mỗi năm.
Bảng 16: Kế HOạCH THựC HiệN SảN XUấT KiNH DOANH NĂM 2001, dự KiếN NĂM 2005
Chỉ tiêu
ĐVT
Kế hoạch
2001
Dự kiến
2005
So sánh
%
Giá trị tổng sản lượng
Tr Đg
382.321
462.177
120,89
Giá trị hàng hoá thực hiện
Tr Đg
442.000
620.000
140,27
Sản lượng chè búp tươi sản xuất
Tấn
40.650
62.505
153,76
Diện tích chè tổng số
Ha
6.678
8.117
121,55
Năng suất chè
Tấn/ha
7,5
8,1
108,00
Kim ngạch xuất khẩu
USD
32.600.000
46.600.000
142,94
Kim ngạch nhập khẩu
USD
5.000.000
8.000.000
160,00
Tổng sản lượng chè xuất khẩu
Tấn
21.000
30.000
142,86
Lợi nhuận
Tr Đg
15.000
20.000
133,33
Các khoản nộp ngân sách
Tr Đg
160790
21.460
127,81
Tổng số lao động trong danh sách
Người
13.200
16.000
121,21
Tổng quỹ tiền lương
Tr Đg
79.200
134.400
169, 70
Lương bình quân
Đg/ng/th
500.000
700.000
140, 00
Nguồn: Tổng Công ty chè Việt Nam.
Để thực hiện mục tiêu đến năm 2005, Tổng công ty lên kế hoạch thực hiện các chương trình sau :
@Thị trường:
Mục tiêu là vẫn giữ vững thị trường hiện có, mở ra các thị trường mới bằng việc sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm chè có chất lượng cao và giá thành hợp lý, hấp dẫn người tiêu dùng.
Thị trường với mục tiêu xuất khẩu là chính, dành 80% sản phẩm để xuất khẩu, vì vậy cần:
- Tiếp tục phát triển thị trường Trung cận Đông, đảm bảo ở mức 20-25 ngàn tấn/năm.
- Châu Âu : 10-15 ngàn tấn/ năm.
- Châu á :10-15 ngàn tấn / năm.
Để trong vòng 5 năm tới cả nước có thể xuất khẩu hàng năm từ 40-70 ngàn tấn, riêng Tổng công ty đến năm 2005 có thể xuất được 30.000 tấn chè, phấn đấu tăng10% chè đóng gói tiêu thụ đến người tiêu dùng, nâng giá chè xuất khẩu vào năm 2005 là 2-2, 5 USD.
@ Chương trình về giống chè.
Mục tiêu đến năm 2005 phấn đấu có được 30% số diện tích chè được trồng (dặm và mới) bằng giống chè có chất lượng cao. Tổng diện tích vườn ươm giống phải đạt 120 ha để đủ giống trồng 5000 ha /năm.
@ Chương trình cải tạo đất và giữ ẩm cho chè.
Làm cho đất màu mỡ trở lại, bằng cách bón phân hữu cơ, phân sinh hoá tổng hợp, trồng cây phân xanh, cây bóng mát để tạo mùn…Thực hiện tưới cho cây chè bằng các biện pháp hợp lý, phù hợp với từng điều kiện như: tạo hợp thuỷ, đắp hồ ngăn nước, đào giếng… Sử dụng các hình thức tưới phun khác nhau như: tưới bằng nước tự nhiên, bón phân nước vào giống chè…
@ Chưong trình chế tạo thiết bị chế biến chè trong nước.
Lựa chọn các ưu điểm và tính hợp lý phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam của các thiết bị chế biến chè của các nước như: Nga, Ân Độ, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, ta đang có để thiết kế mẫu thiết bị tốt nhất cho Việt Nam. Cải tạo một số thiết bị đang sử dụng và tiến tới sản xuất các máy lên men liên tục để trang bị cho các nhà máy chè. Đồng bộ hoá và thống nhất trong khâu sàng phân loại để tạo ra mặt hàng đồng đều giữa các nhà máy. Tổ chức chế tạo trong nước thiết bị toàn bộ để cung cấp cho các vùng chè.Tiến tới chỉ nhập khẩu những thiết bị mà ta không thể chế tạo đươc nhằm tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước.
@ Chương trình đa dạng hoá sản phẩm tổng hợp có chè.
Nghiên cứu và tổ chức sản xuất các loại chè ướp hương hoa quả, các loại nước chè đóng hộp, các loại chè, bánh chè, …chế biến các loại chè thuốc như: chè dưỡng thọ cho người già, chè chống sỏi thận, chè đắng và các loại mộc thảo khác. Nâng mức từ 1.000-10.000 tấn/năm.
@ Chương trình khai thác sản phẩm từ đất chè.
Tổ chức trồng và khai thác các tiềm năng của đất đai Trung du-miền núi các sản phẩm như : măng, gừng, đậu, tỏi, vừng, cây ăn quả, …chăn nuôi gia súc, gia cầm tạo ra những sản phẩm hàng hoá để tăng hiệu quả sử dụng đất và tăng thu nhập cho người nông dân.
@ Chương trình đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng cho sự phát triển của ngành chè.
Có kế hoạch cụ thể hàng năm với các Trường đại học như: Bách khoa, Nông nghiệp và các trường quản lý kinh tế về đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật đủ cho yêu cầu phát triển Tổng công ty từ nay đến năm 2005, phải có 1000 cán bộ từ Trung học đến Đại học, có đội ngũ công nhân tay nghề giỏi.
@ Chương trình xây dựng vùng chè cao sản.
Xây dựng vùng chè cao sản ở Mộc Châu-Sơn La và Tam Đường-Lai Châu với quy mô mỗi vùng khoảng 3.000 ha và vùng Mường Lay là vùng chưa khai thác và có nhiều tiềm năng nghiên cứu phát triển tập trung ở đây khoảng 10-15.000 ha chè để sản xuất ra các loại chè có chất lượng cao và chè hữu cơ để cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Mục tiêu năng suất của vùng này là 15 tấn tươi/ha để có 30.000 tấn sản phẩm chè cao cấp với giá trị 2500-3000 USD/tấn và giải quyết thêm 20.000 lao động có việc làm.
Dự kiến hai vùng này chỉ trồng các loại giống thuần chủng đặc sản và giống chè thơm để sản xuất các loại chè cao cấp.Phấn đấu mỗi năm xuất khẩu từ 500-1.000 tấn loại chè này, có giá trị cao gấp 2-3 lần so với chè thường.
@ Chương trình tổ chức và bố trí lại sản xuất.
Theo chủ trương của Nhà Nước, từ nay đến năm 2005 phải tiến hành cổ phần hoá tất cả các công ty chè. Do vậy, Tổng công ty phải bố trí sắp xếp lại theo hướng cổ phần hoá tất cả các đơn vị thành viên. Theo hướng này, các thành viên sau khi cổ phần hoá sẽ hoạt động theo luật doanh nghiệp.Tổng công ty chủ yếu lo khâu thị trường, bảo đảm các dịch vụ về giống, định hướng phát triển, chuyển giao công nghệ, hợp tác quốc tế.
III. MộT Số Giải PHáP CHủ YếU NHằM THúC ĐẩY HOạT động xuất khẩu chè:
Qua phân tích thực trạng xuất khẩu chè ở Tổng Công Ty Chè Việt Nam, đồng thời có tham khảo bài học kinh nghiệm của một số nước, có thể thấy rằng đẩy mạnh xuất khẩu ở Tổng Công Ty Chè là một vấn đề hết sức quan trọng góp phần thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế. Đẩy mạnh xuát khẩu ở đây có nghĩa là làm sao để thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tận dụng được nhiều nhất các vị thế so sánh của đất nước, tăng số lượng và chất lượng từng mặt hàng xuất khẩu nhằm thu ngoại tệ và nâng cao hiệu quả xuất khẩu.
