Luận văn Quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt trong các biểu tượng tôn giáo

DẪN NHẬP 1. Lí do chọn đề tài F. De Saussure nói rằng, mỗi kí hiệu gồm có hai mặt: cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Quan hệ của chúng được coi là võ đoán. Tuy nhiên, những biểu tượng, một loại kí hiệu trong tôn giáo, thì giữa cái biểu đạt viết là Sa (phương diện hình thức của kí hiệu) và cái được biểu đạt viết là Se (phương diện nội dung của kí hiệu) lại có quan hệ rất mật thiết. Trong luận văn này, chúng tôi thử tìm hiểu, phân tích mối quan hệ đó trong những biểu tượng tôn giáo. Chúng ta đang sống trong một thế giới kí hiệu. Kí hiệu không chỉ là từ. Nó gồm hình ảnh, hình vẽ, màu sắc, âm thanh, cử chỉ, hương vị, các nghi thức lễ hội, cúng bái, các kiểu dệt áo quần nghĩa là tất cả các phương tiện dùng để thông tin có thể mã hóa và chuyển thành thông điệp mà người khác tiếp nhận được. Ví dụ: Các kí hiệu âm nhạc, biển chỉ dẫn giao thông, các kí hiệu hóa học Bản thân ngôn ngữ cũng là một hệ thống kí hiệu (ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu biểu hiện những ý niệm). Vì thế việc nghiên cứu kí hiệu đã được nhiều người quan tâm. Tuy nhiên có nhiều lĩnh vực của bộ môn kí hiệu học chưa được quan tâm thỏa đáng. Thế nên trong luân văn này, chúng tôi chọn một phần nhỏ trong lĩnh vực kí hiệu học để nghiên cứu, cụ thể là: nghiên cứu mối quan hệ giữa hai mặt nội dung và hình thức của hệ thống biểu tượng trong Phật giáo và Cơ đốc giáo. Dọc theo lịch sử văn minh nhân loại, con người luôn tìm hiểu và lý giải thế giới xung quanh. Trong quá trình ấy, có những vấn đề rất trừu tượng, khó hiểu. Từ đó, con người đã sáng tạo việc dùng một hình ảnh này để thay thế cho một vật hay hiện tượng khác theo hướng đơn giản, dễ hiểu và gần gũi hơn. Ví dụ: Chim bồ câu là biểu tượng của hòa bình, cây thánh giá là biểu tượng của những người theo Cơ đốc giáo* (PL AII), tiên rồng là biểu tượng của dân tộc Việt, trái tim, hoa hồng là biểu tượng của tình yêu, lá cờ là biểu tượng của một quốc gia, hai thanh gươm bắt chéo nhau là biểu tượng của chiến tranh, chiên con là biểu tượng chỉ Chúa Jesus, hoa sen là biểu tượng chỉ Đức Phật Biểu tượng được dùng trong những ngành nghệ thuật, những tổ chức xã hội, tôn giáo, những phạm trù tinh thần, tâm linh Biểu tượng gắn liền với ngành Kí hiệu học (Semiotics), Sémiotique trong tiếng Pháp có lúc được dùng với nghĩa kí hiệu học của những hệ thống kí hiệu phi ngôn ngữ, đặc biệt là kí hiệu học của những biểu tượng. Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy các tôn giáo khác nhau, đôi lúc khi biểu đạt một nội dung nào đó cũng có sự trùng hợp trong việc sử dụng các phương tiện hình thức, rồi cùng nội dung nhưng hình thức khác và cũng có trường hợp hình thức giống nhau và nội dung giống nhau. Vì thế trong luận văn này ngoài việc tìm hiểu mối liên hệ giữa mặt nội dung và hình thức của các biểu tượng trong Cơ đốc giáo và Phật giáo chúng tôi còn tiến hành nghiên cứu và so sánh hệ thống các biểu tượng chính trong hai tôn giáo trên (có so sánh với các biểu tượng của hai tôn giáo này tại Việt Nam). Việc làm này, nhằm tìm hiểu lịch sử hình thành, ý nghĩa cũng như những nét tương đồng và khác biệt của các biểu tượng trong Cơ đốc giáo và Phật giáo. Đề tài này không chỉ có ý nghĩa về mặt văn hóa mà còn giúp mọi người có cái nhìn chi tiết hơn về kí hiệu học (kí hiệu học không phải chỉ bó hẹp trong lĩnh vực ‘Ngôn ngữ kí hiệu’). 2. Lịch sử vấn đề Kí hiệu học có rất nhiều phân ngành nhỏ, và việc nghiên cứu biểu tượng đã được các học giả rất quan tâm. Tuy nhiên nghiên cứu vấn đề này thật không đơn giản, để có thể hiểu cách thức hình thành, lối xếp đặt, cũng như cách giải thích các biểu tượng không chỉ là nhiệm vụ của ngành kí hiệu học, ngôn ngữ học mà còn có sự đóng góp của các ngành khoa học khác như: khoa lịch sử các nền văn minh và các tôn giáo, khoa văn hóa nhân chủng học, khoa phê bình nghệ thuật, khoa tâm lí học, y học Các học giả không chỉ nghiên cứu về các biểu tượng trong tôn giáo mà còn nghiên cứu về nhiều lĩnh vực khác của biểu tượng như: biểu tượng của giấc mơ, biểu tượng được dùng trong các ngành nghệ thuật, những biểu tượng y học, biểu tượng thiên văn học (chiêm tinh), biểu tượng chính trị Thật vậy, biểu tượng luôn có sức hấp dẫn riêng của nó (có lẽ do nguyên nhân hình thành hết sức thú vị và cách giải thích các biểu tượng không bao giờ theo nguyên mẫu chung), vì thế mà nhà phân tâm học người Thụy Sĩ Carl Gustav Jung đã mất một nửa thế kỉ để nghiên cứu những biểu tượng tự nhiên và ông đi đến kết luận rằng: “Giấc mơ và biểu tượng giấc mơ không phải là nhảm nhí, mà cũng không phải là không có ý nghĩa. Trái lại, giấc mơ đem lại cho ta những sự hiểu biết quí giá, nếu ta chịu khó tìm hiểu những biểu tượng của nó”. Tác phẩm “Thăm dò tiềm thức” của ông khái quát những nét đại cương về phâm tâm học trong đó ông có dành trọn chương 8 để trình bày về vai trò của biểu tượng. Ở nhiều nước trên thế giới có nhiều bộ sách bách khoa toàn thư có giá trị, và tri thức nhân loại ngày càng phát triển vì vậy mà cần phải tập hợp vốn tri thức phong phú này, song song với các bộ bách khoa toàn thư còn xuất hiện nhiều bộ từ điển tri thức chuyên ngành giúp người đọc dễ dàng tra cứu và tìm hiểu. Cuốn “Từ điển các biểu tượng” (Dictionnaire des symbols) của hai tác giả Jean Chevalier và Alain Gheerbrant đã tập hợp và giải thích ý nghĩa các biểu tượng của thế giới thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau (sách được nhà xuất bản Robert Laffont ấn hành lần đầu năm 1969). Đây là tác phẩm bao quát được nhiều khu vực văn hóa trên thế giới liên quan đến các phương diện: dân tộc học, xã hội học, tâm lý học, thần thoại học, tôn giáo học Ngoài ra còn có thể kể ra nhiều cuốn từ điển khác cũng đề cập đến các biểu tượng chung của thế giới như: - Tom Chetwynd (1982), A dictionary of symbols, NXB Granada (England). Cuốn từ điển này bao gồm 450 trang chủ yếu giải thích những biểu tượng thuộc về giấc mơ. - Eduardo Cirlot (1969), Diccionario de simbolos (Dictionary of symbols) tái bản lần thứ hai, tại nhà xuất bản Labor S.A, Barcelona. Cuốn từ điển dày 500 trang đề cập đến mối quan hệ của biểu tượng đối với văn học. Quyển sách này đã được dịch sang tiếng Anh. - Goblet d’ Alviella (1894), The migration of symbols, London. Nội dung chính của cuốn từ điển này đề cập đến các biểu tượng chính như: biểu tượng cây thập tự giá, biểu tượng chữ Phạn, và biểu tượng về cái đinh ba trong những nền văn hóa khác nhau. Ngoài ra sức thu hút của biểu tượng cũng được tiểu thuyết gia Dan Brown sáng tác nhiều tác phẩm gây tiếng vang: Mật mã Da Vinci (The Da Vinci code), Pháo đài số (Digital Fortress), Thiên thần và ác quỉ (Angels and demons), Biểu tượng đánh mất (The lost symbol). Trong các tác phẩm này tác giả giúp người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác khi cùng nhà biểu tượng học người Mỹ Robert Langdon giải mã những điều ẩn giấu đằng sau các biểu tượng tôn giáo (chủ yếu là các biểu tượng Cơ đốc giáo). Chúng ta đã điểm qua những công trình nghiên cứu về biểu tượng nhưng có thể nói hệ thống các biểu tượng trong tôn giáo được các học giả hết sức quan tâm. Có thể kể ra đây các tác phẩm tiêu biểu như: 1. David Fontana (1993), The serect language of symbols, Pavilion. Nội dung của cuốn sách này đề cập đến vai trò cũng như cách sử dụng biểu tượng trong các lĩnh vực như: nghệ thuật cũng như những ứng dụng của việc nghiên cứu biểu tượng để giải thích ý nghĩa của giấc mơ. Vấn đề quan trong tiếp theo tác giả trình bày thế giới biểu tượng theo từng chủ đề như: màu sắc, hình dáng, con vật, thế giới tự nhiên 2. Carl G. Liungman (1994), Dictionary of symbols, W.W. Norton & Company. Cuốn từ điển này tác giả trình bày các biểu tượng theo từng nhóm nhỏ (dựa vào quá trình phát triển về hình dáng cấu trúc của các biểu tượng). Bao gồm những biểu tượng có từ thời xa xưa và cả những biểu tượng được sử dụng trong thời hiện đại. 3. Dean Moe (1985), Christian symbols handbook, Augsburg Publishing House. Nội dung của cuốn sách giải thích ý nghĩa của những biểu tượng chủ yếu được dụng trong Cơ đốc giáo (kèm hình vẽ). 