Căn cứ vào mục đích và nội dung đã hoàn thành, chuyên đề tốt nghiệp đã hoàn thành được một số nhiệm vụ sau:
Hệ thống hoá được một số vấn đề lí luận có liên quan hoạt động phát triển KCN và vai trò của Nhà nước đối với thu hút đầu tư vào KCN.
Đánh giá được thực trạng phát triển KCN ở Việt Nam hiện nay qua đó phân tích những thành tựu và hạn chế đối trong hoạt động phát triển KCN hiện nay. Đánh giá vai trò của Nhà nước đối với việc KCN, tìm ra các nguyên nhân nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại ảnh hưởng đến hoạt động phát triển của các KCN nói chung và đối với thu hút đầu tư vào KCN nói riêng
Trên cơ sơ các vấn đề lí luận và cùng với những triển vọng, thách thức trong thời gian tới, yêu cầu đặt ra phải có những phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc phát triển các KCN.
Tóm lại, mô hình phát triển KCN để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá là một mô hình đúng đắn do đó Nhà nước cần phải có sự quan tâm đối với KCN và từng bước tháo gỡ những khó khăn cản trở đối với vai trò của Nhà nước đối với các KCN.
83 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1647 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phương hướng và giải pháp tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2006-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ịa phương đó trong giai đoạn ngắn. Tuy nhiên nếu xét trên khía cạnh tổng thể và lâu dài thì nó sẽ tạo nên sự cạnh trạnh không tích cực, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư chung của cả nước.
Việc các địa phương cố ý đưa ra các ưu đãi đầu tư vượt Luật là một việc làm sai trái. Gần đây, đầu năm 2005 Bộ tài chính đã chấn chỉnh mạnh việc ưu đãi này nhằm đảm bảo tính cạnh tranh bình đẳng giữa các địa phương. Tuy nhiên, qua đó có thể thấy công tác kiểm tra giám sát của Nhà nước đối với việc thành lập các KCN ở địa phương vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Trách nhiệm này hiện nay vẫn chưa có một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phụ trách và vẫn chưa có những biện pháp thực sự hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng này. Đây là vấn đề mà Nhà nước cần phải tiếp tục hoàn thiện trong thời gian tới.
3/ Công tác đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
Đến cuối năm 2005, tổng vốn đăng kí xây dựng cơ sở hạ tầng KCN trên cả nước đạt 1042 triệu USD và khoảng 33332 tỷ đồng. Trong đó tổng vốn thực hiện của các dự án xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN đạt khoảng 550 triệu USD và 8831 tỷ đồng. Ở nhiều nước trên thế giới, việc xây dựng cơ sở hạ tầng thường do nước sở tại thực hiện. Chảng hạn như Trung Quốc, Nhà nước đảm bảo ba thông (thông điện, thông nước, thông đường) và mặt bằng (san lấp mặt bằng). Một số nước khác như Thái Lan, Đài Loan, Malaisia thì còn có sự tham gia của khu vực tư nhân. Rất ít nước như Việt Nam, việc xây dựng cơ sở hạ tầng còn kêu gọi thêm sự tham gia của các chủ đầu tư nước dưới hình thức liên doanh hoặc 100% vốn ĐTNN. Hiện nay ở Việt Nam có 3 KCN được xây dựng với 100% vốn nước ngoài và 16 KCN dưới hình thưc liên doanh.
Việc kêu gọi các nguồn vốn nước ngoài để phát triển hạ tầng KCN của Việt Nam trong thời gian vừa qua có thể nói là một cách làm hết sức độc đáo, một mặt góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn trong thời gian trước mắt. Mặc khác nó có thể phát huy được một số điểm tích cực. Khi các chủ đầu tư nước ngoài đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng, việc rủi ro trong đầu tư đồng thời cũng được chia sẻ, buộc họ tích cực thu hút đầu tư vào KCN. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam học tập kinh nghiệm xây dựng, kinh doanh và quản lí KCN.
Bên cạnh những kết quả đã làm được, trong thời gian qua việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở Việt Nam cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Hiện nay có một thực trạng đó là việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong các KCN tiến hành rất chậm chạp. Trước tiên là do công tác chuẩn bị cho xây dựng cơ sở hạ tầng. Việc đền bù giải phóng mặt bằng hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề để bàn đến. Đối với mọi công trình Nhà nước quy hoạch nói chung và với việc phát triển KCN nói riêng, giải phóng mặt bằng luôn là một vấn đề nan giải.
Việc xây dựng các hạng mục của kết cấu hạ tầng chậm trễ, không đồng bộ do thiếu sự phối hợp giữa các đối tác trong việc đảm bảo phát triển hạ tầng bên trong và ngoài hàng rào KCN, thiếu nguồn vốn cho các hạng mục của kết cấu hạ tầng. Chúng ta chủ trương đa dạng hóa các loại hình Công ty phát triển hạ tầng để đầu tư và kinh doanh hạ tầng KCN. Tuy nhiên đây chỉ là những giải pháp tình thế, trong điều kiện vốn Nhà nước còn eo hẹp. Tại các địa bàn khó khăn nếu không được Nhà nước hỗ trợ, các Công ty hạ tầng sẽ gặp khó khăn trong việc phát triển hạ tầng. Trong khi đó việc áp dụng thuế giá trị gia tăng 10% đối với Công ty phát triển hạ tầng chưa xuất phát từ mục đích hỗ trợ phát triển các KCN.
Nguyên nhân lại có khi đến từ chính các Công ty kinh doanh kết cấu hạ tầng, thường xảy ra đối với các công ty 100% vốn nước ngoài (trường hợp của KCN Đài Tư). Do mục tiêu của công ty kinh doanh kết cấu hạ tầng là lợi nhuận cho nên đôi khi giá cho thuê đất có kết cấu hạ tầng quá cao không phản ánh được sự ưu đãi của Nhà nước. Ở một số nơi, công ty hạ tầng không quan tâm đến việc đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng mà chỉ muốn làm chủ các công trình xây dựng trong các KCN.
Đối với việc liên doanh giữa các chủ đầu tư Việt Nam và đối tác nước ngoài trong việc phát triển hạ tầng KCN. Bên phía Việt Nam khi tham gia liên doanh chủ yếu góp vốn bằng đất, ít có sự góp vốn bằng tài chính do đó có hiện tượng đối tác nước ngoài gặp khó khăn về tài chính nên không góp vốn theo đúng tiến độ quy định, làm chậm trễ xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhà đầu tư cũng thường tiến hành xây dựng hạ tầng theo kiểu cuốn chiếu. Họ dùng một số tiền ban đầu làm vốn khởi động, sau đó lấy tiền cho thuê đất trong khu để đầu tư xây dựng tiếp. Khi thu hồi được vốn đầu tư, nhà đầu tư có thể bê trễ trong xây dựng hoặc không quan tâm bảo trì các cơ sở hạ tầng. Điều này gây ảnh hưởng đến hoạt động toàn khu, làm cho các chủ đầu tư sản xuất kinh doanh trong KCN không yên tâm về hạ tầng và tiện ích trong khu.
