PHưƠNG THỨC SO SÁNH
TRONG CA TỪ CỦA TRỊNH CÔNG SƠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Để nhận thức thế giới khách quan, để hiểu rừ cỏc sự vật hiện tượng
với các thuộc tính muôn màu muôn vẻ trong đời sống, con người thường thực
hiện việc so sánh, nhằm phát hiện ra những thuộc tính đồng nhất và khác biệt
giữa các sự vật hiện tượng này, để quy loại và phân biệt chúng với nhau. Có
thể nói, so sánh là một thao tác thường xuyên, có ý thức hoặc vô thức, trong
đời sống hàng ngày của con người. Đối với văn học nghệ thuật, so sánh được
xem là một thủ pháp nghệ thuật độc đáo. Nghiên cứu về phép so sánh của một
tác phẩm văn nghệ giúp ta tìm hiểu một cỏch thức quan trọng (trong số các
phép tu từ khác) được các tác giả dùng để tạo nên ngôn từ nghệ thuật trong
tác phẩm của mình.
Từ xa xưa, âm nhạc đã là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với
nhân loại, bởi nó đem lại cho con người những cảm xúc khỏc nhau qua sự
cảm nhận những hình tượng nghệ thuật. Việc nghiên cứu âm nhạc nói chung
và ca từ nói riêng là một công việc không đơn giản nhưng đầy lí thú.
Cũng như trong các hình thức văn nghệ khác, so sánh trong ca từ rất cần
được chú ý, về phương thức này góp phần quan trọng trong việc xây dựng hình
tượng nghệ thuật và giúp nghệ sĩ đưa tác phẩm (bài ca) đi vào lòng người nghe.
1.2. “Người hát rong qua nhiều thế hệ”, “người ca thơ”, “người viết
tình ca hay nhất thế kỉ” ., đó là những từ ngữ người ta đã dùng để gọi Trịnh
Công Sơn - người nhạc sĩ mà mỗi khi những ca khúc của ông được cất lên,
chúng ta đều cảm thấy lòng mình như lắng lại trong nhịp điệu và tiết tấu du
dương, với một nỗi buồn da diết, để chiêm nghiệm, để nhìn lại mình, để trí
tưởng tượng bay xa đến thế giới của những yêu thương tha thiết, những nỗi
dằn vặt về tình yêu và thân phận con người. Những ca khúc của ông không
chỉ mang lại một “giọng điệu” riêng, mà cũn thể hiện tớnh nhõn văn sâu sắc.
Ở Việt Nam, chưa có nhạc sĩ nào tạo dựng được cho mình một dòng nhạc độc
lập như Trịnh Công Sơn. Người ta vẫn thường gọi dòng nhạc của ông với cái
tên bình dị, thân quen, là: “Nhạc Trịnh”.
Trong những năm tháng đất nước chìm trong khói lửa chiến tranh, nhạc
sĩ này đã ôm đàn “hát cho dân tôi nghe”. Những ca khúc của ông đã vượt lên
mưa bom bão đạn, vượt lên cảnh “máu xương trập trùng”, xoá nhoà đi cái
gương mặt gớm giếc của cuộc chiến và chinh phục hàng triệu trái tim yêu
nhạc thuộc đủ mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi ngành nghề, và rồi vang mói cho
tới ngày nay. Không chỉ phổ biến trong nước, nhiều ca khúc của ông đã vượt
biên giới, đến với các quốc gia khác như Pháp, Mĩ, Canađa, Nhật Bản .,
được dịch ra nhiều thứ tiếng và được đông đảo công chúng đón nhận.
Một trong những yếu tố làm nên sức sống của nhạc Trịnh chính là phần
ca từ và đó cũng là nơi thể hiện sự tài hoa trong sử dụng tiếng Việt của ông.
Nhạc sĩ Văn Cao cho rằng âm nhạc của Trịnh Công Sơn là kết quả của một
cuộc “hôn phối kì diệu” giữa phần ca từ và phần âm nhạc, hai phần này hoà
quyện vào nhau đến mức khó có thể tách rời, làm nên hồn cốt nhạc Trịnh, và
vì thế ông gọi nhạc sĩ họ Trịnh là “người ca thơ”; Tác giả Hoàng Ngọc Hiến
đánh giá: “Tất cả ca từ của nhạc Trịnh Công Sơn làm thành một tình ca hay
nhất thế kỉ” [45, tr.351]; Nhà nghiên cứu âm nhạc Dương Viết Á cho rằng:
“Ngay cả trong những năm tháng “chia tay” giữa thơ và ca, xét riêng về ca từ,
nhiều nhạc sĩ cần được gọi thêm là nhà thơ, thậm chí nên được tuyển chọn
vào các tập thơ của thế kỉ XX: Đặng Thế Phong, Văn Cao, Trịnh Công Sơn .”
[2, tr.226] . Tuy phần ca từ của nhạc Trịnh được đánh giá cao như vậy, nhưng
cho đến nay lại ít có những công trình nghiên cứu chuyờn biệt, đầy đủ và sâu
sắc.
2.3. Đã có rất nhiều bài viết cũng như các công trình nghiên cứu về
cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của Trịnh Công Sơn, nhưng trong một vài
cụng trỡnh có chú ý đến nghiên cứu ca từ của ông, thỡ việc tìm hiểu một cách
có hệ thống các biện pháp tu từ, trong đó có so sánh, vẫn là vấn đề cũn bỏ
ngỏ.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn và tiến hành
nghiên cứu đề tài: Phương thức so sánh trong ca từ của Trịnh Công Sơn.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
5. Phương pháp nghiên cứu 8
6. Đóng góp của luận văn 8
7. Bố cục của luận văn
CHưƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ
1.1. Khái quát về so sánh
10
1.1.1. Khái niệm “so sánh” 10
1.1.2. Cấu trúc so sánh 12
1.1.3. Các kiểu so sánh 17
1.2. Khái quát về ca từ
20
1.2.1. Khái niệm “ca từ” 20
1.2.2. Ngôn ngữ trong ca từ 21
1.2.3. Hình tượng ca từ 23
1.2.4. Chủ thể cảm xúc trong ca từ 24
1.3. Trịnh Công Sơn và những ca khúc của ông
27
1.3.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Trịnh Công Sơn 27
1.3.2. Khái quát về những ca khúc của Trịnh Công Sơn 32
Tiểu kết
36
CHưƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - CẤU TRÚC VÀ NGỮ NGHĨA CỦA PHưƠNG
THỨC SO SÁNH TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN
2.1. Đặc điểm hình thái - cấu trúc của phương thức so sánh trong
38
ca từ Trịnh Công Sơn
2.1.1. Các kiểu cấu trúc so sánh
2.1.2. Đặc điểm của yếu tố được so sánh 49
2.1.3. Đặc điểm của yếu tố so sánh 52
2.1.4. Đặc điểm của các từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh 57
2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của phương thức so sánh trong ca từ
59
Trịnh Công Sơn
2.2.1. Đặc điểm của yếu tố được so sánh 59
2.2.2. Đặc điểm của yếu tố so sánh 66
2.2.3. Mối tương quan ngữ nghĩa giữa yếu tố được so sánh và
71
yếu tố so sánh
Tiểu kết
75
CHưƠNG 3: PHưƠNG THỨC SO SÁNH VỚI HÌNH TưỢNG NGHỆ THUẬT
TRONG CA KHÚC TRỊNH CÔNG SƠN
3.1. Phương thức so sánh với hình tượng em - người tình 77
3.2. Phương thức so sánh với hình tượng tôi - chủ thể trữ tình 83
3.3. Phương thức so sánh với những chiêm nghiệm về tình yêu 93
3.4. Phương thức so sánh với những chiêm nghiệm về đời người 100
Tiểu kết 105
KẾT LUẬN 107
CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
145 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2201 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phương thức so sánh trong ca từ của Trịnh Công Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhoè
27 tôi
con chim thanh bình - mơ đƣợc sống
hồn nhiên nhƣ hoa trên đồng xanh một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
100
sớm kia rất hồng
28 tôi con chim vô vọng - linh hồn rất mong manh
29 tôi tên mục đồng
30 tôi tên tuyệt vọng
31 tôi cây chƣa già
32 tôi cƣời nhƣ đứa bé mới lớn lên giữa đời sống kia
33 tôi mơ có cuộc tình nhƣ mơ ƣớc đƣợc gần với những nụ hồng
34 tôi yêu tôi sống nhƣ bao ngƣời
35 lòng tôi tựa
bông hoa vừa mọc - hân hoan giây
xuống thế
36 ta là thác đổ
37 ta là đêm - nở đoá hoa vô thƣờng
38 ta nhƣ con đƣờng dài vắng ngƣời
39 ta nhƣ sóng lênh đênh
40 lòng ta nhƣ đã nát nhầu đam mê
41 lòng ta tựa nhƣ vắng ai
42 mình là cơn gió
BẢNG 3.2
(Ghi chú: Dấu ngoặc đơn (...) trong (yếu tố mở rộng) chỉ khả năng "có"
hoặc "không).
3.3. PHƢƠNG THỨC SO SÁNH VỚI NHỮNG CHIÊM NGHIỆM VỀ
TÌNH YÊU
“Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu
hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dƣỡng tình yêu để tình
yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá Đời”(Theo [38, tr.145]. Suốt
cuộc đời mình, Trịnh Công Sơn đã “nuôi dƣỡng tình yêu” bằng những lời ca
đƣợc cất lên từ một trái tim khao khát yêu thƣơng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
101
Qua ca khúc, bằng phƣơng thức so sánh, Trịnh Công Sơn đã mang đến
cách nhìn mới mẻ về tình yêu, miêu tả sinh động những cung bậc khác nhau
của tình yêu và ca ngợi giá trị vĩnh hằng của tình yêu.
