Luận văn Quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

MS: LVVH-VHVN048 SỐ TRANG: 160 NGÀNH: VĂN HỌC CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM NĂM: 2010 CẤU TRÚC LUẬN VĂN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Mục đích nghiên cứu 3. Lịch sử vấn đề 4. Giới hạn của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu: 4.2. Phạm vi nghiên cứu: 4.3. Giới thuyết một số khái niệm 5. Phương pháp nghiên cứu 6. Đóng góp của luận án: 7. Cấu trúc luận án Chương 1 - NHỮNG TIỀN ĐỀ CƠ BẢN CỦA QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VIỆT NAM 1.1. Những tiền đề lịch sử - xã hội 1.1.1. Quá trình xâm lăng của thực dân Pháp và những chuyển biến về thể chế chính trị 1.1.2. Những biến động lớn của xã hội 1.2. Tiền đề văn hóa - văn học 1.2.1. Công cụ biểu đạt mới 1.2.2. Nền giáo dục mới 1.2.3. Nền văn học mới 1.2.4. Hoạt động dịch thuật 1.3. Tiền đề vật chất - kỹ thuật 1.3.1. Báo chí 1.3.2. Nghề in và xuất bản Chương 2 - NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN CỦA HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX 2.1. Giai đoạn 30 năm đầu thế kỷ XX 2.1.1. Ảnh hưởng của quan niệm cổ điển trong hoạt động nghiên cứu văn học 2.1.2. Bước khởi đầu của quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học 2.2. Giai đoạn 1930 - 1945 - Những chuyển biến trong quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học 2.2.1. Nghiên cứu văn học sử - Thành tựu và hạn chế 2.2.2. Nghiên cứu văn học nước ngoài - Thành tựu và hạn chế 2.2.3. Nghiên cứu lý luận văn học - Thành tựu và hạn chế Chương 3 - NHỮNG ĐỔI MỚI VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu 3.1.1. Phương pháp so sánh 3.1.2. Phương pháp trực giác 3.1.3. Phương pháp xã hội học 3.1.4. Phương pháp tiểu sử 3.1.5. Phương pháp xã hội học mác - xít 3.2. Ngọn nguồn của những đổi mới 3.2.1. Những yếu tố nội sinh 3.2.2. Những yếu tố ngoại nhập KẾT LUẬN TÀI LIỆU KHAM KHẢO DANH MỤC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

pdf160 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2577 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hẳng định lập trường tư tưởng, khẳng định niềm tin vào tương lai văn học Việt Nam: Dân tộc ta là một dân tộc có sức sinh tồn rất mạnh, trải mấy thế kỷ nội thuộc nước Tàu mà không hề bị đồng hóa lại nhờ cái văn hóa của người Tàu để tổ chức thành một xã hội có trật tự, gây dựng nên một nền văn học tuy không được phong phú, rực rỡ nhưng cũng có chỗ khả quan, có phần đặc sắc, thì chắc rằng sau này dân tộc ta cũng sẽ biết tìm lấy trong nền văn học của nước Pháp những điều sở trường để bổ sung những chỗ thiếu thốn của mình, thứ nhất là biết mượn các phương pháp khoa học của Tây phương mà nghiên cứu các vấn đề có liên lạc đến nền văn hóa của nước mình, đến cuộc sinh hoạt của dân mình, thâu thái lấy cái tinh hoa của nền văn minh nước Pháp mà làm cái tinh thần của dân tộc được mạnh lên để gây lấy một nền văn học vừa hợp với cái hoàn cảnh hiện thời, vừa giữ được cốt cách cổ truyền [46,tr.453]. Và Dương Quảng Hàm xác nhận đó là nhiệm vụ chung của các học giả, văn gia nước ta ngày nay để xây dựng thành công nền văn học Việt Nam hiện đại. Tóm lại, đọc các tác phẩm nghiên cứu giai đoạn này, ta thấy, dù các tác giả không trực tiếp bày tỏ quan điểm tư tưởng của mình như phương pháp nghiên cứu, nhưng ẩn đằng sau những con chữ, đối tượng được nghiên cứu chính là tâm sự yêu nước, là niềm tự hào về lịch sử 4000 năm văn hiến dân tộc của các học giả đang sống trong chế độ thực dân kìm kẹp đương thời. Điều này cho phép ta có thể khẳng định, chính ý thức dân tộc, lòng yêu nước là nguồn năng lượng tiềm tàng, là một trong những nguyên nhân thành công của các tác phẩm nghiên cứu văn học trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, một nguyên nhân khác cũng góp phần không nhỏ vào sự thành công của văn học Việt Nam nói chung và hoạt động nghiên cứu văn học nói riêng chính là việc tiếp thu có chọn lọc các yếu tố văn học nước ngoài. 3.2.2. Những yếu tố ngoại nhập Trước khi tiếp xúc với văn hoá Pháp, văn hoá Việt Nam chủ yếu chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc, văn hoá Ấn Độ, cùng các tôn giáo và hệ tư tưởng như Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo. Từ cuối thế kỷ XVI, khi các nhà buôn, các nhà truyền đạo Thiên Chúa phương Tây lui tới nước ta để buôn bán hàng hoá và truyền đạo, thì Việt Nam bắt đầu làm quen với văn hoá phương Tây. Tuy nhiên, phải đợi đến đầu thế kỷ XX, khi cơ sở kinh tế, cơ cấu xã hội Việt Nam thay đổi đã làm nảy sinh những khả năng và nhu cầu tinh thần mới thì văn hoá phương Tây mới thực sự có ảnh hưởng mạnh đến các lĩnh vực hoạt động của đời sống tinh thần Việt Nam. Ảnh hưởng của văn hoá phương Tây đối với văn học Việt Nam thể hiện sớm nhất và rõ nét nhất là vào lĩnh vực sáng tác văn học. Trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, có hai thành tựu văn học quan trọng thể hiện sự ảnh hưởng sâu sắc của văn học phương Tây, đó là văn xuôi lãng mạn và phong trào Thơ Mới. Với tuyên bố: “Đem phương pháp Thái Tây ứng dụng vào văn chương An Nam”, văn xuôi lãng mạn của nhóm Tự lực văn đoàn đã đưa vào văn học Việt Nam những tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa lãng mạn châu Âu như: thái độ phản phong, ý thức đề cao tự do cá nhân…. Phong trào Thơ Mới đã làm một cuộc cách mạng thoát ly khỏi những luật lệ khắt khe, tồn tại hàng ngàn năm của luật thơ Đường, thể hiện trong khuynh hướng tư tưởng chủ đạo lấy chủ nghĩa cá nhân tư sản, đối lập với lễ giáo phong kiến, làm cơ sở tư tưởng. Các nhà thơ đại diện cho phong trào Thơ Mới như Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử… ít nhiều đều chịu ảnh hưởng của các nhà thơ phương Tây. Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam đã nhận xét: “Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên đều chịu rất nặng ảnh hưởng của Baudelaire và, qua Baudelaire, (chịu) ảnh hưởng của nhà văn Mỹ Edgar Poe, tác giả tập Chuyện lạ. Có khác chăng là Chế Lan Viên đã đi từ Baudelaire, Edgar Poe đến thơ Đường, mà Hàn Mặc Tử đã đi ngược lại từ thơ Đường đến Baudelaire, Edgar Poe và đi thêm một đoạn nữa cho gặp Thánh Kinh của đạo Thiên Chúa” [167,tr.32-33 ]. Như vậy, có thể thấy rằng thơ ca phương Tây, đặc biệt là thơ ca Pháp hiện đại đã ảnh hưởng rất lớn đến phong trào Thơ Mới nói riêng và sự phát triển của thơ ca Việt Nam nói chung trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Đối với lĩnh vực nghiên cứu văn học, trước khi tiếp xúc với văn hoá phương Tây, nhiều bộ Tuyển tập văn học cũng đã được biên soạn công phu như: Việt âm thi tập của Phan Phu Tiên (thế kỷ XV), Tinh tuyển thi tập của Dương Đức Nhan (thế kỷ XV), Trích diễm thi tập của Hoàng Đức Lương (thế kỷ XV), Toàn Việt thi lục của Lê Quí Đôn (1723 - 1783), Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Ích (1744 - 1818). Qua khảo sát cách tuyển chọn thơ văn, cách phân loại, sắp xếp các tác phẩm cùng nội dung các lời Tự, bài Bạt… trong các tuyển tập, chúng ta có thể nhận thấy phần nào quan niệm văn học của các nhà làm tuyển tập. Đó là, cái hay, cái đẹp của văn chương được cảm nhận bằng năng khiếu bẩm sinh, bằng thị hiếu cá nhân, nói chung là lối cảm nhận bằng trực giác cảm tính hơn là dựa trên cơ sở phân tích, vừa chi tiết vừa toàn diện một tác phẩm, để đi đến những nhận định khái quát có tính lôgíc. Nói tóm lại, nghiên cứu văn học ở thời điểm này chủ yếu phát triển ở mức bình phẩm văn học chứ chưa đạt tới trình độ nghiên cứu văn học, chỉ mới làm các Tuyển tập văn học mà chưa có những thử nghiệm về biên soạn lịch sử văn học, nhằm khái quát quá trình phát triển của văn học Việt Nam. Từ sau khi tiếp xúc với văn hoá Pháp và văn hoá phương Tây, các tư tưởng học thuật tiên tiến của nước ngoài đã được các nhà nghiên cứu nước ta vận dụng để áp dụng vào việc nghiên cứu văn học trong nước và cả văn học nước ngoài. Ở giai đoạn từ 1900 đến 1930, các nhà biên khảo, trước thuật thuộc thế hệ đầu tiên, có vốn Hán học, lại hấp thụ được văn hóa Pháp từ Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Hữu Tiến, Lê Thước, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Nguyễn Văn Tố, … đã là lực lượng tiên phong tạo ra xu hướng học thuật mới cho việc nghiên cứu văn học Việt Nam. Tất cả các học giả nói trên đã đem vào nền trước thuật nước nhà cái phương pháp phương Tây vốn dĩ xa lạ với tư duy Đông phương. Đặc biệt, Phạm Quỳnh chính là người đầu tiên khởi xướng áp dụng phương pháp mới của phương Tây vào nghiên cứu tác phẩm Truyện Kiều và đã đạt được những thành tựu nhất định; trong đó nổi bật nhất chính là việc ông phát hiện ra yếu tố tả thực trong văn chương Truyện Kiều. Sang giai đoạn từ năm 1930 đến 1945, đặc biệt là từ 1941 đến 1945, hàng loạt các phương pháp nghiên cứu của phương Tây, chủ yếu là các trường phái phê bình văn học Pháp đã được vận dụng vào việc nghiên cứu văn học Việt Nam như: trường phái phê bình của Sainte Beuve, trường phái thực chứng, trường phái ấn tượng, … Các nhà nghiên cứu văn học trong giai đoạn trước năm 1945 đã đọc và nghiên cứu nhiều sách văn chương Pháp, vì vậy trong hoạt động nghiên cứu cũng đưa ra nhiều quan niệm nghiên cứu khác nhau. Quan niệm chống khuynh hướng từ chương, đề cao học vấn thực dụng, phân biệt đối xử với các thể loại khác nhau của Nguyễn Bá Học. Quan điểm nghệ thuật phải phục vụ cho luân lý; nhà làm văn có trách nhiệm duy trì cho xã hội, dìu dắt cho quốc dân của Phạm Quỳnh. Ông viết: “Nghệ thuật phải phục vụ cho luân lý, làm văn mà không chú trọng đến luân lý, hay phi luân lý thì chẳng những không có nghĩa lý gì mà còn làm cho dân tộc ta tiêu trầm”. Kế đến là quan niệm văn chương phải lấy cái đẹp làm mục đích chính của Thiếu Sơn và Hoài Thanh. Thiếu Sơn biện minh cho quan điểm nghệ thuật thuần túy, vô tư, không vụ lợi, không đảng phái. Từ đó, ông đề cao loại văn chương sáng tạo hơn là văn chương khảo cứu. Còn Hoài Thanh thì quan niệm “văn chương là văn chương”, “Tìm cái đẹp trong tự nhiên là nghệ thuật, tìm cái đẹp trong nghệ thuật là phê bình”. Quan niệm nghiên cứu xem nghệ thuật là biểu hiện của nhân sinh, “nghệ thuật là một cái sản vật của sự sinh hoạt xã hội”, “nghệ thuật là một phương pháp để mà xã hội hoá tình cảm”… của Hải Triều. Trên cơ sở những quan điểm nghệ thuật khác nhau, cùng với ảnh hưởng của các khuynh hướng nghiên cứu, phê bình văn học Pháp và Nga, hoạt động nghiên cứu ở nước ta giai đoạn này đã xuất hiện nhiều khuynh hướng nghiên cứu khác nhau như các khuynh hướng cổ điển, lãng mạn, thực chứng, trực cảm, mác - xít, hoặc hỗn hợp nhiều khuynh hướng. Chẳng hạn, phương pháp so sánh và lịch sử mà Gustave Lanson áp dụng vào công việc nghiên cứu các tác phẩm văn học, đã có một ảnh hưởng nổi bật ở nước ta. Vũ Ngọc Phan, Dương Quảng Hàm, Trương Tửu, Lê Thanh, Kiều Thanh Quế… là những nhà nghiên cứu đã áp dụng tương đối thành công phương pháp nghiên cứu của Lanson vào việc nghiên cứu văn học Việt Nam. Chẳng hạn, Dương Quảng Hàm với Quốc văn trích diễm (1933), Việt Nam văn học sử yếu (1943)… đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc soạn sách văn học sử ở nước ta trong tiến trình hiện đại hoá hoạt động nghiên cứu văn học. Dựa trên quan niệm: “Nghiên cứu văn học hiện nay đòi hỏi sự uyên bác một số lượng nào đó kiến thức chính xác, tích cực đều cần thiết để làm cơ sở và dẫn dắt những nhận định. Không có gì chính đáng hơn là ứng dụng những phương pháp khoa học để đạt được sự liên quan các ý kiến…” [125,tr.215], trong Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm đã giới thiệu một nhà văn bằng cách đặt họ vào một thời kỳ lịch sử, một giai đoạn văn học của dân tộc, xác định nhà văn đó trong một trào lưu với những đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật. Ông tìm hiểu đời sống, sự nghiệp của mỗi nhà văn trên cơ sở những tài liệu chính xác, chắc chắn có thực. Trong quá trình khảo cứu, nếu phát hiện những tài liệu mới có điều gì cần đính chính, thì với tinh thần khoa học, ông đã cải chính kịp thời. Tinh thần khoa học này cũng đã được áp dụng trong Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan…. Còn Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam (1942) thì chịu ảnh hưởng của phương pháp trực giác. Ở đây, Hoài Thanh không quan tâm việc giới thiệu thân thế và sự nghiệp nhà văn mà chỉ ghi lại những cảm xúc, những ấn tượng chủ quan của tác giả khi đọc tác phẩm. Lối nghiên cứu này in đậm dấu ấn chủ thể của người viết: “Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lưu, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận” [167,tr.29]. Bên cạnh việc tiếp nhận ảnh hưởng của nghiên cứu văn học Pháp, hoạt động nghiên cứu văn học nước ta giai đoạn này còn chịu nhiều luồng ảnh hưởng từ các lý thuyết, phương pháp của văn học Nga - XôViết, Trung Quốc và nhiều nước khác, đặc biệt là lý luận mỹ học, phê bình văn học của M.Gorki, lý thuyết xã hội học - lịch sử của G.V. Plekhanov, phương pháp phê bình văn học của V. Biêlinsky,... Trên cơ sở tiếp thu những lý thuyết, phương pháp đó, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã vận dụng vào việc nghiên cứu văn học dân tộc. Ví dụ: Đặng Thai Mai trong Văn học khái luận vừa sử dụng phương pháp của Lanson, vừa sử dụng phương pháp nghiên cứu mác-xít; hay như Nguyễn Bách Khoa trong Nguyễn Du và Truyện Kiều đã sử dụng hỗn hợp nhiều phương pháp như: phương pháp xã hội học, phương pháp phân tâm học, phương pháp mác-xít… Trong quá trình học tập các phương pháp nghiên cứu của nước ngoài, các học giả nước ta đã tiếp nhận một cách có chọn lọc để ứng dụng phù hợp với thực tế nghiên cứu văn học Việt Nam. Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại thừa nhận dựa theo lý thuyết của Brunetière về luật tiến hóa nhưng không máy móc, không theo “cái chủ nghĩa độc đoán và thiên vị”. Ngược lại, ông chủ trương “phải tùy hoàn cảnh văn học, tùy trình độ tri thức của dân tộc mới được”. Quá trình tiếp nhận các ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, văn hóa Pháp vào Việt Nam được Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu phân tích không phải như một sự sao chép máy móc, mà có chuyển hóa, có quá trình thích nghi và biến đổi theo tâm hồn Việt và ngôn ngữ Việt. Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam, xác nhận sự ảnh hưởng lớn lao của thơ Pháp đối với các nhà Thơ Mới, tuy nhiên ông cũng khẳng định “Hồn thơ Pháp hễ chuyển được vào thơ Việt là đã Việt hóa hoàn toàn (…). Thi văn Pháp không làm mất bản sắc Việt Nam. Những sự mô phỏng ngu muội lập tức bị đào thải” [167,tr.34]. Đó chính là biểu hiện mạnh mẽ của tinh thần tự chủ, tự tôn của các nhà hoạt động văn học ở nước ta trong việc tiếp nhận một cách có chọn lọc các yếu tố nước ngoài trong việc sáng tạo các giá trị văn học, mà chúng ta có thể tự hào. Có thể nói, ảnh hưởng của văn hoá phương Tây đến hoạt động nghiên cứu văn học ở Việt Nam thể hiện rõ nhất ở sự tiến bộ về tinh thần khoa học và phương pháp khoa học. Tinh thần ấy là việc coi trọng cơ sở tư liệu, lấy tác giả làm đơn vị nghiên cứu, chú trọng việc phân tích tác phẩm về cả nội dung lẫn hình thức, đề cao lý trí, coi trọng sự suy luận có tính lôgíc, chuộng sự sáng sủa minh bạch, thái độ khen chê có mức độ, nhưng cũng không coi nhẹ khả năng cảm thụ, sự đồng cảm nghệ thuật của người đọc. Chẳng hạn, việc nghiên cứu Truyện Kiều là một dẫn chứng tiêu biểu cho việc áp dụng phương pháp phương Tây vào việc nghiên cứu văn học ở giai đoạn này. Trước thế kỷ XX, việc nghiên cứu Truyện Kiều chỉ biểu hiện dưới dạng các bài thơ đề từ, đề vịnh, hoặc những bài tựa …, tuy vẫn có nhiều ý khám phá sâu sắc, nhưng nói chung chỉ là những nhận định mang tính tổng hợp nặng về ấn tượng, cảm tính. Từ sau thế kỷ XX, nhất là từ 1930 trở đi, các nhà nghiên cứu đã đi vào từng phương diện cụ thể của Truyện Kiều như: Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều dựa trên cuốn tiểu thuyết nào của Trung Quốc, động cơ sáng tác của Nguyễn Du phải chăng chỉ là để gửi gắm tâm sự một cựu thần triều Lê phải ra làm quan cho triều Nguyễn. Các nhà nghiên cứu tập trung tìm hiểu thời đại, con người, quê quán, huyết thống… để giải thích các mối liên hệ giữa tác giả - tác phẩm, để khám phá ý nghĩa tác phẩm. Những giá trị đạt được từ các công trình nghiên cứu của Phạm Quỳnh, Nguyễn Tường Tam, Vũ Đình Long, Đào Duy Anh, Nguyễn Bách Khoa… góp phần rất quan trọng trong sự phát triển của hoạt động nghiên cứu văn học giai đoạn này. * * * Tóm lại, việc tiếp thu, vận dụng các phương pháp nghiên cứu tiên tiến của phương Tây đã có những đóng góp to lớn trong hoạt động nghiên cứu văn học giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX khi tạo được một bước chuyển rõ rệt trong quá trình hiện đại hóa. Chính sự áp dụng một cách linh hoạt nhiều phương pháp nghiên cứu trên nền tảng của những lý thuyết khoa học như phương pháp so sánh, phương pháp trực giác, phương pháp xã hội học, phương pháp tiểu sử, phương pháp xã hội học mác-xít… đã khiến cho hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn này mang một diện mạo hoàn toàn khác, thậm chí là khá lạ lẫm so với lối nghiên cứu văn chương thời trung đại. Nếu ở thời trung đại, các nhà nghiên cứu chủ yếu dựa vào cái “đạo”, cái “chí” để thẩm định tác phẩm nghệ thuật trong thời đại văn - sử - triết bất phân; dựa vào cảm tính chủ quan để phẩm bình, thù tạc; thì đến giai đoạn này với cái nhìn đối sánh các đối tượng nghiên cứu của phương pháp so sánh (Phạm Quỳnh, Đào Duy Anh, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Dương Quảng Hàm…), cái nhìn nhận trực quan chính xác khoa học của phương pháp trực giác (Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam) và cách đặt tác phẩm, tác giả trong bối cảnh xã hội (Đào Duy Anh, Nguyễn Bách Khoa…) cùng những tác động mạnh mẽ của nó đã khiến hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn này được người đọc tin tưởng hơn về giá trị của từng tác phẩm và vị trí của từng tác gia văn học. Nếu thời trung đại, dựa vào cái “chí” của kẻ sĩ, cái “ta” của cộng đồng, hoàn toàn xa lạ với cái “tôi” xuất thân mỗi con người để đánh giá, phẩm bình; thì ở giai đoạn này, sự ra đời của phương pháp tiểu sử (Trần Thanh Mại trong Trông giòng sông Vị, Hàn Mặc Tử) đã cho ta thấy giá trị chiều sâu và tinh thần khoa học của cách đánh giá. Cùng với đó, sự xuất hiện của phương pháp xã hội học mác-xít (Hải Triều, Đặng Thai Mai…) lại thổi thêm một luồng sinh khí mới vào hoạt động nghiên cứu văn học giai đoạn này. Đây là phương pháp xã hội học đặt trên một nền tảng triết học duy vật biện chứng hiện đại theo tinh thần mới, vì thế, dù còn nhiều khiếm khuyết (như đã trình bày), phương pháp này cũng đã cho thấy được những điều mới mẻ trong hoạt động nghiên cứu văn học. Về nguyên nhân kết quả đạt được của quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, ta thấy rõ sự tác động rất lớn và thậm chí là rất quan trọng của các yếu tố ngoại nhập. Tuy nhiên, phải khẳng định lại một lần nữa, trong quá trình giao lưu và hội nhập, chính ý thức dân tộc đã đóng vai trò sàng lọc, chọn lựa để đảm bảo cho việc tiếp nhận một cách chủ động các phương pháp tiến bộ của văn học Pháp và văn học phương Tây ứng dụng vào việc nghiên cứu văn học Việt Nam. Chính sự tiếp thu có chọn lọc cái bên ngoài trên nền tảng ý thức dân tộc, các tác giả đã cho ra đời những công trình mà cho đến hôm nay, qua bao biến đổi của thời gian, vẫn còn giá trị. Bởi vì, suy cho cùng, một dân tộc không có nền tảng văn hóa, không có nội lực văn hiến, không có truyền thống ‘trọng văn’ lâu đời, thì dù có ngoại nhập bao nhiêu vẫn không thể đủ sức chuyển hóa yếu tố bên ngoài thành sức mạnh nội sinh để thực hiện thành công quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc mình. Sự tiếp thu văn hóa, văn học là một tất yếu khách quan của loài người nói chung, tuy nhiên, thành hay bại chính là sự tiếp biến các giá trị văn hóa, văn học ấy. Chính sức mạnh của nội lực đã khiến các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam bình tĩnh tiếp thu, dần dần tiếp biến và chuyển hóa để quá trình hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đạt