Luận văn Phương hướng và giải pháp phát triển các KCN tập trung trên địa bàn Hà Nội đến năm 2010

Qua đề tài trên ta có thể khẳng định lại một lầm nữa. Để thực hiện các nhiệm vụ của kinh tế xã hội của chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2010 nói chung các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội nói riêng thì việc nghiên cứu đề tài này là một việc thiết thực đối với tình hình kinh tế trong nước và quốc tế. Vai trò của các KCN trong sự phát triển kinh tế thể hiện rất rõ. KCN,KCX đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư, tăng việc làm và phát huy được lợi thế lao động, tăng sản lượng hàng hoá xuất khẩu hội nhập khoa học kỹ thuật công nghệ sản xuất và quản lý tiên tiến của thế giới khắc phục tình trạng cơ sở hạ tầng thấp kém thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế trong nước và kinh tế quốc tế, Từ vai trò quan trọng trên KCN của Hà Nội đã được xác định là hạt nhân cho sự phát triển kinh tế của thủ đô và được các cấp lãnh đạo quan tâm phát triển. Do đó các KCN của Hà Nội đã đạt được những kết quả bước đầu đầu góp phần vào tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy ngoại thương các ngành kinh tế mũi nhọn, công nghiệp điện tử tin học, phát triển kinh tế của thủ đô. Tăng thu ngân sách trên địa bàn thành phố, thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ. Bên cạnh những thành tựu trên các KCN còn gặp nhiều khó khăn tồn tại: những mặt yếu kém về mặt pháp lý, đầu tư vào cơ sở hạ tầng, quản lý nhà nước và thủ tục hành chính các vấn đề tồn tại trong cơ cấu tổ chức bộ máy của các ban quản lý và dịch vụ trong KCN. Để đảm bảo cho các KCN phát triển có hiệu quả, làm tốt vai trò hạt nhân trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế thủ đô Hà Nội, các cơ quan Đảng và Nhà nước cần có sự quan tâm đúng mức phối hợp với ban quản lý của từng KCN về các mặt như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN, chất lượng lao động, cơ chế chính sách, thủ tục hành chính. Làm tốt những giải pháp trên đây sẽ góp phần phát triển các KCN làm đầu tầu trong việc phát triển ngành công nghiệp của Thủ đô. Sau hơn 4 tháng thực tập tại Viện nghiên cứu Kinh Tế Thế Giới, được sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Kim Dung (khoa Kế Hoạch và phát triển) cùng cán bộ hướng dẫn TS. Nguyễn Trần Quế (Viện Kinh Tế Thế Giới) tôi đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Tuy nhiên đề tài không tránh khỏi những sai sót, tôi rất mong nhận được sự góp ý, đánh giá của các thầy cô trong khoa và bạn đọc.

doc99 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1561 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phương hướng và giải pháp phát triển các KCN tập trung trên địa bàn Hà Nội đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có hiệu quả. Để xứng đáng là một trung tâm công nghiệp lớn của cả nước, một hạt nhân có vai trò lớn trong việc làm động lực lôi kéo các tỉnh, thành phố khác trong cả nước cùng phát triển công nghiệp phải phát triển có hiệu quả. Đây cũng là một yêu cầu quan trọng đối với công nghiệp Thủ đô, có như vậy công nghiệp Hà Nội mới cạnh tranh được thị trường trong nước và ngoài nước. Đối với công nghiệp Thủ đô, phát triển có hiệu quả cần thể hiện rõ các vấn đề sau : - Về hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có: Hà Nội là một trung tâm kinh tế, trung tâm công nghiệp mạnh của cả nước, nơi tập trung nhiều xí nghiệp công nghiệp có quy mô lớn với cơ sở vật chất kỹ thuật được đánh giá loại khá so với các địa phương khác.Tuy nhiên số thiết bị tương đối khá chỉ chiếm 1/3 còn lại là số thiết bị cũ , được trang bị từ những năm 60-70, công nghệ lạc hậu. Do vậy Hà Nội cần phải tạo những cơ hội thuận lợi cho các cơ sở sản xuất đổi mới công nghệ đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất trong các KCN tạo đà cho sự phát triển kinh tế chung của thành phố. - Về hiệu quả sử dụng nguồn vốn cho phát triển công nghiệp : Đây là yêu cầu lớn không chỉ riêng Hà Nội mà còn của cả nước. Thời gian vừa qua việc huy động và sử dụng nguồn vốn trên địa bàn Hà Nội đã có những kết quả khả quan hơn so với các địa phương khác. Song nguồn vốn đầu tư vẫn còn tình trạng dàn trải, thêm vào đó là cơ chế quản lý việc sử dụng nguồn vốn đang còn lúng túng vì vậy hiệu quả của việc sử dụng nguồn vốn đạt được chưa cao. Để phát huy tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn cho mục đích đầu tư phát triển công nghiệp, Hà Nội cần đi đầu trong việc: + Có cơ cấu đầu tư linh hoạt . Xây dựng và hoàn thiện các cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư và quản lý đầu tư. + Đào tạo một đội ngũ cán bộ có năng lực trong việc xây dựng và quản lý các dự án. - Về hiệu quả sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật: Hà Nội là trung tâm khoa học- kỹ thuật lớn nhất của cả nước. Đây là nơi tập trung nhiều Viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật có trình độ quốc gia và quốc tế. Việc sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật không những có vai trò quyết định trong việc thực hiện thành công trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hoá phát triển toàn diện nền kinh tế - xã hội Thủ đô, mà còn tạo điều kiện cho mỗi người tìm được công việc làm phù hợp, có thu nhập cao hơn, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống của mình. Đầu tư cho đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật cho phát triển công nghiệp là việc làm cơ bảnvà lâu dài vì sự phồn vinh của đất nước. Chính vì thế cần có quan điểm nhất quán và tập trung đầu tư hơn nữa cho lĩnh vực này. Cần khuyến khích và tạo những hình thức thích hợp tranh thủ chất xám, trình độ khoa học công nghệ cao của các viện nghiên cứu các trung tâm khoa học,các trường đại học trên địa bàn Hà Nội. - Về hiệu quả sử dụng quỹ đất trong mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp, dân sinh và môi trường cảnh quan : Sử dụng quỹ đất có hiệu quả trong mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp, dân sinh và môi trường cảnh quan, cần tập trung vào những vấn đề chính như : + Dự báo quỹ đất dành cho phát triển đô thị to lớn trong quá trình phát triển công nghiệp của Hà Nội. + Dự báo diện tích đất dành cho phát triển các KCN tập trung. Nếu quản lý tốt quỹ đất này có thể có vốn để xây dựng các cơ sở hạ tầng cho các KCN và góp thêm vốn phát triển một số doanh nghiệp liên quan với nước ngoài. Trong việc thực hiện dãn bớt và giảm đi sự tập trung quá mức công nghiệp ở khu vực Hà Nội, đảm bảo việc phát triển kinh tế hài hoà với phát triển xã hội và cân bằng sinh thái, Hà Nội cần có kế hoạch cụ thể với các tỉnh thành phố xung quanh.Quỹ đất này cần có ngay quy hoạch chi tiết và công khai cho các cơ quan và nhân dân biết thực hiện, tránh đền bù tốn kém, gây thiệt hại cho kinh tế và ảnh hưởng đến vấn đề xã hội.Cần chú ý gắn việc xây dựng các KCN với phát triển đô thị có tầm nhìn xa. Tránh không để tình trạng những KCN hiện nay đã xây dựng còn ở ngoại thành nhưng những năm sau 15-20 năm nữa những KCN này lại nằm trong nội đô do mở rộng thành phố và gây ra những hậu quả phải giải quyết hết sức tốn kém. 2. Phương hướng và mục tiêu chủ yếu của Hà Nội giai đoạn 2001-2010. Sau hơn 15 năm đổi mới tiềm lực kinh tế và cơ sở hạ tầng của thủ đô được tăng cường một bước, những kinh nghiệm tích luỹ được trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp bước đầu tích luỹ tái sản xuất mở rộng, chủ động trong kinh doanh, trình độ của đội ngũ cán bộ khoa học, quản lý, doanh nhân đã được nâng lên. Đây là những thuận lợi cơ bản của thủ đô bước vào thế kỷ 21. Đến năm 2010 Hà Nội phấn đấu đạt được mục tiêu chiến lược là:” phát huy vị thế là trung tâm đầu não về chính trị, hành chính, văn hoá, khoa học công nghệ, trung tâm lớn về kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước là hạt nhân của kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, phát triển kinh tế toàn diện, bền vững đảm bảo ổn định vững chắc chính trị an ninh quốc phòng, cơ bản xây dựng được nền tảng vật chất, xã hội thủ đô văn minh, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc và văn hóa Thăng Long- Hà Nội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước xây dựng nền kinh tế tri thức”. Để thực hiện mục tiêu chiến lược trên, trong những năm tới kinh tế xã hội Hà Nội phát triển theo những định hướng và các chỉ tiêu cụ thể của từng ngành. Trong phạm của đề tài này tôi chỉ đi sâu các vấn đề về công nghiệp, cơ cấu xuất nhập khẩu các mặt hàng và vấn đề về môi trường liên quan trực tiếp đến sản xuất công nghiệp. Cụ thể như sau: + Các chỉ tiêu phát triển kinh tế Thủ đô: Để đảm bảo kinh tế thủ đô có nhịp độ tăng trưởng ổn định, vững chắc theo định hướng cần ưu tiên phát triển các lĩnh vực sử dụng công nghệ cao, hiệu quả kinh tế lớn, ít gây ô nhiễm môi trường giải quyết nhiều việc làm để giảm tỷ lệ thất nghiệp. Phấn đấu đến năm 2010 tổng sản phẩm xã hội của Hà Nội tăng 2,4-2,7 lần so với 2000, đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm là 9-10%, về cơ cấu ngành: tiếp tục duy trì cơ cấu kinh tế công nghiệp mở. Bảng 11: Cơ cấu các ngành kinh tế của Thủ đô đến năm 2010. Năm 2005 2010 CN 41,5% 41-42,5% NN 55,5% 56-56,5% DV 3,0% 1,8-2,0% Nguồn: Sở công nghiệp Hà Nội + Đối với ngành công nghiệp : nâng cao hiệu quả các KCN tập trung các KCN vừa và nhỏ, xây dựng KCN phần mềm và KCN trước sản xuất, các doanh nghiệp công nghiệp mới thành lập được bố trí vào các KCN. Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp đột phá vào nhxững ngành hàng sử dụng công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến, sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, giá trị gia tăng lớn, cải tạo, chuyển hướng sản xuất và có kế hoạch từng bước di chuyển các doanh nghiệp gây ô nhiễm đến các khu vực ít dân cư, đầu tư chiều sâu và mở rộng các KCN cũ ở ngoại thành còn khả năng về quỹ đất và phù hợp với quy hoạch chung. Tiếp tục phát triển các ngành công nghiệp chủ lực đồng thời khuyến khích các ngành sản xuất có khả năng tạo nhiều việc làm.Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của GDP công nghiệp cả thời kỳ 2001-2010 khoảng 12-14%/năm đóng góp được khoảng 38-40%vào tăng trưởng chung của nền kinh tế; trong đó thời kỳ 2001-2005 khoảng 12-13%/năm và thời kỳ 2006-2010 khoảng 13-14%/năm. + Xuất nhập khẩu: phấn đấu đưa xuất khẩu trở thành lĩnh vực quan trọng của kinh tế Hà Nội. Xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế và xuất nhập khẩu giai đoạn 2001-2010. Giữ vững và tăng thị phần đối với các sản phẩm và thị trường xuất khẩu truyền thống, đồng thời tích cực phát triển các sản phẩm và thị trường xuất khẩu mới. Nâng cao chất lượng và cơ cấu lại nhóm hàng sản phẩm cồng nghiệp lên 80-85% tổng kim ngạch xuất khẩu đặc biệt chú trọng những mặt hàng sử dụng nguyên liệu chủ yếu trong nước, chế biến sâu. Phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu trên địa bàn bình quân 13,5 - 14%/năm giai đoạn 2001 - 2005 và 15 - 16%/năm giai đoạn 2006 - 2010 đến năm 2005 kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn đạt 2,9 tỷ USD và đến năm 2010 đạt 6 -7 tỷ USD. Trong nhập khẩu ưu tiên nhập khẩu thiết bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, từng bước giảm tình trạng nhập siêu + Vốn đầu tư phát triển trên địa bàn: Trong giai đoạn 2001-2010 tổng số vốn đầu tư trên địa bàn Hà Nội bình quân hàng năm là 32.900 tỷ đồng. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư để đảm bảo mục tiêu phát triển. Chú trọng thu hút nguồn vốn trong dân, tỷ trọng tăng từ 20,9% lên 23,6%.Thu hút FDI giai đoạn 2001 - 2010 bình quân 1,32 -1,4 tỷ USD/năm.Đây mạnh cơ sở ngoài hàng rào cùng với tiến độ triển khai xây dựng KCN tập trung. Đẩy mạnh đào tạo lao động theo yêu cầu của các dự án. Khuyến khích đầu tư khu nhà ở, dịch vụ của các dự án FDI. Trong từng ngành,từng sản phẩm, tập trung lựa chọn đối tác có tính chiến lược, khắc phục tình trạng chọn đối tác thiếu cân nhắc, hiệu quả thấp.Giai đoạn 2001-2010 trên địa bàn Hà Nội vốn ODA cần đầu tư là 2,9 tỷ USD . + Chỉ tiêu về thu hút lao động: Thu hút thêm được khoảng 160-170 nghìn lao động, chiếm khoảng 30% số lao động thu hút thêm vào nền kinh tế của thành phố.Năng suất lao động công nghiệp (tính theo GDP) năm 2010 đạt gấp khoảng 2,5 lần so với hiện nay. + Một số mục tiêu môi trường: Mục tiêu bảo vệ môi trường không khí là khắc phục tình trạng ô nhiễm như hiện nay, các chỉ tiêu không vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Mục tiêu bảo vệ môi trường nước trong thời gian tới là khắc phục tình trạng ô nhiễm nặng môi trường nước ở các dòng sông trong nội thành. Các cơ sở sản xuất công nghiệp phải có hệ thống xử lý nước thải, phấn đấu năm 2010 các chỉ tiêu không vượt quá tiêu chuẩn cho phép. 3. Cơ hội và thách thức trong phát triển công nghiệp của Hà Nội. 3.1. Cơ hội phát triển công nghiệp Hà Nội. Để xứng đáng là một trung tâm công nghiệp lớn của cả nước, một hạt nhân có vai trò lớn trong việc làm động lực lôi kéo các tỉnh, thành phố khác trong cả nước cùng phát triển,công nghiệp phải phát triển có hiệu quả. Đây là một yêu cầu quan trọng đối với công nghiệp thủ đô, có như vậy công nghiệp Hà Nội mới phát triển bền vững trong thế đi lên chung của cả nước và sản phẩm công nghiệp mới cạnh tranh được thị trường trong nước và ngoài nước. Hà Nội là một trung tâm kinh tế, trung tâm công nghiệp mạnh của cả nước, nơi tập trung nhiều xí nghiệp có quy mô lớn với cơ sở vật chất kỹ thuật được đánh giá vào loại khá so với các địa phương khác so với cả nước.Cơ sở vật chất kỹ thuật đã được xây dựng tại Hà Nội tương đối khá, giá trị tài sản cố định chiếm khoảng 17% so cả nước.