Trƣớc hết, Trịnh Công Sơn đã mang đến cách nhìn mới mẻ về tình yêu
qua sử dụng những hình ảnh độc đáo trong so sánh.
Thế hệ của Trịnh Công Sơn có tuổi bằng với tuổi của chiến tranh. Ngay
từ khi còn rất trẻ, chiến tranh đã trở thành nỗi ám ảnh thƣờng trực trong tâm
trí ông. Ông đã sáng tác rất nhiều ca khúc về thân phận con ngƣời trong chiến
tranh, miêu tả cuộc sống kinh hoàng đầy chết chóc hàng ngày của ngƣời dân.
Cái khốc liệt, dữ dội của chiến tranh cũng đƣợc Trịnh Công Sơn đƣa vào
những bản tình ca của mình bằng những hình ảnh so sánh mới lạ và độc đáo.
Có lẽ chƣa có ai chiến tranh hoá tình yêu qua ca từ tác phẩm tài tình
nhƣ Trịnh Công Sơn. Ông là ngƣời đƣa không khí chiến tranh vào tình yêu và
nâng đề tài này lên đỉnh cao của nghệ thuật. Đại thi hào Hy Lạp - Homère
từng nói: chỉ có hai chuyện đáng nói trên đời này thôi, là chiến tranh và tình
yêu. Trịnh Công Sơn đã may mắn đƣợc lịch sử và số phận ban tặng cảm hứng
từ cả “hai chuyện đáng nói trên đời” ấy. Trong ca khúc Tình sầu, ông đã so
sánh tình yêu với hàng loạt những hình ảnh về chiến tranh: Tình yêu như trái
phá con tim mù loà (nhƣ sức công phá của đại bác); Tình yêu như vết cháy
trên da thịt người (nhƣ thƣơng tích của lửa hoặc bom cháy); Tình yêu như đốt
sáng con tim tật nguyền (nhƣ ánh sáng và sức thiêu đốt của hoả châu); Tình
yêu như nỗi chết cơn đau thật dài (nhƣ cái chết dễ dàng, chết thật tình cờ
trong chiến tranh, để lại những nỗi đau không dễ nguôi ngoai).
Với những ca từ này, ngƣời nghe cảm nhận đƣợc sự dữ dội , khốc liệt
của chiến tranh và cũng là sự dữ dội, khốc liệt của tình yêu. Giữa tình yêu và
những hình ảnh về chiến tranh đƣợc đem ra so sánh tƣởng nhƣ chẳng liên
quan đến nhau và không có gì tƣơng đồng, nhƣng nếu lắng tâm hồn mình lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
102
và suy ngẫm thì ta thấy sự so sánh ấy là hoàn toàn có thể. Đó là trƣờng hợp
của câu mở đầu ca khúc Tình sầu:
Tình yêu như trái phá
Con tim mù loà (Tình sầu)
Trong chiến tranh, đạn đại bác (trái phá) có sức mạnh ghê gớm của loại
vũ khí hạng nặng, đem lại sự đổ vỡ, huỷ diệt và cả cái chết, “những cái chết
không báo trƣớc nhƣng cũng nhuốm đầy đủ màu sắc tai ƣơng của một kiếp
nạn” [64]. Vậy mà trong ca khúc, đích nhằm đến của trái phá lại là một đối
tƣợng đã mất khả năng nhận thức lí tính để ẩn náu trƣớc hiểm hoạ, là con tim
mù loà... Vâng, trái tim đã mù loà vì tình yêu, và trƣớc tình yêu, nó đã có một
nhịp đập khác.
Tình yêu mang đến những cảm xúc về sự hiểm nguy bất trắc, nhƣng
cũng có lúc mang đến những vị ngọt và trái chín:
- Tình yêu như thương áo
Quen hơi ngọt ngào (Tình sầu)
- Tình yêu như trái chín
Trên cây rụng rời (Tình sầu)
Vị ngọt của tình yêu đƣợc diễn tả bằng những hình ảnh so sánh thật
đơn sơ, bình dị nhƣng vẫn có một cái gì đó cô đơn, lẻ loi, buồn tủi. Nhƣ ngƣời
tình đã đi xa rồi, chỉ còn lại hơi ấm quen thuộc trên chiếc áo để lại mà thôi.
Cũng nhƣ trái chín trên cây rụng rời, sao mà xót xa, tội nghiệp đến vậy!
Thứ hai là, qua so sánh, Trịnh Công Sơn đã thể hiện một cách sinh
động và giàu hình ảnh những cung bậc khác nhau của tình yêu.
Tình yêu trong những ca khúc của Trịnh Công Sơn là một thứ tình cảm
có tính nhị nguyên, tức là luôn mang trong nó những trạng thái, những thuộc
tính đối lập (xa/gần; rộng/hẹp; trầm/reo vui; mật ngọt/mật đắng...):
Tình xa như trời
Tình gần như khói mây (Tình sầu)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
103
Tình xa như trời - một sự so sánh hoàn toàn hợp lí vì không ai có đƣợc
tình yêu trọn vẹn, cũng nhƣ trời kia xa lắm, có ai mà với tới. Nhƣng Tình gần
như khói mây thì là một sự bất ngờ của lời ca đƣợc tác giả mang đến cho
ngƣời nghe. Tại sao lại gần như khói mây? Khói mây thì có ai mà nắm bắt
đƣợc bởi nó mong manh, dễ tan biến và luôn thay hình đổi dạng. Phải chăng đó
cũng chính là một đặc tính của tình yêu - không ai nắm giữ đƣợc tình yêu
trong tay mình cho dù nó đang ở thật gần. Nhƣ Trịnh Công Sơn từng nói:
“Tình yêu tự đến và tự đi, không cần ai dìu dắt. Nó hoàn toàn tự do. Muốn
giam cầm nó thì nó sẽ bay đi. Muốn thả nó bay đi có khi nó ở lại” (Theo [37,
tr.25]).
Tình trầm như bóng cây
Tình reo vui như nắng (Tình sầu)
Ở câu thứ nhất, với sự so sánh tình nhƣ bóng cây và với cơ sở so sánh
là trầm, tác giả đã diễn tả một trạng thái của tình yêu: đứng yên, lặng lẽ và mờ
nhạt. Câu thứ hai, trái lại, diễn tả một trạng thái hoàn toàn khác: Tình yêu
đƣợc nhân cách hoá thành một thực thể sống động đầy hứng khởi với hành
động reo vui và đƣợc so sánh với nắng, bởi nắng vốn mang màu sắc tƣơi sáng
nên thƣờng đƣợc nhắc đến nhƣ dấu hiệu của niềm vui. Trong ca từ Trịnh
Công Sơn, nắng thƣờng đƣợc dùng nhƣ một hình ảnh biểu trƣng, chỉ niềm vui
hiếm hoi nơi “cõi tạm”, và niềm vui ấy cũng hiếm hoi trong những bản tình ca
vốn mang nặng nỗi buồn và ƣu tƣ của ông.
Tình yêu là mật ngọt nhƣng cũng có thể là mật đắng:
Tình yêu mật ngọt
Mật ngọt trên môi
Tình yêu mật đắng
Mật đắng trong đời (Lặng lẽ nơi này)
Tình yêu bao dung, độ lƣợng nhƣng cũng ích kỷ, hẹp hòi:
Tình yêu như biển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
104
Biển rộng hai vai...
Tình yêu như biển
Biển hẹp tay người (Lặng lẽ nơi này)
Hay một trạng thái khác của tình yêu, trong một sự liên tƣởng kì lạ hơn:
Cuộc tình lên cao vút
Như chim mỏi cánh rồi.
Như chim xa lìa bầy.
Như chim xa lìa trời.
Như chim bỏ đường bay (Tình sầu)
Đây là một cấu trúc so sánh hết sức độc đáo, không chỉ vì một A (yếu
tố đƣợc so sánh) đƣợc đem ra so sánh với nhiều B (Yêú tố so sánh) mà còn vì
sự đối lập giữa A và B: cuộc tình lên cao vút (hƣớng đi lên) đƣợc so sánh với
chim mỏi cánh, chim xa lìa bầy, chim xa lìa trời, chim bỏ đường bay (hƣớng
đi xuống). ở đây, sự say đắm, nồng nàn khi tình yêu đạt đến độ thăng hoa lại
đƣợc so sánh với những trạng thái mệt mỏi và chia lìa. Phải chăng khi cuộc
tình lên cao vút cũng chính là dự báo cho sự mất mát chia lìa? Điều này đã trở
thành nỗi ám ảnh với ngƣời nhạc sĩ, bởi vậy cấu trúc so sánh này đã trở đi trở
lại hai lần trong ca khúc Tình sầu, thể hiện sự lo lắng, bất an của Trịnh Công
Sơn trƣớc một cuộc tình không may.
Thứ ba là, bằng so sánh, Trịnh Công Sơn đã ca ngợi giá trị vĩnh hằng
của tình yêu.