Ngoài ra, một trong những vấn đề vướng mắc hiện nay trong việc phát triển kết cấu hạ tầng đó là hạ tầng ngoài KCN chưa được đáp ứng đầy đủ. KCN không phải là một địa bàn khép kín, một lãnh địa triêng biệt mà nó luôn gắn chặt các các yếu tố bên ngoài như điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc…Theo quy định hiện hành thì Nhà nước đầu tư hoặc hỗ trợ các công trình kết cấu hạ tầng bên ngoài đến chân hàng rào các KCN, tuy nhiên ở nhiều địa phương hiện nay chủ trương này chậm được triển khai, việc xây dựng KCN hầu như mới chú ý đến xây dựng kết cấu hạ tầng trong KCN mà chưa chú ý đúng mức đến việc phát triển hạ tầng ngoài KCN. Giao thông vận tải là một bộ phận của kết cấu hạ tầng thiết yếu ngoài hàng rào KCN chưa được quan tâm một cách chu đáo. Việc xây dựng các tuyến đường giao thông ngoài KCN thường bị chậm trễ làm cho việc vận chuyển nguyên, nhiên liệu đến KCN và vận chuyển hàng hoá đến thị trường tiêu thụ gặp nhiều khó khăn. Việc cung cấp điện, nước, thông tin liên lạc cũng còn nhiều tồn tại, nhiều KCN phải tự bỏ tiền kéo điện về chân hàng rào của mình… Sự không đồng bộ này có nguyên nhân chủ yếu là do thiếu sự quan tâm của chính quyền địa phương, bên cạnh đó là những vấn đề thuộc về trách nhiệm của các Công ty phát triển hạ tầng KCN chưa làm tốt phần việc của mình: còn thụ động, thiếu sự chuẩn bị chu đáo.
4/ Công tác xúc tiến, vận động đầu tư
Trong thời gian qua, cùng với việc xây dựng Danh mục dự án gọi vốn đầu tư làm cơ sở để vận động, xúc tiến đầu tư trên địa bàn lãnh thổ, các Ban quản lí KCN các địa phương đã xây dựng được mô hình xúc tiến đầu tư có hiệu quả thông qua việc thành lập Trung tâm xúc tiến đầu tư với chức năng như một cơ quan “một cửa, tại chỗ” nhằm hỗ trợ nhà đâu tư toàn bộ các khâu từ hình thành đến triển khai, đồng thời chủ động tổ chức các chương trình vận động đầu tư ở trong nước và ngoài nước. Song trên thực tế, công tác này chưa được quan tâm một cách đúng mức, thiếu hệ thống tổ chức chung của Nhà nước đồng thời chưa có chính sách thoả đáng đối với hoạt động này. Trách nhiệm này trước hết thuộc về Ban quản lí KCN. Do thiếu đầu mối quản lí chung , nên ngoài một số cuộc hội thảo về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trong đó có lồng ghép nội dụng giới thiệu và vạn động đầu tư vào các KCN đã được thành lập do một số bộ, ngành tổ chức ở trong và ngoài nước, thời gian qua công tác này được tiến hành gần như tự phát ở từng KCN, dựa chủ yếu vào sáng kiến chủ động và kinh phí của các công ty xây dựng hạ tầng KCN, trước hết là của các chủ đầu tư nước ngoài trong các liên doanh xây dựng hạ tầng KCN.
Công tác xây dựng quy hoạch và Danh mục dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài đã bước đầu được quan tâm, nhưng việc triển khai thực hiện còn chậm, chất lượng chưa cao. Một số quy hoạch và dự án trong Danh mục chưa tính đến nhu cầu và điều kiện cụ thể của Nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời không dự báo hết diễn biến tình hình nên chưa thực sự trở thành công cụ định hướng vận động đầu tư có hiệu quả.
Nội dung cũng như phương pháp tổ chức vận động còn quá đơn giản, nặng về tuyên truyền pháp luật, chính sách chưa tập trung vào chương trình vận động theo đối tác, lĩnh vực hoặc dự án cụ thể nên hiệu quả chưa cao. Hoạt động vận động đầu tư tại một số nước, khu vực thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao, thương mại của Việ Nam ở nước ngoài còn hết sức hạn chế do không có cán bộ chuyên trách và kinh phí tổ chức. Thiếu sự kết hợp giữa hoạt động ngoại giao, xúc tiến thương mại với vận động đầu tư. Các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước chưa được sử dụng có hiệu quả nhằm nhằm phục vụ cho hoạt động vận động đầu tư. Tài liệu tuyên truyền đầu tư chưa đầy đủ và không được biện soạn, phổ biến bằng phương tiện hiện đại nên không thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư.
Hệ thống thông tin về kinh tế, luật pháp, chính sách đặc biệt là thông tin về cơ hội và đối tác đầu tư chưa đầy đủ và trong một số trường hợp còn thiếu chính xác, độ tin cậy thấp. Điều này không chỉ làm hạn chế hiệu quả hoạt động tuyên truyền, vận động đầu tư mà còn gây nhiều khó khăn cho nhà đầu tư trong việc tìm hiểu thị trường, xác định cơ hội và đối tác đầu tư.
Một trong những biện pháp xúc tiến đầu tư có hiệu quả đó là việc giải quyết các vấn đề mà các chủ đầu tư gặp khó khăn trước và sau khi bắt đầu vào hoạt động kinh doanh thì Việt Nam lại xử lí không tốt. Vừa qua, việc xử lí đối với một số doanh nghiệp có vốn ĐTNN tiến hành chưa được tốt, đặc biệt cuối năm 2005 đã xảy ra các cuộc bãi công tự phát ở một số KCN thuộc các tỉnh miền Đông Nam Bộ được phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng đã gây hoài nghi cho các nhà đầu tư nước ngoài về sự thiện chí của Việt Nam, tác động không tốt đến việc vận động, thu hút vốn đầu tư trong bối cảnh hiện nay.
5/ Thực hiện các cơ chế, chính sách quản lí
Đến nay, bằng việc thực hiện cơ chế quản lí theo hướng “một cửa, tại chỗ”, Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho các KCN hoạt động. Cơ chế quản lí “một cửa, tại chỗ” đã giúp cho việc thực hiện các thủ tục hành chính nhanh gọn hơn tránh mất thời gian cho các nhà đầu tư, các thủ tục hải quan được đặt ngay tại các Ban quản lí KCN ở địa phương do đó đã bớt thời gian đáng kể cho các doanh nghiệp hoạt động trong KCN.
Ban quản lí KCN là cơ quan đầu mối trực tiếp làm việc với các nhà đầu tư trong khu, việc gì thuộc thẩm quyền của mình thì Ban quản lí quyết định, việc gì không thuộc thẩm quyền thì Ban quản lí phối hợp với các cơ quan quản lí Nhà nước hữu quan để xử lí, tránh cho các nhà đầu tư phải tiếp xúc, giao dịch với nhiều cơ quan Nhà nước, gây phức tạp, phiền hà trong việc giải quyết các thủ tục quản lí. Tuy nhiên, không nên ngộ nhận rằng “một cửa” có nghĩa là một mình quyết định mọi vấn đề, bất chấp các cơ quan Nhà nước khác, mà cần phải hiểu quản lí theo chế độ một cửa đối với KCN trên thực tế là trao cho Ban quản lí có thẩm quyền giải quyết hoặc làm đầu mối giải quyết mọi vấn đề liên quan đến hoạt động của KCN, sao cho hàng hoá, kĩ thuật công nghệ, tiền vốn của các nhà đầu tư lưu thông thông suốt, nhanh chóng và thuận lợi. Theo quy định hiện hành, các Bộ, ngành và UBND cấp tỉnh uỷ quyền cho Ban quản lí KCN cấp tỉnh thực hiện một số nhiệm vụ như sau: Bộ Kế hoạch và Đầu tư uỷ quyền việc cấp, điều chỉnh, thu hồi giấy phép đầu tư đối với các dự án đầu tư nước ngoài có quy mô vốn đầu tư đến 40 triệu USD; Bộ Thương mại đã uỷ quyền phê duyệt kế hoạch xuất nhập khẩu và quản lí hoạt động thương mại; Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội uỷ quyền cấp phép cho người lao động nước ngoài; Bộ Xây dựng uỷ quyền thẩm định thiết kế kỹ thuật; Bộ Tài chính uỷ quyền chấp thuận chế độ kế toán; Phòng Thương mại và Công nghiệp uỷ quyền cấp chứng chỉ xuất xứ hàng hoá (C/O); Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh uỷ quyền quyết định đầu tư các dự án trong nước đầu tư vào KCN…
Bằng cơ chế uỷ quyền , Ban quản lí KCN cấp tỉnh đã được trao quyền quyết định nhiều hơn trong quản lí Nhà nước, góp phần giải quyết nhanh gọn các thủ tục hành chính, bớt quan liêu, giảm bớt sự đi lại , chi phí cho các thủ tục hành chính kinh tế cho các nhà đầu tư, góp phần thúc đẩy các KCN từ chỗ là các nhân tố mới trở thành lực lượng công nghiệp mạnh trong những năm gần đây.