được những thành tựu mà đến nay không ai có thể phủ nhận, cho dù xã hội hiện nay có hiện đại và hội nhập đến mức nào. KẾT LUẬN 1. Quá trình hình thành và phát triển của hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX gắn bó mật thiết với bối cảnh văn hóa - xã hội và sự chuyển mình của đời sống văn học trong hoàn cảnh lịch sử có nhiều thay đổi. Việc thiết lập bộ máy cai trị của thực dân Pháp ở nước ta khách quan đã gây nhiều biến đổi lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội. Sự xuất hiện chữ quốc ngữ, báo chí, in ấn, dịch thuật, sự ra đời của đội ngũ trí thức mới có trình độ cao đã tạo điều kiện cho hoạt động nghiên cứu văn học với tư cách là một ngành chuyên biệt phát triển góp phần mở ra một giai đoạn mới cho văn học nước nhà. 2. Hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX vận động theo quỹ đạo hiện đại hóa của nền văn học dân tộc và phân ra làm hai giai đoạn: giai đoạn 30 năm đầu thế kỷ (từ 1900 đến 1930) và 15 năm sau đó (từ 1930 đến 1945), nhưng vẫn là một hành trình tiếp nối liên tục. Những công trình nghiên cứu trong giai đoạn đầu không chỉ thể hiện sự nỗ lực của những nhà nghiên cứu mở đường trong việc tiên phong áp dụng các phương pháp mới của phương Tây vào việc nghiên cứu văn học Việt Nam mà còn góp phần quan trọng trong việc giới thiệu những tinh hoa văn hóa, văn học của dân tộc đến với độc giả đương thời bằng sự soi rọi của các phương pháp nghiên cứu khoa học và hiện đại. Từ sau 1930, hoạt động nghiên cứu văn học đã phát triển nhanh chóng về chất lượng cũng như số lượng: nghiên cứu văn học sử bao gồm cả nghiên cứu khái quát chung toàn bộ lịch sử văn học dân tộc và nghiên cứu từng thời kỳ, từng lĩnh vực; nghiên cứu lý luận văn học; nghiên cứu văn học nước ngoài với các tác giả tên tuổi như: Đào Duy Anh, Trần Thanh Mại, Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa, Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, Ngô Tất Tố, Nguyễn Đổng Chi, Vũ Ngọc Phan, Dương Quảng Hàm…; trong đó, nghiên cứu văn học sử Việt Nam là một bè chính trong dàn hợp xướng đa dạng, đa thanh của hoạt động nghiên cứu văn học, nhằm đẩy mạnh tiến trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu cũng như khẳng định vị trí của mình trong sự phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại. 3. Trong quá trình hiện đại hóa để hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam tiếp cận với văn học thế giới, sự nỗ lực của các nhà nghiên cứu là chính, nhưng việc tiếp thu các phương pháp nghiên cứu tiên tiến của nước ngoài áp dụng vào nghiên cứu văn học trong nước cũng rất quan trọng. Hàng loạt các phương pháp dù lần đầu tiên được áp dụng nhưng đã gặt hái được những thành công không thể phủ nhận như: Phương pháp so sánh, phương pháp tiểu sử, phương pháp xã hội học, phương pháp trực giác, phương pháp xã hội học mác-xít… đã minh chứng điều đó. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng, nhân tố làm nên sự thành công của hoạt động nghiên cứu văn học trong giai đoạn này không đơn thuần chỉ là phương pháp nghiên cứu mà còn là sự chọn lựa, tích hợp, sáng tạo trên cơ sở của thực tiễn văn học Việt Nam. Chính sự trân trọng và khẳng định truyền thống dân tộc trong văn học đã giúp các nhà nghiên cứu luôn biết “hòa nhập” nhưng không “hòa tan” trong bước đường hiện đại hóa, để giữ lại và chọn lấy những tinh hoa cần thiết. Đó cũng chính là một trong những nguyên nhân góp phần vào sự thành công của hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. 4. Nghiên cứu quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học là góp phần khẳng định vị trí và đóng góp của ngành khoa học chuyên biệt này trong quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Có thể nói, dù xuất hiện muộn màng và có phần trầm lặng so với sáng tác, nhưng những tác phẩm mở đầu của quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học giai đoạn này như: Trông giòng sông Vị, Hàn Mặc Tử, Thi nhân Việt Nam, Nhà văn hiện đại, Việt Nam cổ văn học sử, Việt Nam văn học sử yếu, Văn học khái luận… là những tác phẩm có giá trị lịch sử và cả giá trị thời đại trong tiến trình phát triển của hoạt động nghiên cứu văn học dân tộc, khi hoạt động này cùng với hoạt động sáng tác đồng hành chung với đời sống dân tộc. Những tên tuổi Dương Quảng Hàm, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Trần Thanh Mại, Nguyễn Đổng Chi, Đặng Thai Mai… là những tên tuổi được tôn vinh, được nhiều thế hệ ghi công và khó có thể bị lãng quên trong lịch sử văn học dân tộc. Trong những tác giả trên, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Dương Quảng Hàm, Đặng Thai Mai, Nguyễn Đổng Chi đã được nhiều thế hệ độc giả ghi nhận xứng đáng. Riêng trường hợp Trần Thanh Mại, cho đến hiện nay, tuổi tên vẫn còn khuất lấp, chưa được giới nghiên cứu đánh giá một cách đầy đủ, xứng đáng với vị trí và những đóng góp ban đầu quan trọng của ông trong tiến trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học nói riêng và lịch sử văn học nói chung. Vì vậy, đề tài nghiên cứu của chúng tôi, bên cạnh việc khẳng định vị trí của Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Dương Quảng Hàm…; xin được góp một tiếng nói khẳng định nghiêm túc về giá trị các công trình nghiên cứu của Trần Thanh Mại, đặc biệt là trong nửa đầu thế kỷ XX nhằm tạo lập một cái nhìn toàn diện hơn về công lao góp phần mở đường của Trần Thanh Mại trong tiến trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Trường hợp Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa với hàng loạt các tác phẩm Kinh Thi Việt Nam (1940), Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Văn chương Truyện Kiều (1945), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945) là một trong những người đi tiên phong tìm phương pháp nghiên cứu mới cho hoạt động nghiên cứu văn học dân tộc trong tiến trình hiện đại hóa văn học giai đoạn này. Nhưng do nhà nghiên cứu chủ quan và áp đặt trong những nhận định đưa ra đã vô tình phủ nhận những giá trị không nhỏ trong những công trình của mình. Thiết nghĩ, cần có các công trình nghiên cứu riêng biệt về hoạt động nghiên cứu văn học của Trương Tửu để có cái nhìn toàn diện hơn về những ưu điểm và hạn chế trong sự nghiệp văn học của ông. 5. Việc trình bày một cách đầy đủ, toàn diện và cụ thể từng giai đoạn của quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX với những thành tựu và hạn chế của nó, đề tài góp phần quan trọng làm cho gương mặt lịch sử văn học dân tộc ở thời kỳ này hiện lên một cách rõ nét hơn. Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể là nguồn tư liệu tham khảo cho việc giảng dạy và nghiên cứu về lĩnh vực nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, đây chỉ là công trình của một cá nhân về một lĩnh vực nghiên cứu quá lớn nên ở đây, chúng tôi chưa có đủ điều kiện để triển khai mối quan hệ giữa quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XX với các giai đoạn từ 1945 đến 1975, cũng như từ 1975 đến nay, để làm nổi rõ tính chất tiếp biến không ngừng giữa các giai đoạn. Tất cả những điều đó, thiết nghĩ hoàn toàn có thể mở hướng cho những đề tài nghiên cứu tiếp theo để thấy rõ hơn quá trình vận động của toàn bộ hoạt động nghiên cứu văn học trong nền văn học sử nước nhà. Tuy vậy qua nghiên cứu, có thể khái quát rằng: Nếu hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam thời trung đại chưa mang tính phương pháp thì đến ba thập niên đầu thế kỷ XX đã thấy hé lộ phương pháp trực giác mang đậm dấu ấn của tri thức lý luận phương Tây, đặc biệt, sự xuất hiện hoàng loạt các phương pháp nghiên cứu mới giai đoạn 1930-1945 đã đẩy tiến trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam tiệm cận với nghiên cứu văn học thế giới. Từ sau 1945 đến 1985, do phải căng mình trong hai cuộc kháng chiến và giai đoạn khó khăn của những thập niên hòa bình đầu tiên nên nghiên cứu văn học Việt Nam chủ yếu là lối phê bình xã hội học theo quan điểm mác-xít. Từ 1986 đến nay, trong không khí đổi mới và hội nhập, hoạt động nghiên cứu văn học nước nhà đang tiếp tục đổi mới và từng bước hội nhập cùng các trào lưu nghiên cứu văn học thế giới./. TÀI LIỆU KHAM KHẢO Tiếng Việt 1. Diệu Anh (1942), “Nói chuyện thơ nhân quyển Thi nhân Việt Nam”, Thanh Nghị, (19). 2. Đào Duy Anh (1938), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Bốn phương (tái bản năm 1951), Sài Gòn. 3. Đào Duy Anh (1943), Khảo luận về Kim Vân Kiều, Quan hải tùng thư, Huế. 4. Nguyễn Chung Anh (1984), “Nguyễn Đổng Chi - Nhà văn, nhà khoa học”, Tạp chí Văn học (4), tr 110 - 125. 5. Hoài Anh (2002), “Hải Triều - Kiện tướng trên mặt trận tư tưởng văn hóa vô sản”, Tạp chí Văn, (3). 6. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 7. Lại Nguyên Ân (1998), Đọc lại người trước, đọc lại người xưa, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 8. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 9. Lại Nguyên Ân (sưu tầm và biên soạn) (2002), Lê Thanh - Nghiên cứu và phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn - Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội. 10. Lê Văn Ba (2000) Giáo sư Dương Quảng Hàm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 11. Hoa Bằng (1941), “Những khuynh hướng trong văn học Việt Nam cận đại”, Tri Tân, (21). 12. Nguyễn Thanh Bình (2007), “Một vài đóng góp của Các Mác đối với sự ra đời và phát triển của xã hội”, 13. Phan Kế Bính (1918), Việt Hán văn khảo - Nxb Mạc Lâm (tái bản năm 1972). 14. Huy Cận, Hà Minh Đức (chủ biên) (1993), Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 15. Nguyễn Đổng Chi (1942), Việt Nam cổ văn học sử, Nhà xuất bản Trẻ (tái bản năm 1993), Thành phố Hồ Chí Minh. 16. Phan Bội Châu toàn tập (tập 4) (1990), Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế. 17. Huệ Chi - Phong Lê (1960), “Vài vấn đề văn học sử giai đoạn 1930 - 1945 nhân đọc Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam của nhóm Lê Quý Đôn”, Nghiên cứu văn học, (5), tr.107. 18. Nguyễn Huệ Chi - Hồng Tân (1963), “Mấy ý kiến nhân đọc Lịch sử văn học Việt Nam”, Nghiên cứu văn học, (7), tr.81. 19. Nguyễn Huệ Chi (1985), “Vấn đề phân kỳ văn học sử Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (3), tr.59. 20. Nguyễn Huệ Chi (1990), “Đổi mới nhận thức lịch sử trong nghiên cứu khoa học xã hội nói chung, nghiên cứu văn học nói riêng”, Tạp chí Văn học, (6), tr.1. 21. Trương Chính (1960), “Nhân đọc cuốn Trên đường học tập và nghiên cứu của Đặng Thai Mai”, Nghiên cứu khoa học, (6), tr.25. 22. Trương Chính (1970), “Con đường vào văn học của Đặng Thai Mai”, Văn nghệ, (359). 23. Trương Chính (1982), “Chúng ta học tập những gì ở cụ Đặng Thai Mai”, Tạp chí Văn học, (5), tr.51. 24. Trương Chính (1984), “Đặng Thai Mai, một đời chiến sĩ, một đời văn”, Văn nghệ, (40). 25. Trương Chính (1987), “Hồi kí Đặng Thai Mai”, Tạp chí Văn học, (6), tr.98. 26. Hồng Chương (1982), “Tổng tập văn học Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (6), tr.116. 27. Hồng Chương (sưu tầm giới thiệu) (1987), Hải Triều tác phẩm, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh. 28. Nguyễn Văn Dân (1997), “Dấu ấn phương Tây trong văn học Việt Nam hiện đại”, Tạp chí Văn học, (2), tr.77. 29. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 30. Hồng Diệu (1999), “Thời Nhân và Hoài Thanh”, Tạp chí Văn học, (7), tr.76. 31. Đỗ Đức Dục (1981), “Tính khoa học trong nghiên cứu văn học”, Tạp chí Văn học, (3), tr. 22. 32. Tôn Thất Dụng (2003), “Nhà nghiên cứu phê bình văn học Trần Thanh Mại”, Nhớ Huế, (16), Nxb Trẻ, tr. 145 -152. 33. Tôn Thất Dụng (2003), “Trần Thanh Mại trên hành trình nhận thức và sáng tạo văn học”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học văn học Thừa Thiên Huế, (lần 2), tr.25. 34. Tuyển tập Tản Đà (1986), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. 35. Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức (1979), Nhà văn Việt Nam (tập 1), Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 36. Phan Cự Đệ (1982), Phong trào “Thơ Mới” 1932 - 1945, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 37. Phan Cự Đệ (1996), “Ảnh hưởng của văn học Pháp và văn học Anh vào văn học Việt Nam từ năm 1930”, Tạp chí Văn học, (10), tr.14. 38. Phan Cự Đệ (1999), Văn học Việt Nam (1900 - 1945), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 39. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX - Những vấn đề lịch sử và lý luận, NXb Giáo dục, Hà Nội. 40. Trịnh Bá Đĩnh và Nguyễn Hữu Sơn (sưu tầm và biên soạn) (1999), Tạp chí Tri Tân 1941 - 1945 - Phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 41. Hà Minh Đức (2004), Tuyển tập Hà Minh Đức (tập 3), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 42. Vu Gia (2005), Hải Triều - Nghệ thuật vị nhân sinh, Nxb Thanh niên, thành phố Hồ Chí Minh. 43. Văn Giá (tuyển chọn và biên soạn) (1997), Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Hải Triều, Đặng Thai Mai, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 44. Bằng Giang (1974), Mảnh vụn văn học sử, Nxb Chân Lưu, Sài Gòn. 45. Mạc Hà (1964), “Mấy ý kiến về cuốn Văn học Việt Nam 1930 - 1945”, Tạp chí Văn học, (6), tr.20. 46. Dương Quảng Hàm (1943), Việt Nam Văn học sử yếu, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh (tái bản 1993), thành phố Hồ Chí Minh. 47. Lê Bá Hán (1965), “Đọc Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945”, Tạp chí Văn học, (1), tr.18. 