Thúc đẩy xuất khẩu là thúc đẩy bán hàng, nên nguyên lý chung là mở rộng thị trường xuất khẩu và thực hiện tốt việc tạo nguồn hàng, giảm chi phí.
Trên cơ sở thực trạng kinh doanh XK mặt hàng chè ở Tổng Công Ty Chè Việt Nam và cũng theo hướng trên, tôi xin đưa ra một số biện pháp sau:
A.Về phía công ty:
1. Nhóm các biện pháp duy trì và mở rộng thị trường :
Thị trường là khâu quan trọng trong quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
Nhờ có thị trường người sản xuất và người tiêu dùng mới có thể trao đổi hàng hoá, thoả mãn và hiểu được nhu cầu của nhau.Không có thị trường, hàng hoá sản xuất ra bị tồn đọng, sản xuất bị đình trệ dẫn tới phá sản. Vì thế, mở rộng thị trường đồng nghĩa với bán được nhiều hàng, tăng nhanh doanh thu và xa hơn nữa là tạo được vị thế của mình trên thị trường thế giới.
Như đã nêu ở trên thị trường của Tổng công ty đã có nhiều thuận lợi trong mấy năm lại đây. Song thuận lợi này mới chỉ là nhất thời. Do vậy , củng cố và mở rộng thị trường là một vấn đề hết sức quan trọng đối với Tổng công ty .
1.1. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị trường.
Đối với Tổng công ty, hoạt động nghiên cứu thị trường nước ngoài thời gian qua còn chưa được chú ý. Mục tiêu của việc ngiên cứu thị trường là nhằm xác định các bạn hàng ổn định lâu dài cho từng mặt hàng xuất khẩu, xác định dung lượng hàng xuất khẩu tính cho mỗi loại mặt hàng, mỗi loại thị trường khác nhau là bao nhiêu… Đồng thời nhằm phát hiện ra thị trường mới. Sản phẩm chè của Tổng công ty đã có mặt trên thị trường quốc tế, có những thị trường đã trở thành quen thuộc, có những thị trường mới. Do vậy củng cố và tìm kiếm thị trường chè là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của chiến lược thị trường xuất khẩu của Tổng công ty .
Với thị trường quen thuộc như Liên Bang Nga, các nước thuộc SNG, các nước Đông Âu đã nhập Chè Việt Nam từ 40 năm nay. Đây là thị trường quen thuộc nên cần cố gắng duy trì phát triển ổn định và tăng thị phần nhập khẩu chè của họ đối với chè của ta. Cần chú ý tới công tác tiếp thị, nghiên cứu nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng tại thị trường này để cải tiến chất lượng sản phẩm xuất khẩu kể cả bao bì, nhãn mác.
Thị trường Trung cận Đông - đây là thị trường mới bao gồm Irắc, Iran, Libi, Giooc Đani…tuy là thị trường mới nhưng là khách hàng có nhiều tiềm năng, chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Tổng công ty .Dự kiến đến năm 2005 nhu cầu nhập khẩu của các nước Cận đông là 383,6 nghìn tấn , trong đó: Aicập: 104, 6 nghìn tấn; Irac 39,1 nghìn tấn; Iran 57,1 nghìn tấn…(Tài liệu FAO). Điều này cho thấy nhu cầu nhập khẩu của các nước này là rất lớn so với lượng chè mà ta có khả năng cung ứng. Tuy đây là thị trường mới nhưng mấy năm gần đây đã nhập nhiều chè của Việt Nam. Do vậy đây là thị trường đáng chú ý cần có chính sách giữ vững và ổn định để tăng khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Cần đẩy mạnh hơn nữa khâu tiếp thị, quảng cáo giới thiệu sản mới của chè nhất là những sản phẩm tổng hợp của chè để có thể cạnh tranh với các đồ uống khác thích ứng với tập quán không dùng đồ uống có cồn của người dân theo đạo Hồi.
Thị trường Châu á như Pakistan, Singapore, Nhật Bản, Đài Loan…Có thể nhập từ 7000-10000 tấn/năm. Đây cũng là thị trường mới, thị hiếu lại gần giống với thị hiếu của người Việt Nam, tuy nhiên thị trường này đòi hỏi chất lượng cao hơn. Khâu chế biến sản phẩm chè đối với thị trường này cần lưu ý cải tiến chất lượng mẫu mã, bao bì, nhãn mác.
Các thị trường khác như Bắc Mỹ và Tây Âu gồm các nước như: Anh, Mỹ…đã sử dụng sản phẩm chè của Tổng công ty. Đây là thị trường mới, rất “khó tính” nhưng cũng có nhiều hứa hẹn. Tăng cường công tác tiếp thị dưới nhiều hình thức khác nhau để mở rộng thị trường Tây Âu là một việc hết sức quan trọng. Để làm tốt công tác này, Tổng công ty cần phải đầu tư hơn nữa việc nắm bắt thông tin thị trường chè trên thế giới cũng như tăng cường kinh phí nghiên cứu những xu hưóng biến đổi của thị trường chè. Ngoài ra, việc thu nhập và xử lý thông tin về thị trường phải xác định được giá cả từng mặt hàng chè trong từng thời điểm trong những năm gần đây, thị trường chè thế giới có nhiều biến động thất thường, giá cả có lúc tăng vọt đến mức cao nhất song cũng có lúc giảm xuống mức thấp nhất. Sự chênh lệch giá này có thể làm cho một số doanh nghiệp phá sản nếu không nắm vững và phân tích thông tin một cách chính xác hoặc có thể gặp phải những thông tin mang tính chiến thuật của các tổ chức nhằm tạo ra những cơn sốt giá giả tạo. Vì vậy, công tác thông tin tiếp cận thị trường để tạo ra thị trường xuất khẩu ổn định là hết sức cần thiết. Nó là cơ sở để có đối tác thích hợp về đầu tư, khai thác, trồng trọt, chế biến của Tổng công ty .
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để công tác nghiên cứu thị trường, tìm kiếm cơ hội xuất khẩu có hiệu quả?
- Trước hết Tổng công ty cần phải thành lập bộ phận chuyên thu thập xử lý các thông tin về thị trường chè, tổ chức lớp học bồi dưỡng để nâng cao năng lực của đội ngũ làm công tác marketing, cần có chính sách tuyển chọn đội ngũ làm công tác này một cách kỹ lưỡng và hiệu quả, cán bộ làm công tác marketing phải nhạy bén, năng động, biết phân tích các tình huống trên thị trường một cách chính xác để có phương án kinh doanh phù hợp.
- Hai là Tổng công ty cần phải thấy rằng các cuộc Hội thảo, Hội chợ, Triển lãm được tổ chức trong nước và Quốc tế là những cơ hội tốt cho Tổng công ty trao đổi thông tin, nắm bắt nhu cầu chào hàng, bán hàng và ký kết hợp đồng… Tổng công ty cũng cần tranh thủ thu thập thông tin, tiếp xúc với các đối tác, bạn hàng, đối thủ cạnh tranh để chọn cho mình hướng phát triển kinh doanh thích hợp đặc biệt trong việc lựa chọn thị trường và mặt hàng phù hợp với thị trường đó. Khi cần thiết phải nghiên cứu kỹ hơn về một thị trường nào Tổng công ty có thông tin để cử cán bộ có kinh nghiệm trực tiếp sang các thị trường này để có thể tìm hiểu thông tin một cách chính xác hơn.
- Ba là thông qua các chi nhánh đại diện tại nước ngoài, Tổng công ty xúc tiến việc trao đổi tiếp xúc với các bạn hàng tại thị trường đó. Tổng công ty nên có mối quan hệ tốt với khách hàng, thường xuyên gặp gỡ với khách hàng để lắng nghe ý kiến của khách hàng và có những chiến lược mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Tổng công ty có thể thành lập thêm nhiều chi nhánh khác, điều này giúp Tổng công ty duy trì sự hiện diện của mình trên thị trường Quốc tế, quan hệ thường xuyên với các tổ chức, các doanh nghiệp để qua đó khuếch trương hoạt động của mình.