Có thể khẳng định rằng việc hình thành cơ chế quản lí “một cửa tại chỗ” và sự ra đời của các Ban quản lí KCN cấp tỉnh đã góp phần tích cực vào tiến trình cải cách hành chính, bước đầu đã đáp ứng được các đòi hỏi của các nhà đầu tư và đã được các nhà đầu tư ghi nhận. Tuy nhiên trong thực tế vẫn còn quá nhiều thủ tục và bản thân các thủ tục thì rườm rà, phức tạp, bất hợp lí gây phiền hà cho nhà đầu tư. Thủ tục cấp phép các dự án lớn vẫn phải xin ý kiến của cơ quan TW, việc thẩm định thiết kế đầu tư nước ngoài vẫn phải do Sở xây dựng thực hiện; hồ sơ xin đăng kí chế độ kế toán nước ngoài của doanh nghiệp KCN phải do Bộ tài chính để giải quyết, muốn vay vốn nước ngoài phải xin phép Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Như vậy ở đây có sự không đồng trong các văn bản pháp luật quy định về các thủ tục hành chính,sự phân cấp trách nhiệm chưa được triển để có sự chồng chéo. Những tồn tại trong thủ tục hành chính hiện nay còn do phía các cán bộ, các cơ quan chuyên ngành với tâm lí sợ trách nhiệm, thiếu năng động và nhiệt tình trong công tác do sự phân công trách nhiệm chưa có sự rõ ràng trong các cơ quan nhà nước.
Bên cạnh việc thực hiện cơ chế quản lí “một cửa, tại chỗ”, Nhà nước còn thực hiện một số cơ chế khác chẳng hạn như cơ chế tài chính cho thuê đất. Hiện nay cơ chế này đang tồn tại một số điểm bất cập. Trong Quy chế KCN, KCX, KCNC tại Điều 14, Khoản 1đ có quy định các Công ty phát triển hạ tầng KCN có quyền ấn định giá cho thuê lại đất đã xây dựng kết cấu hạ tầng, giá cho thuê hoặc bán nhà xưởng và phí dịch vụ với sự thoả thuận của Ban quản lí KCN cấp Tỉnh. Với điều khoản quy định như vậy, các Công ty phát triển hạ tầng KCN sẽ vì mục đích lợi nhuận mà đưa ra giá thuê đất cao, khiến cho các chủ đầu tư kinh doanh gặp khó khăn khi đầu tư vào KCN. Trong khi đó, khi tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng, các Công ty này đã nhận được sự ưu chung của Nhà nước. Do đó, trong khi mục đích chính của Nhà nước là thu hút đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong KCN, việc ưu đãi đối với các doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng là một tình huống bắt buộc nhằm tranh thủ nguồn vốn của các thành phần khác, vấn đề này cần phải có sự tháo gỡ kịp thời đảm bảo cho sự phát triển hiệu quả các KCN trên cả nước.
6/ Công tác kiểm tra, thanh tra
So với các hoạt động kiểm tra thanh tra các doanh nghiệp bên ngoài, thì nói chung công tác kiểm tra thanh tra doanh nghiệp nói chung có nhiều điểm tốt hơn, ít có những biểu hiện tiêu cực, tạo niềm tin của các doanh nghiệp, ngày càng giảm bớt các phiền hà và bảo vệ lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện tốt hơn nghĩa vụ nộp thuế, bảo đảm quyền lợi của người lao động, cũng như thực hiện nghiêm túc trình tự đầu tư, xây dựng cơ bản, bảo vệ môi trường, đồng thời ngăn ngừa và hạn chế hiện tượng gian lận thương mại, trốn thuế từ các doanh nghiệp. . . Tuy nhiên, liên quan đến các hoạt động này, lâu nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Phía doanh nghiệp, nhà đầu tư cho rằng trong năm phải tiếp nhiều cuộc kiểm tra, thanh tra tiến hành trùng lặp nội dung, hoặc gây phiền hà cho doanh nghiệp; còn phía các cơ quan quản lí doanh nghiệp KCN lại cho rằng việc kiểm tra thanh tra có phần bị lơi lỏng, nhất là việc kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp chưa làm chặt chẽ, chưa kịp thời phát hiện các sai phạm.
Nếu như đối với việc kiểm tra, thanh tra các doanh nghiệp hoạt động trong KCN có nhiều điểm tốt hơn các doanh nghiệp ngoài KCN, thì đối với việc kiểm tra, thanh tra việc thành lập và quản lí KCN ở các địa phương lại có nhiều hạn chế. Những sai phạm của các địa phương trong việc ban hành quy chế ưu đãi riêng đã xuất hiện từ rất lâu nhưng không được phát hiện và xử lí kịp thời. Việc thành lập các KCN cũng tương tự vậy, mặc dù khi trình Thủ tướng Chính phủ yêu cầu được thành lập KCN ở địa phương, các Tỉnh đã đưa ra bản phương án hành động cụ thể trong đó đưa ra các phương án thu hút đầu tư, giải phóng mặt bằng, giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường…nhưng khi các KCN đã được kí quyết định thành lập thì lại không thực hiện được các yêu cầu đã được đặt ra, cho thấy việc quá trình kiểm tra trước khi thành lập KCN đã không được chú ý đúng mức, nếu có kiểm tra thì chỉ mang tính hình thức, không xét đến các điều kiện thành lập KCN ở địa phương một cách cụ thể.
Từ thực tế trên, có thể thấy sự yếu kém trong hoạt động kiểm tra,thanh tra xuất phát từ hai nguyên nhân chủ yếu đó là: chưa có nhận thức đúng đắn và thống nhất về công tác kiểm tra, thanh tra và thiếu vắng một quy chế kiểm tra thanh tra hoạt động KCN. Đây là những vấn đề thiếu sót mà Nhà nước cần phải giải quyết trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài để hoạt động của KCN được diễn ra một cách thuận lợi, đảm bảo sự phát triển hài hoà và vững chắc của KCN trong thời gian tới.
KẾT LUẬN CHƯƠNG II
Chương II đã của đề tài đã khái quát được quá trình hình thành , phát triển của các KCN ở Việt Nam từ khi KCN đầu tiên đi vào hoạt động đến nay. Trong quá trình phát triển, KCN đã có một số đóng góp tích cực đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, một số mục tiêu đề ra khi thành lập các KCN chưa đạt kết quả cao, đặc biệt là việc tiếp thu trình độ công nghệ của các nước phát triển. Một vài yếu tố tiêu cực mà chúng ta có thể xác định được trước khi phát triển KCN vẫn chưa được xử lí tốt, vấn đề ô nhiễm môi trường đặc biệt trở nên nghiêm trọng.
Chương II cũng đã phân tích, đánh giá hoạt động của Nhà nước trong thời gian vừa qua, những kết quả đã đạt được và những mặt còn hạn chế. Trong thời gian tới, để tiếp tục phát huy hiệu quả kinh tế xã hội mà các KCN đã tạo ra, đồng thời giải quyết những mặt tiêu cực, Nhà nước cần phải tăng cường hơn nữa vai trò của mình trong hoạt động phát triển các KCN. Vậy những định hướng phát triển KCN trong thời gian tới ra sao, và Nhà nước cần có những biện pháp gì để thực hiện các mục tiêu, định hướng đã đề ra. Vấn đề này sẽ được đề cập đến trong Chương III của đề tài.