4. Dagyab Rinpoche (1995), Buddhist symbols in Tibetan Culture, Wisdom Publications. Trong cuốn sách này tác giả trình bày tất cả những biểu tượng được sử dụng trong Phật giáo Tây Tạng theo hệ thống (có hình vẽ minh họa kèm lời giải thích). 5. Sign and symbols (2003), Pepin. Cuốn sách tập trung tất cả những hình ảnh về biểu tượng và các kí hiệu ở tất cả các lĩnh vực. 6. Carroll E. Whittemore (1987), Symbols of the church, Abingdon. 7. Dahlby, Frithiof (1963), De heliga tecknens hemlighet (The serect of the holy signs), Stockholms. Ở Việt Nam có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề biểu tượng: - Nguyễn Đức Dân trong công trình “Kí hiệu học – một số vấn đề cơ bản” có đề cập đến vấn đề biểu tượng và tác giả cũng dành hẳn chương III trình bày về biểu tượng và những kí hiệu phi ngôn ngữ. - Hoàng Tuệ trong tác phẩm “Cuộc sống ở trong ngôn ngữ” có bài viết đề cập đến vấn đề “Tín hiệu và biểu trưng”. - Đỗ Thị Hồng Nhung trong khóa luận tốt nghiệp của mình nghiên cứu về vấn đề “Ý nghĩa biểu trưng của các con số trong tiếng Việt”. - Nguyễn Thị Hồng Ngân trong hội thảo khoa học trẻ lần I cũng có bài nghiên cứu về “Biểu tượng nước trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”. - Nguyễn Thị Ngân Hoa có bài viết đề cập đến vấn đề: “Tìm hiểu những nhân tố tác động đến ý nghĩa của biểu tượng”. Bài viết được đăng trên tạp chí Ngôn ngữ số 10 năm 2006. Ngoài ra trên các trang web tiếng Việt rải rác có nhiều bài viết giải thích về ý nghĩa biểu tượng của Phật giáo và Cơ đốc giáo như: giải thích ý nghĩa của biểu tượng chữ Vạn, ý nghĩa của biểu tượng thánh giá Có thể nói vấn đề nghiên cứu biểu tượng ở Việt Nam đã được các học giả quan tâm, trong đó ý nghĩa biểu trưng của các con số và màu sắc được quan tâm khá nhiều. Tuy nhiên việc nghiên cứu về các biểu tượng tôn giáo chỉ là những bài nghiên cứu nhỏ, mang tính chất tôn giáo nhiều hơn. Vì thế người viết chọn đề tài này với mong muốn nghiên cứu sâu hơn về hệ thống giao tiếp đặc biệt của con người được hình thành khá lâu (trước khi ra đời chữ viết). Như chúng ta biết, các biểu tượng có lịch sử hình thành tương đối lâu dài và mang đặc trưng văn hóa của từng dân tộc (thánh giá, ngôi sao .là các biểu tượng được tạo nên từ hàng nghìn năm trước). Nếu như văn hóa phương Tây khá quen thuộc với các biểu tượng của Cơ đốc giáo thì phương Đông rất gần gũi với các biểu tượng Phật giáo. Thông qua luận văn này người viết mong muốn đóng góp phần nhỏ vào vấn đề khá lí thú nhưng còn bỏ ngõ ở Việt Nam: “Quan hệ giữa hình thức và nội dung trong các biểu tượng tôn giáo”. 3. Đối tượng nghiên cứu Trong cuộc sống hằng ngày “dẫu ta có nhận biết hay không, đêm ngày trong hành ngôn, trong các cử chỉ, hay trong các giấc mơ của mình, mỗi chúng ta đều sử dụng các biểu tượng Ngày nay tất cả các khoa học về con người cũng như các ngành nghệ thuật và tất cả các ngành kỹ thuật bắt nguồn từ các khoa học ấy Nói là chúng ta sống trong một thế giới biểu tượng thì vẫn còn chưa đủ, phải nói một thế giới biểu tượng sống trong ta” [1;XIII- XIV]. Qua nhận xét trên của hai tác giả Jean Chevalier và Alain Gheerbrant chúng ta thấy rõ vai trò quan trọng của các biểu tượng. Biểu tượng không chỉ hiện diện trong lĩnh vực tôn giáo mà còn xuất hiện trong nhiều lĩnh vực khác nữa. Nhiều biểu tượng cổ xưa đã được các nhà khảo cổ phát hiện và nghiên cứu: các biểu tượng trong tín ngưỡng của Ai Cập, Hi Lạp, Do Thái giáo, Cơ đốc giáo, Phật giáo Mỗi tôn giáo đều có hệ thống biểu tượng riêng, Cơ đốc giáo và Phật giáo cũng vậy: hệ thống các biểu tượng mà hai tôn giáo này sử dụng rất phong phú (Cơ đốc giáo có gần một trăm biểu tượng, các biểu tượng trong Phật giáo cũng phong phú không kém). Trong luận văn này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu những biểu tượng tiêu biểu trong hai tôn giáo trên. 4. Phạm vi nghiên cứu Các biểu tượng trong tôn giáo rất đa dạng, đó là: những mẫu gốc (theo Carl.G.Jung chúng giống như những nguyên mẫu của các tập hợp biểu tượng ăn sâu trong vô thức đến nỗi chúng trở thành như một cấu trúc, ví dụ như thần núi Tản Viên (sơn thần trong tứ bất tử)), những hình ảnh minh họa, các hành vi tôn giáo, những hiện tượng tự nhiên Trong tôn giáo người ta cũng xem các văn bản tôn giáo, các nghi lễ là các biểu tượng. Thế nên trong phạm vi một luận văn khó có thể đi sâu nghiên cứu từng lĩnh vực cụ thể của các biểu tượng trong tôn giáo. Vì thế phạm vi nghiên cứu của luận văn này chủ yếu là “các biểu tượng đồ họa” (graphic) (có thể là chữ viết, hình vẽ được viết, vẽ hay chạm khắc). Cơ đốc giáo hình thành nên ba nhánh chính (PL AII), ở đây chúng tôi không khảo sát hệ thống biểu tượng của Tin lành (biểu tượng của đạo Tin lành không nhiều) mà chủ yếu khảo sát hệ thống biểu tượng của Công giáo. Còn đối với Phật giáo chúng tôi chủ yếu nghiên cứu các biểu tượng cơ bản của phái Đại thừa. Ngoài việc tìm hiểu mối quan hệ giữa hai mặt: hình thức và nội dung của hệ thống biểu tượng trong hai tôn giáo trên chúng tôi còn mong muốn tìm hiểu xem khi các biểu tượng của hai tôn giáo này du nhập vào Việt Nam thì chúng chịu ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa Việt như thế nào? 5. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn này chúng tôi sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp thống kê: Để hoàn thành luận văn chúng tôi cần phải dựa vào nguồn dữ liệu lớn, trước hết cần phải hệ thống lại tất cả các biểu tượng phục vụ cho việc nghiên cứu. Ngoài ra chúng tôi còn phải tập hợp các tài liệu có liên quan để giải quyết phần nội dung của luận văn liên quan đến các lĩnh vực như: ngôn ngữ học, tâm lí học, lịch sử, văn hóa Về nguồn dữ liệu chúng tôi tập hợp trên các sách báo viết về các biểu tượng tôn giáo, trên mạng internet. Bên cạnh đó chúng tôi trực tiếp đến các nhà thờ và các chùa lớn tại thành phố Hồ Chí Minh để thu thập tư liệu. - Phương pháp phân loại: Sau khi tập hợp được nguồn dữ liệu thô chúng tôi tiến hành phân loại các biểu tượng dựa theo mặt hình thức (cái biểu đạt). Phương pháp này giúp chúng ta có thể tìm thấy những nét tương đồng trong việc sử dụng các phương tiện hình thức để biểu thị nội dung của biểu tượng giữa các tôn giáo khác nhau. - Phương pháp so sánh – đối chiếu: Sau khi phân loại chúng tôi sẽ tiến hành so sánh và đối chiếu giữa hệ thống biểu tượng của hai tôn giáo để tìm ra những nét tương đồng và dị biệt về mặt hình thức cũng như nội dung mà các biểu tượng muốn chuyển tải. Từ đó tìm hiểu xem các biểu tượng đó nói gì, đó cũng là cách để tìm hiểu về mỗi nền văn hóa mà các biểu tượng đại diện (văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây). 6. Ý nghĩa khoa học Như chúng ta biết kí hiệu học là “mảnh đất màu mỡ” cần được quan tâm thỏa đáng. Việc nghiên cứu các biểu tượng tôn giáo chỉ là một lĩnh vực nhỏ của bộ môn kí hiệu học. Trên thế giới việc tìm hiểu về các biểu tượng tôn giáo đã được các nhà nghiên cứu quan tâm từ khá sớm, nhưng ở Việt Nam lĩnh vực này còn khá mới mẻ. Thông qua luận văn này người viết mong muốn góp một phần nhỏ để mở ra khái niệm rộng về ngôn ngữ nói chung. Để biểu đạt ý nghĩ, chúng ta không chỉ dùng kí hiệu ngôn ngữ mà còn dùng các kí hiệu phi ngôn ngữ. Biểu tượng, nhất là biểu tượng tôn giáo cũng là một loại ngôn ngữ thể hiện ý niệm thông qua hình ảnh. Trong lĩnh vực kí hiệu học thì ngôn ngữ được xem là hệ thống kí hiệu đặc biệt nhất, vì thế việc mở rộng đối tượng nghiên cứu thuộc lĩnh vực này là vấn đề hết sức lý thú. Thông qua việc nghiên cứu mối quan hệ giữa hai mặt: nội dung và hình thức của các biểu tượng trong tôn giáo người viết mong muốn tìm hiểu những nét tương đồng và dị biệt giữa hai hệ thống kí hiệu: biểu tượng và ngôn ngữ. Thêm nữa việc nghiên cứu đề tài này giúp mọi người hiểu thêm về hai nền văn hóa lớn của thế giới: văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây. Vì ý nghĩa của các biểu tượng tôn giáo biểu thị giá trị tâm linh của mỗi người dân Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung theo đạo. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung chính gồm 3 chương:  Chương 1: Lý luận chung, giải quyết những vấn đề liên quan đến lý thuyết và đưa ra khái niệm chung về biểu tượng.  Chương 2: Chúng tôi tiến hành phân loại các biểu tượng trong Cơ đốc giáo và Phật giáo thành hệ thống và trình bày những phương thức biểu đạt được sử dụng trong hệ thống biểu tượng của hai tôn giáo trên.  Chương 3: Chúng tôi tiến hành so sánh hệ thống biểu tượng và giải mã một số biểu tượng tiêu biểu. Tiếp theo chúng tôi tìm hiểu cách thức chuyển tải nội dung của các biểu tượng cũng như mối quan hệ giữa hai mặt hình thức và nội dung của các biểu tượng tôn giáo. Cuối cùng chúng tôi sẽ nghiên cứu những tác động của yếu tố văn hóa Việt đối với các biểu tượng Phật giáo và Cơ đốc giáo khi du nhập vào Việt Nam.