Có thể nói công tác tìm kiếm thông tin và tiếp cận thị trường là hoạt động quan trọng và không thể thực hiện một cách nửa vời. Nó đòi hỏi Tổng công ty phải nỗ lực và có phương án đầu tư thích đáng thì mới mong đạt kết quả tốt . Nó sẽ giúp cho Tổng công ty xác định đúng đâu là thị trường cho mình và có biện pháp khai thác hiệu quả thị trường đó.
1.2. Hoàn thiện công nghệ quảng cáo, chào hàng, hoạt động Marketing
Kết quả cuối cùng của hoạt động Marketing là đem đến cho người tiêu dùng cái mà họ cần chứ không phải cái mà mình có. Trên thực tế, hoạt động Marketing của Tổng công ty chưa mang chức năng là sự thúc đẩy cho cả sản xuất, xuất khẩu và nhập khẩu. Kế hoạch Marketing chỉ dừng lại ở nội dung như: Doanh số cần đạt là bao nhiêu, lãi bao nhiêu, dự kiến bán sản phẩm ở thị trường nào.
Trong thời gian tới, Tổng công ty cần xây dựng các hỗ trợ Marketing cho kinh doanh xuất khẩu chè. Các hỗ trợ này cần phải hoàn thiện hơn khi mà có rất nhiều đầu mối cùng tham gia hoạt động xuất khẩu chè.
Chính sách giao tiếp và khuyếch trương phải trở thành công cụ quan trọng để Tổng công ty áp dụng nhằm mang đến cho người tiêu dùng hình ảnh sản phẩm của Tổng công ty. Để giúp cho sản phẩm chè có cơ hội thâm nhập sâu hơn vào các thị trường, Tổng công ty cần đề ra các kế hoạch tăng cường tham ra giới thiệu sản phẩm tại các cửa hàng, quầy hàng, hội chợ triển lãm. Nếu có thể Tổng công ty nên đứng ra tổ chức các cuộc triển lãm. Thực hiện được điều này chắc chắn sễ thu hút được sự quan tâm của khách hàng cả trong và ngoài nước.
Về vấn đề nhãn hiệu, mặc dù những năm gần đây nhãn hiệu chè của Tổng công ty đã được đổi mới, các bao bì, mẫu mã đã có nhiều tiến bộ như nhãn hiệu chè Dragon, Bamboo; nhãn hiệu chè Tùng Lộc; các loại chè xanh, chè đen của nhà máy chè Kim Anh… Song so với nhãn hiệu của các loại chè nhập ngoại như Lipton, Hồng trà, Dimah…thì ta vẫn còn kém xa. Vì vậy Tổng công ty cần phải tìm hiểu đầu tư để liên tục đổi mới mẫu mã bao bì sản phẩm. Tổng công ty cần phải đa dạng hoá sản phẩm, cụ thể là làm ra nhiều loại chè thích hợp với thị hiếu dân tộc ở mỗi nước. Đồng thời áp dụng những phương thức bán hàng linh hoạt như: Buôn bán đối lưu, kí kết hợp đồng đại lý kinh tiêu, đại lý gửi bán…
Về chiến lược phân phối hiện nay, chủ yếu hàng xuất khẩu của Tổng công ty bán cho các nhà trung gian, môi giới, có một lượng rất ít có thể xuất trực tiếp cho người tiêu dùng ở thị trường Nga. Điều này làm Tổng công ty mất đi một khoản lợi nhuận mà đáng lẽ ra phải được hưởng từ các trung gian này. Trong thời gian tới Tổng công ty cần đề ra các chiến lược để có thể xuất được trực tiêp sản phẩm ra nước ngoài tránh qua nhiều trung gian. Về chiến lược giá cả, hiện giá cả sản phẩm chè xuất khẩu của Tổng công ty tuỳ thuộc rất nhiều vào giá thị trường chè thế giới, đó cũng là hiện tượng chung của các loại hàng nông sản Việt Nam. Vì vậy, Tổng công ty cần tổ chức việc nghiên cứu giá một cách kỹ lưỡng để tránh tình trạng khi giá chè trên thế giới giảm đi thì ta xuất, khi giá lên cao ta lại không chủ động ký kết được các hợp đồng xuất hoặc không có hàng để xuất. Nếu Tổng công ty làm tốt công tác dự đoán giá cả sẽ tránh được thiệt hại, rủi ro. Khi giá tăng cao, không nên xuất khẩu một lượng lớn ngay từ đầu mà có thể chờ giá tăng cao hơn xuất đạt lợi nhuận cao hơn. Ngược lại, nếu dự đoán giá giảm cần nhanh chóng xuất khẩu hết hàng trước khi hàng có dấu hiệu giảm giá tránh thiệt hại…
Chiến lược Marketing –mix bao gồm chiến lược sản phẩm, chiến lược giá, chiến lược phân phối, chiến lựơc xúc tiến. Thông thường, để xâm nhập vào thị trường mới hoặc củng cố thị trường quen thuộc. Tổng công ty nên thực hiện cả 4 chiến lược nhưng với mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Để củng cố thêm các mối quan hệ với các bạn hàng truyền thống, cần có chính sách về giá cả và một số điều kiện ưu đãi hơn cho các bạn hàng lâu năm .
Để thâm nhập vào thị trường mới nên áp dụng chiến lược sản phẩm (mẫu mã, chất lượng bao bì), chiến lược xúc tiến (tăng cường quảng cáo, chào hàng, …) và có thêm sự ưu đãi về giá cả .
Tuy nhiên, dù trong trường hợp nào, Tổng công ty cũng nên coi trọng, giới thiệu quảng cáo sản phẩm để khách hàng có sự hiểu biết và nhận thức tốt về sản phẩm của mình. Đặc biệt trong công tác giao nhận, thanh toán, thực hiện hợp đồng, … Tổng công ty luôn phải tạo và nâng cao uy tín để khách hàng có lòng tin vào Tổng công ty cũng như sản phẩm của Tổng công ty .
Việc xây dựng một biểu tượng tốt đẹp về hàng hoá trong con mắt của khách hàng là một vấn đề rất khó khăn và lâu dài. Hoạt động Marketing có tác dụng tạo hình ảnh của Tổng công ty cùng với những mặt hàng của mình. Mà mỗi khi hàng hoá đã có một biểu tượng riêng, uy tín với khách hàng thì việc tiêu thụ xuất khẩu sản phẩm và những sản phẩm tương tự như vậy hay những sản phẩm khác mang nhãn hiệu của sản phẩm đó sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.
1.3. Xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh trong xuất khẩu chè
Bất cứ một công ty nào nếu đã xác định làm ăn lâu dài đều phải xây dựng cho mình chiến lược phát triển trong tương lai. Dựa trên những thông tin thu nhập được kết hợp với thực trạng của công ty để xây dựng chiến lược kinh doanh làm khung cho sự ổn định và phát triển của công ty.
Như trong phần nhận xét đã đề cập ta thấy rằng việc xây dựng của Tổng công ty còn nhiều hạn chế, vì vậy trong thời gian tới Tổng công ty cần xây dựng cho mình một chương trình kế hoạch và chiến lược một cách có hiệu quả.