CHƯƠNG III
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010
I/ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÁC KCN TRONG CẢ NƯỚC GIAI ĐOẠN 2006-2010
1/Triển vọng và thách thức đối với việc phát triển KCN trong giai đoạn 2006-2010
1.1/Triển vọng phát triển KCN
- Triển vọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào KCN
Trong thời kì 1998-2000, tình hình đầu tư ra nước ngoài của các nước trên thế giới tăng trưởng mạnh với tổng vốn đầu tư tăng từ mức 687 tỷ USD năm 1998 tăng lên gần 1.187 tỷ USD năm 2000. Tuy nhiên, kể từ năm 2001 dấu hiệu giảm sút đầu tư xuất hiện ở hầu hết các nước trên thế giới và tụt xuống mức thấp nhất vào năm 2002. Xu hướng giảm đầu tư ra nước ngoài trong thời gian qua cũng có tác động đáng kể đến 12 nước và vùng lãnh thổ đứng đầu về nguồn vốn FDI đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên bắt đầu từ năm 2003, tình hình đầu tư ra nước ngoài của các nước trên thế giới bắt đầu có dấu hiệu tăng trưởng trở lại song vẫn còn thấp hơn so với năm 1998. Đặc biệt trong năm 2004, tình hình kinh tế thế giới có nhiều triển vọng và đạt mức tăng trưởng khoảng 5% với nhiều nền kinh tế lớn phục hồi và đạt tốc độ tăng trưởng cao là dấu hiệu thuận lợi cho việc tiếp tục tăng vốn đầu tư ra nước ngoài của nhiều quốc qia.
Theo đánh giá của các chuyên gia trong khu vực và các tổ chức xúc tiến đầu tư, triển vọng thu hút FDI vào Châu Á trong thời kì ngắn hạn và trung hạn (2005-2007) là tương đối sáng sủa và đều có những đánh giá lạc quan về nguồn vốn FDI đầu tư vào Châu Á. Đồng thời theo đánh giá của các công ty đa quốc gia, 60% cho rằng FDI vào Châu Á thời gian tới sẽ tiếp tục tăng do Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam, Hàn Quốc là các quốc gia có tiềm năng thu hút đầu tư FDI.
Hiện nay, Việt Nam đang trong giai đoạn thực hiện lộ trình giảm thuế quan theo chương trình ưu đãi thuế quan do các nước trong khối khối AFTA đưa ra (CEPT). Điều này sẽ giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm hơn đối với thị trường đầu tư Việt Nam, cùng với những cải thiện môi trường đầu tư Việt Nam đang hứa hẹn sẽ là một điểm thu hút đầu tư trong khu vực trong thời gian tới.
- Triển vọng thu hút vốn đầu tư trong nước vào KCN
Ở nước ta, kể từ khi có Luật doanh nghiệp có hiệu lực thi hành, với cơ chế thông thoáng hơn đã có 120.328 doanh nghiệp được thành lập với tổng số vốn đầu tư đăng kí 214 ngàn tỷ đồng. Tổng số doanh nghiệp và tổng số vốn đầu tư đăng kí đã tăng lên đáng kể từ mức 14.457 doanh nghiệp và 13,9 ngàn tỷ đồng năm 2000 lên 36.804 doanh nghiệp và 77,8 ngàn tỷ đồng năm 2004. Việc triển khai và hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp đã đăng kí trong thời gian qua là nguồn tiềm năng quan trọng trong thu hút đầu tư trong nước nói riêng và vào các KCN nói riêng trong thời gian tới.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp tại thời điểm 31/12/2003 đạt 1.709 nghìn tỷ đồng, gấp 8,3 lần so với năm 1995 và gấp 1,54 lần so với năm 2000 (trong đó các doanh nghiệp Nhà nước chiếm 58,7%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 19,7%,còn lại là các doanh nghiệp FDI). Vốn bình quân một doanh nghiệp Nhà nước đạt 207 tỷ đồng, một doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt 5,2 tỷ đồng.
Đây là một nguồn vốn đầu tư trong nước khá lớn mà chúng ta cần phải khai thác. Hiện nay, các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu hoạt động bên ngoài các KCN, do đó yêu cầu đặt ra trong giai đoạn tới là cần phải thu hút nguồn vốn này vào trong các KCN để phát huy tốt hơn hiệu quả sử dụng các nguồn vốn này.
Nguồn kiều hối: theo thống kê của Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2004 lượng kiều hối gửi về nước qua con đường chính thức (qua Ngân hàng và các công ty kiều hối) là 3,2 tỷ USD, tăng bình quân 22% trong thời kì 2001-2004. Tính từ năm 2000 đến nay, Việt Kiều đã gửi về nước tổng số trên 9,7 tỷ USD. Ngoài ra, lượng kiều hối còn được gửi về nước qua con đường phi chính thức với quy mô xấp xỉ lượng kiều hối qua con đường chính thức hàng năm.Với chính sách thông thoáng hơn của Việt Nam, dự báo đến năm 2010, lượng kiều hối gửi qua con đường chính thức sẽ đạt gần 5 tỷ USD.
1.2/ Những thách thức đặt ra
Mặc dù theo nhận định của các chuyên gia và các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao môi trường đầu tư ở nước ta. Trong thời gian qua Nhà nước ta đã có những cố gắng trong việc tạo ra một môi trường đầu tư đầy tiềm năng cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nói chung và vào các KCN nói riêng. Tuy nhiên, vẫn còn những trở ngại khiến cho các nhà đầu tư còn e ngại: Việc Nam chưa hoàn toàn xây dựng được khung pháp lí vững chắc, chất lượng cơ sở hạ tầng còn khá khiêm tốn và phụ thuộc khá nhiều vào các thành phần kinh tế khác, thiếu lao động có trình độ, việc cung cấp các thông tin chưa thực sự tốt…
Trong tình hình các nước đang phát triển trên thế giới, nhất là các nước trong khu vực đang cũng có những cải cách nhằm tăng cường khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài khiến Việt Nam đối mặt với một môi trường cạnh tranh gay gắt về thu hút đầu tư. Nhất là đối với Trung Quốc, mô hình KCN được áp dụng ở các nước này được đánh giá rất cao, là một cản trở lớn đối với Việt Nam để thu hút vốn đầu tư từ các nước phát triển.
Hiện nay, phát triển KCN của Việt Nam đang gặp phải nhiều vấn đề cần phải khắc phục. Sự phát triển các KCN có dấu hiệu của sự không bền vững: ô nhiễm môi trường trong KCN và các khu vực ở xung quanh, một số địa phương nhu cầu thuê đất trong các KCN khá lớn nhưng diện tích đất ngày càng thu hẹp, trong khi một số địa phương khác hiệu quả hoạt động của các KCN không cao, tỷ lệ đất cho thuê thấp…
2/ Phương hướng và mục tiêu phát triển KCN giai đoạn 2006-2010
2.1/ Phương hướng phát triển KCN trong thời gian tới
Trên cơ sở thực trạng phát triển KCn trong giai đoạn vừa qua và căn cứ vào các chủ trương phát triển KCN của Đảng và Nhà nước đặt ra, trong thời gian tới phát triển KCN cần phải theo các hướng sau:
- Tiếp tục phát triển KCN với mục tiêu tổng quát là xây dựng KCN trở thành một lực lượng công nghiệp mạnh có hiệu quả và sức cạnh tranh cao nhằm nâng cao hơn nữa những tác động tích cực mà KCN đem lại cho nền kinh tế đất nước, nâng cao tay nghề của người lao động, tăng cường khả năng thu hút vốn nước ngoài, tiếp thu các thành tựu khoa học công nghệ ứng dụng trong các KCN, phát huy hơn nữa việc liên kết các kinh tế trong nước, phát triển KCN theo hướng hướng ngoại. Bên cạnh đó giảm thiểu những tác động tiêu cực mà KCN gây ra, thực hiện tốt việc bảo vệ môi trường trong và ngoài KCN.