Tình yêu trong nhạc Trịnh Công Sơn luôn là tình yêu gắn liền với nỗi
bất hạnh, khắc khoải, chia lìa. Những ngƣời tình đến rồi đi và để lại cho ông
những vết thƣơng không dễ hàn gắn và những nỗi đớn đau chẳng thể nguôi
ngoai. Ngay đến tuổi thọ của những chuyện tình cũng chẳng dài lâu, chỉ mong
manh như nắng và thoảng như gió vội:
- Tình mong manh như nắng
Tình còn đầy không em (Tình sầu)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
105
- Có chút tình thoảng như gió vội
Tôi chợt nhìn ra tôi (Nhƣ một lời chia tay)
Tình yêu cũng là thứ tình cảm dễ đổi thay (Tình như lá bỗng vàng bỗng
xanh - Tạ ơn) và khiến ngƣời ta phải chờ mong trong khắc khoải, mỏi mòn
những điều vu vơ chẳng bao giờ có đƣợc:
Tình như đá hoài những chờ mong
Tình vu vơ sao ta muộn phiền (Nhƣ một lời chia tay)
Thế nhƣng, Trịnh Công Sơn vẫn tâm niệm: “Có ngƣời yêu thì hạnh
phúc, có ngƣời yêu thì đau khổ, nhƣng dù đau khổ hay hạnh phúc thì con
ngƣời vẫn muốn yêu. Tình yêu vì thế mà tồn tại. Con ngƣời không thể sống
mà không yêu” (Theo 42, tr.24])
Trịnh Công Sơn đã kết lại ca khúc Tình sầu bằng một hình ảnh so sánh
đầy ý nghĩa:
Tình cho nhau môi ấm
Một lần là trăm năm (Tình sầu)
Lời thổ lộ bất chợt này đã xoá đi những bất an, bất trắc, những giằng
xé, giày vò trong tình yêu để chỉ còn lại cái giá trị vĩnh hằng của nó. Dù chỉ
một lần thôi, có thể ngắn, có thể dài, có thể là mật ngọt, có thể là mật đắng
nhƣng một lần ấy là trăm năm, là cả đời ngƣời, để ông luôn trân trọng và biết ơn.
Để mang đến cách nhìn mới mẻ về tình yêu, miêu tả sinh động những
cung bậc khác nhau của tình yêu và ca ngợi giá trị vĩnh hằng của tình yêu,
Trịnh Công Sơn thƣờng so sánh tình yêu với những cái bên ngoài con ngƣời
(những hiện tƣợng tự nhiên, những sự vật hiện tƣợng cụ thể hoặc trừu tƣợng).
Chẳng hạn:
Tình yêu như vết cháy
Trên da thịt người (Tình sầu)
Ở đây, cơ sở so sánh, tức nét tƣơng đồng giữa cái đƣợc so sánh là tình
yêu và cái so sánh là vết cháy trên da thịt người đã đƣợc ẩn giấu đi. Vết cháy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
106
trên da thịt người là một vết thƣơng làm cho ngƣời ta đau đớn, xót xa. Trịnh
Công sơn đã từng phát biểu: Tình yêu có thể là một bông hoa, cùng lúc có thể
là một tai nạn. Khi tình yêu là một tai nạn, chắc hẳn sẽ để lại những vết
thƣơng. Và có vết thƣơng nào lại không xót xa, đau đớn! Trịnh Công Sơn đã
cụ thể hoá nỗi đau của vết thƣơng lòng bằng nỗi đau của vết thƣơng trên thể
xác. Nhạc sĩ đã dành cho ngƣời nghe cả một khoảng trời để suy ngẫm, liên
tƣởng, từ đó tìm ra nét tƣơng đồng giữa hai đối tƣợng ở hai vế: yếu tố đƣợc so
sánh và yếu tố so sánh. Qua đó phát hiện ra đặc điểm của đối tƣợng đƣợc so
sánh. Đây cũng là một trong những yếu tố khiến cho nhạc Trịnh trở thành một
dòng nhạc “kén nguời nghe”.
Để thể hiện những chiêm nghiệm về tình yêu, nhạc sĩ đã sử dụng
phƣơng thức so sánh với những yếu tố đƣợc so sánh (A) và những yếu tố so
sánh (B) đƣợc trình bày trong bảng sau (Bảng 3.3):
STT
A - (phƣơng diện so
sánh)
tnss B - (yếu tố mở rộng)
1 tình yêu nhƣ biển - biển rộng hai vai
2 tình yêu nhƣ biển - biển hẹp tay ngƣời
3 tình yêu nhƣ trái phá com tim mù loà
4 tình yêu nhƣ vết cháy trên da thịt ngƣời
5 tình yêu nhƣ nỗi chết cơn đau thật dài
6 tình yêu nhƣ cơn bão đi qua địa cầu
7 tình yêu nhƣ trái chín trên cây rụng rời
8 tình yêu nhƣ thƣơng áo quen hơi ngọt ngào
9 tình yêu nhƣ đốt sáng con tim tật nguyền
10 tình yêu mật ngọt - mật ngọt trên môi
11 tình yêu mật đắng - mật đắng trong đời
12 tình yêu dấu chim bay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
107
13 tình ta nhƣ núi rừng cúi đầu
14 tình nhƣ nắng - vội tắt chiều hôm
15 tình nhƣ đá - hoài những chờ mong
16 tình nhƣ chút nắng
17 chút tình - thoảng nhƣ gió vội
18 tình - buồn nhƣ là nấm hoang
19 tình - xa nhƣ trời
20 tình - gần nhƣ khói mây
21 tình - trầm nhƣ bóng cây
22 tình - reo vui nhƣ nắng
23 tình - mong manh nhƣ nắng
24 tình ngỡ đã quên đi nhƣ lòng cố lạnh lùng
25 cuộc tình lên cao vút
nhƣ
nhƣ
nhƣ
nhƣ
chim mỏi cánh rồi
chim xa lìa bầy
chim xa lìa trời
chim bỏ đƣờng bay
26 một lần yêu thƣơng một đời bão nổi
BẢNG 3.3
(Ghi chú: Dấu ngoặc đơn (...) trong (phương diện so sánh) và (yếu tố
mở rộng) chỉ khả năng "có" hoặc "không).
3.4. PHƢƠNG THỨC SO SÁNH VỚI NHỮNG CHIÊM NGHIỆM VỀ
ĐỜI NGƢỜI
Giáo lí nhà Phật giải thích: Tất cả mọi sự vật trên đời đều lƣu chuyển
và biến dịch, không có gì là thƣờng trụ, bất biến cả. Bất cứ một sự vật hiện
tƣợng nào trên đời cũng phải trải qua 4 thời kì: “sinh - trụ - dị - diệt”. “Sinh”
là sinh ra. “Trụ” là tồn tại, phát triển một thời gian. “Dị” là biến đổi. “Diệt” là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
108
tan biến mất. “Sinh - trụ - dị - diệt”, đó là quy luật chung của vạn vật. Cuộc
đời mỗi con ngƣời cũng không nằm ngoài quy luật ấy...
Sinh ra trong một gia đình theo Phật giáo và gắn bó với xứ Huế - nơi có
nhiều chùa chiền, lăng tẩm, ngay từ khi còn rất trẻ, Trịnh Công Sơn đã thấm
nhuần những giáo lí nhà Phật. Và hơn ai hết, ông ý thức rất rõ ràng tính vô
thƣờng và sự hữu hạn của đời ngƣời. Trịnh Công Sơn luôn cho rằng cuộc đời
này chỉ là “cõi tạm” và vòng đời một con ngƣời với thời gian trăm năm chỉ là
một cuộc lƣu trú ngắn ngủi trên thế giới thực tại này:
Người đi quanh thân thế của người
Một trăm năm như tiếng thở dài (Nhƣ tiếng thở dài)
Trong những ca từ mang đậm mầu sắc Phật giáo của Trịnh Công Sơn,
có thể nhận thấy nỗi ám ảnh của ông về sự ngắn ngủi, hữu hạn của đời ngƣời.
Qua rất nhiều ca khúc, Trịnh Công Sơn đã nói lên nhận thức ấy qua hàng loạt
cấu trúc so sánh.
Trong cõi vô thuỷ, vô chung của trời đất, đời ngƣời chỉ nhẹ như mây khói,
nhƣ chiếc lá vàng rơi rụng lúc thu sang (Đời nhẹ như lá thu - Cánh chim cô
đơn).
Đời ngƣời giống nhƣ đốm lửa: bé nhỏ, mong manh, dễ tàn, dễ tắt:
Đời ta có khi là đốm lửa
Một hôm nhóm trong vườn khuya (Đêm thấy ta là thác đổ)
Trải qua một kiếp phù du, khi chạm đến bến bờ, đến ranh giới của cuộc đời,
khi tuổi xuân đã già, con ngƣời chợt ngộ ra một điều: đời người như gió qua:
Ôi phù du
Từng tuổi xuân đã già
Một ngày kia đến bờ
Đời người như gió qua (Phôi pha)
Ngoài sự ngắn ngủi, hữu hạn, Trịnh Công Sơn còn có những chiêm
nghiệm mới mẻ về đời ngƣời sau những chiều trở về từ một con phố nào đó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
109
Đời ngƣời là con nước trôi, trôi mãi về một nơi vô định:
Chiều nay em ra phố về
Thấy đời mình là con nước trôi (Nghe những tàn phai)
Đời ngƣời là những chuyến xe đi về trong “cõi tạm” để rồi một ngày
nào đó, một chuyến xe tựa như vừa đến nơi chia lìa:
Chiều nay em ra phố về
Thấy đời mình là những chuyến xe (Nghe những tàn phai)
Đời ngƣời có thể là những đám đông huyên náo, ồn ào, khi con ngƣời
sống giữa ngƣời thân, bạn bè...:
Chiều nay em ra phố về
Thấy đời mình là những đám đông (Nghe những tàn phai)
Đời ngƣời cũng có thể là những quán không trống trải, vắng lặng, khi
con ngƣời sống trong thế giới của riêng mình:
Chiều nay em ra phố về
Thấy đời mình là những quán không (Nghe những tàn phai)
Khi đắm chìm trong nỗi cô đơn, con ngƣời mới cảm nhận hết sự im
vắng của cuộc đời:
Đời sao im vắng
Như đồng lúa gặt xong
Như rừng núi bỏ hoang (Ru ta ngậm ngùi)
Trong nỗi cô đơn, Trịnh Công Sơn đã đẩy đến tận cùng sự đối lập giữa
cái hữu hạn của đời ngƣời với cái vô hạn của cuộc đời để làm nổi bật tính chất
phù du của kiếp ngƣời:
Trời cao đất rộng
Một mình tôi đi...