pdf118 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2305 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt trong các biểu tượng tôn giáo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thịt để trở thành người tốt, thánh khiết bước đi theo Thánh linh). Số 12 là số dùng để chia thời gian và không gian. Đây là tích số của bốn phương nhân với ba bình diện thế giới. Đối với Kinh Thánh, số 12 là con số của người được chọn. Từ xưa đến nay 12 là con số của sự hoàn thành, của một chu kì đã hoàn tất. Chúng ta sẽ suy nghĩ về con số 666. Có nhiều cách giải thích khác nhau về ý nghĩa con số này. Chúng ta biết rằng trong Kinh Thánh nhiều lần nhắc đến số 7 như là biểu hiện cho sự trọn vẹn hoàn hảo của Đức Chúa Trời: Công cuộc sáng tạo vũ trụ của Đức Chúa Trời được làm trọn trong 7 ngày trong đó Ngài làm việc 6 ngày và ngày thứ 7 thì Ngài nghỉ (Sáng Thế Ký 1); Dân Y-sơ-ra-ên đi vòng quanh thành Giêricô 7 ngày và 7 lần trong ngày thứ 7 (Giôsuê 6); Chúa Giêxu dạy hãy tha thứ 70 lần 7 (Mathiơ 18:22). Con số 6 thiếu mất 1 so với số 7, nó cũng gần với số 7 nhưng không phải là số 7. Con số 6 này chỉ về việc làm, biểu hiện cho sự nhờ cậy việc làm để được cứu và sự bất toàn của con người. Quyền lực tột đỉnh của con người, dù có vĩ đại đến đâu, vẫn chỉ là con số 6 mà không phải là con số 7 trọn vẹn của Đức Chúa Trời. Sự lặp lại 3 lần 666 có lẽ được dùng để nhấn mạnh sự nhận diện của con thú thứ hai này là tính chất con người mà không phải là Đức Chúa Trời. Các con số được sử dụng kết hợp với các biểu tượng trong Phật giáo:2 (cặp cá vàng), 4 (bốn con vật hòa thuận), 3 (tam bảo), 6, 8, 12 (số gọng bánh xe trong bánh xe pháp luân). Số 2: (hai nghiệp, hai nhãn, hai phiền não, hai sức mạnh, hai loại giới) là biểu tượng của sự xung đột, sự đối lập, đây là con số chỉ sự cân bằng trong hiện thực hay những mối đe dọa đang tiềm ẩn. Số 6 (sáu độ, sáu căn, sáu đường, sáu phương…) là gấp đôi số 3, như vậy đây là con số điềm lành. Số tám (tám sức mạnh, tám vị thai tạng, tám tâm niệm của bậc đại nhân, bát chánh đạo…). Bát chánh đạo bao gồm 8 con đường chân chính đưa người tu tập đến bờ giải thoát. Bao gồm: chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tấn, chính niệm, chính định. Số 12 (mười hai nhân duyên, mười hai hạnh đầu đà). Mười hai nhân duyên là giáo lý đặc thù của đạo Phật. Giáo lý này giảng dạy về con người, đối tượng nghe là con người, sự hành trì cũng thuộc về con người. Mười hai nhân duyên bao gồm: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. 3.5.2. Vai trò của màu sắc Màu sắc có ảnh hưởng đến tâm lý con người điều đó đã được công nhận. Trong việc kết hợp màu sắc đối với các biểu tượng có thể phản ảnh được tâm lý văn hóa dân tộc. Từ xưa, người Việt chịu ảnh hưởng Trung Hoa có quan niệm tôn sùng màu vàng, vì từ đời Hán, lấy năm sắc tượng trưng cho ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ và ngũ phương là Ðông, Tây, Nam, Bắc. Vàng là tượng trưng cho Thổ và Trung ương và là màu của vương quyền. Từ đời Hán trở xuống, các nhà vua đều mặc áo vàng, và đó là độc quyền của nhà vua. Người Á đông thích màu đỏ, cho đó là tượng trưng cho sự may mắn, hạnh phúc, vui vẻ, thành đạt. Vào các dịp ngày Tết, ngày lễ lớn thường treo câu đối đỏ, thắp nến đỏ...Ở Trung Hoa còn treo đèn lồng đỏ, trong đám cưới cô dâu mặc toàn màu đỏ, trang hoàng trong nhà toàn bằng màu đỏ. Trái lại ở Tây phương, cô dâu mặc bộ áo cưới màu trắng, họ cho rằng màu trắng tượng trưng cho sự trong sạch, tinh khiết của cô dâu. Nhưng ở Trung Hoa dân gian lại kiêng màu trắng trong đám cuới, vì họ vẫn coi màu trắng là màu tang tóc. Người Á Ðông không thích màu đen cho rằng đó là vận không may, số đen, đen đủi trong khi vẫn có nhiều người Tây phương thích sơn cửa màu đen cổ điển. Màu sắc góp một phần không nhỏ vào việc xây dựng ý nghĩa của biểu tượng. Đặc tính đầu tiên trong ý nghĩa biểu tượng của màu sắc là tính phổ quát, không chỉ theo nghĩa địa lý, mà còn ở mọi cấp độ sinh tồn và nhận thức: vũ trụ, tâm lý, thần bí…Cách giải thích ý nghĩa của biểu tượng tôn giáo cũng tùy thuộc vào màu sắc, vì mỗi tôn giáo đôi khi quan niệm về ý nghĩa mỗi màu khác nhau. Nhìn chung màu sắc có một số ý nghĩa biểu trưng sau: - Tượng trưng cho các nguyên tố: màu đỏ và màu cam: tượng trưng cho nguyên tố lửa; màu vàng hoặc màu trắng tượng trưng cho không khí; màu xanh lá cây tượng trưng cho nước; màu đen hoặc nâu tượng trưng cho đất. - Màu sắc còn tượng trưng cho không gian: màu xanh lam cho chiều thẳng đứng, lam nhạt cho phía trên cùng trời, lam đậm cho phía dưới; màu đỏ chỉ chiều ngang, đỏ sáng chỉ phía đông, đỏ sẫm chỉ phía tây. - Chúng còn tượng trưng cho thời gian: màu đen cho thời gian; màu trắng cho cái phi thời gian; và tất cả những gì kèm theo thời gian: sự luân phiên giữa bóng tối và ánh sáng, giữa yếu đuối và sức mạnh, ngủ và tỉnh… - Những màu sắc đối lập như trắng và đen tượng trưng cho tính nhị nguyên thuộc về bản chất sinh tồn. Ví như một bộ y phục hai màu; hai con vật đối đầu hoặc tựa lưng vào nhau, một con trắng một con đen; hai người múa, một trắng một đen [1;562]. Trong Cơ đốc giáo màu sắc được sử dụng mang một ý nghĩa tượng trưng riêng. Tôn giáo này thường sử dụng bốn màu cơ bản, bốn màu thâu tóm toàn bộ vũ trụ, biểu trưng cho bốn nguyên tố cấu thành: đất – trắng, nước – xanh, không khí – tím, lửa – đỏ. Vì thế những bộ lễ phục, kể cả những lễ phục nhà thờ có cả bốn màu ấy tượng trưng cho tập hợp những yếu tố cấu thành thế giới và từ đó gắn liền với cái chỉnh thể vũ trụ với những hoạt động nghi lễ. Trong Cơ đốc giáo đề cao ánh sáng. “Những cách cảm thụ, lý giải màu sắc đưa ta về với những quy phạm thời cổ đại gợi nhớ những bích họa Ai Cập cổ xưa. Sắc màu biểu trưng cho lực hướng thượng trong sự đan thoa bóng tối và ánh sáng hấp dẫn ở các thánh đường kiểu Roma, nơi mà bóng tối không còn là mặt trái của ánh sáng, mà đi kèm theo nó để khẳng định tốt hơn giá trị của nó và góp phần cho sự nở tươi của nó… Có một sự hiện diện được tán tụng của mặt trời, không chỉ trong kiến trúc nhà thờ, mà còn cả trong lễ thức tụng kinh ngợi ca vẻ mê hồn của ánh sáng.” [1;563]. Phật giáo cũng sử dụng màu sắc trong việc thể hiện ý nghĩa của các biểu tượng như: trang trí trên tranh ảnh, các pho tượng, cờ Phật giáo, áo quần, đồ dùng... Do đặc trưng của nền văn hóa phương Đông nên Phật giáo hay sử dụng các màu chủ yếu sau: màu đỏ, màu vàng nghệ, màu trắng, màu xanh và màu xanh lá cây. Trong Phật giáo Tây Tạng, màu sắc mang ý nghĩa biểu trưng riêng. Trong nghệ thuật trang trí tranh ảnh người ta thường kết hợp năm màu với nhau (đôi khi màu đen được thay thế bằng màu xanh). Khi nghiên cứu một biểu tượng, nhất là biểu tượng tôn giáo chúng ta dựa vào rất nhiều yếu tố, không chỉ cấu trúc hình thức của biểu tượng (bản thân biểu tượng như: phương thức biểu đạt, biểu tượng đó sự dụng những phương thức biểu đạt nào? Thường mỗi biểu tượng có sự kết hợp của nhiều phương thức biểu đạt khác nhau và con số và màu sắc cũng không ngoại lệ) mà còn tùy thuộc vào yếu tố văn hóa và quan trọng hơn nữa là cách nhìn nhận, cách hiểu biểu tượng đó của mỗi cá nhân. 3.6. Quan hệ giữa hình thức và nội dung trong biểu tượng tôn giáo Biểu tượng là một loại kí hiệu, loại kí hiệu này khác với ngôn ngữ ở chỗ mối quan hệ giữa hai mặt của biểu tượng mang tính lí do, trong khi ngôn ngữ là võ đoán. Cụ thể trong Cơ đốc giáo người ta dùng hình ảnh chim bồ nông làm biểu tượng cho Chúa