Do đặc tính của nhu cầu cần sử dụng mặt hàng chè trên thế giới ở từng thị trường là không ổn định lâu dài như các loại sản phẩm khác, mặt khác nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng cao. Bởi vậy, khi xây dựng chiến lược xuất khẩu không nên tập trung quá nhiều vào một mặt hàng, vào những thị trường quen thuộc mà phải chú ý đa dạng hoá các loại chè, mẫu mã, kiểu dáng hương vị riêng… Xây dựng chiến lược xuất khẩu là định hướng hoạt động lâu dài cho Tổng công ty, do vậy nó phải dựa trên cơ sở kết quả của công tác nghiên cứu thị trường và sự cân nhắc yếu tố trong nước, bản thân Tổng công ty. Một điều đáng chú ý khác nữa là trong khi xây dựng chiến lược đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, Tổng công ty cần có chiến lược đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, có như vậy mới đảm bảo cho hoạt động xuất khẩu được thực hiện một cách liên tục, hạn chế kiểu buôn bán theo từng thương vụ.
Để xây dựng chiến lược đúng đắn, Tổng công ty cần có sự phân tích kỹ lưỡng các mặt mạnh, mặt yếu và các cơ hội có thể có của Tổng công ty trong thời kỳ tiếp theo.
Bên cạnh đó Tổng công ty cần phải có kế hoạch huy động vốn mua sắm đổi mới trang thiết bị để chế biến chè, đồng thời đầu tư hơn nữa vào hoạt động nghiên cứu khoa học-kỹ thuật.
Một chiến lược kinh doanh trên cơ sở phối hợp các yếu tố của môi trường bên trong (tất cả các yếu tố nội bộ của Tổng công ty mà Tổng công ty có thể kiểm soát được) và môi trường bên ngoài Tổng công ty, đáp ứng tối đa nhu cầu thị trường sẽ mang lại hiệu quả kinh doanh, sẽ định hướng cho các hoạt độngcủa doanh nghiệp, tạo ra sự phân phối nhịp nhàng uyển chuyển giữa các bộ phận từ đó tạo ra sức mạnh để thực hiện các mục tiêu đã định, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
2. Nhóm các biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh
2.1. Nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu
Chất lượng sản phẩm giữ vai trò rất quan trọng trong việc củng cố và mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá.
Muốn nâng cao chất lượng chè cần phải:
- Quản lý tốt chất lượng chè thu mua đầu vào, tránh mua hàng xấu chất lượng không đồng đều…
- Kiểm tra chặt chẽ chất lượng hàng xuất khẩu nhất là những thông số về chỉ tiêu kỹ thuật.
- Chú ý đến vấn đề lưu kho, bảo quản hàng hoá: Không để nơi nhiệt độ quá cao hoặc quá ẩm thấp, dễ phân huỷ.
- Chú ý đến vấn đề bao bì bảo quản, lựa chọn hợp lý loại bao bì đóng gói.
Tổng công ty cần kiểm tra quá trình vận động của hàng hoá từ khâu đầu tới khâu cuối. Đặc biệt là đối với mặt hàng chè ngoài việc kiểm tra chất lượng ở thời điểm sản xuất, dự trữ, bảo quản, còn phải quan tâm đến thời hạn sử dụng an toàn. Thông thường, chè đòi hỏi phải đóng gói cẩn thận nhằm giữ chất lượng sản phẩm như khi mới chế biến. Khi mức sống, khoa học công nghệ phát triển cao thì yêu cầu về chất lượng hàng hoá cũng cao hơn. Do đó, đối với loại hàng chè tự sản xuất, Tổng công ty phải kiểm tra nghiêm ngặt, tôn trọng quy trình công nghệ chế biến, tăng cường quản lý khâu thu hái, đối với những mặt hàng thu gom phải có bộ phận kiểm tra, nghiệm thu chất lượng hàng trước khi đưa vào kho lưu trữ. Tổng công ty phải chú trọng kiên quyết không ứ đọng chè nhằm tránh tình trạng ôi ngốt.
Tuy nhiên, về lâu dài để nâng cao chất lượng chè xuất khẩu, thì vấn đề giống chè là một vấn đề cần được đặc biệt quan tâm. Như đã nêu ở phần trên, hiện bộ giống chè của các đơn vị thuộc Tổng công ty cũng như các xí nghiệp sản xuất thuộc ngành Chè Việt Nam còn rất kém. Do đó, trong thời gian tiếp theo Tổng công ty cần phải lấy việc nghiên cứu giống chè làm nòng cốt xúc tiến việc khu vực hoá về giống có năng xuất cao và chất lượng tốt tới các vườn chè.
Tại các đơn vị sản xuất chè, cần khôi phục lại các vườn giống chè, sử dụng các loại giống mới có chất lượng cao nhằm cung cấp giống cho trồng dặm, trồng mới của dân và đơn vị. Trước mắt, cần tập trung vào các vườn chè thuộc các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Yên Bái, Hà Tĩnh, để cung cấp giống thuần chủng và năng xuất cao. Cần chú ý đến đặc điểm sinh thái của từng loại giống chè để bố trí trồng tại những vùng có khí hậu và thổ nhưỡng thích hợp như :
+ Giống Iabukita của Nhật Bản, nên trồng ở những vùng ẩm, có độ cao dưới 700 m.
+ Các giống : Olong, Kim huyên, Ngọc thuý, Văn xương của Đài Loan có thể trồng đại trà, nhưng thích hợp nhất là ở những vùng cao.
+ Giống Bát Tiên của Trung Quốc rất thích hợp với vùng đất ẩm và cao nhưng phát huy hiệu quả khá ở vùng Trung du.
+ Bốn giống chè mới của vùng Asam, Dajijing-ấn Độ có thể trồng đại trà ở các vùng khác nhau …
Hiện nay do tình trạng tranh mua ở thị trường trong nước, người sản xuất không quan tâm nhiều đến chất lượng sản phẩm. Mặt hàng chè xuất khẩu của Tổng công ty chất lượng lại đang còn thấp, giá xuất khẩu bao giờ cũng thấp hơn giá của thế giới từ 100-200 USD/ tấn. Những công nghệ hiện đại để chế biến mặt hàng cao cấp thì hiện nay chúng ta chưa có điều kiện thực hiện bởi chúng ta còn thiếu vốn. Do vậy mà vấn đề quản lý và chất lượng, từng bước cải tiến công nghệ chế biến là vấn đề rất cần thiết đối với Tổng công ty. Điều này không đơn giản chỉ là nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn tạo ra những mặt hàng có uy tín, rẻ tiền, tăng khả năng cung ứng của Tổng công ty trên thị trường thế giới.
2.2. Những giải pháp ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong chế biến và thiết lập hệ thống bảo quản.
Chè là sản phẩm có đặc trưng khác so với các sản phẩm khác là nó có nguồn gốc hữu cơ. Trừ một số sản phẩm tiêu dùng trực tiếp dưới hình thức chè tươi của một số vùng thì nhu cầu về sản phẩm chè thông qua chế biến ngày càng tăng. Xã hội ngày càng văn minh thì đòi hỏi về chè có chất lượng cũng tăng theo.
Chè ngay từ khi thu hái về còn tươi, nếu để trong điều kiện bình thường dễ bị mốc, nhiễm khuẩn, sau khi tiến hành chế biến thì phải bảo quản hợp lý, bởi vì có thể nguyên liệu chè rất thơm ngon song do chế biến, bảo quản không tốt, có thể làm giảm đi chất vốn có của cây chè. Chính vì vậy, chế biến đúng kỹ thuật và bảo quản tốt là yếu tố cơ bản để tránh làm mất phẩm chất của chè trước khi bán.
Do đặc tính sinh học, sản phẩm chè cũng như các sản phẩm nông nghiệp khác được đưa ra thị trường có kích thước và kiểu dáng tự nhiên, trong khi nhu cầu của khách hàng đòi hỏi phải có sự tiện dụng và rất đa dạng. Điều đó đặt ra cho các nhà sản xuất , các nhà tạo giống phải thoả mãn được nhu cầu của khách hàng. Để đảm bảo cho sản phẩm chè lưu thông được trên thị trường đòi hỏi các nhà sản xuất chế biến phải tìm cách tạo ra những sản phẩm mới, sản phẩm có chất lượng, chủng loại phong phú, đảm bảo sản xuất có sức cạnh tranh cao.