Đời như vô tận...
Một mình tôi về với tôi (Lặng lẽ nơi này)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
110
Ý thức đƣợc sự ngắn ngủi, hữu hạn của đời ngƣời và cảm nhận rõ ràng
sự vắng lặng của cuộc đời, Trịnh Công Sơn luôn bị ám ảnh bởi cái chết, bởi
sự vắng bóng của con ngƣời trong cuộc đời. Ông từng tâm sự: “Càng sống nhiều
ta càng thấy cái chết dễ dàng đến với bất cứ một ai. Chết quá dễ mà sống thì quá
khó. Hôm qua gặp nhau đấy, ngày mai lại mất nhau. Sống thì có hẹn hò hôm này
hôm mai. Chết thì chẳng bao giờ có một cuộc hẹn hò nào trƣớc”. (Theo [37,
tr.37]). Trong cuộc đời con ngƣời, sự sống và cái chết luôn kề sát nhau:
- Còn sống một ngày
Là hẹn chết mai đây (Buồn từng phút giây)
- Sống có bao năm vui vui buồn buồn người người ngợm ngợm
Sống chết mong manh như thân cỏ hèn mọc đầy núi non
(Giọt lệ thiên thu)
Con ngƣời từ cõi hƣ vô đến với cuộc đời để sống trọn một kiếp ngƣời,
rồi một chều chợt giật mình xót xa:
Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy
Cho trăm năm vào chết một này (Cát bụi)
Đời ngƣời - một khái niệm rất trừu tƣợng đã đƣợc Trịnh Công Sơn so
sánh với những sự vật hiện tƣợng cụ thể, gần gũi (lá thu, đốm lửa, gió qua,
mây khói, con nước trôi, những quán không, những đám đông, những chuyến
xe…). Với sự so sánh này, Trịnh Công Sơn đã làm nổi bật sự hữu hạn, thoáng
chốc của kiếp ngƣời. Với việc ý thức rõ ràng tính chất ngắn ngủi, vô thƣờng
của thời gian trong “cõi tạm”, của cuộc đời mỗi con ngƣời, Trịnh Công Sơn
“không dồn đuổi con ngƣời ta tới một nhịp sống gấp gáp, cũng không làm con
ngƣòi buông xuôi trƣớc số phận mà là nhìn nhận một cách chân xác chỗ đứng
đúng nghĩa của con ngƣời” (Theo [46, tr.462]). Ông động viên mọi ngƣời:
Hãy yêu ngày tới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
111
Dù quá mệt kiếp người
Còn cuộc đời ta cứ vui
Dù vắng bóng ai (Để gió cuốn đi)
Ông kêu gọi con ngƣời “phải sống hết mình trong mỗi sát na của hiện
tại”, bởi: Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ (Mƣa hồng).
Để thể hiện những chiêm nghiệm về đời ngƣời, nhạc sĩ đã sử dụng
phƣơng thức so sánh với những yếu tố đƣợc so sánh (A) và những yếu tố so
sánh (B) đƣợc trình bày trong bảng sau (Bảng 3.4):
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
112
STT
A - (phƣơng diện so
sánh)
tnss B
1 đời ta tựa lá cỏ
2 đời ta là
đốm lửa một hôm nhóm trong
vƣờn khuya
3 đời mình là những chuyến xe
4 đời mình là những đám đông
5 đời mình là những quán không
6 đời mình là con nƣớc trôi
7 đời ngƣời nhƣ gió qua
8 đời nhƣ vô tận
9 đời - nhẹ nhƣ lá thu
10 đời - nhẹ nhƣ mây khói
11 đời - buồn nhƣ chiều hôm có cơn mƣa rào
12 đời - buồn nhƣ chiều đông nắng lên nƣơng dâu
13 đời - buồn nhƣ một vết thƣơng
14 đời - im vắng
nhƣ
nhƣ
đồng lúa gặt xong
rừng núi bỏ hoang
15 lá khô vì đợi chờ cũng nhƣ đời ngƣời mãi âm u
16 nắng vàng phai nhƣ một nỗi đời riêng
17 thiên thu là một đƣờng không bến bờ
18 một trăm năm nhƣ tiếng thở dài
19 sống chết - mong manh nhƣ thân cỏ hèn mọc đầy núi non
20 còn sống một ngày là hẹn chết mai đây
BẢNG 3.4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
113
(Ghi chú: Dấu ngoặc đơn (...) trong (phương diện so sánh) chỉ khả năng
"có" hoặc "không).
TIỂU KẾT
So sánh là một trong những phƣơng thức quan trọng trong việc xây
dựng hình tƣợng nghệ thuật ở ca từ của Trịnh Công Sơn, đặc biệt là em và tôi
- hai hình tƣợng đƣợc trở đi trở lại trong rất nhiều ca khúc. Phuơng thức này
cũng đƣợc sử dụng để thể hiện một cách sâu sắc những chiêm nghiệm của tác
giả về tình yêu và đời ngƣời.
Em là hình tƣợng chung của những ngƣời phụ nữ đã đi qua cuộc đời
Trịnh Công Sơn và trở thành nguồn cảm hứng để ông viết lên những bản tình
ca bất hủ. Bằng phƣơng thức so sánh, Trịnh Công Sơn đã vẽ lên bức chân
dung của em với vẻ đẹp liêu trai, mong manh, vừa có thật vừa hƣ ảo. Vẻ đẹp
của em có lúc đƣợc Trịnh Công Sơn so sánh với vẻ đẹp cao quý của thiên
nhiên, cũng có lúc vẻ đẹp ấy trở thành chuẩn mực để thiên nhiên lấy làm cái
so sánh.
Qua phƣơng thức so sánh, trong ca từ của Trịnh Công Sơn, hình tƣợng
tôi chính là sự nhập vai của tác giả để nói lên những tâm trạng, và nỗi niềm
của mình. Để “diễn đạt mình”, Trịnh Công Sơn thƣờng sử dụng cấu trúc so
sánh có yếu tố so sánh đƣợc mở rộng bằng những chi tiết miêu tả. Với những
yếu tố so sánh này, chúng ta có thể thấu hiểu phần nào những tâm trạng, cảm
xúc và nỗi lòng của hình tƣợng tôi: với cuộc đời, tôi là một kẻ cô đơn đến
cùng cực; với quê hƣơng, tôi là một kẻ lạc loài; với tình yêu, tôi là một kẻ bị
phụ tình. Cô đơn, lạc loài, bị phụ tình, nhƣng tôi luôn sống giữa cuộc đời
bằng một trái tim yêu đời và yêu ngƣời tha thiết.
Có ngƣời đã nhận xét, Trịnh Công Sơn đã yêu nhƣ một ngƣời trẻ và
chiêm nghiệm về tình yêu nhƣ một ngƣời đã thấu lẽ tử sinh. Trong những bản
tình ca của mình, bằng những hình ảnh so sánh độc đáo, mới lạ, Trịnh Công
Sơn đã mang đến cho ngƣời nghe những cảm nhận mới mẻ về tình yêu, dẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
114
dắt họ trải qua những cung bậc cảm xúc khác nhau của tình yêu, và cuối cùng,
khiến họ đồng tình với tác giả: dù hạnh phúc hay khổ đau, thì con ngƣời cũng
không thể sống mà không yêu.
Qua những ca từ mang đậm mầu sắc Phật giáo của Trịnh Công Sơn khi
ông thể hiện những chiêm nghiệm về đời ngƣời, với sự so sánh đời ngƣời -
một khái niệm trừu tƣợng với những sự vật hiện tƣợng cụ thể, gần gũi, có thể
nhận thấy tác giả luôn ý thức rất rõ ràng về sự ngắn ngủi và hữu hạn của đời
ngƣời. Từ sự ý thức ấy, ông trân trọng từng giây phút đƣợc có mặt trên cõi đời
và luôn tâm niệm: sống cho tròn đầy sự có mặt và chết cho ngập tràn cõi hƣ
không.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
115
KẾT LUẬN
1. Việc xác định các cơ sở lí thuyết và miêu tả một phần thực tế (với
những nét khái quát về ca từ, so sánh, cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của
Trịnh Công Sơn) là điểm tựa để nghiên cứu ca từ của Trịnh Công Sơn dƣới
góc độ ngôn ngữ học, với phƣơng thức so sánh.
Đến với nghệ thuật nhƣ một sự ngẫu nhiên của số phận, nhƣng Trịnh
Công Sơn đã tạo dựng cho mình một dòng nhạc độc lập, có sức sống và vị trí
riêng. Lắng nghe nhạc của ụng, chúng ta thấy đƣợc cái khốc liệt của chiến
tranh qua những ca khúc phản chiến, sự hữu hạn của đời ngƣời qua những ca
khúc về thân phận, và những cung bậc khác nhau của tình yêu qua những bản
tình ca, đồng thời cảm nhận đƣợc lòng yêu đời và yêu ngƣời tha thiết của
ngƣời nghệ sĩ đã sống giữa cuộc đời và đến với nghệ thuật bằng trái tim đầy
lòng nhân ái. Một trong những yếu tố làm nên sức sống của nhạc Trịnh chính
là phần ca từ (đƣợc hiểu là phần ngôn ngữ văn học trong âm nhạc), và đó
cũng là nơi thể hiện sự tài hoa trong sử dụng tiếng Việt của ông, trong đó có
phƣơng thức so sánh.