Đồng thời trong điều kiện hiện nay, cần phải tạo những cơ hội thuận lợi cho các cơ sở sản xuất đổi mới cồng nghệ vì lợi ích của chính họ và cũng vì sự phát triển của nền kinh tế. Đây là yếu tố quyết định sức cạnh tranh trên thi trường. Sử dụng có hiệu quả các cơ sở vật chất kỹ thuật không chỉ của công nghiệp mà còn là cơ sở hạ tầng của cả thủ đô đã tạo dựng nên. Hơn 40 năm xây dựng và phát triển công nghiệpHà Nội đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần chuyển dịch cơ cấu, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố của vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước. Sau đổi mới đã có bước phát triển vượt bậc, hoạt động xúc tiến đầu tư tổ chức lại sản xuất, đổi mới công nghệ, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của một số sản phẩm.Thể hiện qua những nội dung sau: + Lợi thế về thị trường: Hà Nội có điều kiện thuận lợi hơn với các trung tâm công nghiệp của cả nước trong việc chiếm lĩnh thị trường các tỉnh phía Bắc và dần chinh phục được thị trường trong và ngoài khu vực trên thế giới. Thị trường lớn về sản phẩm công nghiệp hàng tiêu dùng, nhất là hàng tiêu dùng có chất lượng cao như đồ điện dân dụng, hàng điện tử nghe nhìn, cơ khí tiêu dùng, hàng da, bóng đèn. + Lợi thế về nguồn nhân lực có chất lượng cao: Hà Nội có tiềm lực lớn về các cơ quan nghiên cứu và đào tạo trình độ cao.Dự báo năm 2010 dân số Hà Nội khoảng 3,2 triệu người, trong đó số người trong độ tuổi lao động có nhu cầu việc làm vào khoảng 2 triệu người, đó là tiềm năng rất lớn để phát triển công nghiệp. Chất lượng lao động Hà Nội tương đối cao hơn so với trung tâm công nghiệp khác trong cả nước. Trình độ học vấn của người lao động đạt nhất ở nước ta. Bảng 12: Trình độ đào tạo lao động của Hà Nội so với cả nước và đồng bằng Sông Hồng. Trình độ đào tạo So với cả nước( %) So với đồng bằng Sông Hồng (% ) 1.Trên đại học 35 92,7 2.Cao đẳng , đại học 18,2 57,8 3. Trung cấp 6,9 26,7 Nguồn: Sở công nghiệp Hà Nội + Lợi thế về sự vượt trội khả năng đáp ứng về kết cấu hạ tầng:đó là điều kiện về giao thông , về cung cấp nước ,điện về khả năng đáp ứng yêu cầu thông tin liên lạc, dịch vụ tài chính ngân hàng đối với Hà Nội cũng tốt hơn nơi khác. 3.2. Thách thức của công nghiệp Hà Nội. Tuy nhiên so với yêu cầu và áp lực cạnh tranh, công nghiệp Hà Nội thực sự đang đứng trước những thách thức lớn: - Lạc hậu của trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ. +Sức cạnh tranh của sản phẩm còn thấp do máy móc thiết bị phần lớn lạc hậu trang bị từ những thập kỷ 60-70 hệ số đổi mới công nghệ thấp khoảng 7-10% rất ít doanh nghiệp được trang bị hiện đại, đồng bộ. +Sự đổi mới sản phẩm, công nghệ chủ yếu mang nặng nề giải pháp tình thế, thiếu chiến lược hoàn chỉnh, không tránh khỏi lúng túng bị động trong định hướng đầu tư. Các loại công nghệ mang tính mũi nhọn của thời đại như công nghệ tin học- điện tử, công nghệ sinh học, công nghệ sản xuất vật liệu mới chưa được phát triển mạnh ở thành phố Hà Nội cũng như trong cả nước. Tự động hoá ngành công nghiệp còn rất hạn chế. +Sau khi Việt Nam chính thức hội nhập AFFTA, nếu ngành công nghiệp thủ đô không nhanh chóng đổi mới công nghệ thì sẽ gặp khó khăn lớn trong cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm ngay trên thị trường nội địa chưa nói đến thị trường xuất khẩu. Đó là thách thức lớn đối với công nghiệp Hà Nội. - Cơ chế chính sách quản lý không đồng bộ nhất là chính sách khuyến khích đầu tư, khuyến khích áp dụng công nghệ mới, thiếu cơ chế hấp dẫn mang tính cạnh tranh để thu hút đầu tư vào các KCN. - Thiếu vốn để tiếp nhận đổi mới công nghệ, trong khi đó cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư chưa hấp dẫn, chưa thu hút được các nguồn vốn nhàn dỗi trong dân hiện nay rất lớn. Đồng thời, các doanh nghiệp thiếu thông tin về thị trường do các cấp chính quyền không chú trọng trong việc tìm kiếm thị trường cho các doanh nghiệp chính vì vậy đã có những trường hợp đầu tư không hiệu quả. - Do chính sách quản lý đãi ngộ chưa thoả đáng một bộ phận công nhân lành nghề, cán bộ kỹ thuật chuyển nghề hoặc chuyển công tác đến các tỉnh, thành phố khác hoặc vào các cơ sở liên doanh với nước ngoài. - Tuy nằm ở vị trí trung tâm nhưng chưa có tác động nhiều đến công nghiệp của vùng đông bằng sông Hồng. Sự liên kết sản xuất trong tam giác Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh còn yếu ớt. - Thời gian hội nhập với các nước trong khu vực đã đến gần nhưng so sánh về chất lượng sản phẩm, giá cả các sản phẩm tương ứng của các nước trong khu vực vẫn còn khoảng cách khá xa. Tình hình trên đòi hỏi công nghiệp Hà Nội phải nỗ lực vượt bậc để xứng đáng là trung tâm công nghiệp của cả nước, tranh thủ thời cơ khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước phát triển mạnh mẽ hơn các KCN coi đó là giải pháp mang tính đột phá để tạo ra sự phát triển vượt bậc trong tương lai II. Phương hướng phát triển các KCN tập trung của Hà Nội đến năm 2010 1. Định hướng phát triển chung cho các KCN tập trung của Hà Nội. Trên cơ sở nghiên cứu dự báo nhu cầu thị trường sản phẩm, đánh giá tiềm năng lợi thế khai thác tối đa các nguồn lực xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp của thành phố hướng vào mục tiêu phát triển sản xuất nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập Để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2010 của Việt Nam '' Đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá tập trung xây dựng có chọn lọc một số ngành công nghiệp nặng quan trọng với công nghệ cao, sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị kỹ thuật công nghệ tiên tiến cho các ngành công nghiệp nông nghiệp dịch vụ và đáp ứng nhu cầu quốc phòng an ninh đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển và xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp" và nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội Hà Nội giai đoạn 2001-2010'' nâng cao hiệu quả KCN tập trung phát triển KCN vừa và nhỏ tiếp tục phát triển các ngành công nghiệp cơ khí, điện tử tin học, dệt may, da giầy, chế biến thực phẩm. Đột phá những ngành hàng, sản phẩm sử dụng công nghệ hiện dại, có chất lượng chất xám cao. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 11-12%/năm, thì KCN tập trung của thành phố Hà Nội phát triển theo các định hướng sau: 1.1. Tiếp tục hoàn chỉnh quy hoạch phát triển các KCN Hà Nội trên địa bàn Hà Nội. KCN là bộ phần trong tổng thể công nghiệp của thành phố và của cả nước, trong đó các ngành công nghiệp được kết hợp theo quy hoạch ngành với quy hoạch vùng lãnh thổ: Các KCN được lựa chọn hình thành phải phù hợp với quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế xã hội của thành phố. Các ngành nghề thu hút vào KCN phải phù hợp với định hướng phát triển các ngành kinh tế kỹ thuật. Các loại hình và quy mô doanh nghiệp hoạt động trong KCN đa dạng: có quy mô lớn, vừa và nhỏ, đặc biệt khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ trong mối liên hệ hợp tác cùng tham gia sản xuất các loại sản phẩm. Phát triển các cụm công nghiệp và điểm công nghiệp ở các thị trấn, thị xã hình thành mạng lưới công nghiệp vừa và nhỏ phân bố rộng khắp địa bàn thành phố. Bảo đảm đồng bộ phát triển công nghiệp với phát triển cơ sở hạ tầng và quá trình đô thị hoá. Cần xác định giới hạn KCn trên cơ sở cân đối các điều kiện, từ đó xác định bước đi với quy mô phù hợp. Cần ưu tiên thành lập KCN trên cơ sở đã có một số doanh nghiệp nay mở rộng thêm hoặc cải tạo các KCN cũ, sau đó đến xây dựng các KCN mới phục vụ cho việc chỉnh tranh đô thị, quy hoạch loại việc phát triển trên địa bàn. Các KCN cần có giải pháp hữu hiệu hoàn chỉnh các công trình hạ tầng trong và ngoài hàng rào, nhà ở cho công nhân, xử lý chất thải. 1.2. Tiếp tục tăng đầu tư. Tập trung thu hút đầu tư lấp đầy KCN hiện có và ưu tiên mở rộng các KCN hoạt động có hiệu quả như KCN Sài Đồng B. Bên cạnh thu hút đầu tư mới cần tập trung khuyến khích tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp đang hoạt động mở rộng sản xuất, thị trường đổi mới công nghệ nâng cao năng suất chất lượng. Để thực hiện điều đó cần phải cải biến sâu sắc cơ cấu công nghiệp dùng KCN, KCX làm đột phá tăng mức độ hội nhập làm áp lực lấy thực tiễn phát triển công nghiệp trong những năm qua và sự kiểm chứng của thị trường lựa chọn những ngành công nghiệp có triển vọng. Để hỗ trợ tích cực công tác bảo vệ môi trường phát triển bền vững tạo cơ sở kinh doanh hiệu quả thì kiên quyết hướng các nhà đầu tư vào trong KCN trừ những dự án đòi hỏi nguồn nguyên liệu cần diện tích đất lớn hàng trăm ha. 1.3. Hình thành và phát triển các KCN vừa và nhỏ trên địa bàn Hà Nội. Dự kiến từ nay đến năm 2010 Hà Nội sẽ phát triển 15 KCN vừa và nhỏ. Quy mô mỗi KCN từ 15-20 ha. Tổng diện tích đất KCN vừa và nhỏ phát triển khoảng 300 ha chiếm 10% tổng quỹ đất quy hoạch chung của Hà Nội dành cho phát triển KCN. Mỗi huyện ngoại thành dự kiến 2-3 KCN vừa và nhỏ. - Từ nay đến 2005 xây dựng 4 KCN vừa và nhỏ thí điểm tại 4 huyện ngoại thành Hà Nội : Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm, Đông Anh. - Từ 2005-2010 phát triển tiếp 5 KCN vừa và nhỏ mới. - 2010-2020 phát triển thêm 6KCN vừa và nhỏ. 2. Định hướng phát triển riêng cho từng KCN tập trung trên địa bàn Hà Nội đến năm 2010. * KCN Sài Đồng B KCN này hoạt động mạnh nhất trong 5 KCN của Hà Nội cần tiếp tục kêu gọi đầu tư để có tốc độ tăng trưởng lâu dài và bền vững. Cần có các giải pháp tích cực để phấn đấu lấp đầy còn 49 ha còn lại, đạt 100% phủ kín đất công nghiệp. Mặt khác cần ưu tiên, tăng cường phát triển các: + Cơ sở sản xuất các sản phẩm điện, điện tử. + Cơ sở sản xuất các sản phẩm không có chất thải gây ô nhiễm môi trường. * KCN Đài Tư là KCN có diện tích đất công nghiệp nhỏ nhất trong 5 KCN của Hà Nội cần có biện pháp hoàn thiện nhanh cơ sở hạ tầng và phấn đấu sẽ lấp hết diện tích đất công nghiệp. Bên cạnh các sản phẩm được sản xuất trong KCN, cần ưu tiên đầu tư vào các KCN này các: + Cơ sở sản xuất các sản phẩm điện, điện tử. + Cơ sở sản xuất các sản phẩm chế biến nông lâm thực phẩm. + Cơ sở sản xuất các sản phẩm may mặc. + Cơ sở sản xuất các đồ dùng gia đình. *KCN Thăng Long Đối với KCN này cần có giải pháp tích cực hoàn thiện nốt cơ sở hạ tầng có chính sách thích hợp thoáng hơn để kêu gọi các công ty , nhà máy xí nghiệp vào đầu tư hướng ưu tiên đầu tư vào các KCN này là các: + Cơ sở sản xuất các sản phẩm điện, điện tử, viễn thông. + Cơ sở sản xuất các sản phẩm tiêu dùng khác. *KCN Nội Bài- Sóc Sơn là một trong những KCN được hưởng ưu đãi của Nhà nước, do đó cần xây dựng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước về vốn, miễn giảm thuế, tăng cường tổ chức chỉ đạo thực hiện nhằm thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào KCN.Hướng ưu tiên phát triển cho đầu tư vào các KCN này là: + Cơ sở sản xuất các sản phẩm cơ khí, máy móc. KCN này nằm trên địa bàn khuyến khích đầu tư của Hà Nội. *KCN Daewoo- Hanel KCN này códiện tích lớn nhất trong 5 KCN tập trung của Hà Nội nhưng cho tới nay việc triển khai xây dựng hạ tầng vẫn còn đang chậm tiến độ do nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy chủ đầu tư xây dựng hạ tầng là công ty liên doanh giữa tập đoàn Daewoo (Hàn Quốc) và công ty điện tử Hanel cần kết hợp với ban quản lý KCN và KCX Hà Nội cần có các biện pháp nhanh chóng để triển khai các dự án. Hướng đi ưu tiên phát triển cho đầu tư vào KCN này là: + Cơ sở sản xuất các sản phẩm điện, điện tử, tin học, quang học Bảng gnang III. Các giải pháp phát triển các KCN ở Hà Nội 1. Các giải pháp về phía Nhà Nước. 1.1. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư Chính sách thu hút đầu tư, khơi thông dòng chảy đầu tư vào các KCN là vấn đề then chốt hiện nay khi có sự cạnh tranh gay gắt về đầu tư trong khu vực và trên thế giới. Nhà nước cần phải điều chỉnh linh hoạt, chính sách quản lý vĩ mô theo từng giai đoạn để tăng tính hấp dẫn cho các KCN. Nằm trong môi trường đầu tư chung của cả nước, trong những năm gần đây lãnh đạo thành phố rất quan tâm đến việc cải thiện môi trường đầu tư ở Hà Nội và thực tế đã tạo ra sự hấp dẫn hơn so với những năm trước đây. Nhưng đánh giá một cách khách quan vẫn còn một số vấn đề chưa giải quyết được trọn vẹn. Trong một vài năm gần đây việc thu hút đầu tư trong và ngoài nước đều chững lại và có phần suy giảm nhất là khu vực dân doanh. Có nhiều lý do nhưng trước hết chúng ta phải kiểm chứng lại khung khổ pháp lý. Phải chăng luật cởi mở, những chính sách nghị định có xu hướng bó lại lĩnh vực nhà nước kiểm soát còn rộng, quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp chưa đầy đủ, chưa có một sân chơi bình đẳng của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hạ tầng của Hà Nội phát triển nhưng chưa tránh khỏi chắp vá không đồng bộ nhất là khu vực ngoài hàng rào tiến triển rất chậm. Để cải thiện môi trường đầu tư cần phải tiến hành các biện pháp đặc biệt sau đây: + Để đảm bảo tính thống nhất giữa các văn bản luật và dưới luật liên quan đến khuyến khích và bảo đảm đầu tư vào các KCN. + Tạo lập một cơ chế kích thích đầu tư hấp dẫn có tính cạnh tranh với các tỉnh và thành phố khác. + Khuyến khích đầu tư khu vực dân doanh. Chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự đóng góp của khu vực dân doanh ngày