Luận văn Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc sau chiến tranh lạnh, thực trạng và triển vọng

LỜI MỞ ĐẦU Trung Quốc là một nước lớn nằm ở miền Trung và miền Đông Châu Á, phía Đông giáp với Thái Bình Dương, diện tích 9,6 triệu km2, dân số hơn 1,2 tỷ người. Trung Quốc là một nước được hình thành sớm, là một trong những chiếc nôi của nền văn minh nhân loại. Từ khi nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời năm 1949, trải qua hơn 50 năm xây dựng, Trung Quốc đã giành được vị trí hết sức quan trọng trên trường quốc tế. Đặc biệt sau hơn 20 năm cải cách mở cửa (1978) nền kinh tế Trung Quốc đã có những bước phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy nhằm thực hiện mục tiêu đưa Trung Quốc thành một cường quốc khu vực và thế giới. Cùng với sức mạnh về kinh tế, lại với vai trò là một trong năm nước thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc, Trung Quốc là nước chủ trương xây dựng một thế giới đa cực nhằm chống lại xu thế một cực theo sự áp đặt của Mỹ Bước vào những năm cuối thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 quan hệ Việt Nam – Trung Quốc đã gặp phải nhiều sóng gió, trắc trở song cũng như dòng chảy của lịch sử, mối quan hệ này không thể thụt lùi mà phải tiến lên phía trước. Trước những biến đổi to lớn của tình hình thế giới cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90, trước xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc đã có nhiều nét đổi mới. Mối quan hệ này đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng an ninh của hai nước, xây đắp tình đoàn kết quốc tế vô sản và cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập và phát triển. Trong 50 năm đấu tranh giành độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, nhân dân hai nước đã phấn đấu để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, góp phần củng cố hoà bình,ổn định và thúc đẩy sự nghiệp cách mạng thế giới. Tuy nhiên mối quan hệ này không phải lúc nào cũng “ thuận buồm xuôi gió” mà nó đã trải qua nhiều thử thách đôi khi nghiệt ngã do những vấn đề tồn tại của lịch sử và bất đồng quan điểm, lợi ích quốc gia của hai nước. Việt Nam – Trung Quốc đã và đang tiến hành công cuộc cải cách mở cửa và đổi mới đưa đất nước đi lên CNXH. Vì những lý do như vậy tôi chọn đề tài : “Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc sau chiến tranh lạnh. Thực trạng và triển vọng” nhằm làm sáng tỏ những gì đã và đang diễn ra về quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam – Trung Quốc. Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn đi sâu phân tích một số nội dung sau: Chương 1: Những nhân tố tác động đến quan hệ Việt Nam – Trung Quốc sau chiến tranh lạnh Chương 2: Thực trạng và triển vọng quan hệ Việt Nam – Trung Quốc Trong khi thực hiện đề tài này tôi đã rất cố gắng nhưng vì quan hệ Việt – Trung là quan hệ khá phức tạp và có những vấn đề khó tiếp cận, do vậy, chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo và các bạn để luận văn có sức thuyết phục hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn tới các thầy, cô trong khoa Quan hệ Quốc tế Trường Đai học Dân lập Đông Đô và viện Quan hệ Quốc tế – Học viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, đặc biệt là thầy Vũ Quang Vinh đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.

doc44 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2630 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc sau chiến tranh lạnh, thực trạng và triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u, cùng đưa quan hệ hai nước ngày càng ổn định. Chuyến viếng thăm lần này chính là nhằm thảo luận với chính phủ Việt Nam những biện pháp thiết thực để thực hiện hiệu quả các thoả thuận cấp cao giữa Tổng bí thư Đỗ Mười và Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân tại Trung Quốc tháng 7/1997 nhằm đưa quan hệ hợp tác kinh tế thương mại, khoa học kỹ thuật lên ngang tầm với quan hệ chính trị Việt – Trung đang phát triển tốt đẹp phù hợp với thế mạnh và tiềm năng mỗi nước. Các cuộc viếng thăm trao đổi của lãnh đạo cấp cao hai nước trong thời gian qua đã thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau và thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa hai nước. Bên cạnh những nguyên tắc chung trong quan hệ giữa hai nước được đưa ra, trong suốt thời gian qua, ta nhận thấy rằng sự phát triển quan hệ Việt – Trung được đặt trong bối cảnh chung là Việt Nam và Trung Quốc thực hiện chính sách mở cửa, đa dạng hoá, đa phương hoá. Mối quan hệ đa