So sánh là một trong những phƣơng thức làm nên vẻ đẹp và nét độc đáo
của ngôn ngữ nghệ thuật. Theo quan niệm của tu từ học, đây là phƣơng thức
dùng để đối chiếu hai đối tƣợng khác loại, không hoàn toàn đồng nhất với
nhau mà có thể chỉ có một nét giống nhau, thậm chí chỉ có một mối liên hệ
sâu xa nào đó, nhằm gợi ra những hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mĩ
trong nhận thức của ngƣời đọc, ngƣời nghe, và nhằm diễn tả bằng hình ảnh
một lối tri giác mới mẻ về đối tƣợng đƣợc đem ra so sánh. Đây cũng chính là
phƣơng thức đƣợc sử dụng phổ biến trong ca từ của Trịnh Công Sơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
116
2. Trong ca từ của Trịnh Công Sơn, phƣơng thức so sánh xuất hiện với
nhiều kiểu loại đa dạng, góp phần thể hiện cá tính sáng tạo riêng về ngụn từ
nghệ thuật của nhạc sĩ xột về mặt hình thái cấu trúc cũng nhƣ về mặt ngữ
nghĩa.
Về mặt hình thái cấu trúc, ta gặp 13 kiểu cấu trúc so sánh, trong đó kiểu
cấu trúc A + tnss + B chiếm số lƣợng nhiều nhất. Sử dụng cấu trúc thiếu cơ
sở so sánh này, Trịnh Công Sơn đã dành cho ngƣời nghe một sự tự do liên
tƣởng để tìm ra những nét giống nhau giữa yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so
sánh, từ đó phát hiện ra đặc điểm của đối tƣợng đƣợc so sánh theo chiều
hƣớng liên tƣởng của mình.
Trong số 8 từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh, các từ ngữ sử dụng trong
kiểu so sánh tƣơng tự (như, tựa, tựa như, như là, cũng như) có tần số xuất
hiện cao nhất, tiếp theo là các từ ngữ sử dụng trong kiểu so sánh ngang bằng
(là, bằng). Tần số xuất hiện của từ ngữ so sánh trong kiểu so sánh dị biệt hơn
chỉ chiếm một số lƣợng rất nhỏ.
Yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so sánh đƣợc Trịnh Công Sơn sử dụng
trong cấu trúc so sánh thƣờng là kết cấu danh ngữ và cụm C - V, ít dùng động
ngữ và tính ngữ; từ loại danh từ đƣợc tác giả dùng nhiều hơn tính từ và động từ.
- Về mặt ngữ nghĩa, ở yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so sánh, Trịnh
Công Sơn sử dụng hai trƣờng nghĩa đối lập: thuộc con ngƣời và ngoài con
ngƣời. Trong đó, yếu tố đƣợc so sánh thƣờng thuộc trƣờng nghĩa thuộc con
ngƣời, yếu tố so sánh thƣờng thuộc trƣờng nghĩa ngoài con ngƣời.
Trong mối tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh (A) và yếu
tố so sánh (B), thƣờng gặp là tƣơng quan giữa A thuộc con ngƣời - B ngoài
con ngƣời, tiếp đó là A ngoài con ngƣời - B ngoài con ngƣời. Tƣơng quan
giữa A ngoài con ngƣời - B thuộc con ngƣời và A thuộc con ngƣời - B thuộc
con ngƣời chiếm một số lƣợng nhỏ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
117
3. Hình tƣợng nghệ thuật là một bức tranh vừa cụ thể vừa khái quát về
cuộc sống, về con ngƣời, đƣợc nghệ sĩ xây dựng nên và thể hiện bằng nhiều
cách, trong đó so sánh là một trong những phƣơng thức quan trọng. Trong
những ca khúc của Trịnh Công Sơn, phƣơng thức so sánh góp phần không
nhỏ trong việc xây dựng những hình tƣợng nghệ thuật để lại ấn tƣợng sâu sắc
trong lòng ngƣời nghe, đặc biệt là em và tôi - hai hình tƣợng đƣợc trở đi trở
lại trong rất nhiều ca khúc. Phƣơng thức này cũng đƣợc sử dụng để thể hiện
một cách sâu sắc những chiêm nghiệm của tác giả về tình yêu và đời ngƣời.
Bằng so sánh, Trịnh Công Sơn đã vẽ lên bức chân dung em với vẻ đẹp
mong manh, vừa có thật vừa hƣ ảo. Đây cú thể cũng chính là hình tƣợng
chung của những ngƣời phụ nữ đã đi qua cuộc đời Trịnh Công Sơn và trở
thành nguồn cảm hứng để ông viết lên những bản tình ca bất hủ.
Qua xem xét phƣơng thức so sánh, chúng ta có thể thấu hiểu phần nào
những tâm trạng, cảm xúc và nỗi lòng của hình tƣợng tôi - một hiện thân của
chính tác giả: Với cuộc đời, tôi là một kẻ cô đơn đến cùng cực; với quê
hƣơng, tôi là một kẻ lạc loài; với tình yêu, tôi là một kẻ bị phụ tình. Thế
nhƣng, tôi luôn sống giữa cuộc đời bằng một trái tim yêu đời và yêu ngƣời tha
thiết.
Cũng qua những hình ảnh so sánh độc đáo, mới lạ trongg ca khúc,
ngƣời nghe sẽ có đƣợc những cảm nhận mới mẻ về tình yêu, đƣợc dẫn dắt qua
những cung bậc khác nhau của tình yêu, và cuối cùng, đồng tình với tác giả:
con ngƣời luôn khao khát yêu và đƣợc yêu, dù khổ đau hay hạnh phúc.
Sự ngắn ngủi và hữu hạn của đời ngƣời đƣợc thể hiện trong rất nhiều ca
khúc của Trịnh Công Sơn, bằng sự so sánh đời ngƣời - một khái niệm rất trừu
tƣợng với những sự vật hiện tƣợng cụ thể. Với việc ý thức rõ ràng tính chất
ngắn ngủi, vô thƣờng của thời gian trần thế, của cuộc đời mỗi con ngƣời, Trịnh
Công Sơn trân trọng từng giây phút đƣợc có mặt trên cõi đời, và luôn động viên
mọi ngƣời hãy sống hết mình, bởi cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
118
4. Kết quả của việc nghiên cứu phuơng thức so sánh trong ca từ của
Trịnh Công Sơn là minh chứng cho khả năng tìm hiểu giá trị của văn bản
nghệ thuật dƣới góc nhìn ngôn ngữ học. Đồng thời, nó có thể giúp những
ngƣời yêu nhạc Trịnh tiếp cận có định hƣớng và dễ dàng hơn với dòng nhạc
đƣợc đánh giá là “kén ngƣời nghe” này. Để có thể hiểu đầy đủ và sâu sắc hơn về
ca từ của Trịnh Công Sơn, cần tiếp tục nghiên cứu ở những khía cạnh khác nữa:
những câu bỏ lửng, sự sắp xếp các đơn vị từ ngữ, những nét đối xứng, các lớp từ
ngữ, các kiểu câu, lối xƣng gọi... Ngoài phƣơng thức so sánh, cũng cần tìm hiểu
thêm về các phƣơng thức tu từ khác: ẩn dụ, tƣợng trƣng, nhân hoá, hoán dụ...
Tác giả luận văn này hi vọng sẽ có dịp tiếp tục xem xét các khía cạnh trên, để có
cơ hội hiểu rõ hơn nữa phong cách ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn, ngƣời mà,
nhƣ ông đó tự phỏc thảo chõn dung: “Qua ca khỳc, tụi đã đến gần và đã đi xa
những chuyện tình, đã tham dự những nỗi hân hoan của đời ngƣời và cũng đã
gánh nhẹ giùm những phiền muộn”...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
119
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
120
CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
Hàn Thị Thu Hƣờng (2010), “Phƣơng thức so sánh trong ca khúc Tình sầu
của Trịnh Công Sơn”, T/c Ngôn ngữ và Đời sống, số 8 (178) - 2010, tr.24-29.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dƣơng Viết Á (2005), Ca từ trong âm nhạc Việt Nam, Nxb Viện õm nhạc, H.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
121
2. Dƣơng Viết Á (2005), Âm nhạc Việt Nam từ góc nhìn văn hoá, tập 1, Nxb
Hà Nội, H.
3. Jean Chevalier Alaingheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hoá thế
giới, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
4. Diệp Quang Ban (2003), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb GD, H.
5. Nguyễn Tài Cẩn (1998), Ngữ pháp tiếng Việt (tiếng, từ ghép, đoản ngữ),
Nxb ĐHQG, H.
6. Đỗ Hữu Châu (1962), Giáo trình Việt ngữ, tập 2, Nxb GD, H.
7. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb GD, H.
8. Hà Châu (1966), “Cách so sánh trong ca dao ngày nay”, T/c Văn học, số 9.
9. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2006), Cơ sở ngôn
ngữ học và tiếng Việt, Nxb GD, H.
10. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, Nxb GD, H.
11. Hữu Đạt (1981), “Thủ pháp so sánh trong ca dao và thơ hiện đại”, Văn
nghệ, số 5.
12. Hữu Đạt, Trần Trí Dõi, Đào Thanh Lan (1998), Cơ sở tiếng Việt, Nxb GD, H.
13. Hữu Đạt (2001), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, Nxb ĐHQG, H.
14. Đinh Văn Đức (2001), Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại), Nxb ĐHQG, H.