Cũng bởi điều đó, Tổng công ty cần phải nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới, thiết bị mới, nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao. Xây dựng bổ xung và hoàn chỉnh quy trình công nghệ chế biến các loại chè để nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm. Cụ thể là:
- Hiện nay chè đen đang được chế biến theo hai phương pháp công nghệ là Orthodox và CTC, nhưng công nghệ chế biến này đã cũ cần sửa chữa, bổ sung hoàn thiện.
- Bổ sung dàn héo tự nhiên, hiện đại hoá các bộ phận của máy rò, hiện đại hoá các phòng lên men, trang bị hệ thống lên men liên tục và làm mát chè theo kiểu Nhật, thay bộ phận phun ẩm bằng phun sương.
- Hiện đại hoá khâu hút bụi để đảm bảo vệ sinh, thay lò nhiệt đốt than bằng đốt dầu để tăng chất lượng chè…
- Cần phải kết hợp quy mô vừa và nhỏ với quy mô lớn, hiện đại trong chế biến; cần phải bố trí nhà máy hiện đại có công suất lớn với những nhà máy hoặc những xưởng chế biến có quy mô nhỏ hoặc thậm chí là các cơ sở của các hộ gia đình để cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy ở trong vùng. Việc bố trí, sắp xếp lại các nhà máy và các hệ thống chế biến chè trong từng vùng gắn liền với vùng nguyên liệu chè là rất cần thiết. Đồng thời phải tính toán trang bị và trang bị lại các cơ sở vật chất kỹ thuật sao cho thích hợp với công nghệ mới được áp dụng.
- Đầu tư hệ thống kho tàng cho việc cất trữ hàng hoá để có thể mua hàng vào những thời điểm có lợi nhất và xuất hàng khi khách hàng có đơn yêu cầu. Hiện nay hệ thống kho của Tổng công ty tương đối nhiều, dung lượng lớn, tuy nhiên có một số kho đã xuống cấp, mái nhà dột, nền kho ẩm. Những điêu kiện như vậy không đảm bảo an toàn cho chất lượng hàng hoá trong kho, vì vậy Tổng công ty cần tổ chức tu sửa lại hệ thống kho tàng nhằm bảo quản tốt hơn, bảo toàn chất lượng hàng hoá. Chú ý cần phải có những kho tàng đặc chủng để chống nhiễm khuẩn, mốc meo, mối mọt…
Do đặc tính của hàng nông sản là theo mùa vụ nên nếu Tổng công ty muốn có hàng để sản xuất trong cả năm thì rõ ràng khâu dự trữ phải tốt. Vì vậy Tổng công ty phải xây dựng được một kế hoạch dự trữ thưòng xuyên, dự trữ mùa vụ cụ thể trong từng giai đoạn nhất định căn cứ vào lượng hàng xuất khẩu và xu hướng, khả năng xuất khẩu của giai đoạn tiếp theo. Việc lập kế hoạch dự trữ Tổng công ty phải phân cấp cho các phòng, các đơn vị sản xuất, các chân hàng chuyên doanh đảm trách.
Việc chế biến bảo quản trở thành một khâu không thể thiếu được trong quá trình sản xuất của ngành chè. Phương pháp công nghệ và quy trình chế biến, bảo quản có ảnh hưởng rất lớn và gần như quyết định đối với chất lượng sản phẩm chè, điều này đồng nghĩa với việc nâng cao khả năng cạnh tranh, giúp Tổng công ty khẳng định vị trí của mình với bạn hàng trong và ngoài nước.
2.3. Tăng cường liên doanh với các đơn vị chân hàng để tăng cường tính ổn định cho công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu
Chúng ta đều đã biết rằng việc nghiên cứu, lựa chọn nguồn hàng tốt sẽ góp phần đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường, thực hiện đúng thời hạn hợp đồng với chất lượng cao. Kinh doanh xuất khẩu chè ở Tổng Công Ty Chè Việt Nam chỉ phát triển hiệu quả khi mà Tổng công ty có biện pháp cân đối đồng bộ từ thu mua, thực hiện hợp đồng, giao hàng, thanh toán. Trong đó khâu thu mua là khâu đầu tiên quyết định cả quá trình kinh doanh, đồng thời sẽ bảo đảm việc Tổng công ty có khả năng thực hiện các công việc sau đó hay không.
Nguồn chè cho xuất khẩu của Tổng công ty chủ yếu là từ các đơn vị của Tổng công ty ở các tỉnh miền núi phía Bắc và Miền trung. Ngoài ra Tổng công ty còn thực hiện việc thu mua hoặc xuất khẩu uỷ thác cho các đơn vị khác ngoài Tổng công ty. Vấn đề đặt ra cho Tổng công ty trong công tác tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là phải mở rộng hơn nữa quan hệ với các chân hàng ở các tỉnh để mở rộng nguồn hàng, mặt hàng, đồng thời luôn giữ vững quan hệ với các đơn vị là các địa phương, lập kế hoạch cụ thể từ đầu mùa vụ và liên hệ ký kết hợp đồng mua trực tiếp với các chân hàng này.
Thiết lập quan hệ lâu dài với các chân hàng đòi hỏi Tổng công ty không chỉ bảo đảm lợi ích giữa chân hàng và Tổng công ty trong hoạt động mua bán hàng hoá, chẳng hạn như quá trình thanh toán thực hiện hợp đồng, mà còn phải bảo đảm việc thường xuyên mua hàng ở các chân hàng này. Đối với các đơn vị thuộc Tổng công ty thì càn chú ý đầu tư thích đáng về chế độ thưởng phạt, đầu tư cơ sở vật chất… Có như vậy Tổng công ty mới có hàng xuất được ngay khi cần. Đây có thể nói là công việc khó, nhưng nếu không làm được như vậy, các chân hàng có thể tìm đến các đối tác khác để bán (vì họ cần tránh ứ đọng) và dẫn đến Tổng công ty bị mất bạn hàng, trong thực tế đã có những trường hợp như vậy xảy ra.
Muốn bảo đảm tính liên tục cho hoạt động xuất khẩu thì việc tạo sự liên kết với các chân hàng là khâu đầu tiên hết sức quan trong. Nó giúp cho Tổng công ty tăng được uy tín với bạn hàng, tận dụng được các cơ hội có thể có để xuất hàng với giá cao thu lợi nhuận lớn.
3. Biện pháp nâng cao nghiệp vụ kinh doanh cho cán bộ công nhân viên.
Trong bất kỳ thời điểm nào, ngay cả thời đại công nghiệp như hiện nay, yếu tố con người luôn luôn được khẳng định mà không thể loại máy móc nào thay thế được. Xét ngay tại Tổng công ty điều này càng có ý nghĩa lớn. Cán bộ của Tổng công ty là một trong những nhân tố không thể thiếu được trong việc thúc đẩy xuất khẩu của Tổng công ty. Đào tạo cán bộ trong Tổng công ty bảo đảm rằng Tổng công ty luôn tiếp cận được với những vấn đề mới, học hỏi được kinh nghiệm từ phía bạn hàng, đối thủ cạnh tranh và cách làm việc của các nước phát triển.
Thị trường chè thế giới ngày càng phức tạp, nhu cầu về sản phẩm chè ngày càng đòi hỏi chất lượng cao. Hơn nữa tập quán thương mại, ngôn ngữ giao dịch với các nước ở các thị trường khác nhau. Do đó đòi hỏi người làm công tác xuất khẩu phải hết sức linh hoạt, tinh thông nghiệp vụ ngoại thương, giỏi ngoại ngữ và hiểu biết chuyên môn về nghành chè.