phương của mỗi bên cũng tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ song phương giữa hai nước ngày càng phát triển. Đây là nội dung mới trong quan hệ giữa hai nước. Với tư cách là thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) Việt Nam đã tích cực ủng hộ Trung Quốc trở thành bên đối thoại chính thức của diễn đàn ASEAN (ARF) điều này đã tạo thêm điều kiện thuận lợi để Trung Quốc phát triển với nhóm nước này. Ngược lại với địa vị là một thành viên có tiếng nói quan trọng trong tổ chức kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) Trung Quốc cũng ủng hộ Việt Nam gia nhập tổ chức này tạo thêm điều kiện thuận lợi cho kinh tế giữa hai nước ngày càng phát triển Quan hệ Việt – Trung đang ở giai đoạn hứa hẹn nhiều triển vọng tốt đẹp. Đặc biệt qua chuyến thăm nhiều lần nêu tại Trung Quốc của nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu với mục đích tăng cường quan hệ Việt – Trung và nghiên cứu kinh nghiệm Trung Quốc. Hai bên cho rằng chuyến viếng thăm Trung Quốc của Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương ĐCS Việt Nam đã thành công tốt đẹp, góp phần quan trọng xây dựng quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai Đảng, hai nước hướng tới thế kỷ XXI và có ảnh hưởng tích cực tới hoà bình, ổn định và phát triển. Kết quả cuộc gặp gỡ cấp cao Việt – Trung lần này đã được phản ảnh đầy đủ qua tuyên bố chung Việt – Trung (27/2/1999) chủ yếu gồm 3 vấn đề: Xác định khuôn khổ quan hệ Việt – Trung; khẳng định các thoả thuận và nhận thức chung đã đạt được trước đây về việc giải quyết vấn đề biên giới trên bộ và vấn đề Vịnh Bắc Bộ; bày tỏ quyết tâm tăng cường giao lưu hợp tác kinh tế – kỹ thuật – thương mại giữa hai nước. Tuyên bố đã xác định quan hệ Việt – Trung là: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”.(4) Ban tư tưởng văn hoá trung ương: Thông tin công tác tư tưởng số 3/ 1999 Cùng với các cuộc gặp gỡ cấp cao, hàng năm trung bình có hàng 100 cuộc tiếp xúc hữu nghị và giao lưu hợp tác giữa các ban ngành, các tổ chức quần chúng và các địa phương của hai nước. Những năm gần đây, tổ chức đoàn thanh niên của hai nước cũng đã triển khai một số cuộc giao lưu hữu nghị với những phương thức và hình thức phong phú đa dang. Đặc biệt, hai bên đã thoả thuận tiếp tục tăng cường cơ chế trao đổi ý kiến hàng năm giữa quan chức cấp cao Bộ ngoại giao nhằm trao đổi ý kiến về những vấn đề song phương, khu vực và quốc tế mà hai bên cùng quan tâm. Ngoài ra, hai bên còn tăng cường hợp tác, phối hợp với nhau tại các diến đàn đa phương quốc tế và khu vực như Liên Hợp quốc, ARF, Hợp tác Đông Á, APEC, ASEM v.v… Thực hiện chủ trương của hai Đảng và hai nhà nước Việt Nam và Trung Quốc đã tích cực đàm phán và kí kết Hiệp định phân định biên giới trên bộ (12-1999) và Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ, Hiệp định hợp tác nghề cá(12-2000) theo đúng thời gian hai Đảng hai nhà nước đã dự định. Hai bên đang đẩy nhanh việc phân giới cắm mốc trên đất liền, đàm phán tiếp về nghề cá tại vịnh Bắc Bộ đạt được đột phá quan trọng, đặt cơ sở vững chắc cho việc xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị và ổn định lâu dài. Tiếp tục xây dựng, củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị Việt Nam- Trung Quốc, cuối năm 2001, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh đã thăm chính thức nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Lãnh đạo hai nước thống nhất đã cho rằng: “ Tình hữu nghị Việt – Trung là tài sản chung quý báu của hai Đảng, và nhân dân hai nước, không ngừng tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện hai Đảng, hai nước Việt Nam – Trung Quốc trong thế kỷ mới không ngừng phù hợp với lịch sử căn bản của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, mà còn có lợi cho hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới.” Hai bên quyết tâm kiên trì phương châm chỉ đạo 16 chữ “ Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn đình lâu dài, hướng tới tương lai”.., thúc đẩy quan hệ hai Đảng, hai nước không ngừng phát triển là tầm cao mới để nhân dân hai nước Việt Nam – Trung Quốc mãi mãi là: “ Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Ngoài ra các vấn đề khác như phương hướng hợp tác trong thời gian tiếp theo, tăng cường hợp tác để phấn đấu đưa kim ngạch mậu dịch song phương lên 5 tỷ đô la Mỹ vào năm 2005 và các vấn đề hợp tác, đầu tư khác. Để xây dựng kinh nghiệm xây dựng Đảng và quản lý nhà nước, nhận lời mời của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí Lưu Văn Sơn, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư ban bí thư, Trưởng ban tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã sang thăm Việt Nam (12-16/1/2003).