- Phát triển các KCN đảm bảo hình thành hệ thống các KCN là một trong những giải pháp quan trọng phát triển công nghiệp quốc gia. Hình thành hệ thống các khu công nghiệp vừa và nhỏ tạo điều kiện phát triển khu vực nông thôn, làm thay đổi bộ mặt KT-XH nông thôn.
- Nâng cao tỷ lệ lấp đầy các KCN tập trung đã được thành lập và đang đầu tư xây dựng hạ tầng. Phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản lấp đầy diện tích các KCN đã được thành lập; thành lập mới và mở rộng một cách có chọn lọc các KCN tập trung trên trên các vùng lãnh thổ, các địa phương trên cả nước.
- Hoàn thiện hơn nữa vai trò của Nhà nước trong việc phát triển các KCN trở thành nhân tố tích cực đối với sự thành công của các KCN trên cả nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của các KCN .
2.2/ Mục tiêu phát triển KCN
Trong “Báo cáo kế hoạch 5 năm 2006-2010 phát triển các KCN” của Vụ quản lí KCN, KCX có đưa ra các mục tiêu phát triển KCN trong giai đoạn tới như sau:
- Tiếp tục đầu tư đồng bộ, thành lập mới một cách có chọn lọc khoảng 25.000 ha đất KCN, phấn đấu đạt tỷ lệ lấp đầy bình quân trên toàn quốc khoảng trên 60%.
- Tiếp tục đổi mới thể chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào các KCN, phấn đấu thu hút thêm khoảng 4.000 dự án (bao gồm cả dự án trong và ngoài nước) đăng ký đầu tư và triển khai thực hiện sản xuất kinh doanh trong các KCN; phấn đấu đẩy nhanh tốc độ giải ngân, thực hiện đầu tư khoảng 2 tỷ USD/năm (cả vốn đầu tư trong nước và vốn ĐTNN).
- Sau thời kỳ 2010, quản lý tốt và có quy hoạch sử dụng hợp lý dự trữ diện tích đất công nghiệp; hoàn thiện về cơ bản mạng lưới KCN trên toàn lãnh thổ; quản lý, chuyển đổi cơ cấu đầu tư phát triển các KCN đã được thành lập trước đây theo hướng đồng bộ hoá, hình thành những “công viên công nghiệp” nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả của các KCN.
- Xây dựng khu vực xử lý chất thải rắn công nghiệp tập trung quy mô lớn ở những khu vực bố trí tập trung các KCN như tại các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung … hoàn chỉnh các công trình kết cấu hạ tầng trong các KCN hiện đang hoạt động, đặc biệt là các công trình xử lý nước thải.
II/ Giải pháp tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc phát triển các KCN giai đoạn 2006-2010
Trên cơ sở các quan điểm phát triển KCN đã thống nhất, dựa trên tình hính thực tế hiện tại và các dự đoán triển vọng, thách thức trong tương lai. Trong thời gian tới, để đạt được các mục tiêu đề ra cần phải nâng cao hơn nữa vai trò của Nhà nước đồng thời có những giải pháp để tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc phát triển các KCN.
1/ Nâng cao chất lượng quy hoạch các KCN.
Nâng cao chất lượng quy hoạch cần phải thực hiện đồng thời cả công tác lập quy hoạch và nâng cao chất lượng thực hiện quy hoạch.
Công tác lập quy hoạch: trong việc thực hiện vai trò của Nhà nước đối với lập kế hoạch, yêu cầu đặt ra là quy hoạch cần phải mang tính định hướng, tức phải đi trước thực tiễn, tránh tình trạng “hình thức” trong việc quy hoạch. Để đảm bảo yêu cầu này, cần thiết phải có sự “thăm dò” thực tiễn, tức phải tìm hiểu tình hình kinh tế- xã hội của các địa phương trên cả nước, tình hình phát triển các KCN hiện tại, đánh giá thực trạng phát triển KCN một cách chi tiết, xem xét khả năng phát triển của các KCN trong tương lai đặc biệt xem xét khả năng phát triển của ngành công nghiệp ở địa phương, đồng thời dự báo các điều kiện cần thiết cho hoạt động phát triển của các KCN qua đó đưa ra những hướng phát triển KCN. Như vậy, đối với việc lập quy hoạch ở đây, yêu cầu cần phải có một hệ thống thông tin chính xác và một công cụ dự báo đủ mạnh để có thể đánh giá thực trạng và dự báo dược tình hình trong tương lai. Để nắm vững thông tin, cần thiết phải có sự phối hợp chặt chẽ của nhiều đơn vị, bộ, ngành, các cơ quan hữu quan. Sự trao đổi thông tin cần phải được thực hiện một cách trung thực, chính xác tránh tình trạng cất giấu thông tin. Việc dự báo cần phải xem xét tình hình phát triển của đất nước trong tương lai đồng thời phát hiện ra các xu thế phát triển trên thế giới. Đồng thời cũng cần tranh thủ những nhận xét, đánh giá của các chuyên gia nước ngoài trong việc quy hoạch, nhất là những chuyên gia ở những nước có mô hình phát triển KCN tương tự.
Việc xây dựng quy hoạch KCN cần phải tính đến đầy đủ các yếu tố liên quan đến tình hình phát triển kinh tế xã hội ở địa phương nơi xây dựng KCN đồng thời phải nằm trong tổng thể phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Quy hoạch KCN không nên qua chú trọng về số lượng mà phải xem xét đến tính hiệu quả của nó: KCN có lấp đầy được nhiều hay không, sự liên kết của KCN với các đơn vị kinh tế trong khu vực, đồng thời cần phải xem xét ảnh hưởng của nó đến các vấn đề xã hội, giữa KCN với hạ tầng xã hội ngoài KCN…
Việc lập kế hoạch cần phải có một lộ trình để chỉnh sửa nhất định, không nên lập quy hoạch mang tính quá ngắn hạn cũng không nên quá dài do những điều kiện thay đổi của kinh tế xã hội ở địa phương và khu vực. Việc xác định lộ trình này cần phải có sự nghiên cứu một cách rõ ràng của các cơ quan chức năng. Theo ý kiến chủ quan của tác giả, có thể xác định lộ trình đó theo thời gian là 5 năm, là khoảng thời gian trùng với các kì của Đại hội Đảng để có sự nhận xét, đánh giá của các đại biểu sau mỗi kì Đại hội, qua đó rút ra được những bài học cho các giai đoạn sau.
Đối với vấn đề ô nhiễm môi trường, theo bài học của Thái Lan, có thể phân chia các các địa phương thành các vùng khác nhau. Đối với mỗi vùng có những ưu thế và đặc điểm riêng. Chẳng hạn, có thể phân thành các vùng I, vùng II, vùng III. Trong đó vùng I bao gồm các thành phố đô thị loại 1, chỉ được phép xây dựng những KCN ít gây ô nhiễm môi trường, có khả năng khai thác các thế mạnh của vùng: nguồn nhân lực có chất lượng, có các trung tâm nghiên cứu… thì nên thành lập những KCN tập trung để thu hút khoa học công nghệ, các KCNC. Đối với vùng II là những vùng có đô thị loại 2, thành lập các KCN phát triển những ngành kinh tế mũi nhọn, có thể tạm thời bỏ qua yếu tố môi trường. Vùng III là những địa phương còn lại, đưa những nhà máy gây ô nhiễm môi trường vào đây, và có thể tận dụng lợi thế về tài nguyên ở các địa phương.
Ngoài ra, trong thời gian tới cần phải có sự rà soát lại một cách tổng thể các KCN trên cả nước, xem xét tình hình phát triển KCN ở các địa phương đặc biệt đối với các KCN đã được thành lập nhưng chưa được phép của Thủ tướng Chính phủ, những KCN thành lập chui.
Rà soát chi tiết quy hoạch sử dụng đất KCN trên địa bàn cả nước, xây dựng quy hoạch sử dụng đất cần đảm bảo mức độ sử dụng đất nông nghiệp để chuyển đổi thành đất KCN hợp lí, đảm bảo cân đối giữa các thành phần kinh tế trên địa bàn.
Đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch KCN của các địa phương theo cơ chế triển khai do Thủ tướng Chính phủ ban hành, gắn kết giữa quy hoạch KCN với quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, quy hoạch đô thị-dân cư, quy hoạch sử dụng đất.
Mặt khác cần thường xuyên theo dõi, đánh giá các KCN đã được thành lập. Đối với các KCN triển khai thuận lợi và khu vực còn quỹ đất để phát triển thì có thể xem xét việc mở rộng KCN. Đối với các KCN gặp khó khăn trong quá trình triển khai, cần tập trung giải quyết các vướng mắc để tiếp tục triển khai. Nếu KCN không có triển vọng, cần kiên quyết xem xét việc rút Giấy phép đầu tư, Quyết định phê duyệt dự án hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng.
2/ Đối với các chính sách ưu đãi về kinh tế
Trước hết, Nhà nước cần phải tiếp tục hoàn thiện, thiết lập được một khuôn khổ nhất quán, mang tính chất lâu dài, đồng bộ các chính sách. Tiến hành rà soát lại các văn bản pháp quy đã được ban hành liên quan đến hoạt động phát triển KCN. Xử lí những vấn đề còn bất cập, những mâu thuẫn phát sinh trong các văn bản, bổ xung những quy định mới phù hợp với thực tiễn, tạo một mặt bằng pháp lí ổn định cho môi trường đầu tư. Trước khi đưa ra các văn bản pháp lí cần tiến hành điều tra một cách có hệ thống, lấy ý kiến của nhiều thành phần có liên quan, qua đó tổng hợp và đưa ra các văn bản. Đồng thời cũng phải xem xét đến tính khả thi của văn bản, xem xét khi nó đi vào thực tiễn có đảm bảo được mục đích đề ra hay không. Những quy định trong văn bản cần phải đảm bảo đem lại những lợi ích thiết thực cho các nhà đầu tư, đồng thời tránh những tổn hại cho đất nước.
Cần tiếp tục chấn chỉnh hoạt động ưu đãi đầu tư quá mức ở các địa phương. Tốt nhất là nên ban hành một quy chế ưu đãi chung. Đồng thời đối với các Tỉnh, địa phương có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, Nhà nước cần phải có sự phân biệt giữa các địa phương. Những địa phương có điều kiện khó khăn có thể được đưa ra các ưu đãi riêng nhưng trong một khung pháp lí nhất định. Chẳng hạn, đối với các ưu đãi về thuế, các địa phương này có thể đưa ra các ưu đãi đặc biệt so với mặt bằng ưu đãi chung là bao nhiêu.
Có thể áp dụng những chính sách ưu đãi riêng theo sự phân các địa phương thành các vùng như trong quy hoạch. Từ sự phân cấp đó, quy định cụ thể các mức ưu đãi mà các địa phương có thể đưa ra. Đây là một công việc đòi hỏi tốn kém nhiều thời gian và nguồn lực tuy nhiên nếu có thể xây dựng lên một bản đề án phân cấp các chính sách ưu đãi tốt thì nó sẽ giúp cho việc phát triển KCN ở các địa phương thuận lợi và công bằng hơn. Vừa đảm bảo được môi trường cạnh tranh thu hút đầu tư một cách công bằng vừa có thể khuyến khích và tạo điều kiện cho các địa phương có điều kiện kinh tế khó khăn phát huy được sức mạnh của các KCN.
Các địa phương trên cả nước nên ngồi lại với nhau, bàn bạc và thống nhất tư tưởng trong việc ban hành các chính sách ưu đãi thu hút đầu tư cùng sự tham gia của các cơ quan Nhà nước hữu quan để đưa ra các quan điểm, tư tưởng chung tránh sự canh tranh không lành mạnh trong thu hút đầu tư hiện nay.
Công tác kiểm tra hoạt động đầu tư, cấp phép xây dựng KCN ở các địa phương cần được theo dõi một cách thường xuyên, liên tục để kịp thời phát hiện những sai trái và chấn chỉnh những hoạt động sai trái đó. Nhà nước có thể sử dụng việc cấp phát Ngân sách hàng năm để điều tiết hoạt động này. Vì để có thể đưa ra các ưu đãi quá mức, chính quyền địa phương cần phải có nguồn Ngân sách đủ lớn để tài trợ cho các hoạt động này (xây dựng cơ sở hạ tầng, chi phí giải phóng mặt bằng. . . ). Đối với các địa phương có những biểu hiện sai trái không tuân thủ và thực hiện đối với mặt bằng ưu đãi chung, Nhà nước có thể thực hiện việc thắt chặt Ngân sách, buộc các địa phương phải tự tìm kiếm các nguồn tài trợ cho các chính sách ưu đãi đó. Kiên quyết không cung cấp Ngân sách cho các hoạt động đó và lãnh đạo các tỉnh phải tự chịu tránh nhiệm trước những quyết định của mình.
3 / Phát triển cơ sở hạ tầng bên trong và ngoài hàng rào KCN một cách đồng bộ
- Đa dạng hoá phương thức đầu tư phát triển hạ tầng KCN
Một vấn đề cần được giải quyết trong việc phát triển cơ sở hạ tầng KCN hiện nay đó là cần phải giải quyết mâu thuẫn giữa một bên là Nhà nước và bên kia là các công ty kinh doanh kết cấu hạ tầng. Đối với Nhà nước, mục tiêu phát triển các KCN không hoàn toàn là để thu Ngân sách từ các KCN (mục tiêu lợi ích) mà phần lớn là nhằm tạo điều kiện phát triển công nghiệp một cách có tập trung, giải quyết các vấn đề xã hội (việc làm) hay tạo điều kiện tốt hơn để bảo vệ môi trường. Trong khi đó đối với các công ty kinh doanh kết cấu hạ tầng thì mục tiêu của họ đặt ra đó là lợi nhuận. Do đó việc kinh doanh kết cấu hạ tầng chỉ có thể thực hiện thuận lợi ở một số địa bàn có điều kiện thuận lợi (Hà Nội, Hải Phòng, các tỉnh Đông Nam Bộ). Còn đối với các địa bàn khó khăn (các tỉnh miền núi, Duyên hải Nam trung bộ) thì việc đầu tư kinh doanh hạ tầng đơn thuần khó có thể làm. Do đó, một vấn đề cần đặt ra là phải có sự hỗ trợ của Nhà nước. Ở các địa phương có điều kiện thuận lợi có thể kinh doanh kết cấu hạ tầng thì vẫn cứ để các doanh nghiệp tự làm. Ở các địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn không thể kinh doanh kết cấu hạ tầng thì Nhà nước có thể thành lập các Công ty phát triển hạ tầng hoạt động theo hình thức đơn vị sự nghiệp có thu hoặc doanh nghiệp công ích. Ngoài ra cần phải nghiên cứu một cơ chế hợp lí về dùng Ngân sách Nhà nước để hỗ trợ xây dựng hạ tầng KCN, có thể trích một tỷ lệ nhất định từ các nguồn thu (thuế sử dụng đất, thuê hạ tầng….) để làm kinh phí hoạt động cho công ty phát triển hạ tầng
- Đa dạng hoá quỹ đất để phát triển KCN
Ngoài việc gia tăng quỹ đất từ giải phóng mặt bằng, lấy đất ở các vùng nông thôn. Trong việc sử dụng quỹ đất để phát triển KCN cần phải tận dụng quỹ đất chưa được sử dụng hết trong các KCN. Hiện nay phần lớn các KCN chưa sử dụng hết diện tích trong các KCN do đó có thể sự dụng diện tích này để phát triển giai đoạn II xây dựng các KCN. Với những kinh nghiệm đã thu được từ quá trình xây dựng I, việc tiếp tục xây dựng cơ sở hạ tầng trong giai đoạn II sẽ nhanh chóng và thuận lợi hơn
- Xây dựng KCN phải gắn với hạ tầng kĩ thuật khu vực
Địa điểm thành lập KCN cần thuận tiện cho vận chuyển nguyên vật liệu, gắn với các công trình giao thông bên ngoài KCN. Điều này đòi hỏi công tác quy hoạch kết cấu hạ tầng khu vực phải đi trước một bước, trong quá trình quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực cần phải tính đến khả năng thành lập các KCN ở khu vực trong tương lai, phải tính đến khả năng cung ứng kết cấu hạ tầng ngoài KCN hiện tại và sau này, xác định rõ các điểm nối và trách nhiệm của các đơn vị liên quan (giao thông, điện, nước, doanh nghiệp phát triển cơ sở hạ tầng, chính quyền địa phương…).