Tổng công ty cần có chiến lược đào tạo cả cán bộ quản lý và nhân viên thường xuyên, có hệ thống về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ… phải được nâng lên một cách nhanh chóng và tương xứng. Quy mô đào tạo và loại hình đào tạo cần được mở rộng để đáp ứng các nhu cầu đa dạng của hoạt động xuất khẩu. Mặt khác hàng năm, Tổng công ty nên tổ chức các đợt học nâng cao bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ xuất nhập khẩu cho nhân viên. Đây là một mắt xích quan trọng trong công tác đào tạo. Nếu không được chú ý thích đáng sẽ làm hao mòn vô hình đội ngũ đã được đào tạo. Cần tổ chức theo các hình thức: theo chuyên đề, chương trình nâng cao, tu nghiệp ở nước ngoài… theo một chương trình kế hoạch thường niên.
Bên cạnh đó, Tổng công ty cũng cần có những khuyến khích về lợi ích thoả đáng cho người theo học các trương trình trên, để họ yên tâm, dốc lòng, dốc sức cho công việc. Qua đó giúp họ hiểu rõ, nắm chắc sâu sắc nghiệp vụ xuất nhập khẩu, khơi dậy tính tích cực sáng tạo của mỗi cán bộ công nhân viên. Đây thực sự là cách đầu tư lâu dài tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty .
Nếu đào tạo được đội ngũ cán bộ công nhân viên năng động sáng tạo, nhiệt tình vì công việc, là “người của công việc” thì đó chính là tiền đề để Tổng công ty phát triển trong nay mai và là nhân tố chính giúp Tổng công ty đứng vững trên thương trường quốc tế, nắm bắt thông tin kịp thời và tận dụng được mọi cơ hội kinh doanh.
4. Giải pháp về hợp tác quốc tế
Cùng với chủ trương chung của Nhà nước là kêu gọi, khuyến khích sự đầu tư của các nước phát triển vào Việt Nam thì việc Tổng công ty tiến hành liên doanh, liên kết với các bên đối tác nước ngoài nhằm nâng cao nguồn vốn và sử dụng các dây chuyền công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý, kinh doanh của các nước phát triển là một việc làm hết sức cần thiết.
Với đường lối mở cửa và hoà nhập vào thị trường thế giới nói chung và các khu vực nói riêng, cùng với sự dịch chuyển công nghệ đang sôi động. Trong những năm qua Tổng Công Ty Chè Vệt Nam đã tích cực tham gia hợp tác liên doanh với nhiều bạn hàng nước ngoài. Hiện nay Tổng công ty đang có liên doanh với Nhật Bản (đặt tại xí nghiệp Sông Cầu), liên doanh với Đài Loan về trồng và chế biến tại Tuyên Quang, còn các liên doanh khác với Bỉ (tại Phú Thọ), liên doanh với Malayxia (tại Hà Nội)… hình thức hợp tác kinh doanh trên tinh thần hai phía đều có lợi. Phần lớn các hợp đồng liên doanh phía bạn đều nhận bao tiêu sản phẩm. Trong thời gian tới Tổng công ty cần nhanh chóng đẩy mạnh công tác đầu tư, tự tổ chức và liên doanh để tổ chức lại sản xuất sao cho phù hợp với những yêu cầu của cơ chế thị trường, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Tổng công ty cần nhanh chóng có kế hoạch gia nhập vào các hiệp hội chè trên thế giới, tham gia vào quá trình phân công hợp tác chung về lĩnh vực lao động các chính sách bảo hộ quốc tế và khu vực, tham gia các hoạt động quốc tế về hội thảo, triển lãm, tiếp thị…của nghành chè, nhằm không ngừng mở rộng uy tín của mình trên thị trường quốc tế.
Mặt khác, xu hướng thế giới đang chuyển biến mạnh mẽ với ba làn sóng tự do hoá, tư nhân hoá và tập trung hoá. Tổng công ty cũng cần phải nắm bắt được vận hội, thời cơ để có thể có sự chuyển mình theo trào lưu chung.
Tuy nhiên, để tiến hành liên doanh, liên kết có lợi cho Tổng công ty mà không ảnh hưởng tới tương lai lâu dài của Tổng công ty cũng như lợi ích xã hội mới là điều đáng quan tâm. Trước hết, đối tác mà Tổng công ty lựa chọn phải có cùng lĩnh vực hoạt động mà Tổng công ty định liên doanh liên kết. Sau nữa là phải có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực chè và có uy tín trên thị trường quốc tế. Ngoài ra cần thiết phải có những thoả thuận chi tiết về thời hạn liên doanh, tỷ lệ vốn góp, phạm vi hoạt động… trên cơ sở đã nghiên cứu cụ thể, chi tiết về thực trạng xu hướng phát triển của Tổng công ty, của đối tác, của thị trường nông sản nói chung và thị trường chè nói riêng, các chính sách pháp luật của nhà nước. Có thể nói liên doanh là một hình thức huy động tương đối mới. Song để đạt được hiệu quả cao thì cần phải có sự nghiên cứu chuẩn bị thật kỹ lưỡng trước khi thực hiện.
Ngày nay, quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang là xu hướng chung của nhân loại. Không một quốc gia nào có thể thực hiện một chính sách đóng cửa mà vẫn có thể phồn vinh được. Trong bối cảnh đó hoạt động của liên doanh liên kết, hợp tác với nước ngoài của Tổng công ty sẽ cho phép Tổng công ty phát huy được những lợi thế của mình, tận dụng tiềm năng về vốn, công nghệ khoa học kỹ thuật, kỹ năng quản lý từ bên ngoài. Với một hệ thống công nghệ chế biến, bảo quản đã cũ và lạc hậu, liên doanh tạo điều kiện cho phép Tổng công ty đẩy mạnh và nhanh quá trình đổi mới trang thiết bị, áp dụng công nghệ vào cả sản xuất nguyên liệu và công nghệ chế biến, thậm chí cả trong việc tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh. Giúp Tổng công ty nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng uy tín với bạn hàng, mở rộng thị trường xuất khẩu.
B. về phía nhà nước :
1. Quy hoạch và phát triển vùng chè ;
Nguồn chè ổn định, phong phú, đa dạng là tiền đề cho xuất khẩu chè đi vào ổn định theo chiều có lợi hơn. Khi có quy hoạch vùng chè công tác thu mua, bảo quản sẽ diễn ra nhanh hơn, thuận lợi hơn, hiệu quả hơn, giảm bớt các chi phí trung gian.
Với điều kiện hiện tại có nhiều khó khăn về vốn và các điều kiện cần thiết khác. Tổng công ty rất khó thực hiện việc quy hoạch các vùng chè trọng điểm.Vì vậy mà nhà nước mà trực tiếp là Bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn cần tạo điều kiện cho tổng công ty bố trí quy hoạch các vùng chè cho sản xuất chè xuất khẩu.
Hiện nay ở miền bắc nước ta có trên 30 tỉnh có cây chè. Các nhà máy chè và các cơ sở chế biến lớn cũng phần lớn tập trung ở đây. Các tỉnh này đã chiếm 53, 4% sản lượng và 63, 4% diện tích chè cả nước.
Căn cứ vào đặc điểm sinh thái và địa hình, có thể hình thành 3 loại vùng chè, từ đó có định hướng cho việc đầu tư và cả cho hướng thị trường.
- Vùng có độ cao dưới 100m so với mặt biển. Vùng này tương đối rộng bao gồm một số huyện thuộc các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Tuyên Quang, Yên Bái, Hoà Bình, các tỉnh Bắc Thái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh.Đây là vùng có điều kiện thuận lợi cho việc trồng chè, tuy nhiên chất lượng chè thấp. Sản phẩm chè của vùng này là chè đen xuất khẩu cho vùng Trung cận đông (Iran, Irắc, Gioocdani...) và các nước thuộc khối SNG.Vùng này có nhiều nhà máy chế biến chè lớn có công suất từ 12 - 24 tấn/ngày.Vùng này có khả năng mở rộng diện tích 14-15 ngàn hecta.