15. Nguyễn Thiện Giáp (1999), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb GD, H.
16. Hoàng Văn Hành (1976), Về bản chất của thành ngữ so sánh tiếng Việt,
T/c Ngôn ngữ, số 1, tr 11-19.
17. Nguyễn Thị Bích Hạnh (2009), Biểu tượng ngôn ngữ trong ca từ của
Trịnh Công Sơn, Nxb Khoa học xã hội, H.
18. Lê thị Thu Hiền (2007), Quan niệm nhân sinh trong ca từ Trịnh Công
Sơn, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn - Chuyên ngành Văn học Việt Nam,
ĐHSPHN.
19. Đỗ Đức Hiểu và các tác giả khác (2004), Từ điển Văn học, Nxb Thế giới, H.
20. Nguyễn Hữu Thái Hoà và những ngƣời bạn (2007), Vườn xưa - hành
trình âm nhạc Trịnh Công Sơn, Nxb Trẻ, H.
21. Đinh Ngọc Hoa (1998), So sánh tu từ trong tác phẩm của Nam Cao trước
Cách mạng, Ngữ học trẻ 98, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, HN.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
122
22. Lƣu Quý Khƣơng (2003), “So sánh logic và so sánh tu từ”, T/c Ngôn ngữ,
số 16.
23. Đinh Trọng Lạc (1964), Giáo trình Việt ngữ, tập 3, Nxb GD, H.
24. Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Nguyễn Thái Hoà (2004), Phong cách học
tiếng Việt, Nxb GD, H.
25. Đinh Trọng Lạc (2005), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt,
Nxb GD, H.
26. Nguyễn Thế Lịch (1988), “Các yếu tố và cấu trúc so sánh nghệ thuật
tiếng Việt” (số phụ của T/c Ngôn ngữ), số 1.
27. Nguyễn Thế Lịch (1991), “Từ so sánh đến ẩn dụ”, T/c Ngôn ngữ, số 3.
28. Nguyễn Thế Lịch (1998), “Về các tính chất của ngôn ngữ nghệ thuật”,
T/c Ngôn ngữ, số 4.
29. Nguyễn Thế Lịch (2001), “Cấu trúc so sánh trong tiếng Việt”, T/c Ngôn
ngữ, số 7 & 9.
30. Trần Thị Thuỳ Linh (2008), Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu
thuyết của Chu Lai và Lê Lựu, Luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ học, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
31. Nguyễn Thị Loan (2009), Quan niệm mĩ học trong ca từ và văn xuôi
Trịnh Công Sơn, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, ĐHSPHN.
32. Đoàn Tiến Mạnh (2000) “Cấu trúc của vế chuẩn so sánh tu từ (qua cứ liệu
văn xuôi)”, Kỷ yếu Ngữ học trẻ, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, H.
33. Ban Mai (2008), Trịnh Công Sơn - vết chân dã tràng, Nxb Lao động -
Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, H.
34. Hoàng Kim Ngọc (2009), So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình, Nxb
KHXH, H.
35. Lê Thị Nhƣ Nguyệt (2009), So sánh và ẩn dụ tu từ trong thơ Xuân Quỳnh,
Luận văn thạc sĩ Ngữ văn - Chuyên ngành Ngôn ngữ, ĐHSP Thái Nguyên.
36. Nhiều tác giả (2001), Trịnh Công Sơn - Cát bụi lộng lẫy, Nxb Văn hoá,
tạp chí Sông Hƣơng, Huế.
37. Nhiều tác giả (2004), Trịnh Công Sơn - người hát rong qua nhiều thế hệ,
Nxb Trẻ, H.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
123
38. Nhiều tác giả (2005), Trịnh Công Sơn - cuộc đời - âm nhạc - thơ - hội hoạ
và suy tưởng, Nxb Văn hoá Sài Gòn, TP Hồ Chí Minh.
39. Hoàng Phê (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
40. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt (câu), Nxb GD, H.
41. Bùi Vĩnh Phúc (2008), Trịnh Công sơn - Ngôn ngữ và những ám ảnh
nghệ thuật, Nxb Văn hoá Sài Gòn, TP Hồ Chớ Minh.
42. Lê Minh Quốc (2006), Trịnh Công Sơn - Rơi lệ ru người, Nxb Phụ nữ, H.
43. Nguyễn Quang Sáng (1990), Paris - tiếng hát Trịnh Công Sơn, Nxb Tác
phẩm mới.
44. Fedinand De Saussure (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb
Khoa học xã hội, H.
45. Nguyễn Trọng Tạo - Nguyễn Thuỵ Kha - Đoàn Tử Huyến (2001), Trịnh
Công Sơn - Một người thơ ca - một cõi đi về, Nxb Âm nhạc, Trung tâm
văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, H.
46. Nguyễn Trọng Tạo - Nguyễn Thuỵ Kha - Đoàn Tử Huyến (2004), Một
cõi Trịnh Công Sơn, Nxb Thuận Hoá.
47. Đào Thản (1998), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật, Nxb
KHXH, H
48. Nguyễn Thanh (1974), “Bƣớc đầu tìm hiểu lối so sánh trong cách nói,
cách viết của Hồ Chủ Tịch”, T/c Ngôn ngữ, số 2.
49. Nguyễn Quý Thành (2000), “Cấu trúc ngữ pháp - ngữ nghĩa của những
câu tục ngữ Việt có dạng “A là B”, Kỷ yếu Ngữ học trẻ, Hội Ngôn ngữ
học Việt Nam, H.
50. Bùi Đức Thao (2002), “Về phép so sánh trong tiếng Việt”, Kỷ yếu Ngữ
học trẻ, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, H.
51. Thích Giác Thiện (2007), Vô thường, Nxb Tổng hợp TPHCM, TP Hồ Chí Minh.
52. Hoàng Tá Thích (2007), Như những dòng sông (Tản mạn về nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn), Nxb Văn nghệ, H.
53. Trần Thị Chung Toàn (1983), “Thang độ phép so sánh và sự phủ định”,
T/c Ngôn ngữ, số 2.
54. Nguyễn Đức Tồn (1990), “Chiến lƣợc liên tƣởng - so sánh trong giao tiếp
của ngƣời Việt Nam”, T/c Ngôn ngữ, số 3.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
124
55. Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng văn hoá dân tộc của ngôn ngư và tư
duy, Nxb KHXH, H.
56. Cù Đình Tú (1983), Phong cách học và đặc đểm tu từ tếng Việt, Nxb ĐH
& THCN, H.
57. Bùi Tất Tƣơm (1997), Giáo trình cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb
GD, H.
58. Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng (2005), Trịnh Công Sơn và cây đàn Lya của
hoàng tử bé, Nxb trẻ, H.
59. Tạp chí Thời Văn, số 2 (đặc tuyển về Trịnh Công Sơn và giới trẻ), Nxb
Văn nghệ, 2005.
60. Bùi Khắc Việt (1978), “Về tính biểu trƣng của thành ngữ so sánh trong
tiếng Việt”, T/c Ngôn ngữ, số 1.
61. Trần Quốc Vƣợng (chủ biên) (2008), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb GD, H
62. Nguyễn Đắc Xuân (2003), Trịnh Công Sơn - Có một thời như thế, Nxb
Văn học, H.
63. Nguyễn Nhƣ ý, Hà Quang Năng, Đỗ Việt Hùng, Đặng Ngọc Lê (2003),
Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb GD, H.