48. Lê Bá Hán (1972), “Hoài Thanh với phê bình”, Tạp chí Văn học, (3), tr.137. 49. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1997), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 50. Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận văn học - Vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 51. Nguyễn Văn Hạnh (1999), “Thi nhân Việt Nam và phương pháp tiếp cận văn chương”, Tạp chí Văn học, (7), tr.39. 52. Nguyễn Đình Hảo (2001), Tạp chí Nam Phong trong tiến trình phát triển nền quốc văn mới đầu thế kỷ XX (1900 - 1939) (luận án tiến sĩ), Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh. 53. Đinh Thị Minh Hằng (2009), “Lý luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX - Tiếp thu, cách tân và sáng tạo”, 54. Hoàng Ngọc Hiến (1979), “Nghiên cứu tìm tòi và sáng tạo”, Tạp chí Văn học, (1), tr.52. 55. Hoàng Ngọc Hiến (1996), “Tản mạn về nghiên cứu văn học”, Tạp chí Văn học, (9), tr.58. 56. Đỗ Đức Hiểu (1985), “Suy nghĩ về phong cách lớn và phân kỳ lịch sử văn học Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (3), tr.52 57. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, Nxb Khoa học xã hội và Nxb Mũi Cà Mau. 58. Đỗ Đức Hiểu (1993), “Cảm nhận để nhớ Đặng Thai Mai”, Tạp chí Văn học, (1), tr.73. 59. Phạm Thị Hoàn (1992), Phạm Quỳnh 1892 - 1992, Tuyển tập và di cảo, Nxb An Tiêm, Pari. 60. Nguyễn Văn Hoàn (1998), “Khoa nghiên cứu văn học Việt Nam từ sau khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây”, Tạp chí Văn học, (11), tr.19. 61. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1988), Văn học Việt Nam, giai đoạn giao thời 1900 - 1930, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 62. Nguyễn Phi Hoanh (xuất bản trước năm 1945), Tolstoi, Bản Microfilm, Thư viện Quốc gia, Hà Nội. 63. Ngô Đức Kế (1924), “Luận về chánh học cùng tà thuyết, Quốc văn, Kim Vân Kiều, Nguyễn Du”, Hữu Thanh tạp chí, (21). 64. Huỳnh Thúc Kháng (1930), “Chánh học cùng tà thuyết có phải vấn đề quan hệ chung không?”, Tiếng Dân, ngày 17 tháng 9. 65. Vũ Ngọc Khánh (1992), “Học tập nhà văn Vũ Ngọc Phan”, Tạp chí Văn học, (6), tr.35. 66. Nguyễn Bách Khoa (1942), Nguyễn Du và Truyện Kiều, Nxb Thế giới (tái bản năm 1951), Hà Nội. 67. Nguyễn Bách Khoa (1945), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ, Nxb Thế giới (tái bản 1951), Hà Nội. 68. Nguyễn Bách Khoa (1945), Văn chương truyện Kiều, Nxb Hàn Thuyên, Hà Nội. 69. Phan Khôi (1932), “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ”, Phụ nữ tân văn, (122). 70. Nguyễn Khuê (2000), “Nghĩ về nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình văn học Trần Thanh Mại (1911 - 1965)”, Nhớ Huế, (7), Nxb Trẻ, tr. 30 - 35. 71. Lê Tràng Kiều (1936), “Phê bình Kép Tư Bền”, Hà Nội báo, (2). 72. Lê Tràng Kiều (1936), “Cùng các ông Phan Văn Hùm, Hải Thanh, Sơn Trà, Hồ Xanh, Cao Văn Chánh, Khương Hữu Tài, Hải Triều…”, Hà Nội báo, (1). 73. Lê Đình Kỵ (1988), Thơ mới Xuân Diệu, Hoài Thanh, Chế Lan Viên, Nxb Cửu Long. 74. Lê Đình Kỵ (1984), “Từ trong di sản… nghĩ về tư tưởng sáng tác của cha ông”, Tạp chí Văn học, (1), tr.104. 75. Thạch Lam (1941), Theo dòng, Nxb Đời nay, Hà Nội. 76. Thanh Lãng (1967), Bảng lược đồ văn học Việt Nam 1862 - 1945 (quyển hạ), Phong trào văn hóa xuất bản, Sài Gòn. 77. Thanh Lãng (1973), Phê bình văn học Việt Nam thế hệ 1932 (tập 2), Phong trào văn hóa xuất bản, Sài Gòn. 78. Thanh Lãng (1995), 13 năm tranh luận văn học (1932 - 1945) (3 tập), Nxb Văn học và Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh. 79. Mã Giang Lân (chủ biên) (2000), Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1900 - 1945, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 80. Mã Giang Lân (chủ biên) (2000), Tổng tập văn học Việt Nam (tập 22), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 81. Phong Lê (1992), “Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (3), tr.2. 82. Phong Lê (chủ biên) (1993), Dương Quảng Hàm - Nhà giáo yêu nước Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 83. Phong Lê (1994), “Sự nghiệp Hải Triều - trong độ lùi hơn nửa thế kỷ”, Tạp chí Văn học, (10), tr.1. 84. Phong Lê (chủ biên) (1995), Nhà văn Vũ Ngọc Phan, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 85. Phong Lê (1998), Văn học trên hành trình của thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 86. Phong Lê (2001), Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 87. Phong Lê (2001), Văn học Việt Nam hiện đại, những chân dung tiêu biểu, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 88. Vũ Đình Long (1923 - 1924), “Nhân vật Truyện Kiều”, Nam Phong, (68, 69, 70, 71, 83, 85, 87). 89. Vũ Đình Long (1923), “Triết lý và luân lý Truyện Kiều”, Nam phong, (71). 90. Vũ Quốc Long (1992), “Đóng góp của Đặng Thai Mai vào lý luận nghệ thuật thời kì chống Pháp”, Tạp chí Văn học, (6), tr.38. 91. Nguyễn Lộc (1976), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 92. Nguyễn Lộc (1985), “Vấn đề phân kỳ trong lịch sử văn học dân tộc và quy luật vận động của văn học dân tộc”, Tạp chí Văn học, (3), tr.25. 93. Mai Quốc Liên, Nguyễn Văn Lưu (chủ biên) (2001), Văn học Việt Nam thế kỷ XX (tập 2), Nxb Văn học, Hà Nội. 94. Phan Trọng Luận (1971), “Hoài Thanh với chuyện sống và viết của một người phê bình”, Văn nghệ, (392). 95. Nguyễn Triệu Luật (1924), “Bàn góp về Truyện Kiều”, Nam phong, (81). 96. Lưu Trọng Lư (1934), “Phong trào thơ mới”, Tiểu thuyết thứ bảy, (27). 97. Phương Lựu (1985), Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 98. Phương Lựu (1999), Mười trường phái lý luận phê bình văn học phương Tây đương đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 99. Huỳnh Lý (1970), “Mấy ý kiến về văn học Việt Nam từ 1930 đến nay”, Tạp chí Văn học, (2), tr.126. 100. Huỳnh Lý, Hoàng Dung (1976), Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945 (tập5), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 101. Huỳnh Lý, Nguyễn Trác (1981), Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 (tập 1 và 2), Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 102. Trần Hạnh Mai (1998), “Hoài Thanh - Người đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật”, Tạp chí Văn học, (9), tr.74. 103. Trần Hạnh Mai (2003), Sự nghiệp phê bình văn học Hoài Thanh, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 104. Đặng Thai Mai (1944), Văn học khái luận, Nxb Hàn Thuyên, Hà Nội. 105. Toàn tập Đặng Thai Mai (tập 1) (1997), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. 