càng trở nên quan trọng hơn. Việc tạo môi trường kinh doanh hoàn toàn bình đẳng giữa các thành phần kinh tế không những tạo điều kiện thuận lợi cho thành phần này phát triển đồng thời còn tạo tiền đề cho việc phân bổ nguyên liệu toàn xã hội một cách hiệu quả hơn, tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế của toàn xã hội. + Bảo hộ có chọn lọc có thời hạn một số ngành cần khuyến khích phát triển. + Có cơ chế hoàn trả chi phí đầu tư hạ tầng ngoài hàng rào + Chủ động tiếp cận vận động đầu tư các công ty có tầm cỡ lớn + Sơ kết mô hình đầu tư vào KCN nhỏ để rút kinh nghiệm và quyết định kịp thời các chủ trương tiếp theo. 1.2. Giải pháp về tiếp thị đầu tư. Kinh nghiệm khu vực và một số tỉnh thành phố ở nước ta đã chỉ rõ thị trường là sức sống của các KCN chính vì vậy để hình thành phát triển các KCN việc nghiên cứu dự báo thị trường sản phẩm được coi là vấn đề cơ bản và hệ trọng là căn cứ trong việc luận chứng cho sự ra đời của các KCN. Để mở rộng thị trường cho các KCN cần nâng cao năng lực tiếp thị từ cơ quan quản lý nhà nước UBND thành phố mà cả cơ quan tham mưu là ban quản lý KCN và các công ty kinh doanh trong KCN. Đối với cơ quan quản lý nhà nước cần tạo điều kiện để các nhà đầu tư trong và ngoài nước tìm hiểu cơ hội đầu tư thông qua việc giới thiệu định hướng phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch các KCN. Sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư vào các KCN trong khuôn khổ pháp luật như giảm tối đa giá thuê đất bảo đảm cơ chế “một cửa”, giải quyết thủ tục hành chính nhanh nhất cho các nhà đầu tư, vận dụng thêm các ưu đãi khác để thu hút đầu tư hướng dẫn việc làm thủ tục nhanh gọn, quy định thời hạn cấp giấy phép trong thời gian ngắn nhất. Đối với công ty kinh doanh trong KCN cũng tăng tiếp thị cho KCN thông qua các công ty có uy tín trong ngoài nước để tìm kiếm các nhà đầu tư, hạ giá cho thuê đất và mặt bằng nhanh chóng lấp đầy phủ kín KCN cử chuyên gia tiếp xúc với các hiệp hội, tổ chức thương mại của khu vực và thế giới giới thiệu các công ty của thành phố cho những người có ý định đầu tư vào các KCN này. 1.3. Giải pháp về đất đai và cơ sở hạ tầng. Một trong những mục tiêu xây dựng KCN là để đảm bảo về môi trường khi phát triển công nghiệp. Trách nhiệm bảo vệ môi trường không phải là trách nhiệm riêng của nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong KCN mà lẽ ra với vai trò quản lý toàn xã hội, nhà nước phải có vai trò chính trong vấn đề này. Nhưng trong thực tế hiện nay nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vừa phải đền bù giải phóng mặt bằng, vừa phải xây dựng hạ tầng kỹ thuật trong KCN trong khi các nhà đầu tư cơ sở hạ tầng đều thiếu vốn. Do vậy để giải quyết vấn đề trên cần đảm bảo thực hiện các giải pháp sau: Thứ nhất, đề nghị nhà nước tiếp tục nghiên cứu giảm giá thuê đất trong các KCN Hà Nội. Khung giá đất cao đang là vấn đề bức xúc của Hà Nội. Nếu khung giá đất không thay đổi thì Hà Nội khó có thể thu hút các nhà đầu tư vào địa bàn và vì thế không thể phát huy được vị thế của một thủ đô của một quốc gia. Tuỳ theo sự biến đổi của tình hình, khung giá đất phải biến đổi kịp thời để duy trì sự hấp dẫn đầu tư của Thủ đô nói riêng và cả nước nói chung. Thứ hai, trong khi chờ Chính phủ quyết định giảm giá thuê đất, thành phố cần có chính sách hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp trong việc thuê đất tại các KCN. Trong lúc khung giá đất nhà nước chưa được phép thay đổi, Hà Nội có thể học tập kinh nghiệm của các địa phương khác như: sử dụng nguồn ngân sách của tỉnh để hỗ trợ việc di dời, hỗ trợ doanh nghiệp thuê đất hoặc giảm thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp, cấp lại quyền sử dụng đất ở nơi phải di dời... Thứ ba, đơn giản hoá, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Về lâu dài cần sửa đổi luật đất đai một cách cơ bản theo hướng tạo điều kiện thúc đẩy thị trường bất động sản.Trước mắt trong khi chờ sửa đổi luật, sở địa chính cùng các cơ quan hữu quan có thể nghiên cứu biện pháp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp trong KCN, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng chứng nhận này làm thế chấp vay tín dụng. Thứ tư, thành phố nên có các chính sách và biện pháp để giải phóng mặt bằng một cách dứt điểm và đúng tiến độ. Cho đến nay công tác đền bù và giải phóng mặt bằng còn gặp nhiều khó khăn do cả hai phía: từ các cơ quan nhà nước và từ phía người dân. Nhà nước cần có một biện pháp thống nhất công khai và dứt khoát xử lý vấn đề này. Thứ năm, Quy hoạch sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt phải có tính ổn định trong thời gian dài. Đầu tư sản xuất kinh doanh là một hoạt động mang tính lâu dài. Chính vì vậy, những yếu tố thiếu sự ổn định không những thiệt hại đến hiệu quả đầu tư mà còn làm ảnh hưởng đến lòng tin của các nhà đầu tư vào chính sách của nhà nước. Việc thay đổi quy hoạch sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt đã có ảnh hưởng tiêu cực như vậy. Trong thực tế vừa qua tại Hà Nội, sự thay đổi quy hoạch đã làm một KCN phải thu hẹp diện tích buộc phải bỏ một số diện tích dự kiến sẽ cung cấp dịch vụ cho khu vực này. Điều đó làm giảm phần nào tính hấp dẫn của các nhà đầu tư. Chính vì vậy đề nghị các cơ quan chức năng cần xem xét một cách kỹ lưỡng trong quá trình quy hoạch và cố gắng tối đa trong việc duy trì ổn định quy hoạch trong một thời gian dài . Sáu là, huy động vốn đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng. Để có nguồn vốn cho đầu tư cơ sở hạ tầng KCN cần có những giải pháp: Đa dạng hoá các nguồn vốn: Nhà nước, tín dụng, vốn vay từ các tổ chức quốc tế, nguồn vốn từ các nhà đầu tư. Hình thành ngân hàng chuyên doanh phục vụ cho các KCN, KCX để huy động các nguồn vốn nhàn dỗi trong xã hội để phát triển KCN. Ưu tiên các nguồn vốn ODA cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN xác định danh mục cần sử dụng nguồn vốn này theo thứ tự ưu tiên để bố trí kế hoạch xây dựng . Sử dụng quỹ đất xây dựng cơ sở hạ tầng để phát triển KCN. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào một số các hạng mục công trình phù hợp với khả năng của họ. Có cơ chế để sử dụng vốn ngân sách phát triển KCN thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu. 1.4. Chú trọng đào tạo lao động trong KCN. Hà Nội có điều kiện thuận lợi hơn so với các địa phương khác là trung tâm khoa học công nghệ và đào tạo trình độ dân trí và nghề nghiệp cao hơn. Nhưng qua thực tế ở một số KCN ở Hà Nội cho thấy giữa nhu cầu lao động và nguồn lao động không đồng nhất. Trong khi lực lượng lao động ở thành phố rất dồi dào, nhưng các doanh nghiệp trong vẫn rất khó khăn trong việc tuyển dụng lao động do lao động tại chỗ chưa đáp ứng những điều kiện về tay nghề, trình độ chuyên môn của các doanh nghiệp mà nguyên nhân chủ yếu là việc hình thành và phát triển các KCN thường đi trước công tác đào tạo. Để khắc phục mâu thuẫn này, tạo nguồn lao động lâu dài cho các KCN cần thực hiện các giải pháp sau đây: Dựa vào dự báo quy hoạch phát triển công nghiệp để xây dựng kế hoạch đào tạo trong đó có yêu cầu về số lượng chất lượng cơ cấu ngành nghề. Cần mở rộng hệ thống dịch vụ việc làm, kiểm sát điều tra nắm bắt nhu cầu về số lượng và chất lượng lao động của các doanh nghiệp trong các KCN, nhu cầu việc làm và chất lượng lao động của xã hội để có các cân đối chung trên cơ sở đó đầu tư phát triển các trung tâm các trường đào tạo nghề cho các KCN. Đa dạng hoá các hình thức đào tạo nghề như vừa học vừa làm học rồi làm ngay tại các doanh nghiệp trong KCN, vừa học vừa nâng cao trình độ học vấn, chọn các công nhân có năng khiếu vào các ngành nghề mũi nhọn. - Nhà nước có cơ chế khuyến khích các cơ sở đào tạo lao động thông qua bổ sung kinh phí miễn giảm thuế cho các cơ sở đào tạo như tổng cục dạy nghề, bộ giáo dục và đào tạo, các cơ quan trung ương khác…mở các lớp bồi dưỡng cán bộ quản lý nhà nước đối với KCN. Xúc tiến việc thành lập cơ sở đào tạo công nghệ kỹ thuật và quản trị doanh nghiệp. Chú trọng đổi mới trang thiết bị dạy nghề có chất lượng cao. 1.5. Hoàn thiện môi trường pháp lý để nâng cao hiệu quả quản lý đối với các KCN. Tiếp tục phân cấp uỷ quyền cho ban quản lý một cách đồng bộ tạo điều kiện thực hiện cơ chế một cửa, tại chỗ. Để tạo điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện cơ chế một cửa tại chỗ, trung ương và thành phố cần tiếp tục phân cấp và uỷ quyền cho ban quản lý các KCN và KCX Hà Nội trong việc ra các quyết định có liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN. Đề nghị giao cho ban quản lý thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các KCN vừa và nhỏ, cụm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của thành phố, Hà Nội là thành phố đầu tiên được chính phủ cho phép thành lập KCN vừa và nhỏ. Đây là chủ trương hoàn toàn đúng đắn và kịp thời, không những tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mới hình thành mà còn tạo cho các doanh nghiệp nhỏ nội đô di dời ra ngoài ngoại thành mở rộng mặt bằng sản xuất bảo vệ môi trường do tính chất công việc quản lý các KCN này không khác các KCN tập trung thành phố nên giao việc quản lý các KCN này vào một đầu mối là ban quản lý các KCN và KCX Hà Nội. Thông qua đó ban quản lý các KCN có thể phát huy tốt hơn kinh nghiệm công tác của mình đồng thời nâng cao hiệu quả chung của bộ máy quản lý thành phố. 1.6. Hỗ trợ phát triển về dịch vụ KCN. Thành phố và các cơ quan liên quan sớm có những biện pháp cung cấp dịch vụ cho KCN một cách đồng bộ với giá cả hợp lý: dịch vụ cung cấp điện, nước, cấp thoát nước, giao thông viễn thông... là những dịch vụ đặc biệt quan trọng cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN. Để có thể nâng cao sự hấp dẫn của các KCN những dịch vụ không những cần được cung cấp kịp thời mà cần có một mức giá thỏa đáng tạo thuận lợi có điều kiện giảm chi phí so với đầu tư vào các địa điểm khác. Bên cạnh dịch vụ hỗ trợ sản xuất kinh doanh thành phố cũng cần quan tâm đúng mức đến loại hình dịch vụ khác như điều kiện ăn ở gần KCN trường học, chợ, giao thông công cộng, có như vậy mục tiêu phát triển theo quy hoạch của thành phố mới sớm trở thành hiện thực. 1.7. Các giải pháp khác Tích cực lấp đầy các KCN tập trung hiện có trên địa bàn Hà Nội. Trên cơ sở các KCN tập trung đã có (KCN Sài Đồng B, Nội Bài, Thăng Long, Đài Tư, Daewoo- Hanel) cần rà soát chỉnh lại với phương châm là không hướng vào tăng số lượng các KCN loại này mà hướng vào lấp đầy phủ kín diện tích đã xây dựng để tiết kiệm quỹ đất và chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó cần hình thành các KCN vừa và nhỏ ở các huyện ngoại thành vì nó phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hỗ trợ tài chính, phi tài chính của thành phố Hà Nội cho các doanh nghiệp tại các KCN Trong điều kiện ngân sách nhà nước còn eo hẹp, việc tập trung nguồn lực tài chính để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong các KCN sẽ là một quyết định đúng đắn, đảm bảo quy hoạch đô thị bảo vệ môi trường cũng có cơ sở cho phát triển bền vững của thủ đô Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung. Bên cạnh đó vai trò của thông tin tư vấn ngày càng quan trọng hơn đối với các hoạt động của doanh nghiệp. Chính những hoạt động này cần ít kinh phí nhưng lại có thể đưa lại cho doanh nghiệp nhiều cơ hội kinh doanh cũng như tăng tính hiệu quả của doanh nghiệp. 2. Các giải pháp thuộc các KCN. Ngoài các giải pháp mang tính định hướng vĩ mô của các cơ quan Nhà nước, Ban quản lý các KCN cùng với các doanh nghiệp trong KCN cần có những biện pháp mang tính chủ động phối hợp với nhà nước nhằm đảm bảo cho các KCN hoạt động có hiệu quả. Cụ thể như: Không ngừng hoàn thiện bộ máy quản lý các KCN Để tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ, ở Trung ương có ban quản lý các KCN Việt Nam. Với nhiệm vụ xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn các ngành các địa phương tổ chức thực hiện. Ban quản lý KCN cấp tỉnh, thành phố là cơ quan quản lý trực tiếp các KCN, KCX trong phạm vi địa lý hành chính của mình. Các KCN chịu sự quản lý trực tiếp của ban quản lý các KCN cấp tỉnh. Sơ đồ: Mô hình quản lý KCN ở nước ta Thủ tướng Chính phủ Các cơ quan Bộ, ban, ngành TW UBND cấp thành phố, cấp tỉnh Ban quản lý các KCN Việt Nam Ban quản lý các KCN cấp tỉnh KCN - KCX Theo quy định tại nghị định số 36/CP ngày 24/4/1997 của chính phủ thì các ban quản lý KCN, KCX ngoài nhiệm vụ và quyền hạn được giao còn phải chịu sự quản lý nhà nước của UBND tỉnh. Mặt khác, phương hướng hoạt động của các Ban quản lý cũng phải phù hợp với nhiệm vụ kinh tế xã hội của địa phương. Việc phân cấp uỷ quyền chưa được đồng bộ nhất quán, ban hành chồng chéo giữa các cơ quan. Trong thời gian tới để củng cố hệ thống các KCN, KCX cần nghiên cứu hoàn thiện mô hình quản lý các KCN, KCX. Các bộ, ban, ngành trung ương thức hiện uỷ quyền cho Ban quản lý KCN với mức độ cao hơn, có thể xem xét việc Ban quản lý KCN là một cơ quan đầu mối ở địa phương trong việc cấp giấy phép đầu tư, cấp chứng nhận ưu đãi đầu tư và giải quyết các vấn đề có liên quan đến hoạt động đầu tư. Trong Ban quản lý KCN có thể có đại diện của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành để giúp các vấn đề có liên quan phụ thuộc lĩnh vực phụ trách.Về tổ chức quản lý nên giao cho UBND tỉnh , thành phố quản lý trực tiếp. Đồng thời, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý. Có thể cử cán bộ quản lý sang địa phương khác thậm chí ra