Jesus. Nguyên nhân là chim bồ nông dùng máu của mình để nuôi con biểu tượng của tấm lòng hi sinh cao cả. Điều này cũng giống như Chúa Jesus vì yêu thương nhân loại nên chịu chết trên cây thập tự. Hay như hình ảnh chiếc ngai để trống là biểu tượng cho Đức Phật từ bỏ vương quyền đề tìm đường giải thoát cho chúng sinh. Chiếc ngai là biểu tượng của quyền lực, sự thông thái và thần thánh. Chiếc ngai trống mang ý nghĩa là sự nối kết giữa Chúa nhân loại. Vì thế trong cả hai tôn giáo này hình ảnh chiếc ngai để trống là biểu tượng cho đức tính tốt đẹp của vị chúa tể. Nguyên tắc sáng tạo chữ viết ghi ý và chữ viết tượng hình cũng gần giống với việc sáng tạo biểu tượng. Để biểu thị nội dung là “cây” thì người Trung Hoa vẽ hình giống cái cây 木 (mộc), rồi muốn chỉ ý nghĩa “rừng” thì ghép hai chữ mộc lại với nhau thành chữ lâm木木. Đối với người Ai Cập cổ, việc sáng tạo chữ viết (chữ tượng hình) dựa vào quá trình quan sát cuộc sống hàng ngày. Người ta vẽ vòng tròn lớn có tâm ở giữa để chỉ mặt trời . Đối với chữ viết ghi ý hay chữ viết tượng hình, chúng ta rất dễ nhận ra mối quan hệ giữa nội dung và hình thức vì cách kết hợp này có lí do. Có những biểu tượng có nguồn gốc từ hệ thống chữ viết ghi ý, chữ viết tượng hình. Như biểu tượng về thánh giá Ankh của người Ai Cập. Ý nghĩa của biểu tượng này: trường thọ, sự tái sinh, sinh lực của người Ai Cập. Biểu tượng này được tìm thấy trên hang đá, lăng mộ. Nó còn là biểu tượng của quyền lực, nguyên nhân vì hình dáng của nó giống với quyền trượng của các vị thần. Như vậy người ta dùng vật dụng thường dùng để đại diện cho một đối tượng. Nhưng cũng có những trường hợp nếu như chúng ta không thêm vào một số thông tin thì khó lòng có thể hiểu được ý nghĩa. Ví dụ như hệ thống kí hiệu của những kẻ lang thang , kí hiệu này có nghĩa là: “ở đây người ta cho thức ăn và tiền”. Như vậy nguyên nhân nào khiến những người vô gia cư dùng biểu tượng này để chỉ nội dung trên? Đây là biểu tượng được sử dụng trong nhiều nền văn hóa, chỉ mặt trời. Mặt trời là nguồn sáng đem lại thức ăn. Mối quan hệ giữa hai mặt hình thức và nội dung của biểu tượng không phải là mối quan hệ 1-1, chỉ một cái biểu đạt giúp ta nhận thức ra nhiều cái được biểu đạt…, hay cái được biểu đạt dồi dào hơn cái biểu đạt. Như vậy biểu tượng luôn mang tính đa trị. Cùng biểu tượng cá (cái biểu đạt), nhưng có nhiều cách giải thích rất khác nhau: - Nó là biểu tượng của nguyên tố nước - Cá là biểu tượng của sự sống và tính mắn đẻ (do nó có khả năng sinh sản kì lạ với số trứng niều vô kể) - Ở Trung Quốc, cá là biểu tượng của vận may - Trong Cơ Đốc Giáo cá là biểu tượng của Chúa Jesus 3.7. Các biểu tượng tôn giáo Việt Nam Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm (từ đầu công nguyên), được bản địa hóa khi du nhập từ ẤN Độ và Trung Quốc. Theo thống kê của Ban tôn giáo chính phủ Việt Nam vào năm 2009 thì hiện có gần 60 triệu tín đồ Phật giáo. Cùng với lượng tín đồ đó thì số lượng chùa chiền cũng phát triển rất nhiều. Cơ Đốc giáo du nhập vào Việt Nam muộn hơn so với Phật giáo (đầu thế kỷ 16). Hiện tại số tín đồ Cơ đốc giáo khoảng hơn 6 triệu người. Để phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn này, chúng tôi đã đến các ngôi chùa, các nhà thờ lớn tại thành phố Hồ Chí Minh để thu thập tư liệu. Qua khảo sát (PL A I) chúng tôi nhận thấy Phật giáo sử dụng các biểu tượng chính sau: - Biểu tượng chữ Vạn (xoay theo chiều kim đồng hồ và ngược chiểu kim đồng hồ, biểu tượng này được trang trí trên cửa chùa, trên ngực của các tượng Phật… ) (PL C8) - Bánh xe pháp luân được trang trí trên nóc của ngôi chùa (biểu tượng này được sử dụng từ thời Nguyễn đến nay) (PL C8) - Biểu tượng lưỡng long chầu nguyệt (bên trong có trang trí biểu tượng chữ Vạn) (PL C8) - Biểu tượng hoa sen (PL C8) - Biểu tượng rồng (trang trí thành đôi, hay được trang trí trên chuông chùa) (PL C8) - Về màu sắc thường sử dụng các màu sau để trang trí biểu tượng: màu đỏ, màu vàng, màu trắng, màu xanh Nhà thờ Cơ đốc giáo sử dụng các biểu tượng tiêu biểu sau: - Biểu tượng thập tự giá (PL B10): đủ các loại, được trang trí trên nóc của nhà thờ, trên tháp chuông, trên cửa sổ, trên bàn thờ… - Biểu tượng các tông đồ (PL B12) - Biểu tượng chim bồ câu (PL B12) - Biểu tượng hoa iris … - Biểu tượng về tam vị nhất thể (PL B12) … Nhìn chung ở Việt Nam hệ thống biểu tượng của hai tôn giáo trên không khác biệt nhiều so với thế giới. Tuy nhiên khi du nhập vào Việt Nam, do ảnh hưởng của yếu tố văn hóa, cách sử dụng biểu tượng có biến đổi ít nhiều. Đơn cử như: nhà thờ Đa Minh sử dụng biểu tượng rồng là chủ yếu trong kiến trúc của thánh đường, hay như nhà thờ cha Tam trong kiến trúc cũng như cách sử dụng màu sắc trong trang trí chịu ảnh hưởng của văn hóa người Hoa. 3.7.1. Biểu tượng rồng trong Cơ đốc giáo và Phật giáo Hình ảnh con rồng không chỉ xuất hiện trong những kiến trúc của Phật giáo mà ngay cả Cơ đốc giáo, hình ảnh con rồng cũng xuất hiện nhiều. Ở các chùa Việt Nam hình tượng con rồng được tạc trên mái của các ngôi chùa, hay trên các chuông chùa… nguyên nhân do việc tiếp nhận Phật giáo từ Trung Hoa. Quan niệm của người Trung Hoa, rồng là tinh linh của núi, là thần linh bảo vệ năm vùng (bốn phương và trung tâm), là kẻ bảo vệ năm hồ bốn biển. Trong thời kỳ đất nước ta bị lệ thuộc vào phong kiến phương Bắc, rồng Việt Nam chịu ảnh hưởng của những con rồng các thời Tần, Hán, Đường, Tống... và được cách điệu hóa dần dần để biến thành rồng hoàn chỉnh, tượng trưng cho uy quyền độc tôn của vua chúa phong kiến và thường được trang trí ở những nơi linh thiêng. Rồng được sử dụng trong kiến trúc tôn giáo theo một số nét: mắt quỷ, sừng nai, tai thú, trán lạc đà, miệng lang, cổ rắn, vảy cá chép, chân cá sấu, móng chim ưng. Và con rồng luôn là hình ảnh sâu đậm trong tâm hồn mỗi người Việt Nam. Phương Đông và phương Tây có quan niệm khác nhau về biểu tượng rồng. Truyền thống phương Đông, rồng được miêu tả như một sức mạnh có giá trị, đem đến sức sống cho thế giới. Trong Cơ đốc giáo con rồng là biểu tượng của Satan [8, Khải huyền 12:9], là kẻ cám dỗ gieo rắc tội lỗi và xấu xa, là đối tượng cần phải chinh phục. Rồng là hiện thân của quỹ dữ vì thế mà trong các tranh ản phương Tây rồng được vẽ với hình ảnh đầu bị đập vỡ, các con rắn bị tiêu diệt. Điều đó trở thành biểu tượng cho sự chiến thắng của cái thiện đối với cái ác. Ở phương Đông, rồng là biểu tượng của sự sáng tạo của sự sống. Rồng là đại diện cho nguyên tố nước, không khí. Nguyên nhân phương Đông là xứ nóng mưa nhiều tạo nên những vùng đồng bằng rộng lớn. Như vậy yếu tố sông nước rất quan trọng đối với văn hóa phương Đông. Qua quá trình phát triển của dân tộc phương Đông hình tượng rồng được gắn liền với nguồn gốc dân tộc, ví như dân tộc Việt tự hào là con Rồng cháu của Tiên, gắn với vương quyền (các vua chúa hay lấy hình tược rồng để đại diện cho uy lực của triều đình, hình tượng rồng cũng được thêu trên áo của vua mặc), gắn liền với sự may mắn, thịnh vượng. Trong kinh điển Phật giáo, rồng xuất hiện ba lần Lần thứ nhất, khi đức Phật giáng sinh thì có 9 con rồng phun nước tắm cho Đức Phật (cửu long phún thủy). Ở các chùa miền Nam khi học khắc hoặc cham trổ tượng, bao giờ cũng có tượng Đản sinh, xung quanh có 9 con rồng đứng hầu (là lấy tích lúc đức Phật sinh ra có 9 con rồng phun nước tắm cho Phật). Rồng xuất hiện lần thứ hai qua câu chuyện đức Phật hàng phục Hỏa Long (rồng lửa). Lần thứ ba đề cập chuyện Văn Thù sư lợi đem Kinh đi giáo hóa ở Long cung. Trong thái độ ứng xử với tự nhiên, người dân nông nghiệp phương Đông do phải phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, dẫn đến coi trọng rồng, đề cao rồng; còn người dân du mục phương Tây do cuộc sống nay đây mai đó, không cố định, có tham vọng chinh phục và chế ngự thiên nhiên đã dẫn đến tâm lý xem rồng là một biểu tượng cho những thế lực xấu xa cần được khuất phục. Với các dân tộc phương Đông, rồng là biểu tượng của sự cao quý tốt đẹp, thăng hoa và thịnh vượng, rồng xuất hiện là để thể hiện sự vươn tới cái đẹp chân - thiện - mỹ. Với các dân tộc phương Tây, rồng là biểu tượng của sự xấu xa, phá hoại,... tiêu diệt rồng có nghĩa là chiến thắng cái xấu, cái ác, cái tối tăm... qua đó biểu hiện một cách khác về vẻ đẹp của con người. Có thể nói do điều kiện môi trường tự nhiên của phương Tây và phương Đông khác nhau đã làm thành hai nền văn hoá với những đặc trưng khác nhau.  