- Vùng có độ cao 100-1000 m so với mặt biển gồm:
Mộc Châu, Sơn La và cao nguyên Lâm Đồng.Đây là vùng nguyên liệu tập trung, có điều kiện sinh thái để trồng các loại chè có chất lượng cao. Sản lượng chè của vùng này là chè đen và chè xanh có giá trị cao. Thị trường xuất khẩu là Tây-Âu, vùng này có khả năng mở rộng diện tích từ 8000-10000 hecta.
- Vùng có độ cao trên 1000m gồm: Một số huyện vùng cao ở các tỉnh miền núi phía bắc như Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Lai Châu.Vùng này có địa hình phức tạp nhưng lại thích hợp với những loại chè tuyết.Phát triển khai thác vùng chè này để chế biến các loại chè đặc sản nội tiêu và xuất khẩu.Vùng này có khả năng mở rộng diện tích từ 6000-8000hecta.
Để có được những vùng chè tập trung, với cơ cấu giống hợp lý và hình thành vùng nguyên liệu để chế biến công nghiệp. Chính phủ cũng nên thành lập các doanh nghiệp chuyên làm nhiệm vụ khai hoang - trồng mới chăm - sóc chè, các doanh nghiệp này đứng ra vay vốn theo các dự án đã được nhà nước duyệt để trồng chè tập trung và khi các vườn chè đã đi vào kinh doanh thì cho phép bán lại cho các hộ gia đình. Có như vậy, mới đảm bảo được các vùng nguyên liệu chè ổn định, chất lượng đồng đều.
Hiện nay, các vùng sản xuất và chế biến chè phần lớn tập trung ở các tỉnh trung du và miền núi nên cơ sở hạ tầng như đường sá, bệnh viện, mạng lưới điện,... đang còn yếu kém. Do vậy, Nhà nước cần có hướng đầu tư để tăng cường cơ sở hạ tầng, trước hết là hệ thống đường sá giao thông, hệ thống điện phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân vùng trồng chè để cải thiện điều kiện sống và làm việc của người trồng chè.
Có thể nói, việc Nhà nước quy hoạch, bố trí các vùng chè trọng điểm dựa trên cơ sở sinh thái, những điều kiện kinh tế tự nhiên của từng vùng đồng thời tạo nên vùng nguyên liệu lớn sẽ tạo điều kiện cho Tổng công ty dựa trên cơ sở đó mà đầu tư chiều sâu để cải tiến nâng cao chất lượng chè.
Việc quy hoạch, bố trí các vùng nguyên liệu tập trung trọng điểm sẽ giúp cho Tổng công ty dễ dàng khai thác tiềm năng sẵn có về điều kiện tự nhiên, sinh thái và kinh tế xã hội của mỗi vùng, tạo nên nguồn sản phẩm hàng hoá lớn có khả năng cạnh tranh, đặc biệt đối với nguồn sản phẩm xuất khẩu.
2. Chính sách về tổ chức quản lý xuất khẩu chè.
Việc Nhà nước thống nhất tổ chức, quản lý xuất khẩu chè vừa dễ dàng kiểm soát từ trên xuống, vừa tránh được sự lũng đoạn thị trường. Kết hợp quản lý theo ngành và theo vùng lãnh thổ trên nguyên tắc phát triển trên phạm vi cả nước đồng thời nhằm làm hợp lý và tạo điều kiện thuận lợi đối với từng đối tượng quản lý. Trên cơ sở có thể dự kiến một phương thức quản lý mới tối ưu với ngành chè với tư cách là một ngành kinh tế kỹ thuật gắn với lợi ích của những địa phương có cây chè.
Chè là một hàng hoá đặc thù, vì vậy nên tổ chức theo mô hình vừa đa dạng vừa tập trung hoá. Đa dạng hoá các loại hình kinh doanh thu mua và thu gom nhưng cần tập trung xuất khẩu trực tiếp vào những đầu mối lớn. Có như vậy mới tránh được tình trạng có quá nhiều các đầu mối tham gia xuất khẩu, Nhà nước không thể kiểm soát nổi, đồng thời nâng cao chất lượng chè xuất khẩu và tránh được sự cạnh tranh lẫn nhau giữa các doanh nghiệp Việt Nam
Cụ thể là, Chính phủ và Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cần phải phân công và tổ chức lại ngành chè như sau:
Các tỉnh, các địa phương chịu trách nhiệm về sản xuất nông nghiêp và chế biến nhỏ phục vụ nội tiêu là chủ yếu, tổ chức khuyến nông, kiểm tra và hướng dẫn quy trình canh tác.
Các doanh nghiệp trung ương lo thị trường xuất khẩu, chế biến các loại chè xuất khẩu có quy mô lớn với các nhà máy lớn và hiện đại để sản phẩm xuất khẩu luôn giữ vững và nâng cao chất lượng, số lượng như tăng sức cạnh tranh của chè Việt Nam trong khu vực cũng như trên thế giới.
Ngoài các đơn vị đã là thành viên của Hiệp Hội Chè Việt Nam như Tổng công ty Chè Việt Nam, các đơn vị thuộc tổng công ty... Nhà nước cần có chính sách để các đơn vị chè địa phương, các công ty xuất nhập khẩu tổng hợp và một số công ty trách nhiệm hữu hạn làm nhiệm vụ xuất khẩu chè tự nguyện tham gia Hiệp Hội xuất khẩu Chè Việt Nam nhằm đảm bảo sự thống nhất về thị trường và giá cả xuất khẩu chè, tránh sự giảm giá hàng xuất khẩu để dành dật khách hàng nước ngoài cũng như cạnh tranh mua hàng trong nước để xuất khẩu.
Bên cạnh đó cần phải phối hợp các cơ quan quản lý ngành (Như Tổng công ty Chè Việt Nam) với các cơ quan chuyên môn (Công ty giám định hàng xuất nhập khẩu - Bộ thương mại) để ngăn chặn tình trạng chè không đủ tiêu chuẩn vẫn lọt ra ngoài.
Hiện nay, việc quản lý chất lượng chè xuất khẩu chưa có tổ chức nào chịu trách nhiệm trước Nhà nước, việc chứng nhận chất lượng chè xuất khẩu còn nhiều vấn đề bất cập, sản phẩm chất lượng kém, rất xấu vẫn cứ đưa ra thị trường làm giảm uy tín của chè Việt Nam (Mà việc làm mất thị trường 2001 tấn chè vàng đặc sản Hà Giang là một ví dụ). Do vậy, cần thống nhất quản lý ngành về chất lượng sản phẩm chè xuất khẩu bao gồm:
Ban hành và thống nhất tiêu chuẩn một nhà máy chế biến chè, xuất khẩu để làm cơ sở cho các ngành, các cấp trong việc cấp giấy phép thành lập xí nghiệp.
Ban hành tiêu chuẩn hoá về giống: Giống nào trồng ở vùng nào với cơ cấu, nào là hợp lý.
Việc Nhà nước đơn giản hoá và thống nhất trong quản lý vĩ mô sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Tổng công ty tham gia hoạt động xuất khẩu có hiệu quả cao.
3. Một số vấn đề về chế độ chính sách.
Với nước ta, sau một thời gian dài mấy thập kỷ Nhà nước vận hành quản lý hành chính tập trung, quan liêu, bao cấp một cơ chế đã dẫn đến sự trì trệ và không hiệu quả của nền kinh tế quốc dân, làm mất đi tính chủ động sáng tạo của đơn vị sản xuất kinh doanh. Chuyển sang nền kinh tế thị trường với những bước đi ban đầu tuy còn nhiều khó khăn, nhưng với lòng nhiệt thành học hỏi kinh nghiệm bạn bè và tư duy sáng tạo, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách phát triển kinh tế tích cực. Đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, cũng như toàn bộ nền kinh tế, nếu chúng ta so với thời kỳ trước đây.