nước ngoài để học tập và tích luỹ kinh nghiệm. + Cải thiện môi trường làm việc cho ngườ lao động: Các KCN nằm ở ngoại thành, lao động chủ yếu là lao động nông nghiệp, phải qua đào tạo mới đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư vừa tạo điều kiện giải quyết tình trạng lao động thất nghiệp của địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế các huyện ngoại thành. Nhưng một thực trạng sử dụng lao động tại các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn nhiều bất cập. Vẫn có tình trạng công nhân phải làm việc trong môi trường khắc nghiệt như một ngày phải làm việc từ 10-12 tiếng trong khi đó tiền lương nhận được lại quá thấp không đủ trang trải cho cuộc sống, thêm nữa là các chủ sử dụng lao động chưa tuân thủ bộ luật lao động của nước ta là chưa tham gia đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội cho ngừời lao động, người lao động nghỉ ốm thì không được trả lương. Chính vì vậy mà trách nhiệm của Ban quản lý các KCN là phải đảm bảo cho người lao động những điều kiện tối thiểu nhất về thu nhập, điều kiện làm việc, nhà ở ...để người lao động yêu tâm làm việc lâu dài. Bên cạnh đó các doanh nghiệp trực tiếp sử dụng lao động cũng phải có những biện pháp phối hợp cùng với các cấp lãnh đạo trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động, tham gia đóng bảo hiểm đầy đủ. Một số giải pháp khác: + Tranh thủ các quan hệ của các doanh nghiệp hiện có thể thu hút thêm các dự án khác. Để đạt được điều đó trước tiên các KCN phải cung cấp những điều kiện thuận lợi để cho các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hỗ trợ các doanh nghiệp tiêu thụ hàng hoá hoặc tìm kiếm các nguồn đầu tư vào. + Chủ động và tích cực thu hút đầu tư đưa ra các biện pháp nhằm hấp dẫn đầu tư: Các KCN có thể thông qua thành phố mà kiến nghị với nhà nước cho giảm giá thuê đất để đảm bảo tính cạnh tranh với các KCN ở các địa phương khác. Ngoài ra cần thành lập các đoàn kêu gọi vận động thu hút vốn đầu tư ở nước ngoài, hoặc xúc tiến việc thiết lập mạng lưới thông tin về các KCN ở Hà Nội chẳng hạn như việc xây dựng trang Web trên Internet.. + Đầu tư phát triển hạ tầng trong KCN: theo hình thức đầu tư cuốn chiếu, đồng thời kết hợp giữa xây dưng cơ sở hạ tầng và kêu gọi vốn đầu tư để tránh lãng phí vốn đầu tư. Thực tế đã chứng minh mô hình theo kiều cuốn chiếu này thành công đối với các KCN Tân Thuận và KCN Sài Đồng B. Để đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội mà đại hội Đảng bộ thành phố mới đề ra thì việc phát triển các KCN tập trung có một vai trò quan trọng. Tuy nhiên cần sớm có định hướng phát triển khu vực này tránh hiện tượng đầu tư tràn lan kém hiệu quả. Đồng thời cần quán triệt quan điểm là ưu tiên phát triển về chất hơn là phát triển về lượng của các KCN để các KCN của Thủ đô nói riêng và ngành công nghiệp thủ đô nói chùng có vị trí tương xứng với tầm vóc của Thủ đô trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước. Kiến nghị Để đảm bảo hoạt động của các KCN Hà Nội đi vào hoạt động ổn định và phát triển, tôi kiến nghị với Chính phủ và thành phố cần quan tâm đầu tư một số vấn đề sau đây: Sau khi tổng kết 10 năm kinh nghiệm xây dựng và phát triển các KCN của cả nước và của Hà Nội, Chính phủ cần ban hành những chính sách cụ thể về chế độ ưu đãi đối với từng vùng, từng địa phương và quy hoạch chi tiết đến năm 2010 việc xây dựng các KCN trong cả nước. Sớm xây dựng luật KCN khẳng định mô hình và cơ chế hoạt động của ban quản lý KCN cấp tỉnh( thành phố) và công ty kinh doanh hạ tầng các KCN. Xây dựng mối liên hệ giữa vai trò quản lý nhà nước và chỉ đạo hoạt động đối với các doanh nghiệp trong KCN của ban quản lý KCN cấp tỉnh( thành phố). Đảng và chính quyền thành phố Hà Nội sớm nghiên cứu và xây dựng chính sách khuyến khích các nhà đầu tư trong nước vào các KCN hoạt động. Tập trung một đầu mối của thành phố để triển khai các hoạt động tư vấn và tuyên truyền tiếp thị đầu tư nước ngoài trên cơ sở một chính sách thống nhất nhằm mục tiêu thu hút đầu tư vào các KCN đã xây dựng xong hạ tầng kỹ thuật. Kết luận Qua đề tài trên ta có thể khẳng định lại một lầm nữa. Để thực hiện các nhiệm vụ của kinh tế xã hội của chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2010 nói chung các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội nói riêng thì việc nghiên cứu đề tài này là một việc thiết thực đối với tình hình kinh tế trong nước và quốc tế. Vai trò của các KCN trong sự phát triển kinh tế thể hiện rất rõ. KCN,KCX đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư, tăng việc làm và phát huy được lợi thế lao động, tăng sản lượng hàng hoá xuất khẩu hội nhập khoa học kỹ thuật công nghệ sản xuất và quản lý tiên tiến của thế giới khắc phục tình trạng cơ sở hạ tầng thấp kém thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế trong nước và kinh tế quốc tế, Từ vai trò quan trọng trên KCN của Hà Nội đã được xác định là hạt nhân cho sự phát triển kinh tế của thủ đô và được các cấp lãnh đạo quan tâm phát triển. Do đó các KCN của Hà Nội đã đạt được những kết quả bước đầu đầu góp phần vào tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy ngoại thương các ngành kinh tế mũi nhọn, công nghiệp điện tử tin học, phát triển kinh tế của thủ đô. Tăng thu ngân sách trên địa bàn thành phố, thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ. Bên cạnh những thành tựu trên các KCN còn gặp nhiều khó khăn tồn tại: những mặt yếu kém về mặt pháp lý, đầu tư vào cơ sở hạ tầng, quản lý nhà nước và thủ tục hành chính các vấn đề tồn tại trong cơ cấu tổ chức bộ máy của các ban quản lý và dịch vụ trong KCN. Để đảm bảo cho các KCN phát triển có hiệu quả, làm tốt vai trò hạt nhân trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế thủ đô Hà Nội, các cơ quan Đảng và Nhà nước cần có sự quan tâm đúng mức phối hợp với ban quản lý của từng KCN về các mặt như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN, chất lượng lao động, cơ chế chính sách, thủ tục hành chính. Làm tốt những giải pháp trên đây sẽ góp phần phát triển các KCN làm đầu tầu trong việc phát triển ngành công nghiệp của Thủ đô. Sau hơn 4 tháng thực tập tại Viện nghiên cứu Kinh Tế Thế Giới, được sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Kim Dung (khoa Kế Hoạch và phát triển) cùng cán bộ hướng dẫn TS. Nguyễn Trần Quế (Viện Kinh Tế Thế Giới) tôi đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Tuy nhiên đề tài không tránh khỏi những sai sót, tôi rất mong nhận được sự góp ý, đánh giá của các thầy cô trong khoa và bạn đọc. Danh mục tài liệu tham khảo Quy hoạch phát triển công nghiệp Thành phố Hà Nội đến năm 2010- Sở Công nghiệp Hà Nội. Báo cáo hoạt động của Ban Quản Lý các KCN và KCX Hà Nội- Tiến sĩ Lê ất Hợi. Kỷ yếu hội thảo khoa học về KCN,KCX Việt Nam- Ban quản lý các KCN Việt Nam- Hà Nội năm 1998. Đề tài 01X- 07- Ban quản lý các KCN và KCX Hà Nội. Giải pháp phát triển các KCN trên địa bàn Hà Nội- tạp chí Công nghiệp – Số 13/01. Các KCN nước ta hiện nay – Thực trạng và giải pháp- Tạp chí Cộng Sản số 12/2000. Các KCN Hà Nội đang chờ các nhà đầu tư - Tạp chí CSSK số 12/2000. 