Phương Tây: điều kiện khí hậu lạnh, khô, có vùng đồng cỏ nên thích hợp chăn nuôi, tạo nên lối sống du cư, có tâm lý coi thường, có tham vọng chinh phục tự nhiên (văn hóa gốc du mục).  Phương Đông: khí hậu nóng, ẩm có nhiều đồng bằng thích hợp nghề trồng trọt tạo nên lối sống định cư có tâm lý tôn trọng, hoà hợp với tự nhiên lối tư duy thiên về tổng hợp, biện chứng (văn hóa gốc nông nghiệp). 3.7.2. Ảnh hưởng của yếu tố văn hóa qua các biểu tượng Cơ đốc giáo tại Việt Nam - Văn hóa của người Hoa qua các biểu tượng tại nhà thờ cha Tam:  Tên nhà thờ ghi bằng chữ Hán (PLB12)  Hai bên cây thánh giá có hai con cá chép.  Trên nóc nhà thờ gắn hoa sen. (PLB12)  Hai bức liễn ở hai bên cửa ra vào cũng viết bằng chữ Hán,  Dùng màu đỏ để trang trí bốn cây cột nơi chính điện, trong khi màu này không phổ biến trong nhà thờ Công giáo. - Văn hóa Việt trong kiến trúc của nhà thờ Đa Minh (PLB12): Nhà thờ thiết kế theo hình vuông (theo người Việt cổ quan niệm: trái đất hình vuông), mái cong, thêm nữa điểm đặc biệt của nhà thờ này là hình ảnh con rồng được sử dụng rất nhiều trong trang trí các đầu đao, trên tháp chuông, mỗi góc mái là một đầu đao hình đầu rồng quy về hướng thánh giá. Tháp chuông hình trụ vuông gồm ba tầng mái với kiểu dáng mái cong truyền thống, được cách điệu và hiện đại hóa. Mỗi góc mái là một tàu đao hình đầu rồng quy hướng về Thánh giá. Trên nóc của thánh đường Đa Minh, trên các tàu đao người ta chọn hình đầu rồng. Tuy nhiên việc trang trí này khác với kiến trúc Phật giáo ở chỗ, trên các mái chùa có hình ảnh “long chầu nguyệt” thì thánh đường Đa Minh các con rồng “chầu Thánh giá”. Trong kiến trúc của nhà thờ Đa Minh phía trước thánh đường có đặt bốn bức tượng con Nghê. Nghê là một trong hai linh vật đặc biệt của văn hóa Việt Nam (chim Hạc và con Nghê). Trong các đền đài miếu mạo người ta hay đặt tượng con nghê đặt trên tam cấp với ý nghĩa bảo vệ. Điểm đặc biệt nữa là biểu tượng thánh giá kết hợp với hai con rồng hai bên, bao quanh bởi hình vuông, bên ngoài hình vuông là bốn quẻ (như trong Kinh Dịch) (PL B10) Nhìn chung cả Phật giáo và Cơ đốc giáo tại Việt Nam đều sử dụng hệ thống biểu tượng giống như thế giới, Cơ đốc giáo đại diện cho nền văn hóa phương Tây, nên khi du nhập vào Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa phương Đông. Phật giáo cũng vậy, ban đầu giáo lý của Đạo Phật gần với Triết học, Đức Phật (Đức Phật lịch sử Thích Ca Mầu Ni) là một vị giáo chủ không phải là một đấng thần linh, thượng đế mà là một con người thật sự. Sau 6 năm tu khổ hạnh, 49 ngày đêm tư duy thiền định, Ngài trở thành vị chứng ngộ giữa đời hiệu là Thích Ca Mầu Ni. Ngài đã dạy rằng: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là những vị Phật sẽ thành”. Khi Đạo Phật du nhập vào Việt Nam thì được bản địa hóa, tiếp thu những yếu tố văn hóa Việt để có thể hòa nhập và tồn tại như: tín ngưỡng dân gian đa thần giáo của người Việt, thêm nữa xã hội người Việt bấy giờ con người sinh sống đựa trên nền tảng xã hội nông nghiệp trồng lúa nước vì thế yếu tố thời tiết rất quan trọng vì thế mà người Việt tôn sùng tứ Pháp: Pháp vân (thần mây), Pháp vũ (thần mưa), Pháp lôi (thần sấm), Pháp điện (thần chớp). Cũng giống như ngôn ngữ, các biểu tượng tôn giáo cũng chịu tác động bởi các yếu tố văn hóa, và khi du nhập vào Việt Nam chúng cũng bị Việt hóa để gần gũi với văn hóa Việt. KẾT LUẬN Biểu tượng thường được sử dụng trong những trường hợp hết sức đặc biệt, vì thế mà tôn giáo hay sử dụng biểu tượng (đối tượng cụ thể như chiếc mão triều thiên, chiếc ngai để trống, con vật: chiên con, chim bồ câu, rồng, rắn…; hay một hình ảnh, màu sắc, từ ngữ) để chỉ những gì liên quan đến những nhân vật chính trong tôn giáo như Thượng đế, ma quỉ, thánh thần, đức tính tốt lành của những người đặt niềm tin vào tôn giáo… Hệ thống biểu tượng trong Cơ đốc giáo và Phật giáo vô cùng phong phú, vì thế để tìm hiểu toàn bộ hệ thống biểu tượng trong hai tôn giáo trên trong khuôn khổ của một luận văn là việc làm quá sức. Nhiều học giả chỉ nghiên cứu một biểu tượng nhỏ trong hệ thống biểu tượng này (biểu tượng dấu chân Phật chẳng hạn, phải mất rất nhiều năm và còn phải thu thập nhiều chứng cứ từ các nước có nền Phật giáo phát triển để tìm ra những nét tương đồng và dị biệt). Ở đây công việc chính của chúng tôi chỉ là giới thiệu những biểu tượng tiêu biểu nhất mà hai tôn giáo này sử dụng. Để biểu thị nội dung, các biểu tượng tôn giáo sử dụng rất nhiều hình thức biểu đạt như hình ảnh, màu sắc, chữ viết…Tuy nhiên các biểu tượng tôn giáo thường kết hợp hình ảnh và màu sắc là chủ yếu còn việc kết hợp chữ viết sử dụng ít hơn (chữ viết chỉ tên Chúa, hay những âm tiết thiêng liêng trong đạo Phật). Qua quá trình nghiên cứu hệ thống biểu tượng trong Cơ đốc giáo và Phật giáo chúng tôi nhận thấy việc sáng tạo các biểu tượng hay như cách giải thích cùng một biểu tượng chịu nhiều tác động của yếu tố văn hóa. Cơ đốc giáo đại diện cho văn hóa phương Tây còn Phật giáo đại diện cho nền văn hóa phương Đông. Vì thế các phương thức biểu đạt của hai tôn giáo này mang dấu ấn văn hóa rất sâu sắc. Về các con vật Cơ đốc giáo hay sử dụng hình ảnh con chiên, còn phương Đông dùng hình ảnh con rồng. Hay như hoa lá làm biểu tượng người ta cũng sử dụng hoa cỏ gần gũi với môi trường sống của mình. Cơ đốc giáo dùng hình ảnh hoa huệ tây, cỏ ba lá, cây nho, còn Phật giáo dùng hình ảnh hoa sen quen thuộc. Chúng ta nhận thấy tuy hai tôn giáo khác nhau, thuộc hai nền văn hóa khác nhau nhưng trong không ít trường hợp vẫn sử dụng hình ảnh giống nhau để biểu thị cùng nội dung (hình ảnh chiếc ngai để trống, sử dụng bộ 3), có những biểu tượng không chỉ xuất trong hai tôn giáo trên mà các tôn giáo khác cũng sử dụng từ rất lâu như hình ảnh cây thánh giá, hay như hình chữ thập ngoặc, hình vuông, hình tam giác, hình tròn. Nguyên nhân vì đây là những biểu tượng cơ bản của thế giới. Nếu chúng ta nắm bắt được ý nghĩa của những biểu tượng cơ bản này thì việc giải thích ý nghĩa của biểu tượng sẽ rất dễ dàng. Ví dụ như “hình vuông” thường được sử dụng làm biểu tượng cho đất, cho những gì liên quan đến đất. Mối quan hệ giữa hai mặt hình thức và nội dung của biểu tượng tôn giáo có lí do cho nên chúng ta có thể dựa vào phương thức biểu đạt để giải thích nội dung của biểu tượng. Tuy nhiên không phải lúc nào việc làm này cũng thành công mà đôi khi việc sử dụng phương thức biểu đạt do qui ước nên khi giải thích ý nghĩa, chúng ta cũng cần có một số tri thức nền. Ví dụ như trên các thánh giá thường có sự kết hợp các chữ cái như Α (Alpha) và Ω (Omega) đây là chữ đầu và chữ cuối trong bộ chữ cái Hy Lạp dùng để biểu trưng cho tất cả. Vì Chúa có phán: “ Ta là Alpha và omega” [8;1:8]. Như vậy A và Ω trở thành biểu tượng chỉ Chúa Jesus: Ngài là khởi thủy đầu tiên cũng là sau cùng trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Trong các biểu tượng tôn giáo thì cái được biểu đạt dồi dào hơn cái biểu đạt. Nguyên nhân là khi đứng trước một biểu tượng, thì việc giải thích ý nghĩa phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: bản thân cá nhân tìm hiểu biểu tượng, môi trường văn hóa, môi trường lịch sử, quá trình quan sát của mỗi cá nhân trong từng thời điểm nhất định. Vì thế khi nghiên cứu biểu tượng chúng ta cần phải tập trung tất cả các cách hiểu khác nhau về bản thân của mỗi biểu tượng. Chúng ta thấy rằng khi so sánh hệ thống biểu tượng sử dụng trong các nhà thờ và các ngôi chùa, như trên đã nói Phật giáo xuất phát từ Phương Đông nên khi du nhập vào Việt Nam rất gần gũi và rất dễ tiếp nhận. Còn Cơ đốc giáo khi vào Việt Nam dần dần chịu nhiều chi phối của văn hóa phương Đông. Nguyên nhân là do chủ trương hội nhập văn hóa “Inculturation” của Cơ đốc giáo. Vì thế chúng ta thấy ngày càng nhiều biểu tượng trong văn hóa người Việt được sử dụng trong các nhà thờ Cơ đốc như: khi xây cung thánh người ta dùng các biểu tượng như hình vuông, hình tròn để làm bệ thờ (quan niệm của người Việt “Trời tròn đất vuông”), hay như sử dụng các hình ảnh như hoa sen, trống đồng, hình ảnh chùa một cột, các quẻ trong Kinh Dịch để đưa vào trang trí trong các nhà thờ. Việc làm này đúng hay sai vẫn còn nhiều bàn cãi, tuy nhiên điều này minh chứng một điều yếu tố văn hóa ảnh hưởng rất lớn đế việc sử dụng các biểu tượng. Biểu tuợng cũng là phương tiện dùng để giao tiếp, nó cũng là “một ngôn ngữ phổ biến” [1;XXXIII]. Không cần thông qua trung gian ngôn ngữ nói hay viết mọi người đều có thể hiểu nó. Ngày nay biểu tượng không chỉ được sử dụng trong tôn giáo mà còn được sử dụng ở nhiều lĩnh vực khác. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt: 1. Chervalier Jean, Gheetbrant Alain, Phạm Vĩnh Cự dịch (1997), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới: huyền thoại, chiêm mộng, phong tục, cử chỉ, dạng thể, các hình, màu sắc, con số, Nxb Đà Nẵng. 2. Thích Minh Cảnh (2005), Từ điển Phật học Huệ Quang (tập VIII), Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. 3. Nguyễn Đức Dân (2006), Ký hiệu học - Một số vấn đề cơ bản (đề tài khoa học cấp ĐHQG-HCM), Trường Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. 4. Thích Phước Đạt (2008), Tín ngưỡng tứ pháp trong vai trò chấn hưng văn hóa Đại Việt, Nguyệt san giác ngộ (152). 5. Thích Phước Đạt (2009), Phật giáo Việt Nam tiếp biến và hội nhập, Nguyệt san giác ngộ (163). 6. Phạm Thị Minh Hải (2009), Logo thương mại dưới góc nhìn kí hiệu học, Luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ học, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. 7. Nguyễn Thị Ngân Hoa (2006), Tìm hiểu những nhân tố tác động tới quá trình biến đổi ý nghĩa của biểu tượng trong ngôn ngữ nghệ thuật, Ngôn ngữ (10). 8. Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước (2002), Nxb Tôn giáo. 9. Nguyễn Thiện Giáp (2005), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục. 10. Nguyễn Thiện Giáp (2009), Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, Nxb Giáo dục. 11. Carl Gustav Jung, Vũ Đình Lưu dịch (2007), Thăm dò tiềm thức, Nxb Tri thức. 12. Hà Thúc Minh (2010), Phật giáo Việt Nam và chữ Vạn, Nguyệt san Giác ngộ (170). 13. Đỗ Thị Hồng Nhung (2005), Ý nghĩa biểu trưng của các con số trong tiếng Việt (có so sánh với tiếng Hán), Khoá luận tốt nghiệp, Khoa ngữ văn trường Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh. 14. Nguyễn Thị Hồng Ngân, Biểu tượng nước trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Hội thảo khoa học trẻ I, Khoa ngữ văn trường Đại học sư phạm Hà Nội. 15. Hoàng Phê (chủ biên) (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. 16. Ferdinard De Saussure, Giáo trình ngôn ngữ học đại cương (bản tiếng Việt 1973), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 17. Floyd H. Ross, Tynette Hills, Thích Tâm Quang dịch (2007), Những tôn giáo lớn trong đời sống nhân loại, Nxb Tôn giáo. 18. Nguyên Thành (2010), Một đời người một câu thần chú, Nxb Văn hóa thông tin. 19. Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt, Nxb Khoa Học Xã Hội. 20. Thích Tâm Thiện (1999), Tìm hiểu tôn giáo của đạo Phật, Nxb thành phố Hồ Chí Minh. 21. Hoàng Tuệ (1984), Tín hiệu và biểu trưng, Cuộc sống ở trong ngôn ngữ, Nxb Hà Nội. 22. Về một số biểu tượng trong phim Việt Nam ở nước ngoài (2007), thegioidienanh.vn. 23. Robert Lado, Hoàng Văn Vân dịch (2003), Ngôn ngữ học qua các nền văn hóa, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 24. Howard Marshall, A. R. Millard, J. I. Packer, D. J. Wiseman, Viện Thần Học Tin Lành Việt Nam dịch (2009), Thánh kinh tân từ điển, Nxb Phương Đông. Tiếng Anh: 25. Umberto Eco (1976), A theory of semiotics, Indiana University. 26. David Fontana (1993), The serect language of symbols, Pavilion. 27. Carl G. Liungman (1994), Dictionary of symbols, W.W. Norton & Company. 28. Dean Moe (1985), Christian symbols handbook, Augsburg Publishing House. 29. Dagyab Rinpoche (1995), Buddhist symbols in Tibetan Culture, Wisdom Publications. 30. Sign and symbols (2003), Pepin press. 31. Carroll E. Whittemore (1987), Symbols of the church, Abingdon. Các trang web: I. Cơ Đốc Giáo: 32. 33. 34. 35. 36. 37. 38. 39. 40. 41. 42. 43. 44. eureka4you.com 45. 46. 47. 48. 49. 50. 51. 52. 53. II. Phật Giáo: 54. 55. 56. 57. 58. 59. 60. 61. 62. 63. 64. 65. 66. 67. 68. 69. 70. 71. 72. ….. PHỤ LỤC A I. ĐỊA CHỈ CÁC CHÙA VÀ NHÀ THỜ LỚN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 1. Chùa:  Việt Nam Quốc tự, địa chỉ: 16B, đường 3 tháng 2, Q10  Chùa Lâm Tế, địa chỉ: 212A3 Nguyễn Trãi, P. Bến Thành, Q. 1, TP.HCM  Chùa Vĩnh Nghiêm, địa chỉ: 339 Nam Kì Khởi Nghĩa, phường 7, Q3  Chùa Huỳnh Kim, địa chỉ: 10/6 A, đường Quang Trung, P11, Q. Gò Vấp  Chùa Thới Hòa, địa chỉ: 7516A đường Quang Trung phường 10 quận Gò Vấp  Chùa Pháp Hoa, địa chỉ: 220A, Lê Văn Sĩ, p14, Q3 2. Các nhà thờ:  Nhà thờ Đa Minh, địa chỉ: 190 Lê Văn Sĩ, P10, Quận Phú Nhuận  Nhà thờ Đức Bà, địa chỉ: số 1, Công trường Công xã Pari, Q1  Nhà thờ Huyện Sĩ, địa chỉ: số 1, Tôn Thất Tùng, Q1  Nhà thờ Hạnh Thông Tây, địa chỉ: 53/7 Quang Trung, P11, Q. Gò Vấp  Nhà thờ Cha Tam (Nhà thờ Thánh Phanxicô Xaviê), địa chỉ: 25 Học Lạc, phường 14, Q5 II. THỐNG NHẤT TÊN GỌI (*) Từ trước đến nay người ta hay dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ về đạo Thiên Chúa như: Ki tô giáo, Thiên Chúa giáo, Công giáo, Cơ đốc giáo. Những cách gọi này gây ra nhiều sự nhầm lẫn đáng tiếc. Thật ra Thiên Chúa giáo chỉ về những tôn giáo tôn thờ Đức Chúa Trời như: Do Thái giáo, Hồi giáo và Cơ đốc giáo (hay Kitô giáo). Từ “Kitô” xuất phát từ chữ “Khristos” trong tiếng Hy Lạp, nghĩa là "Đấng được xức dầu", dịch từ chữ Messiah trong tiếng Hebrew. Trong Cơ đốc giáo gồm các nhánh như: Công giáo (“Công giáo”: được dùng dể dịch chữ Hy Lạp“katholikos”, với ý nghĩa đó là đạo chung, đạo phổ quát, đạo công cộng đón nhận mọi người, chứ không riêng cho dân tộc hay quốc gia nào), Chính thống giáo, Tin lành và Anh giáo. Trong luận văn này chúng tôi nghiên cứu về hệ thống biểu tượng của Cơ đốc giáo nói chung. Vì thế chúng tôi dùng thuật ngữ “Cơ đốc giáo. Để tránh bàn cãi trong quá trình sử dụng thuật ngữ, trong luận văn này chúng tôi chọn “Cơ đốc giáo” để chỉ những tín đồ tôn thờ Thiên chúa. PHỤ LỤC B HỆ THỐNG BIỂU TƯỢNG CƠ ĐỐC GIÁO 1. CÁC BIỂU TƯỢNG CƠ BẢN SỬ DỤNG TRONG CƠ ĐỐC GIÁO Chữ viết Latin và Hy Lạp Alpha và Omega Tên của Chúa Tên của Chúa Con vật Chiên con Chim bồ câu Cá Bồ nông Hoa lá Cỏ ba lá Hoa iris Mão gai Nhánh ô liu Sự vật Thánh giá Ngôi sao Mỏ neo Tam vị nhất thể Con số Số 1 Số 2 Số 3 Số 7… Màu sắc Màu đen Màu xanh Màu vàng Màu trắng 2. BIỂU TƯỢNG CON VẬT TRONG CƠ ĐỐC GIÁO (ANIMAL SYMBOL IN CHRISTIAN) Kì lân, Chúa Jesus Thánh Francis Đại bàng, Thánh Wenceslas Bò, Thánh Antipas Hươu, Thánh Eustace Sò, Thánh James Chim công, biểu tượng cho sự hồi sinh Bồ nông, Chúa Jesus Bướm, Chúa Jesus Chim Phượng hoàng, biểu tượng cho sự hồi sinh và sự bất tử Tổ ong, Thánh Chrysostrum hay Chrysostom Hươu, Thánh Aidan Đàn hạc và sư tử, biểu tượng chỉ vua Đavit Gà trống, Thánh Phierơ Rồng, biểu tượng Satan Quái vật sư tử đầu chim, biểu tượng chỉ Chúa Jesus Thiên nga, biểu tượng cho sự dối trá Đức Chuá Jesus chế ngự bóng tối Ngựa, Thánh Theodore Tyro Cậu bé chăn chiên, Thánh Cuthbert Người chăn chiên, Chúa Jesus Thánh Luke Vỏ sò, biểu tượng cho lễ rửa tội của Chúa Con bồ nông, biểu tượng cho sự hi sinh của Chúa Rồng, Thánh Margaret Bò, biểu tượng cho Chúa Jesus Chó với ngọn nến, Thánh Dominic Ốc sên, vỏ sò, Thánh Lydia Chim ưng, Thánh Basil BT Chi-Rho, giỏ, chim bồ câu ngậm nhành olive Chim bồ câu, Chúa Jesus Chim bồ câu với nhánh oliver, biểu tượng hòa bình Hai mỏ neo, chim bồ câu ngậm nhành oliver. Chim bồ câu biểu tượng cho hòa bình Hình ảnh chim bồ câu trang trí trên cửa kính Chim và nhánh nho, biểu tượng cho máu của Đấng Christ Biểu tượng cho nỗi thống khổ của Chúa Jesu Chiến thắng của Chiên con, và cuốn sách với 7 con dấu Chiên bị hiến tế Chiên Thiên đường Jerusalem Chiên con nằm trên quyển sách có bảy con dấu Chiên con và 4 tác giả Phúc Âm Chiên con bằng chất liệu đồng thau trên bệ thờ, thánh đường ở