Tuy nhiên, trong quá trình đề ra và thực hiện chính sách hiện nay cũng còn nhiều vấn đề cần phải được xem xét và tìm phương pháp giải quyết nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của Nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế thị trường, nâng cao chất lượng và hiệu qủa của các chính sách để duy trì, phát triển và mở rộng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghiã ở nước ta.
Để phát triển chè, một số chính sách cần được hoàn thiện như :
Đề nghị miễn thuế sử dụng đất đối với người trồng chè, vì cây chè là cây lâu năm hơn cả cây trồng lấy gỗ, lại được trồng ở Trung Du và miền núi nơi tập trung dân tộc ít người, trồng chè cũng phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, chống xói mòn như trồng các loại cây rừng khác. Kèm theo đó là một số chính sách có liên quan để bảo vệ giữ gìn ổn định đất trồng chè, tránh sự lấn át của các cây trồng khác đối với cây chè, tạo vùng nguyên liệu phục vụ cho sản xuất.
Chính sách đối với các thiết bị dùng cho sản xuất, chế biến chè. Đề nghị miễn thuế nhập khẩu vật tư thiết bị trong một số năm ví dụ trong vòng 5 năm (2001 - 2005) để ngành chè có thêm vốn đầu tư phát triển chè, đặc biệt để hiện đại hoá ngành chè, tạo ra chất lượng chè xuất khẩu tốt, giá thành hạ để có thể cạnh tranh được trên thị trường thế giới.
Chính sách về công nghệ và ứng dụng kỹ thuật gắn liền với công tác khuyến nông.
Chính sách đối với con người :
+ Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế đề nghị được thực hiện là 8% đối với bảo hiểm xã hội và 2% đối với bảo hiểm y tế.
+ Kinh phí cho các doanh nghiệp chè đầu tư cho y tế, giáo dục, xã hội, phụ cấp khu vực đề nghị được ngân sách cấp hoặc trừ vào các khoản phải nộp.
+ Cho phép được lập quỹ bình ổn giá trong giá thành sản phẩm để trợ cấp người trồng chè khi có bất lợi về điều kiện tự nhiên và khi giá chè xuống thấp không có lợi cho người trồng chè.
+ Đề nghị Nhà nước cấp hỗ trợ vốn để lập quỹ dự trữ xuất khẩu.
Về vốn đầu tư và lãi xuất ngân hàng.
+ Vốn vay thâm canh tăng năng suất chè được vay ưu đãi với lãi suất 0,7%/tháng, sau 12 tháng vay mới phải trả, định suất vay 3 triệu đồng/ha/năm.
+ Vốn vay để phát triển trồng chè và cải tạo vườn chè xấu đề nghị được vay với lãi suất 0,5% /tháng, vay trong 15 năm, 5 năm gia hạn vì trồng chè mất 3 năm chăm sóc thiết kế cơ bản và 2 năm sau nữa chè mới phát huy hiệu quả. Định suất vay 20 triệu đồng / ha.
+ Vốn vay xây dựng nhà xưởng và vận chuyển thiết bị cho các nhà máy mới hiện đại đề nghị được vay với chế độ ưu tiên, lãi suất 0,7%/tháng và được trả trong vòng 10 năm kể từ khi nhà máy đi vào hoạt động. Vốn mua thiết bị đề nghị được sử dụng vốn ODA của các nước cho Chính Phủ vay.
Ngoài ra, Nhà nước cần có các chính sách tạo điều kiện cho Tổng công ty đủ sức cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hoá, cụ thể :
Các cơ quan đại diện thương mại của ta tại các nước hoặc các khu vực cần tăng cường tổ chức móc nối các cuộc gặp gỡ, trao đổi giữa các doanh nghiệp đầu mối trực tiếp sản xuất chè của ta đối với các đầu mối nhập khẩu hoặc các khách trực tiếp có nhu cầu tiêu thụ. Cần có chính sách tiêu thụ và giúp đỡ các Tổng công ty có cơ hội gia nhập thị trường thế giới.
Nhà nước tích cực tham gia vào các diễn đàn quốc tế và khu vực để Việt Nam nhanh chóng trở thành thành viên của WTO, tăng cường tham gia liên kết và xúc tiến thương mại bằng nhiều hình thức khác nhau, từ các khối liên kết khu vực, các hiệp hội xuất khẩu chuyên ngành đến hình thành các liên kết tam giác, tứ giác, quan hệ tốt với các thị trường lớn để được hưởng các ưu đãi đặc biệt, thực hiện nghiêm túc các công ước quốc tế...
Thực hiện các vấn đề trên sẽ giúp Tổng công ty chủ động trong giao dịch, kinh doanh xuất khẩu, tạo thế cạnh tranh công bằng và đẩy mạnh được hoạt động kinh doanh xuất khẩu, đưa kim ngạch xuất khẩu chè tăng lên đồng thời cũng tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Giữ vững và phát huy truyền thống của Tổng công ty trong những năm qua.
Kết luận
Chè là loại uống phổ biến nhất ở nước ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới. Trong điều kiện của nền sản xuất hàng hoá như hiện nay, để sản xuất chè thì cần phải giải quyết nhiều vấn đề, như thị trường, nhất là thị trường xuất khẩu được xem là nhân tố quyết định .
Với những kết quả mà Tổng công ty Chè Việt Nam đã đạt được trong hoạt động xuất khẩu chè tuy chỉ là bước khởi đầu, song nó đã góp phần vào sự phát triển của ngành chè nói riêng và nền kinh tế nói chung, tuy nhiên chúng ta phải cố gắng nhiều hơn nữa để đẩy mạnh quá trình Công Nghiệp Hoá - Hiện Đại Hoá đất nước .
Qua quá trình thực tập ở Tổng công ty chè Việt Nam, em đã tập trung nghiên cứu hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty. Cùng với tình hình thực tế, học hỏi kinh nghiệm của các cán bộ nghiệp vụ của Tổng công ty em đã đưa ra một số giải pháp cũng như kiến nghị với Nhà nước nhằm mục đích nâng cao hiệu qủa hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Tổng công ty. Qua đây, em hy vọng phần nào giúp Tổng công ty khảo sát, tìm ra những giải pháp tối ưu nhằm mục đích duy nhất là hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động và kinh doanh xuất khẩu của Tổng công ty trong thời gian tới.
Tuy nhiên, do thời gian và trình độ của bản thân còn nhiều hạn chế nên những phân tích đánh giá, kiến nghị chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong được lượng thứ và chỉ bảo để tiếp tục nghiên cứu được hoàn chỉnh hơn .
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình KTQT, GS-PTS Tô Xuân Dân, Trường đại học Kinh tế quốc dân.
2. Giáo trình Kỹ Thuật Nghiệp Vụ Ngoại Thương, PGS - Nhà giáo ưu tú Vũ Hữu Tửu, NXB Giáo Dục 1999.
3. Giáo trình Thanh Toán Quốc Tế Trong Ngoại Thương, PGS - Nhà giáo ưu tú ĐinhXuân Trình, NXB Giáo Dục 1999.
4. Xu hướng tiêu thụ mới trên thị trường chè và tiến bộ kỹ thuật về công nghệ chè, Trần Tông Mậu "Trung Quốc". Hội thảo về chè Bắc Kinh.
5. Cây chè Việt Nam, Đỗ Ngọc Quỹ - Nguyễn Kim Phong NXB Nông Nghiệp 1998.
6. Các tài liệu báo cáo của Tổng công ty Chè Việt Nam.
7. Nghị định 57 / 1999/ NĐ - CP của Chính Phủ.
8. Thông tư hướng dẫn số 03/1999/TT-TCHQ và số 04/1999/TT-TCHQ của Tổng Cục Hải Quan.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0507.doc