10 yếu tố quyết định sự thành công của KCN, KCX – Tạp chí TTTC số 3+4/1999. KCN Hà Nội Thực tế và triển vọng phát triển- tạp chí NCLL số 10/1999. KCN, KCX Hà Nội để triển khai thác tốt hơn nữa hiệu quả kinh tế Hà Nội. Mục lục Trang Bảng 1: Các KCN tập trung trên địa bàn Hà Nội. TT KCN Năm Chủ đầu tư xây dựng CSHT Tổng diện tích (ha) Diện tích đất KCN (ha) Diện tích dành cho DN thuê (ha) Diện tích đất đã cho thuê (ha) Số Dự án VĐT (triệu USD) Số lao động ( người) 1 Sài Đồng B 1996 Việt nam 97 79 61 36 25 306,3 2700 2 Nội Bài 1994 Malaixia – Việt Nam 100 100 37 9,1 6 55,73 300 3 Hà Nội - Đài Tư 1995 Đài Loan 40 40 33 3,3 5 6,21 - 4 Daewoo – Hanel 1996 Hàn Quốc – Việt Nam 407 - - - - - - 5 Thăng Long 1997 Nhật Bản – Việt Nam 121 121 91 27,25 10 162,1 - 6 Tổng số 765 537 222 75,52 46 530,34 Nguồn: Ban quản lý các KCN và KCX Hà Nội Bảng 7: Định hướng phát triển 5 KCN tập trung hiện có ở Hà Nội. TT Tên KCN Tổng DT (ha) DT đất xây dựng KCN DT dành cho doanh nghiệp thuê( ha) DT đã cho thuê (ha) DT đất còn chưa cho thuê (ha) Thời gian dự kiến lấp đầy KCN Hướng gọi đầu tư 1 KCN Nội Bài 100 100 37 9,1 27,9 2005 Cơ sở sản xuất sản phẩm cơ khí, máy móc 2 KCN Hà Nội- Đài Tư 40 40 33 3,3 29,7 2007 Cơ sở sản xuất sản SP điện, điện tử Cơ sở sản xuất chế biến nông lâm thuỷ sản, thực phẩm Cơ sở sản xuất sản SP may mặc Cơ sở sản xuất sản đồ dùng gia đình 3 KCN Sài Đồng B 97 79 61 36 25 2004 Cơ sở sản xuất sản SP điện, điện tử Cơ sở sản xuất sản SP không có chất thải gây ô nhiễm môi trường 4 KCN Daewoo- Hanel 407 197 - - - - Cơ sở sản xuất sản điện, điện tử, tin học, quang học Cơ sở sản xuất sản hàng công nghiệp ô tô, lốp 5 KCN Thăng Long 121 121 91 24,76 63,79 2008 Cơ sở sản xuất sản SP điện, điện tử, viễn thông Cơ sở sản xuất sản SP tiêu dùng Tổng 765 537 222 75,52 146,84 Nguồn: Ban quản lý các KCN, KCX Hà Nội Bảng 7: các dự án đầu tư trong các KCN Hà Nội Khu công nghiệp Sài Đồng B. TT Số giấy phép Ngày cấp Tên dự án Thời gian hoạt động ( năm) Hình thức đầu tư Vốn đăng ký (USD) Vốn pháp định (USD) Diện tích (m2) 1 495/GP - 15/02/1993 Orion – Hanel 50 Liên doanh Việt Nam – Hàn Quốc 177.584.000 51.172.200 120.000 2 1000/GP- 01/01/1994 Điện tử Daewoo- Hanel 26 Liên doanh Việt Nam – Hàn Quốc 40.000.000 14.000.000 44.000 3 1481/GP-18/02/1995 Orion Hà Nội kim loại 48 100% vốn Hàn Quốc 4.850.000 1.600.000 7.000 4 Sứ Vệ sinh Inax 45 Liên doanh Việt Nam - Đài Loan 1.500.000 5 1444/GP-18/02/1995 Khuôn đúc Tsukura Việt Nam 30 100% vốn Nhật Bản 5.000.000 1.500.000 15.145 6 1588/GP-11/6/1996 Sumitomo- Hanel 30 Liên doanh Việt Nam- Nhật Bản 9.980.000 4.265.000 43.760 7 1589/GP-12/6/1999 Công ty máy tính Việt Nam IBM 50 9.000.000 8 1254/GP-27/5/1995 Pentax Việt Nam 30 Liên doanh Việt Nam- Nhật Bản 19.500.000 7.000.000 35.000 9 1628/GP- 19/7/1996 Điện tử Ashin 20 100% vốn Hàn Quốc 883.320 265.000 2.500 10 1655/GP- 24/8/1996 Điện tử Jaewon 30 100% vốn Hàn Quốc 1.210.000 363.000 2.500 11 1656/GP- 29/5/1999 Vineco 35 Liên doanh Việt Nam – Hàn Quốc 6.000.000 15.000 12 1949/Gp- 14/7/1997 Michael Manufacture 20 100% vốn Italia 1.500.000 500.000 20.400 13 01/GP KCN Hà Nội 18/7/1997 Alum Dan Asia 20 100% vốn Israel 1.200.000 750.000 1.000 14 02/ GP KCN Hà Nội 24/7/1997 Belle Sac 20 100% vốn Hồng Kông 3.000.000 900.000 7.000 15 04/GP KCN Hà Nội 24/4/1998 Seo Việt Nam 20 100% Vốn Singapore 450.000 180.000 1.344 16 05/GP KCN Hà Nội Sơn mài mới 30 100% vốn Hồng Kông 900.000 750.000 6.000 17 07/GP KCN Hà Nội Công ty công nghiệp Tân á 45 100% vốn Singapore 4.000.000 1.200.000 20.000 18 08/GP KCN Hà Nội 29/3/1999 Zuellig Pharma Pte.ltd 50 100% vốn Singapore 2.508.000 10.408.000 3.000 19 12/GP KCN Hà Nội 21/4/2000 New Hope Hà Nội 45 100% vốn Trung Quốc 950.000 950.000 15.037 20 11/GP KCN Hà Nội 21/4/2000 Phúc Đầy 20 Liên doanh Việt nam- Đài Loan 300.000 200.000 1.445 21 15/GP KCN Hà Nội Nông sản Long Ji 45 100% vốn Đài Loan 360.000 360.000 2.090 22 16/GP KCN Hà Nội MEDICOS France 45 Liên doanh Việt Nam – Pháp 2.500.000 750.000 5.225 23 18/GP KCN Hà Nội MSA – Hapro 45 Liên doanh Việt Nam- Hàn Quốc 1.500.000 1.000.000 24 19/GP KCN Hà Nội Disovery - Diamonds 100% vốn Bỉ 660.000 200.000 25 Hitech 12.000.000 Tổng số 306.300.000 II.Khu công nghiệp Thăng Long. STT Số giấy phép Ngày cấp Tên dự án Thời gian hoạt động ( năm) Hình thức đầu tư Vốn đăng ký (USD) Vốn pháp định (USD) Diện tích m2 1 14/GP KCN Hà Nội Parker Processing Việt Nam 47 100% vốn Nhật Bản 6.650.000 2.000.000 13.100 2 21/ GP KCN Hà Nội 19/11/2000 Bút chì Mitsubishi 47 100% vốn Nhật Bản 2.700.000 1.800.000 3. KDC Wiring Industries 35 100% vốn Nhật Bản 9.350.000 3.800.000 4. Canon Việt Nam 50 100% vốn Nhật Bản 16.105.000 5.700.000 5. Violex Việt Nam 45 Liên doanh Việt Nam- Nhật Bản 5.340.000 2.500.000 6. Toa Việt Nam 30 100% vốn Nhật Bản 11.450.000 7.800.000 7. Sumitomo baketllite Việt Nam 35 100% vốn Nhật Bản 13.670.000 10.200.000 8. Denso 30 100% vốn Nhật Bản 9.800 6.000.000 9. Goshi Thăng Long 47 Liên doanh Việt Nam- Nhật Bản 12.780.000 10. Chip ASIC 50 100% vốn Hàn Quốc 7.425.500 Tổng số 162.100.000 KCN Hà Nội Đài Tư. STT Số giấy phép Ngày cấp Tên dự án Thời gian hoạt động ( năm) Hình thức đầu tư Vốn đăng ký USD Vốn pháp định USD Diện tích m2 1 09/ GP KCN Hà Nội Minh trị- Việt Đài 45 100% vốn Đài Loan 3.000.000 900.000 19.982 2 10/GP KCN Hà Nội Thầy Thuỵ 45 100% vốn Đài Loan 1.010.000 303.000 10.000 3 13/GP KCN Hà Nội Cự Thăng 45 100% vốn Đài Loan 1.100.000 366.000 12.020 4 13/ GP KCN Hà Nội Kì Ni- Việt Nam 45 100% vốn Đài Loan 9.500.000 330.000 8.602 5 PC components 50 100% vốn Đài Loan 500.000 500.000 1.000 Tổng số 6.210.000 2.399.000 51.604 Khu công nghiệp Nội Bài. STT Số giấy phép Ngày cấp Tên dự án Thời gian hoạt động ( năm) Hình thức đầu tư Vốn đăng ký (USD) Vốn pháp định (USD) Diện tích (m2) 1. 1847/GP 28/2/1997 NCI Việt nam 30 100% vốn Nhật Bản 2.850.000 2.000.000 10.000 2. 1929/GP 25/6/1997 SP Thép Việt Nam 30 100% vốn Nhật Bản 11.034.000 3.500.000 10.000 3. 1937/ GP 27/6/1997 Nhà thép tiền chế ABS 30 100% vốn ả rập xê út 20.000.000 6.666.666 40.000 4. 03/ GP KCN Hà Nội Merak Indira Việt Nam 30 100% vốn Malaixia 5.100.000 2.000.000 5.000 5. 6/GP GP KCN Hà Nội Orica Investment 30 14.000.000 500.000 6. Yamaha 30 15.346.000 800.000 Tổng số 55.730.000 13.466.666

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37118.doc
Tài liệu liên quan