106. Trần Thanh Mại (1935), Trông giòng sông Vị, Trần Thanh Địch xuất bản, Hà Nội. 107. Trần Thanh Mại (1941), Hàn Mặc Tử, Nxb Huế, Huế. 108. Trần Thanh Mại (1957), Đấu tranh chống hai quan niệm sai lầm về Tú Xương, Nxb Nghiên cứu cục Xuất bản - Bộ văn hóa, Hà Nội. 109. Trần Thanh Mại, Trần Tuấn Lộ (1961), Tú Xương con người và nhà thơ, Nxb Văn học, Hà Nội. 110. Thiếu Mai (1982) “Vài hồi ức về một người thầy”, Văn nghệ, (15). 111. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), “Vài suy nghĩ về Tuyển tập Hoài Thanh”, Văn nghệ, (11). 112. Nguyễn Đăng Mạnh (1987), “Nhìn lại 40 năm phát triển của phê bình văn học”, Tạp chí Văn học, (1). 113. Nguyễn Đăng Mạnh (1997), “Quá trình hiện đại hóa của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX”, Tạp chí Văn học, (5), tr.16. 114. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 115. Marx K., Engels F., Lénine V.I (1977), Về văn học nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội. 116. Phạm Thị Mến (2001), Những đóng góp về mặt lý luận phê bình của Hoài Thanh trước Cách mạng tháng Tám (luận văn thạc sĩ), Trường Đại học khoa học và Xã hội nhân văn, Hà Nội. 117. Cao Thị Xuân Mỹ (2001), Quá trình hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX (luận án tiến sĩ), Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh. 118. Hồ Chí Minh toàn tập (tập 1) (1995), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 119. Nguyễn Đăng Na (1996), “Về phương pháp viết văn học sử của giáo sư Nguyễn Đổng Chi”, Tạp chí Văn học, (3), tr.39. 120. Phan Ngọc (1992), “Ảnh hưởng văn học Pháp tới văn học Việt Nam giai đoạn 1932 - 1935”, Sông Hương, (2). 121. Hữu Ngọc (1999), “Phác thảo chân dung Dương Quảng Hàm - Nho sĩ hiện đại yêu nước”, Tạp chí Văn học, (5), tr.12 - 18. 122. Phạm Thế Ngũ (1965), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên 1862 - 1945 (tập 3), Nxb Quốc học tùng thư, Sài Gòn. 123. Vương Trí Nhàn (sưu tầm và biên soạn) (1996), Hàn Mặc Tử hôm qua và hôm nay, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 124. Vương Trí Nhàn (2005), Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 125. Hoàng Nhân (1998), Phác thảo quan hệ văn học Pháp với văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Mũi Cà Mau, Cà Mau. 126. Nhóm Lê Quý Đôn (1957), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Xây dựng. 127. Nhiều tác giả (1976), Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 128. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học bộ mới (2004), Nxb Thế giới, HN 129. Nhiều tác giả (1997), Nguyễn Đổng Chi người miệt mài tìm kiếm các giá trị văn hóa dân tộc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 130. Nhiều tác giả: Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức (2001), Văn học Việt Nam (1900 - 1945), Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. 131. Nhiều tác giả (1932), Những áng văn hay, Nxb Nam ký thư quán, Hà Nội. 132. Vũ Ngọc Phan (1942), Nhà văn hiện đại (2 tập), Nxb Khoa học xã hội (tái bản năm 1989), Hà Nội. 133. Vũ Ngọc Phan (1965), “Hồi ức về phê bình văn học trước Cách mạng tháng Tám”, Tạp chí Văn học, (9). 134. Vũ Ngọc Phan (1976), Qua những trang văn, Nxb Văn học, Hà Nội. 135. Vũ Ngọc Phan (1987), Những năm tháng ấy, Nxb Văn học, Hà Nội. 136. Vũ Ngọc Phan - Tác phẩm (2000), Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội. 137. Ngô Văn Phú (1992), “Thi nhân Việt Nam”, thầy học của tôi”, Văn nghệ, (15). 138. Khiết Phủ (1943), “Để bàn với ông Vũ Ngọc Phan về một phương pháp phê bình văn học”, Tri tân, (106). 139. Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn (1964), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945, Nxb Văn học, Hà Nội. 140. Vũ Đức Phúc (1964), “Đặc điểm của tình hình văn học Việt Nam trong giai đoạn 1930 - 1945”, Tạp chí Văn học, (1), tr.35. 141. Vũ Đức Phúc (1968), “Mấy vấn đề phương pháp nghiên cứu lịch sử văn học”, Tạp chí Văn học, (11), tr.29. 142. Vũ Đức Phúc (1970), “Nâng cao chất lượng của phương pháp nghiên cứu văn học”, Tạp chí Văn học, (1), tr.35. 143. Vũ Đức Phúc (1973), Bàn về phương pháp nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 144. Nguyễn Phúc (1992), “Những vấn đề về Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (3), tr.5. 145. G.N. Pospelov (chủ biên) (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học (tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 146. Kiều Thanh Quế (1943), Ba mươi năm văn học, Nxb Tân Việt, Hà Nội. 147. Kiều Thanh Quế (1943), Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam, Hoa Tiên tái bản năm 1969, Sài Gòn. 148. Phạm Quỳnh (1924), “Kỷ niệm cụ Tiên Điền”, Nam phong tạp chí, (86). 149. Vũ Tiến Quỳnh (tuyển chọn) (1999), Phê bình - bình luận văn học: Hoài Thanh, Trương Chính, Như Phong, Trần Thanh Mại, Nhị Ca, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh. 150. Lê Văn Siêu (1972), Văn học sử thời kháng Pháp 1858 - 1945, Nxb Trí Đăng, Sài Gòn. 151. Từ Sơn, Phan Hồng Giang (2000), Hoài Thanh với khát vọng chân - thiện - mỹ, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 152. Mộng Bình Sơn, Đào Đức Chương (1996), Nhà văn phê bình, khảo cứu văn học Việt Nam 1932 - 1945, Nxb Văn học, Hà Nội. 153. Thiếu Sơn (2003), Thiếu Sơn toàn tập (tập 1), Nxb Văn học, Hà Nội. 154. Mộng Sơn (1944), Văn học và triết luận, Nxb Đại học thư xã, Hà Nội. 155. Trần Đình Sử (2003), “Văn học khái luận của Đặng Thai Mai - Công trình lý luận văn học hiện đại đầu tiên”, Tạp chí Văn học, (2). 156. Trần Hữu Tá (2000), Nhìn lại một chặng đường văn học, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh. 157. Tạp chí Tao đàn 1939 (1998) (Nguyễn Ngọc Thiện - Lữ Huy Nguyên sưu tầm trọn bộ của Nxb Tân Dân), Nxb Văn học, Hà Nội. 158. Cao Hữu Tạo (1926), “Bàn về Truyện Kiều”, Nam phong, (18). 159. Nguyễn Hương Tâm (1994), “Văn học khái luận - Nhìn từ hôm nay”, Tạp chí Văn học, (5), tr.10. 160. Nguyễn Minh Tấn (chủ biên) (1981), Từ trong di sản, Nxb Tác phẩm mới Hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội. 161. Lâm Thành Tấn (2001), Đóng góp về phê bình văn học của Lê Thanh và Kiều Thanh Quế (luận văn thạc sĩ), Trường Đại học sư phạm Huế. 162. Hoài Thanh (1935), “Cần phải có một thứ văn chương mạnh mẽ hơn”, Tiểu thuyết thứ bảy, (39). 163. Hoài Thanh (1935), “Ngoại cảnh trong văn chương”, Tràng An, (82). 164. Hoài Thanh - Lê Tràng Kiều - Lưu Trọng Lư (1936), Văn chương và hành động, Nxb Hội nhà văn (tái bản năm 1999), Hà Nội. 165. Hoài Thanh (1939), “Thành thực và tự do trong văn chương”, Tao đàn, (6). 166. Hoài Thanh (1939), “Thế nào là nội dung và hình thức một tác phẩm văn chương”, Tao đàn, (6). 167. Hoài Thanh và Hoài Chân (1942), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học (tái bản năm 2000), Hà Nội. 168. Hoài Thanh (1943), “Một vài ý kiến về quyển “Nguyễn Du và Truyện Kiều” của ông Nguyễn Bách Khoa”, Vì Chúa nguyệt san, (238). 