64. Bửu ý (2003), Một nhạc sĩ thiên tài, Nxb Trẻ, H.
65. http:// www.tcs-home.org.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
DANH MỤC NHỮNG CA KHÚC
ĐƢỢC KHẢO SÁT TRONG LUẬN VĂN
1. Ai ngoài cánh cửa
2. Bài ca dành cho những xác ngƣời
3. Bay đi thầm lặng
4. Bên đời hiu quạnh
5. Bến sông
6. Biển nghìn thu ở lại
7. Biển nhớ
8. Biển sáng
9. Biết đâu nguồn cội
10. Bốn mùa thay lá
11. Bống bồng ơi
12. Bống không là bống
13. Buồn từng phút giây
14. Ca dao mẹ
15. Cánh chim cô đơn
16. Cánh đồng hoà bình
17. Cát bụi
18. Chỉ có ta trong một đời
19. Chiếc lá thu phai
20. Chiều một mình qua phố
21. Chiều trên quê hƣơng tôi
22. Chìm dƣới cơn mƣa
23. Chính chúng ta phải nói
24. Cho đời chút ơn
25. Cho một ngƣời nằm xuống
26. Cho quê hƣơng mỉm cƣời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
27. Chờ nhìn quê hƣơng sáng chói
28. Chuyện đoá quỳnh hƣơng
29. Chƣa mất niềm tin
30. Chƣa mòn giấc mơ
31. Có một dòng sông đã qua đời
32. Có một ngày nhƣ thế
33. Có nghe đời nghiêng
34. Có những con đƣờng
35. Cỏ xót xa đƣa
36. Còn ai với ai
37. Còn có bao ngày
38. Con đƣờng mùa xuân
39. Con mắt còn lại
40. Còn thấy mặt ngƣời
41. Còn tuổi nào cho em
42. Cúi xuống thật gần
43. Cũng sẽ chìm trôi
44. Cuối cùng cho một tình yêu
45. Dã tràng ca
46. Dân ta vẫn sống
47. Dấu chân địa đàng
48. Diễm xƣa
49. Du mục
50. Dựng lại ngƣời dựng lại nhà
51. Đại bác ru đêm
52. Để gió cuốn đi
53. Đêm
54. Đêm bây giờ đêm mai
55. Đếm thấy ta là thác đổ
56. Đi mãi trên đƣờng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
57. Đi tìm quê hƣơng
58. Đoá hoa vô thƣờng
59. Đoản khúc thu Hà Nội
60. Đời cho ta thế
61. Đợi có một ngày
62. Đời gọi em biết bao lần
63. Đôi mắt nào mở ra
64. Đời sống không già vì có chúng em
65. Đốm lửa hồng
66. Đồng dao 2000
67. Đồng dao hoà bình
68. Đừng mong ai, đừng nghi ngại
69. Đƣờng xa vạn dặm
70. Em còn nhớ hay em đã quên
71. Em đã cho tôi bầu trời
72. Em đến cùng mùa xuân
73. Em đến từ nghìn xƣa
74. Em đi bỏ lại con đƣờng
75. Em đi trong chiều
76. Em hãy ngủ đi
77. Em là hoa hồng nhỏ
78. Em ở nông trƣờng em ra biên giới
79. Gần nhƣ niềm tuyệt vọng
80. Gia tài của mẹ
81. Giọt lệ thiên thu
82. Giọt nƣớc cành sen
83. Gọi đời lên mau
84. Gọi tên bốn mùa
85. Góp lá mùa xuân
86. Hạ trắng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
87. Hai mƣơi mùa nắng hạ
88. Hành ca
89. Hành hƣơng trên đồi cao
90. Hạt điều khăn điều
91. Hát trên những xác ngƣời
92. Hãy cố nhƣ
93. Hãy cứ vui nhƣ mọi ngày
94. Hãy đi cùng nhau
95. Hãy khóc đi em
96. Hãy nhìn lại
97. Hãy nói giùm tôi
98. Hãy yêu nhau đi
99. Hoa vàng mấy độ
100. Hoa xuân ca
101. Hoà bình là cơm áo
102. Hôm nay tôi nghe
103. Huế Sài Gòn Hà Nội
104. Huyền thoại mẹ
105. Khăn quàng thắp sáng bình minh
106. Khói trời mênh mông
107. Lại gần với nhau
108. Lặng lẽ nơi này
109. Lời buồn thánh
110. Lời của dòng sông
111. Lời mẹ ru
112. Lời ở phố về
113. Lời ru đêm
114. Lời thiên thu gọi
115. Mẹ đi vắng
116. Mênh mông Đồng Tháp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
117. Môi hồng đào
118. Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
119. Một buổi sáng mùa xuân
120. Một cõi đi về
121. Một lần thoáng có
122. Một ngày nhƣ mọi ngày
123. Một ngày vinh quang một ngày tuyệt vọng
124. Mùa áo quan
125. Mùa hè đến
126. Mùa phục hồi
127. Mƣa hồng
128. Mƣa mùa hạ
129. Mừng sinh nhật
130. Muôn trùng biển ơi
131. Nắng thuỷ tinh
132. Này em có nhớ
133. Ngậm ngùi riêng ta
134. Ngẫu nhiên
135. Ngày dài trên quê hƣơng
136. Ngày mai đây bình yên
137. Ngày nay không còn bé
138. Ngày về
139. Nghe những tàn phai
140. Nghe tiếng muôn trùng
141. Ngọn lửa
142. Ngọn lửa vĩnh cửu ở Matxcơva
143. Ngủ đi con
144. Ngụ ngôn mùa đông
145. Ngƣời con gái Việt Nam
146. Ngƣời già em bé
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
147. Ngƣời mẹ Ô Lý
148. Ngƣời về bỗng nhớ
149. Nguyệt ca
150. Nhân danh Việt Nam
151. Nhìn những mùa thu đi
152. Nhớ mùa thu Hà Nội
153. Nhƣ cánh vạc bay
154. Nhƣ chim ƣu phiền
155. Nhƣ hòn bi xanh
156. Nhƣ một lời chia tay
157. Nhƣ một vết thƣơng
158. Nhƣ tiếng thở dài
159. Những ai còn là Việt Nam
160. Những con mắt trần gian
161. Những giọt máu trổ bông
162. Những giọt mƣa khuya
163. Nhƣng hôm nay
164. Níu tay nghìn trùng
165. Nối vòng tay lớn
166. Nƣớc mắt cho quê hƣơng
167. Ở trọ
168. Ông tiên vui
169. Phôi pha
170. Phúc âm buồn
171. Quê hƣơng nặng đau
172. Quỳnh hƣơng
173. Ra đồng giữa ngọ
174. Rồi nhƣ đá ngây ngô
175. Rơi lệ ru ngƣời
176. Ru đời đã mất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
177. Ru đời đi nhé
178. Ru em
179. Ru em từng ngón xuân nồng
180. Ru ta ngậm ngùi
181. Ru tình
182. Rừng xanh xanh mãi
183. Rừng xƣa đã khép
184. Sao mắt mẹ chƣa vui
185. Sẽ còn ai
186. Sóng về đâu
187. Ta đi dựng cờ
188. Tạ ơn
189. Ta phải thấy mặt trời
190. Ta quyết phải sống
191. Ta thấy gì đêm nay
192. Tết suối hồng
193. Thành phố mùa xuân
194. Thanh quan ca
195. Thiên sứ bâng khuâng
196. Thủa bống là ngƣời
197. Thƣơng một ngƣời
198. Tiến thoái lƣỡng nan
199. Tiếng ve gọi hè
200. Tình ca của ngƣời mất trí
201. Tình khúc Ơ - Bai
202. Tình nhớ
203. Tình sầu
204. Tình xa
205. Tình xót xa vừa
206. Tình yêu tìm thấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
207. Tôi biết tôi yêu
208. Tôi đã mất
209. Tôi đang lắng nghe
210. Tôi ơi đừng tuyệt vọng
211. Tôi ru em ngủ
212. Tôi sẽ đi thăm
213. Tôi sẽ nhớ
214. Trả lại em
215. Trong mỗi đời riêng
216. Trong nỗi đau tình cờ
217. Tự tình khúc
218. Từng ngày qua
219. Tuổi đá buồn
220. Tuổi đời mênh mông
221. Tuổi trẻ Việt Nam
222. Tƣởng rằng đã quên
223. Ƣớc mơ về dòng điện
224. Ƣớt mi
225. Vẫn có em bên đời
226. Vẫn nhớ cuộc đời
227. Vàng phai trƣớc ngõ
228. Về giữa Trị An
229. Về thăm mái trƣờng xƣa
230. Về trong suối nguồn
231. Vết lăn trầm
232. Vì bé ngoan
233. Vì tôi cần thấy em yêu đời
234. Việt Nam ơi hay vùng lên
235. Vƣờn xƣa
236. Xa dấu mặt trời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
237. Xác ta xác thù
238. Xanh lòng tàn phai
239. Xin cho tôi
240. Xin mặt trời ngủ yên
241. Xin trả nợ ngƣời
242. Yêu dấu tan theo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
PHỤ LỤC 2
MỘT SỐ VĂN BẢN CA KHÚC CỦA TRỊNH CÔNG SƠN
TÌNH SẦU
1. Tình yêu nhƣ trái phá
Con tim mù lòa
Một mai thức dậy
Chợt hồn nhƣ ngất ngây
Chợt buồn trong mắt nai
Rồi tình vui trong mắt
Rồi tình mềm trong tay
Tình yêu nhƣ vết cháy
Trên da thịt ngƣời
Tình xa nhƣ trời
Tình gần nhƣ khói mây
Tình trầm nhƣ bóng cây
Tình reo vui nhƣ nắng
Tình buồn làm cơn say
Cuộc tình lên cao vút
Nhƣ chim mỏi cánh rồi
Nhƣ chim xa lìa bầy
Nhƣ chim xa lìa trời
Nhƣ chim bỏ đƣờng bay
Tình yêu nhƣ trái chín
Trên cây rụng rời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Một mai thức dậy
Chuyện trò với lá cây
Rồi buồn nhƣ lá bay
Một giòng sông nƣớc cuốn
Một cuộc tình không may
Tình yêu nhƣ thƣơng áo
Quen hơi ngọt ngào
Rời nhau hôm nào
Hồn mình nhƣ vá khâu
Buồn mình nhƣ lũng sâu
Rồi tình trong im tiếng
Rồi tình ngoài hƣ hao
2. Tình yêu nhƣ nỗi chết
Cơn đau thật dài
Tình khâu môi cƣời
Hình hài xƣa đã thay
Mặn nồng xƣa cũng phai
Tình chia nhau gian dối
Tình đày tình đôi nơi
Tình yêu nhƣ cơn bão
Đi qua địa cầu
Tình thắp cơn sầu
Tình dìu qua hố sâu
Tình vời lên núi cao