Kentucky Chiên con, Thánh Agnes Chiên đứng với ngọn cờ chiến thắng 12 con chiên, biểu tượng cho 12 tông đồ Thánh Cuthbert Rắn, Thánh Hilda Rắn và cỏ ba lá, Thánh Patrick Rắn và quả táo Rắn và thế giới Biểu tượng hình con cá Biểu tượng hình con cá Biểu tượng hình con cá Biểu tượng hình con cá Jesus con của Đấng cứu thế Cá và sách, biểu tượng của Simon Biểu tượng hình con cá Biểu tượng hình con cá Biểu tượng hình cá ban đầu được tạo nên từ các kí tự Hy Lạp ΙΧΘΥΣ Biểu tượng hình con cá tìm thấy trên hầm mộ Cá, Chúa Jesus Biểu tượng hình con cá Sư tử có cánh, thánh Mark Chim đại bàng, thánh John 3. CÁC TÔNG ĐỒ ANDREW BARTHOLOMEW JAMES THE GREATER JAMES THE LESS JOHN JUDE MATHEW MATHIAS PETER PHILIP THOMAS SIMON 4. TẬP HỢP CÁC BIỂU TƯỢNG KHÁC VỀ CÁC TÔNG ĐỒ PETER PHILIP THOMAS ANDREW JUDE BARTHOLOMEW JAMES THE GREATER JAMES THE LESS SIMON JOHN, AN APOSTL E MATHEW MATHIAS 5. TẬP HỢP CÁC BIỂU TƯỢNG VỀ CÁC VỊ THÁNH ĐỒ THÁNH AGATHA THÁNH AGNES THÁNH AIDAN THÁNH ALBAN THÁNH AMBROSE THÁNH ANNE THÁNH ANTHONY OF PADUA THÁNH ATHANASIUS THÁNH AUGUSTINE THÁNH AUGUSTINE OP HIPPO THÁNH BASIL THÁNH BEDE THÁNH BERNARD THÁNH BONIFACE THÁNH BRIDE THÁNH CECILIA THÁNH CHRISTOPHER THÁNH CHARLES THÁNH CHRYSOSTOM THÁNH CLARE THÁNH CLEMANT THÁNH COLUMBA THÁNH CUTHBERT THÁNH CYRIS CỦA JERUSALEM THÁNH CYRIL CỦA ALEXANDRIA THÁNH CYPRIAN THÁNH DOMINIC THÁNH DUNSTAN THÁNH EDWARD THE MARTYR THÁNH ELIZABETH THÁNH FRANCIS THÁNH GABRIEL THÁNH GEORGE THÁNH GREGORY THÁNH HELENA THÁNH HILDA THÁNH HILARY CỦA POITIERS THÁNH IGNATIUS THÁNH JOHN THE BAPTIST THÁNH JOSEPH THÁNH KATHERINE CỦA SIENNA THÁNH LOUIS THÁNH LYDA THÁNH MARTHA THÁNH MARTIN THÁNH MARY THÁNH MARY MADARLEN THÁNH MARY CỦA CLEOPHAS THÁNH MARY OF BETHANY THÁNH MICHEL THÁNH MONICA THÁNH NATHANIEL THÁNH NICHOLAS THÁNH OLAF THÁNH PATRICK THÁNH VALENTINE THÁNH VINCENT THÁNH WENCESLAS THÁNH WILFRID TẤT CẢ CÁC THÁNH THÁNH RAPHAEL THÁNH SIMEON THÁNH STEPHEN THÁNH SYLVANUS THÁNH THADDAEUS THÁNH TIMOTHY THÁNH MATTHEW THÁNH MARK THÁNH LUKE THÁNH JOHN 6. CÁC LOẠI THÁNH GIÁ TG giáo hội Công giáo La Mã TG Crucifix TG, bt cho sự thương khó của Chúa TG, bt cho sự thương khó của Chúa TG bốn đầu nhọn TG với hình mũi đinh TG đồi Sọ TG và mão gai TG Lambeau TG có trang trí hoa lyly TG với biểu tượng 3 ngôi TG với biểu tượng 3 ngôi TG với biểu tượng 3 ngôi TG Thánh James (trang trí bằng hoa iris và có 1 đầu nhọn) TG Thánh Nicholas TG được dùng ở các nhà thờ Ai Cập TG (Ankh: chìa khoá) TG với hình quả táo TG với hình quả táo TG với hình quả táo TG với hình Thánh giá Thánh giá, bt Thánh giá, bt Thánh giá của quả táo thánh Giăng của Đức giám mục của Giáo hoàng Giáo hoàng TG tộc trưởng TG giáo hội chính thống giáo TG dùng trong chiến trận TG có khứa răng cưa TG lõm TG tràng hạt TG rỗng TG ô vuông TG thuộc dòng tu Dominic TG với vòng tròn nhỏ TG trang trí dây thừng TG dây thừng bao quanh TG dây thừng bao quanh TG Thánh Peter TG, bt của thánh Andrew TG hình chữ Y TG hình mỏ neo TG hình mỏ neo TG hình mỏ neo TG hình mỏ neo TG hình mỏ neo TG hình mỏ neo TG trang trí dây nho TG trang trí hoa hồng Sharon TG do Thánh Columba tạo nên tại đảo Iona TG xứ Xen tơ TG hình chữ T TG T. Phanxit TG INRI TG INRI TG Alpha & Omega TG + các chữ viết tắt “Jesus Sự hợp nhất giữa hai bt TG Hoà bình Jesus, Đấng cứu thế Christ, đấng chiến thắng” alpha và Omerga Đức mẹ Mari Jesus Christ, con của Chúa là đấng cứu thế Jesus Christ, con của Chúa, là đấng cứu thế Hồng ân của Chúa TG dùng trong quân đội TG Thánh Benedict TG Phos Zoe Thánh giá UC Jesus Christ “Iota” (I) “Chi” (X) Chi (X) Rho (P): Christ Rho (P) Chi Pro Thánh giá Chi Pro và BT ba ngôi IC: Jesus Christ đấng cứu thế Monogram of Jesus Monogram of Jesus TG bt của lễ cưới TG bt của lễ cưới TG bt của lễ cưới TG thánh Valentine TG với bt cá và bánh mì TG được trang trí áo choàng đỏ TG và ngọn giáo Thang và thánh giá Vũ khí dùng tra tấn Chúa Jesus TG và BT ba ngôi TG và BT ba ngôi TG và chiên con TG Thánh Brendan TG Thánh đường TG Hy Lạp TG rỗng TG của dân tộc Giecman TG Thánh Chad Thánh giá Jerusalem TG Cantonee Thánh giá nhỏ TG hình vuông TG hình quả táo TG với bt ba ngôi TG hình mỏ neo TG rửa tội TG Consecration TG Consecration TG Đồi Sọ TG dùng trong quân đội TG Thánh John (Maltese) TG Thánh John TG Thánh John TG Thánh John TG Thánh John TG Thánh John TG chìa khóa TG màu đỏ TG Thánh Patrick 7. BIỂU TƯỢNG THÁNH GIÁ DÙNG TRONG NGÀNH Y TẾ BIỂU TƯỢNG Y TẾ BIỂU TƯỢNG CƠ ĐỐC GIÁO Gậy Asclepius Rắn BT chữ thập đỏ Thánh giá Hy Lạp BT về việc làm từ thiện Thánh giá Hy Lạp Ngôi sao sự sống BT Jesus Christ Bệnh về đường hô hấp Thánh giá Lorraine Thánh giá trang trí huy hiệu Thánh giá đảo Malta Thánh John Thánh John Thánh Andrew Thánh Andrew Sự chữa bệnh thần diệu Thánh Andrew 8. MÀU SẮC CỦA THÁNH GIÁ Màu cam Màu vàng Thánh Lazarus Thánh Lazarus Thánh Lazarus Màu xanh Màu tía Màu đen Gyronny Cross Dòng Đa Minh Màu trắng Compony Cross Cầu vồng Thánh giá trang trí với nhiều mảnh ghép Dây thừng Hoàng đạo TG Old Glory Thánh James Li băng TG, bt của Chúa Jesus Hội Giam Lí TG Thánh David Thuỵ Sĩ Đỏ tía TG Thánh Patrick 9. THÁNH GIÁ TRANG TRÍ TRÊN LÁ CỜ Thánh giá, biểu tượng của Thánh Andrew St. Patrick, Valdivia & Alabama (tiểu bang của Mỹ) Florida Jersey (cờ của nước Anh) Burgundy (Tây Ban Nha) Potchefstroom (Nam Phi) Katwijk (Hà Lan) Nova Scotia (Canada) Fortaleza (Brazin) Rio de Janeiro Kanjiza (Serbia) Peñamellera Baja (Tây Ban Nha) Confederate (bang của Mỹ từ 1861-1865) Zagubica, Serbia Jamaica Monterey (Hoa Kì) Amieva (Tây Ban Nha) St Albans (Anh) Lado (Sudan) Wijchen (Hà Lan) Lapovoc, Serbia Burundi Ikurrina (vùng tự trị miền bắc TBN) Pecinci, Serbia Quốc Kì Anh Koceljeva, Serbia Tallahassee, USA Scotland Amsterdam, Hà Lan Ouder-Amstel, Hà Lan Amstelveen, Hà Lan Breda, Hà Lan Strijen, Hà Lan Breukelen, Hà Lan Cromstrijen, Hà Lan Bernisse, Hà Lan Hendrik-Ido- Ambacht, Hà Lan Thánh giá Hy Lạp Hy Lạp Nhà thờ xứ Wales TP Marseille (Pháp) TP Groningen (Hà Lan) Dominican Ražanj, Serbia Piedmont (Ý) Obrenovac, Serbia Quốc đảo Tonga Cờ nước Anh London Cộng hoà Georgia Montreal (Canada) Gornji Milanov ac, Serbia Leskovac, Serbia Đảo Sardinia (Ý) Alderney (Anh ) Sitges (Tây Ban Nha) Guernsey (thuộc Vương quốc Anh) Đảo Herm (thuộcGuerns ey ) Cộng hoà Malta Alderney (thuộc Guernsey) Čukarica, Serbia Starčevo, Serbia Zhytomyr Obl ast, Ukraine Morcín (Tây Ban Nha) Quebec (Canada) St. David, Wales St. Piran, Cornwall (Vương quốc Anh) St. Petroc, Devon (vương quốc Anh) Dominica Đảng Dân Chủ, Trung Quốc De Haan, Bỉ Switzerland & Santa Cruz de Mompox Biểu tượng thánh giá của người Secbi được sử dụng trên cờ tôn giáo của liên bang Nam Tư Serbian cross Arandjelovac Kragujevac Surdulica Vozdovac Vracar Zvezdara Thánh giá Bắc Âu Shetland & Calais (Scotlen) Iceland Đảo Åland (Phần Lan) Thuỵ Điển Phần Lan Bayamón (thuộc Puerto Rico) Đảo Faroe (Đan Mạch) Đan Mạch Volyn, Ukraine Na Uy Đảo Orkney (Scotlen) Vepsia São Paulo, Brazil Các loại thánh giá khác Christian Slovakia Arilje, Serbia Stari Grad, Serbia Free French Sobrescobio (TBN) Ternopil Oblast, Ukraine Sumy Oblast, Ukraine Asturias (TBN) Adjuntas (Puerto Rico) Vrnjačka Banj a, Serbia Rivne Oblast, Ukraine Vinnytsia Oblast, Ukraine Poltava Oblast, Ukraine Barajevo, Serbia Occitan, (Pháp) Horni Mostenice, Czech Republic Čajetina, Serbia Kukljica, Croatia Covilhã, Bồ Đào Nha Crossland Indian flag of Kuna, Panama & New Mexico, Vinnytsia Banner Jainism Colombia USA city, Ukraine 10. CÁC LOẠI THÁNH GIÁ Ở CÁC NHÀ THỜ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nhà thờ Đa Minh Nhà thờ Đức Bà Nhà thờ Hạnh Thông Tây Nhà thờ Huyện Sĩ Nhà thờ Cha Tam 11. TAM VỊ NHẤT THỂ (THE TRINITY) BT ba ngôi BT ba ngôi trong Kinh Thánh BT ba ngôi BT ba ngôi BT ba ngôi BT ba ngôi BT ba ngôi trên cửa sổ Vòng tròng và hình tam giác, bt ba ngôi BT ba ngôi của người Xento BT ba ngôi BT ba ngôi Hoa iris, bt ba ngôi 3 con cá, BT ba ngôi Hoa iris, bt ba ngôi Sự kết hợp của ba ngôi Sự kết hợp của ba ngôi BT ba ngôi BT ba ngôi BT ba ngôi BT ba ngôi BT ba ngôi mô phỏng hình dáng cái khiên BT ba ngôi BT ba ngôi hình ba lá BT ba ngôi với 3 vòng tròn