169. Hoài Thanh (1958),“Thực chất tư tưởng của Trương Tửu”,Văn nghệ,(11) 170. Hoài Thanh (2000), Hoài Thanh - Những tác phẩm tiêu biểu trước 1945, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 171. Lê Thi (chủ biên) (2000), Dương Quảng Hàm - Con người và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 172. Nguyễn Trọng Thuật (1928), “Nghiên cứu và phán đoán về Truyện Kiều”, Nam phong. 173. Nguyễn Ngọc Thiện (1993), “Vũ Ngọc Phan trong nghiên cứu văn học theo đặc trưng thể loại và phong cách”, Tạp chí Văn học, (1), tr.39. 174. Nguyễn Ngọc Thiện (1994), “Ý nghĩa cuộc tranh luận nghệ thuật 1935 - 1939. Những vấn đề của lý luận văn học hôm qua và hôm nay”, Tạp chí Văn học, (5). 175. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên) (1996), Nhìn lại cuộc tranh luận nghệ thuật 1935 - 1939, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 176. Nguyễn Ngọc Thiện (1996), “Động lực trong thời kỳ mới của lí luận, phê bình nghiên cứu văn học”, Tạp chí Văn học, (9), tr.19. 177. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên) (1997), Tuyển tập phê bình văn học Việt Nam (t1 - t5), Nxb Văn học, Hà Nội. 178. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên) (2004), Hải Triều nhà lý luận tiên phong, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 179. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên) (2005), Lý luận, phê bình văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX - 1945, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 180. Đỗ Lai Thúy (1994), “Hình dung người Đổi mới văn học”, Tạp chí Văn học, (6), tr.17. 181. Đỗ Lai Thúy (2003), “Trần Thanh Mại và phê bình tiểu sử học”, Tạp chí Sông Hương, (9), tr. 62 - 68. 182. Đỗ Lai Thúy (2009), “Hoài Thanh và phương pháp phê bình ấn tượng”, Tạp chí Sông Hương.www.sachhay.com, tr 1-8. 183. Đỗ Lai Thúy (2009), “Việt Nam tiếp thu văn hóa phương Tây dưới thời Pháp thuộc”, 184. Lộc Phương Thủy (1996), “Bản lĩnh ngòi bút của Hải Triều”, Tạp chí Văn học, (8), tr.20. 185. Trần Mạnh Tiến (2001), Lý luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 186. Huỳnh Văn Tòng (1973), Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh (tái bản năm 2000), thành phố Hồ Chí Minh. 187. Ngô Tất Tố (1941), Thi văn bình chú, Nxb Tân Dân, Hà Nội. 188. Ngô Tất Tố (1942), Việt Nam văn học, Nxb Mai Lĩnh, Hà Nội. 189. Nguyễn Văn Tố (1943), “Phê bình Bộ “Thi văn bình chú” của Ngô Tất Tố”, Tri tân, (89). 190. Nguyễn Văn Tố (1944), “Phê bình cuốn “Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ” của Nguyễn Bách Khoa”, Tri tân, (151). 191. Nguyễn Văn Tố (1944), “Phê bình “Việt Nam văn học sử yếu” của Dương Quảng Hàm”, Tri tân, (177). 192. Lê Ngọc Trà (2000), “Về khái niệm hiện đại hóa trong văn học”, Tạp chí Văn học, (6), tr 39 - 44. 193. Hải Triều toàn tập (tập 1) (1996), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. 194. Nguyễn Văn Trung (1963), Lược khảo văn học (tập 1), Nxb Nam Sơn, Sài Gòn. 195. Nguyễn Văn Trung (1967), Lược khảo văn học (tập 2), Bộ giáo dục xuất bản, Hà Nội. 196. Nguyễn Văn Trung (1968), Lược khảo văn học (tập 3), Nxb Nam Sơn, Sài Gòn. 197. Trần Thị Việt Trung (1992), “Thiếu Sơn và công trình phê bình lý luận đầu tiên trong văn học Việt Nam hiện đại: “Phê bình và cảo luận - (1933)”, Tạp chí Văn học, (6), tr 30 - 42. 198. Trần Thị Việt Trung (1994), “Nhà văn hiện đại - Một thành tựu lớn của phê bình văn học Việt Nam trước năm 1945”, Tạp chí Văn học, (5), tr.14. 199. Trần Thị Việt Trung (2002), Lịch sử phê bình văn học Việt Nam (Giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 200. Lê Dục Tú (1995), “Vấn đề đánh giá văn học lãng mạn Việt Nam và sự đổi mới tư duy nghiên cứu văn học”, Tạp chí Văn học, (9), tr.39. 201. Trương Tửu (1940), Kinh Thi Việt Nam, Nxb Hoa Tiên (tái bản năm 1974), Sài Gòn. 202. Trương Tửu - Tuyển tập nghiên cứu phê bình (2007), Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội. 203. Xuân Tửu (1961), “Chúng tôi đọc anh Hoài Thanh”, Văn nghệ, (10). 204. Đinh Gia Trinh (1996), Hoài vọng của lý trí, Nxb Văn học, Hà Nội. 205. Tibơrơ Klanixoi (1989), “Về khái niệm thời kì văn học”, Tạp chí Văn học, (1), tr.83. 206. Lê Huy Vân (1942), “Nguyễn Du và Truyện Kiều của Nguyễn Bách Khoa”, Thanh Nghị, (37). 207. Lê Huy Vân (1944), “Nguyễn Bách Khoa “Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ”, Thanh Nghị, (77). 208. Hồ Sĩ Vịnh (2004), “Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX: Một thời sôi động”, 209. Lê Trí Viễn - Nguyễn Đình Chú (1976), Lịch sử văn học Việt Nam (tập 4b), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 210. Lê Trí Viễn (1987), Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 211. Viện văn học (1986), Tác giả lý luận, phê bình nghiên cứu văn học Việt Nam (1945 – 1975), tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 212. Nguyễn Thị Thanh Xuân (1999), “Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (7), tr.49. 213. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2006), Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX (1900 - 1945), Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh. Tiếng nước ngoài 1. Wilbur S.Scott (1962), Five approaches of literary criticism, Collier Books, New York. 2. Dowwe Fokkema - Elrud Kunne - Ibsch (1995), Theories of Literature in the twentieth Century, C. Hurst & Company, London St. Martin’s Press, New York. DANH MỤC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1. Dương Thu Thủy (2005), “Trần Thanh Mại sáng tạo trên nền tảng văn hóa”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (5), Bộ Văn hóa thông tin, Hà Nội. 2. Dương Thu Thủy (2006), “Trần Thanh Mại với vấn đề thẩm định và đánh giá các tác gia văn học Việt Nam” trong Bình luận văn học, Nxb Văn hóa Sài Gòn, thành phố Hồ Chí Minh. 3. Dương Thu Thủy (2009), “Về một số công trình văn học sử nửa đầu thế kỷ XX”, Tạp chí khoa học - Khoa học Xã hội và Nhân văn, (17), Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. 4. Dương Thu Thủy (2009), “Bước khởi đầu hiện đại hóa nghiên cứu văn học”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (304), Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Hà Nội. 5. Dương Thu Thủy (2009), “Những thành tựu trong nghiên cứu văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam giai đoạn từ 1930 đến 1945”, Tạp chí khoa học và Giáo dục, 04(12), Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế. 6. Dương Thu Thủy (2009), “Phương pháp so sánh và phương pháp trực giác trong nghiên cứu văn học nửa đầu thế kỷ XX” trong Bình luận văn học, Nxb Văn hóa Sài Gòn, thành phố Hồ Chí Minh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHVHVN048.pdf