4/ Nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến đầu tư
Trước hết, cần phải nâng cao chất lượng quy hoạch và Danh mục dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài lam cơ sở thực hiện các chương trình vận động đầu tư. Mặt khác, để tăng cường tính minh bạch, ổn định và có thể dự đoán trước được môi trường đầu tư , tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc lựa chọn cơ hội đầu tư, cần thực hiện đúng theo quy định của Nghị định 24/2000/NĐ-CP, theo đó Danh mục dự án gọi vốn vào KCN khi đã được công bố thì được coi là đã thống nhất về chủ trương và phù hợp với quy hoạch ngành, lãnh thổ. Để đảm bảo tính khả thi của quy định này, Danh mục phải được xây dựng phù hợp với quy hoạc, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội trong từng thời kì. Đồng thời phải tính đến nhu cầu và khả năng thực tế của nhà đầu tư. Những thông tin về mục tiêu, địa điểm, hình thức, đối tác thực hiện dự án… trong Danh mục phải có sự chính xác và tin cậy cao.
Đổi mới, đa dạng hoá phương thức tổ chức xúc tiến đầu tư. Thực hiện các chương trình vận động trực tiếp đối với từng lĩnh vực, dự án và đối tác cụ thể theo hướng: tiếp xúc trực tiếp ở các cấp khác nhau (kể cả Chính phủ, Nhà nước), với các công ty, các tạp đoàn đa quốc gia có tiềm lực mạnh về tài chính và công nghệ hiện đại, tiên tiến để xúc tiến thực hiện một số dự án quan trọng được lựa chọn. Đồng thời cam kết hỗ trợ thực hiện có hiệu quả các dự án này nhằm mở đường cho việc thu hút các công ty trực thuộc và có quan hệ kinh doanh với các tập đoàn nói trên đầu tư vào KCN. Mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng, tổ chức tài chính, các công ty tư vấn, xúc tiến đầu tư… để phối hợp vận động khách hàng của họ đầu tư vào Việt Nam; chuẩn bị thông tin chi tiết về một số dự án có tính khả thi cao để đưa ra giới thiệu với các nhà đầu tư có tiềm năng nhân dịp các chuyến thăm của lãnh đạo Nhà nước, Chính phủ đi các nước; kết hợp vận động đầu tư trong các dịp tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, triển lãm, hội chợ; nâng cao hiệu quả hoạt động vận động đầu tư gián tiếp trên các phương tiên thông tin đại chúng bằng cách hợp tác với các cơ quan, các hang thông tấn, báo chí, truyền hình trong và ngoài nước để tăng tầng suất thông tin về môi trường và cơ hội đầu tư vào KCN ở Việt Nam; kịp thời chuẩn bị các thông tin, khắc phục tình trạng đưa thông tin sai hoặc cố tình bóp méo sự thật về KCN ở Việt Nam; duy trì và nâng cao chất lượng của các cuộc đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư, đặc biệt trong khuôn khổ Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam, Hội doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài… nhằm kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của các doanh nghiệp, coi đó là giải pháp hữu hiệu nhằm xây dựng hình ảnh, tạo sức hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư mới, tiếp tục tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi giữa doanh nghiệp và cơ quan nhà nước về kinh nghiệm thành công cũng như thất bại trong hoạt động đầu tư ở Việt Nam; kịp thời khen thưởng các ca nhân, doanh nghiệp có đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển KCN ở Việt Nam.
Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, đối tác đầu tư. Để thực hiện có hiệu quả chủ trương mở rộng, đa phương hoá đối tác đầu tư, cần tổ chức nghiên cứu, đánh giá tiềm năng, thực trạng và xu hướng đầu tư của các công ty, tập đoàn đa quốc gia từ các nước và khu vực quan trọng như EU, Nhật, Mỹ…Mặt khác cần nghiên cứu tình hình, xu hướng đầu tư trên thế giới, kinh nghiệm thu hút đầu tư của các nước trong khu vực, đặc biệt các cơ chế pháp lí song phương và đa phương điều chỉnh quan hệ hợp tác đầu tư quốc tế mà Việt Nam đã và đang trong quá trình tham gia. Đây là chương trình nghiên cứu quan trọng, không chỉ phục vụ thiết thực cho công tác vận động xác tiến đầu tư mà còn tạo điều kiện cho việc xây dựng và triển khai nhanh các cam kết quốc tế về đầu tư.
Tăng cường hợp tác song phương và da phương về xúc tiến đầu tư. Sửa đổi Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư đã kí với Hàn Quốc theo những nguyên tắc về đối xử đã thoả thuận với Mỹ, xem xét các nguyên tắc đối xử nói trên với EU. Tiếp tục duy trì và mở rộng quan hệ hợp tác xúc tiến song phương đã được thiết lập trong thời gian qua với JICA và JETRO (Nhật Bản), Trung tâm xúc tiến đầu tư và du lịch ASEAN, OPIC (Mỹ)… nhằm tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của các tổ chức này trong việc thực hiện các chương trình cận động đầu tư trực tiếp với từng đối tác, lĩnh vực cụ thể. Nối lại quan hệ hợp tác xúc tiến đầu tư với các cơ quan Chính phủ ở các nước trong khu vực như Thái Lan (OBOI), Cơ quan phát triển công nghiệp Malaysia (MIDA), Hội đồng phát triển kinh tế Singapo (EDB). Tham gia tích cực và chủ động hơn nữa vào các chương trình xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ các tổ chức, diễn đàn khu vực theo hướng sau: xây dựng và cập nhật thường xuyên các chường trình hành động quốc gia về tự do hoá, thuận lợi hoá và xúc tiến đầu tư mà Việt Nam đã kí kết trong khuôn khổ ASEAN, APEC và ASEM; tham gia tích cực và tham vấn giữa các cơ quan quản lí đầu tư của các nước thành viên, đồng thời tăng cường đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức, diễn đàn quốc tế khác để xác định các rào cản đối với đầu tư của khu vực nói chung và của các nước thành viên nói riêng.
Nâng cao chất lượng thông tin, ấn phẩm tuyên truyền đầu tư: xây dựng trang WEB của Tạp chí KCN Việt Nam, kết nối với các Ban quản lí KCN ở các địa phương, với các Công ty phát triển hạ tầng KCN
Cần phải có một cơ chế Ngân sách phục vụ cho hoạt động vận động đầu tư, Nhà nước cần dành một khoản kinh phí thoả đáng từ Ngân sách Nhà nước cho công tác này, không chỉ dựa vào nỗ lực của doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng KCN.