lồng vào nhau 12. BIỂU TƯỢNG Ở CÁC NHÀ THỜ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TÊN BIỂU TƯỢNG Nhà thờ Đa Minh Thánh Luca Thánh Marco Thánh Gioan Thap chuông Chim bồ câu Thập giá chìa khóa Đầu rồng Nhà thờ Đức Bà Chim bồ câu Thánh giá Thánh giá BT Tam vi nhất thể Alpha và Omega Nhà thờ Hạnh Thông Tây Thánh giá Thánh giá Tên Chúa Mắt Chúa Nhà thờ Huyện Sĩ Thánh giá BT ba ngôi BT Omega Bàn thờ Ngôi sao tám cánh Ngôi sao 6 cánh Chiên con Chim bồ nông Nhà thờ Cha Tam Hình tròn Thánh giá Thánh giá Thánh giá BT tam vị nhất thể Hoa sen PHỤ LỤC C HỆ THỐNG BIỂU TƯỢNG PHẬT GIÁO 1. DẤU CHÂN PHẬT Dấu chân Phật Dấu chân Phật (Gandhara / Swat Area, Pakistan) 2nd - 3rd centuries A.D., Dấu chân Phật làm bằng sơn mài với 108 biểu tượng tốt Dấu chân Phật nằm nghiêng, Bangkok Dấn chân Phật lớn ở đền Wat Bowon, Thái Lan Dấu chân Phật bằng đá, 1st-2nd century Dấu chân Phật bằng đá vôi trên tháp chứa hài cốt Amaravati, Ấn Độ, 1st cent. BC. Dấu chân Phật và hoa, tại đền Mahbodhi, Ấn Độ Dấu chân Phật tp cổ Saraburi, Bangkok, Thai Lan Dấu chân Phật tại Sanchi Dấu chân Phật Dấu chân Phật xuất hiện trong nghệ thuật vào TK 16 Dấu chân Phật tại Thái Lan (với hoa và đồng xu) Dấu chân Phật tại Settawya Paya, Myanmar Dấu chân Phật với những biểu tượng của Phật giáo, Srilanka Dấu chân Phật tại bảo tàng nghệ thuật Tranh về dấu chân Phận, Thái Lan Tập hợp 108 tướng tốt của Phật Dấu chân Phật tại đền Ananda Pahto Dấu chân Phật tại Shwemoktaw Paya, Pathein. Dấn chân và biểu tượng bánh xe luân hồi Dấu chân Phật nằm nghiêng, tại Myanmar Dấu chân Phật, Pakistan Dấu chân Phật, Pakistan Dấu chân Phật, Myanmar Dấu chân Phật, Nhật Bản Dấu chân Phật tại đền Gokurakuji, Nhật Bản Dấu chân Phật thời Edo, tại đền Kannonji, Nhật Bản Dấu chân Phật trên đá, tại đền Yakushi, Nhật Bản Dấu chân Phật tại Tây Tạng 2. BIỂU TƯỢNG CON VẬT TRONG PHẬT GIÁO (THE ANIMAL SYMBOL IN BUDDHIST) Rồng Hổ Sư tử trắng Chim ưng khổng lồ Rồng Tây Tạng Hổ Tây Tạng Sư tử trắng là biểu tượng quốc gia của Tây Tạng Hươu cái Chim Phượng hoàng Bò Tây Tạng Bò Tây Tạng Bốn đạo hữu hòa thuận Bốn đạo hữu hòa thuận Cá vàng Cá vàng Cá vàng fur-bearing fish (con của rái cá và cá) Sư tử tám chân (con của chim ưng và sư tử) makara crocodile (con của ốc sên và cá sấu ) Ba con vật lai Ngựa trắng 3. THREE JEWELS SYMBOLS IN BUDDHIST (TAM BẢO) Biểu tượng tam bảo, tìm thấy trên tháp chứa hài cốt Sanchi, 1st century BC Biểu tượng tam bảo trên dấu chân Phật 1st century CE, Gandhara. Sự kết hợp của các biểu tượng Phật giáo, trên cổng Torana tại bảo tháp Sanchi, 1st century BC. Biểu tượng tam bảo Biểu tượng tam bảo Biểu tượng tam bảo Dấu chân Phật và biểu tượng tam bảo, from 1st-2nd century Gandhara Biểu tượng tam bảo Hai kiểu khác nhau về biểu tượng tam bảo Biểu tượng tam bảo Biểu tượng tam bảo Biểu tượng tam bảo Biểu tượng tam bảo Biểu tượng tam bảo Tư thế chấp tay trước ngực giữ biểu tượng tam bảo Biểu tượng tam bảo 4. SWASTICA (THEO CHIỀU KIM ĐỒNG HỒ) Biểu tượng chữ Vạn Biểu tượng chữ Vạn trên ngôi chùa ở Đài Loan Biểu tượng chữ Vạn Biểu tượng chữ Vạn trên ngưỡng của của ngôi nhà ở Maharashtra, Ấn Độ. Ngai vàng và dấu chân Phật với biểu tượng mặt trời và chữ Vạn Biểu tượng chữ Vạn theo chiều kim đồng hồ Biểu tượng chữ Vạn ngược chiều kim đồng hồ Biểu tượng chữ Vạn được vẽ trên đồ gốm vào thời kì đồ đá mới (2600- 2300 B.C), bảo tàng nghệ thuật Hồng Kông Biểu tượng chữ Vạn Biểu tượng chữ Vạn và Biểu tượng chữ Vạn Biểu tượng chữ dấu chân Phật Vạn(dùng trong đạo Hindu, Ấn Độ) Biểu tượng chữ Vạn (đạo Hindu) Biểu tượng chữ Vạn (đạo Jain) Biểu tượng chữ Vạn trở nên phổ biến trong văn hóa Biểu tượng chữ Vạn (đạo Hindu) Biểu tượng chữ Vạn (nhà của người Ấn Độ) Biểu tượng chữ Vạn trong đám cưới của người Ấn Độ Biểu tượng chữ Vạn trên đồ trang sức của người Ấn Độ 5. SAUSWASTIKA (NGƯỢC CHIỀU KIM ĐỒNG HỒ) Biểu tượng chữ Vạn trên ngực của tượng Phật Biểu tượng chữ vạn trên ngôi chùa ở Hàn Quốc Biểu tượng chữ Vạn phổ biến ở các ngôi chùa Hàn Quốc Tượng Phật với biểu tượng chữ Vạn tại chùa Hanshan, Trung Quốc Biểu tượng chữ Vạn được trang hoàng ở đường viền mái nhà của ngôi chùa ở Hồng Kông Biểu tượng chữ Vạn trên bản đồ tàu điện ngầm ở Đài Bắc Biểu tượng chữ Vạn ngược chiều kim đồng hồ Biểu tượng chữ Vạn tại miếu thờ Phật ở Tokyo Biểu tượng chữ Vạn trên cửa một ngôi chùa ở Hàn Quốc Biểu tượng chữ Vạn và hoa sen trên cây đèn ở Hàn Quốc Biểu tượng chữ Vạn trên ngực của Đức Phật (trên tờ tiền của người Hoa ở Bangkok, 2001) Biểu tượng chữ Vạn trên ngực tượng Phật bằng đồng Biểu tượng chữ Vạn tại Sensoji Văn phòng hành chính Woljeongsa Hàn Quốc, có biểu tượng chữ Vạn hết sức ấn tượng Biểu tượng chữ Vạn trên đá gần Ilkley, phía Tây Yorkshire Dấu hiệu chữ Vạn trên ngực của tượng Phật 6. BIỂU TƯỢNG CHỮ VẠN TRÊN LÁ CỜ Cờ của Đảng quốc xã Cờ của Đảng quốc xã Cờ của Đảng quốc xã Cờ nghi thức đặc biệt của tổng thống Phần Lan Cờ của Đảng quốc xã Chim đại bàng và biểu tượng chữ vạn trên lá cờ Chim đại bàng và biểu tượng chữ vạn trên lá cờ của đế chế Đức Cờ của quân đội Đức Cờ của Đảng quốc xã Đền thờ Hindu treo cờ có biểu tượng chữ Vạn, Sarahan India Cờ nước Đức: chữ vạn,thánh giá, Cờ đuôi nheo được gắn trên Cờ nước Mỹ, năm 1932 Cờ của Đảng quốc xã Cờ Hy Lạp với biểu tượng chữ vạn chim đại bàng xe sĩ quan cao cấp Đức Cờ của Stamfordshire năm 2004 Cờ nước Mỹ với biểu tượng chữ vạn, năm 1915 Cờ của đạo Tainism (Ấn Độ) Cờ của thổ dân Panama và miền Tây Bắc Colombia Cờ của không quân Phần Lan 7. BIỂU TƯỢNG CHỮ THẬP NGOẶC ĐẢNG QUỐC XÃ SỬ DỤNG (THE NAZI SWASTICA) Chim đại bàng và biểu tượng chữ vạn (biểu tượng của quốc gia) Chim đại bàng và biểu tượng chữ vạn Tấm áp phích chính trị kêu gọi bầu cử, tháng 11/1932 Cờ của Đảng quốc xã Cờ của Đảng quôc xã Biểu tượng của Đảng quốc xã Biểu tượng của Đảng quốc xã Biểu tượng của Đảng quốc xã Biểu tượng của Đảng quốc xã Các biểu tượng của Đức quốc xã: bao gồm Swastika (chữ vạn) Tranh biếm họa, so sánh hai biểu tượng: ngôi sao Davit và biểu tượng của Đảng quốc xã, cho rằng chúng giống nhau (Ad-Dustour, November 13, 2000). Biểu tượng của Đảng quốc xã Đảng quốc xã Biểu tượng của Đảng quốc xã Phụ nữ Tiệp Khắc treo cờ ĐQX, đề phòng quân đội Đức chiếm đóng, 30/9/1938 Con tem có hình ảnh biểu tượng của ĐQX treo trên giá treo cổ Máy bay nhào lộn trên không có biểu tượng của ĐQX, được trình diễn trong Olympic mùa hè, 1936, trưng bày tại bảo tàng hành không Ba Lan Thánh giá và biểu tượng chữ vạn (được sử dụng trong ĐQX) Con tem có biểu tượng chim đại bàng và biểu tượng chữ vạn Hitler với các thành viên ĐQX vào năm 1030 8. SWASIKA Ở CÁC CHÙA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chùa Huỳnh Kim Chùa Huỳnh Kim Chùa Huỳnh Kim Chùa Thới Hòa Chùa Thới Hòa Chùa Thới Hòa Chùa Thới Hòa Chùa Lâm Tế Chùa Lâm Tế Chùa Vĩnh Nghiêm Chùa Vĩnh Nghiêm Chùa Vĩnh Nghiêm Việt Nam Quốc Tự 9. BIỂU TƯỢNG Ở CÁC CHÙA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TÊN BIỂU TƯỢNG Chùa Huỳnh Kim Hoa sen Long chầu nguyệt Bánh xe pháp Chùa Lâm Tế Cá chép hóa rồng Hình tròn Hoa sen Chùa Thới Hòa Bánh xe pháp Long chầu nguyệt Hoa sen Bánh xe pháp Chùa Vĩnh Nghiêm Bình quí Hoa sen Bánh xe pháp Bánh xe pháp Bánh xe pháp Chữ vạn Bảo tháp Hoa sen Việt Nam Quốc Tự Hoa sen Hoa sen Chữ Vạn Hoa sen Chùa Pháp Hoa Bánh xe pháp Cá chép hóa rồng Long chầu nguyệt Long chầu nguyệt Hoa sen Bình quí Dây trường thọ Tam bảo 10. CÁC NHÓM BIỂU TƯỢNG TIÊU BIỂU TRONG PHẬT GIÁO TÂY TẠNG TÁM BIỂU TƯỢNG VỀ VẬN MAY (THE EIGHT SYMBOLS OF GOOD FORTUNE) Cái lọng Cá vàng Vỏ ốc xà cừ Hoa sen Dấu hiệu chiến thắng Bình quí Bánh xe pháp luân Dây trường thọ BỐN ĐẠO HỮU HÒA THUẬN (THE FOUR HARMONIOUS BROTHERS) 1. Voi 2. Khỉ 3. Thỏ 4. Gà gô NĂM BIỂU TƯỢNG VỀ SỰ VUI MỪNG (THE FIVE QUALITIES OF ENJOYMENT) 1. Gương 2. Sáo 3. Chậu hương trầm 4. Trái cây 5. Dải lụa SÁU BIỂU TƯỢNG VỀ CUỘC SỐNG TRƯỜNG THỌ 1. Núi đá 2. Nước 3. Cây 4. Ông lão 5. Đôi sếu 6. Linh dương BA CON VẬT LAI (THE THREE SYMBOL OF VICTORY IN THE FIGHT AGAINST DISHARMONY) 1. Sư tử (Eight– legged lion) 2. Cá (Fur–bearing fish) 3. Cá sấu (Makara Crocodile)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVNNH018.pdf
Tài liệu liên quan