Rồi trong cơn yêu dấu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Tình đày tình xa nhau
Cuộc tình lên cao vút
Nhƣ chim mỏi cánh rồi
Nhƣ chim xa lìa bầy
Nhƣ chim xa lìa trời
Nhƣ chim bỏ đƣờng bay
Tình yêu cho anh đến
Bên cơn muộn phiền
Tình đi âm thầm
Nghìn trùng nhƣ vết sƣơng
Lạnh lùng nhƣ dấu chim
Tình mong manh nhƣ nắng
Tình còn đầy không em
Tình yêu nhƣ đốt sáng
Con tim tật nguyền
Tình lên êm đềm
Vội vàng nhƣng chóng quên
Rộn ràng nhƣng biến nhanh
Tình cho nhau môi ấm
Một lần là trăm năm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
NHƢ CÁNH VẠC BAY
Nắng có hồng bằng đôi môi em
Mƣa có buồn bằng đôi mắt em
Tóc em từng sợi nhỏ
Rớt xuống đời làm sóng lênh đênh
Gió sẽ mừng vì tóc em bay
Cho mây hờn ngủ quên trên vai
Vai em gầy guộc nhỏ
Nhƣ cánh vạc về chốn xa xôi
Nắng có còn hờn ghen môi em
Mƣa có còn buồn trong mắt trong
Từ lúc đƣa em về
Là biết xa nghìn trùng
Suối đón từng bàn chân em qua
Lá hát từ bàn tay thơm tho
Lá khô vì đợi chờ
Cũng nhƣ đời ngƣời mãi âm u
Nơi em về ngày vui không em
Nơi em về trời xanh không em
Ta nghe nghìn giọt lệ
Rớt xuống thành hồ nƣớc long lanh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
TỰ TÌNH KHÚC
1. Tôi nhƣ trẻ nhỏ ngồi bên hiên nhà
Chờ xem thế kỉ tàn phai
Tôi nhƣ trẻ nhỏ tìm nơi nƣơng tựa
Mà sao vẫn cứ lạc loài
Tôi nhƣ là ngƣời lạc trong đô thị
Một hôm đi về biển khơi
Tôi nhƣ là ngƣời một hôm quay lại
Vì nghe sa mạc nối dài
Đừng nghe tôi nói lời tăm tối
Đùng tin tôi nhé vì tiếng cƣời
Đôi khi một ngƣời dƣờng nhƣ chờ đợi
Thật ra đang ngồi thảnh thơi
Tôi nhƣ là ngƣời ngồi trong đêm dài
Nhìn tôi đang quá ngậm ngùi
Một hôm buồn ra ngắm giòng sông
Một hôm buồn lên núi nằm xuống
2. Tôi đi tìm ngày tìm đêm lâu dài
Một hôm thấy đƣợc đời tôi
Tôi yêu mọi ngƣời cỏ cây muôn loài
Làm sao yêu hết cuộc đời
Tôi nhƣ đƣờng về mở ra đô thị
Chờ chân thiên hạ về vui
Tôi nhƣ nụ cƣời nở trên môi cƣời
Phòng khi nhân loại tiếng cƣời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Tìm tôi đi nhé đừng bối rối
Đừng mang gƣơm giáo vào với đời
Tôi nhƣ ngọn đèn từng đêm vơi cạn
Lửa lên thắp một niềm riêng
Tôi nhƣ nụ hồng nhiều khi ƣu phiền
Chờ tôi rã cánh một lần
Một hôm buồn ra ngắm giòng sông
Một hôm buồn lên núi nằm xuống.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
PHỤ LỤC 3
MỘT SỐ ĐOẠN TẢN VĂN CỦA TRỊNH CÔNG SƠN
Phác thảo chân dung tôi
Mỗi sáng, nhìn vào mặt gƣơng, lại thấy thêm rất nhiều những sợi tóc
bạc…
Thủa ấy, tôi là một đứa bé thích ca hát. Mƣời tuổi biết solfège, chép lại
những bài hát yêu thích đóng thành tập, chơi đàn mandolin và sáo trúc. Mƣời
hai tuổi có cây đàn guitar đầu tiên trong đời và từ đó sử dụng guitar nhƣ một
phƣơng tiện quen thuộc để đệm cho chính mình hát.
Tôi không đến với âm nhạc nhƣ một kẻ chọn nghề. Tôi nhớ mình đã
viết những ca khúc đầu tiên từ những đòi hỏi tự nhiên của tình cảm thôi thúc
bên trong… Đó là những năm 1956 - 1957, thời của những giấc mộng ngổn
ngang, của những giấc mộng phù phiếm non dại. Cái thời tuổi trẻ xanh mƣớt
nhƣ trái quả đầu mùa ấy, tôi rất yêu âm nhạc nhƣng tuyệt nhiên trong tôi
không hề gợi lên cái ham muốn trở thành nhạc sĩ...
Dạo ấy ba tôi đã mất, mẹ tôi ở xa, tôi một mình giữa Sài Gòn này phải
tự quyết định mọi chuyện về đời mình. Cái gánh đời tuổi tác còn quá nhẹ. Có
lúc tôi đã bỏ dở cái trò lãng mạn viết lách này với nỗi ám ảnh ngu ngốc
“xƣớng ca vô loài”. Tôi trằn trọc đêm này qua đêm khác, ray rứt ngày này qua
tháng nọ. Nhƣng càng cố lãng quên thì tiếng hát trong tôi càng vang lên rõ rệt,
tràn ngập cả lúc đứng ngồi, cả trong giấc ngủ.
Dần dà những năm về sau, mới bắt đầu hình thành trong tôi một quan
niệm rõ rệt: Sống là sống với ngƣời khác và muốn có cảm thông chúng ta phải
luôn luôn diễn đạt mình. Trong những cách diễn đạt bằng tiếng nói, bằng chữ
viết và nhiều phƣơng tiện khác, tôi thấy tâm hồn mình có khuynh hƣớng
nghiêng về phía ca khúc. Trên mảnh đất nghệ thuật nhỏ nhắn này, tôi tìm thấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
tự do và tôi nghĩ rằng ở đây tôi có thể bày tỏ đƣợc với ngƣời khác về những
niềm vui nỗi buồn của cuộc sống.
Nhìn lại quãng đƣờng mình đã đi, tôi cảm thấy không có gì phải ân
hận. Tôi vẫn là đứa trẻ thơ trong nghệ thuật, lòng còn tràn đầy cảm hứng. Tôi
vẫn còn ham mê học hỏi quanh mình và còn đủ hào hứng mở ra những cuộc
đối thoại, độc thoại với cây cỏ thiên nhiên, với con ngƣời qua ca khúc dƣới
ánh sáng hiền hoà nhân hậu của những ngày tôi đang sống.
Phải chờ đến lúc soi gƣơng nhìn thấy tóc không còn mang màu xanh cũ
nữa, mới nhận ra hết nỗi khát khao đƣợc yêu thƣơng mãi mãi con ngƣời và
cuộc sống. Yêu thƣơng con ngƣời cũng là yêu thƣơng tiếng hát bởi vì tiếng
hát mang trong nó tâm hồn con ngƣời. Tiếng hát sẽ mọc lên cây xanh tƣơi
trong cuộc đời này nhƣ những cây tử đinh hƣơng mọc tràn thơm tho trên
những cánh đồng vô tận.
Với ca khúc, tôi là ngƣời tình của thiên nhiên, là ngƣời bạn của những
em bé. Qua ca khúc, tôi đã đến gần và đã đi xa những chuyện tình, đã tham dự
những nỗi hân hoan của đời ngƣời và cũng đã gánh nhẹ giùm những phiền
muộn.
Ca khúc là đời sống thứ hai sau cái thân thể mà cha mẹ đã sinh thành...
Cuộc sống không thể thiếu tình yêu
Ngƣời ta nói trên trái đất không có gì ở ngoài qui luật cả. Nhƣng tình
yêu cũng có lúc là một ngoại lệ. Tình yêu có lúc nâng bổng con ngƣời nhƣng
cũng lắm lúc nhấn chìm kẻ háo hức. Tôi không tin những ngƣời quá lạc quan
khi nói về tình yêu bằng thể khẳng định. Ngƣời ta có thể tin rằng mình đƣợc
yêu và cũng có thể hiểu nhầm mình không đƣợc yêu. Tôi không thể nói về
một vấn đề mà chính bản thân mình cũng chƣa hiểu hết. Chƣa hiểu hết là nói
theo kiểu đại ngôn chứ thật sự là hoàn toàn không thể hiểu. Nếu có một ngƣời
nào đó thách thức tôi một trò chơi nghịch ngợm thì tôi sẽ mang tình yêu ra mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
đánh đố. Tôi e, không ai dám tự xƣng mình am tƣờng hết nội dung phong phú
và quá phức tạp của tình yêu. Có ngƣời yêu thì hạnh phúc; có ngƣời yêu thì
đau khổ. Nhƣng dù đau khổ hay hạnh phúc thì con ngƣời vẫn muốn yêu. Tình
yêu vì thế mà tồn tại. Con ngƣời không thể sống mà không yêu. Hàng nghìn
năm nay con ngƣời dã sống và đã yêu - yêu thật lòng chứ không phải giả. Thế
mà đã có không biết bao nhiêu là tình yêu giả. Cái giả mà rất thật trong đời.
Sự giả trá đó lúc biết đƣợc thì khổ lòng nhau biết bao nhiêu mà kể. Ngƣời giả,
ngƣời thật nhìn nhau lúc bấy giờ ngỡ ngàng không biết thế nào nói đƣợc.
Ngƣời thật thì nằm bệnh, ngƣời giả thì nói, cƣời huyên thuyên. Đời sống vốn
không bất công. Ngƣời giả trong tình yêu thế nào cũng thiệt. Ngƣời thật thế
nào cũng đƣợc đền bù.
Tình yêu thời nào cũng có. Nhƣng có tình yêu kết thúc bi thảm đến độ
có khi con ngƣời không dám yêu. Yêu mà khổ quá thì yêu làm gì. Có ngƣời
đã nói nhƣ vậy.
Tôi đã có dịp đứng trên hai mặt của tình yêu và dù sao chăng nữa, tôi vẫn
muốn giữ lại trong lòng một ý nghĩa bền vững: “Cuộc sống không thể thiếu tình
yêu”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
PHỤ LỤC 4
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VÀ BÚT TÍCH CỦA TRỊNH CÔNG SƠN
Trịnh Công Sơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Trịnh Công Sơn và Khánh Ly
Sáng tác của Trịnh Công Sơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV2010_SP_HanThiThuHuong.pdf