5 / Cải cách cơ chế, chính sách quản lí của Nhà nước
Trong thời gian tới, Nhà nước cần phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế “một cửa tại chỗ” trong thủ tục hành chính, xét duyệt thẩm tra, thẩm định dự án đầu tư. Tiếp tục cải cách hành chính và nâng cao chất lượng của bộ máy quản lí KCN và phải được thực hiện thường xuyên, xoá bỏ hoàn toàn cơ chế “xin-cho”. Để thực hiện cơ chế này một cách có hiệu quả hơn, có thể tiếp thu kinh ngiệm của một số nước trên thế giới. Có thể áp dụng biện pháp giống với Thái Lan, thực hiện cơ chế “tại chỗ” ngay ở cửa mỗi KCN. Ban quản lí KCN ở các tỉnh có thể thành lập các văn phòng đại diện của mình ở trong mỗi KCN qua đó có thể giải quyết những khó khăn, các vấn đề bức xúc và hỗ trợ các doanh nghiệp KCN một cách nhanh chóng hơn. Để làm được điều này, cần phải có nhận thức đúng đắn của các cán bộ trong Ban quản lí, cần phải thấy rằng KCN là một bộ phận hết sức quan trọng đối với kinh tế địa phương, đem lại những lợi ích to lớn do đó phải xem các KCN cũng như thành viên của trong gia đình. Ngoài ra, cũng cần phải có sự hỗ trợ về tài chính một cách thích đáng từ Nhà nước cho hoạt động này.
Về cơ chế quản lí đất đai: Giải quyết cơ chế cho thuê đất lại đất trong KCN sao cho vừa đảm bảo quyền lợi cho công ty phát triển hạ tầng, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp KCN hoạt động vẫn đang là một bài toán khó giải đáp. Để giải quyết vấn đề này, cần phải có một biện pháp, cơ chế theo đó có thể phân giá thuê cơ sở hạ tầng trong KCN thành hai phần: một phần giá thuê đất thô và một phần là giá thuê cơ sở hạ tầng. Các chủ đầu tư thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh trong các KCN sẽ trả hai loại phí khác nhau: trả tiền thuê đất cho chính quyền địa phương và tiền thuê cơ sở hạ tầng cho các Công ty kinh doanh cơ sở hạ tầng. Khi đó Nhà nước có thể dành những ưu đãi về tiền thuê đất trực tiếp đến đối tượng mà mình tập trung ưu đãi đó là các doanh nghiệp hoạt động trong KCN.
6/ Hoàn thiện công tác kiểm tra,thanh tra
Trong thời gian tới một nhiệm vụ đặt ra đó là cần phải xây dựng một đề án, bản Quy chế về việc kiểm tra, thanh tra. Việc xây dựng Quy chế kiểm tra, thanh tra hoạt động KCN nên lưu ý một số vấn đề sau:
Quy chế này cần xác định đúng yêu cầu khách quan, trách nhiệm và nghĩa vụ của các cơ quan quản lí, của các doanh nghiệp KCN trong công tác kiểm tra, thanh tra; đồng thời cần làm rõ sự khác biệt giữa công tác kiểm tra và thanh tra. Kiểm tra hoạt động kinh tế là một hoạt động thường xuyên của các cấp trong hệ thống quản lí, gắn với mọi bước công việc, các khâu và lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp, của KCN (kiểm tra chất lượng sản phẩm, kiểm tra sử dụng lao động, kiểm tra tài chính…). Khác với kiểm tra, thanh tra là chức năng chuyên trách của cơ quan Nhà nước. Việc thanh tra không tiến hành thường xuyên với một đối tượng cụ thể nào, việc này chỉ thực hiện khi xuất hiện những sai trái của tổ chức hay cơ quan quản lí, nhằm các định rõ đúng, sai, xác định trách nhiệm của các bên có liên quan.
Với mục đích trên, Quy chế kiểm tra, thanh tra cần làm rõ trách nhiệm và quyền hạn của chủ thể thanh tra hoạt động KCN. Đó là hệ thống thanh tra Nhà nước, thanh tra chuyên ngành (đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN chịu sự chi phối của cả hai hệ thống trên). Như vậy đối tượng thanh tra ở đây là các vụ việc sai trái phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và cả các hoạt động sai trái trong quản lí của Ban quản lí KCN các tỉnh. Ngoài ra, cần phải xác định trách nhiệm và quyền hạn của các cá nhân trực tiếp tham gia công tác thanh tra, quy định rõ các chế tài xử phạt đối với các đối tượng vi phạm quy chế.
Để tránh sự trùng lặp nội dung, chồng chéo trong công tác kiểm tra, thanh tra. Khi xây dựng Quy chế cần xác định rõ các đầu mối thanh tra, sự phối hợp giữa các bên; đồng thời quy định mỗi cuộc thanh tra cần có chương trình thanh tra (phân công công việc, trình tự tiến hành, phương pháp thanh tra, thời gian làm việc…); sự thống nhất chỉ đạo và phối hợp giữa các chủ thể, giữa chủ thể và đối tượng thanh tra; cũng nên quy định việc tham khảo ý kiến doanh nghiệp trước khi đưa ra kết luận.
Chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của toàn bộ công tác thanh tra phụ thuộc rất lớn và các cán bộ, viên chức thực hiện công tác thanh tra. Cần phải xác định và lựa chọn một cách đúng đắn các cán bộ có tinh thần trách nhiệm cao, phẩm chất đạo đức tốt, có nghiệp vụ chuyên môn, nắm vững pháp luật, chính sách thì công tác thanh tra mới đảm bảo được tính trung thực, khách quan, liêm chính, nhanh chóng.
KẾT LUẬN
Căn cứ vào mục đích và nội dung đã hoàn thành, chuyên đề tốt nghiệp đã hoàn thành được một số nhiệm vụ sau:
Hệ thống hoá được một số vấn đề lí luận có liên quan hoạt động phát triển KCN và vai trò của Nhà nước đối với thu hút đầu tư vào KCN.
Đánh giá được thực trạng phát triển KCN ở Việt Nam hiện nay qua đó phân tích những thành tựu và hạn chế đối trong hoạt động phát triển KCN hiện nay. Đánh giá vai trò của Nhà nước đối với việc KCN, tìm ra các nguyên nhân nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại ảnh hưởng đến hoạt động phát triển của các KCN nói chung và đối với thu hút đầu tư vào KCN nói riêng
Trên cơ sơ các vấn đề lí luận và cùng với những triển vọng, thách thức trong thời gian tới, yêu cầu đặt ra phải có những phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc phát triển các KCN.
Tóm lại, mô hình phát triển KCN để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá là một mô hình đúng đắn do đó Nhà nước cần phải có sự quan tâm đối với KCN và từng bước tháo gỡ những khó khăn cản trở đối với vai trò của Nhà nước đối với các KCN.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo Vũ Cương và một số thầy cô khác trong trường đã giúp đỡ em hoàn thành được chuyên đề này. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô để em có thể khắc phục được những hạn chế do sự thiếu kinh nghiệm và trình độ mà em đã mắc phải để em có thể hoàn thành đề tài một cách tốt hơn.
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Những thành quả hoạt động của các KCN Việt Nam 2005”, Tạp chí KCN Việt Nam tháng2-2006
2. “Một số vấn đề xã hội trong việc xây dựng và phát triển các KCN ở Việt Nam”, Tạp chí KCN tháng 3-2005
3. “Định hướng phát triển các KCN ở Việt Nam đến năm 2010”, Tạp chí Thông tin Khu công nghiệp Việt Nam thang5- 2005.
4. Giáo trình quản lí Nhà nước về kinh tế
5. Nghị dịnh 36/CP ngày 24/4/1997 về Quy chế Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao.
6. “Vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tê”, NXB Khoa học xã hội (1994)
7. “ Giáo trình Chính sách trong quản lí kinh tế-xã hội”, NXB Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội
8. “Các nhân tố không bền vững trong phát triển các KCN ở nước ta hiện nay”, Tạp chí kinh tế và phát triển(2006)
9. “Về việc ban hành chính sách ưu đãi đầu tư của địa phương đối với doanh nghiệp KCN”, Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam tháng 9- 2005.
10. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam: Một số văn bản, Nghị định, quyết định của Chính phủ về KCN.
11. “Chính sách ưu đãi và phát triển Khu công nghiêp”, Lê Tuyển Cử (2004)
12. Một số đề tài Luận văn có liên quan đến KCN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28225.doc