Đây là đoàn đại biểu cấp cao đầu tiên của Trung Quốc sau Đại hội XVI đến thăm Việt Nam. Những nội dung về lý luận và thực tiễn đang diễn ra ở mỗi nước là chủ đề được hai bên đưa ra bàn thảo. Vấn đề “ xây dựng Đảng cầm quyền” và “ chủ nghĩa xã hội với kinh tế thị trường” sẽ được tổ chức hội thảo nhằm rút ra những kinh nghiệm để xây dựng CNXH ở mỗi nước. Để tăng cường quan hệ hữu nghị với Trung Quốc, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Dy Niên đã mời Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Lý Triệu Tinh sang thăm Việt Nam từ 13 đến 15-6-2003. Đây là chuyến thăm của đồng chí Lý Triệu Tinh sau khi nhận chức Bộ trưởng. Ngoài sự đón tiếp của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên, các đồng chí lãnh đạo Đảng và nhà nước Việt Nam: Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Thủ tướng Phan Văn Khải và Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã tiếp Bộ trưởng Lý Triệu Tinh, Bộ trưởng Lý Triệu Tinh rất quan tâm đến vấn đề cụ thể sau: Một là, duy trì các cuộc thăm viếng cấp cao lẫn nhau, thúc đẩy hơn nữa sự phát triển quan hệ hai Đảng, hai nước. Hai là, tiếp tục tổ chức tốt các cuộc hội thảo lý luận, tăng cường trao đổi kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn của CNXH. Ba là, mở rộng hợp tác kinh tế – thương mại, nhằm góp phần vào công cuộc xây dựng của mỗi nước. Bốn là, tăng cường giao lưu giữa các ngành của hai nước như quốc phòng và công an cũng như sự giao lưu tại khu vực biên giới, không ngừng tăng thêm sự tin cậy và hợp tác lẫn nhau. Năm là, thúc đẩy sự giao lưu giữa thành viên hai nước, đặt cơ sở vững chắc để mối tình hữu nghị Trung – Việt không ngừng được chuyển tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sáu là, đẩy nhanh công việc tiếp theo của các cuộc đàm phán biên giới, sớm xây dựng đường biên giới hai nước thành đường biên giới hoà binh, hữu nghị và ổn định lâu dài. Bảy là, tăng cường công tác giáo dục và tuyên truyền sự nghiệp “ Việt – Trung hữu hảo”, không nói những lời bất lợi cho mối tình hữu nghị, không làm những việc bất lợi cho mối tình hữu nghị”. Những đề nghị của Bộ trưởng Lý Triệu Tinh được các nhà lãnh đạo Việt Nam rất quan tâm. Hai bên đã khẳng định sẽ làm hết sức mình, thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển toàn diện để quan hệ hữu nghị giữa hai nước “ mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ hữu nghị với Trung Quốc đã đặt nền móng vững chắc cho quan hệ hữu nghị Việt Nam – Trung Quốc phát triển từ rất sớm. Quán triệt tư tưởng của Người trong sự nghiệp đổi mới đất nước, để thúc đẩy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã cùng các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa thúc đẩy quan hệ đó phát triển lên tầm cao mới. Chắc chắn rằng, trong tương lai hai nhà nước xã hội chủ nghĩa sát cánh bên nhau, vượt qua mọi thử thách, khó khăn để xây dựng thành công CNXH ở mỗi nước, mà ở Việt Nam là xây dựng một xã hội: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước. Các hoạt động chính trị – ngoại giao mang tính quan phương và phi quan phương nêu trên đã góp phần tăng cường sự tin cậy và tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước. Điều đó hoàn toàn phù hợp với lợi ích cơ bản và lâu dài của nhân dân hai nước, đồng thời cũng có lợi cho hoà bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Có thể nói, mối quan hệ chính trị ngoại giao giữa hai nước trong giai đoạn hiện nay là thuận lợi nhất từ trước đến nay, nó đã đáp ứng và thể hiện đầy đủ nhất các nguyên tắc đã được thoả thuận giữa hai nước, hai Đảng, không chịu bất kỳ sự chi phối hay sức ép nào từ bên ngoài như trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Nói tóm lại, quan hệ chính trị tốt đẹp giữa hai nước trong thời gian qua đã có tác dụng mở đường, thúc đẩy làm cho quan hệ hai nước phát triển nhanh chóng trên các lĩnh vực kinh tế văn hoá và các lĩnh vực khác đồng thời cũng là nhân tố quan trọng nhất góp phần giải quyết thoả đáng những vấn đề còn tồn tại, trong đó các vấn đề biên giới lãnh thổ trong quan hệ hai nước. Quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc đã thực sự cải thiện, trên tất cả mọi hình thức quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân. Đặc biệt trên cơ sở 16 chữ, quan hệ hai nước sẽ được nâng lên tầm cao trong thế kỷ XXI. 2.1.2 Quan hệ kinh tế – thương mại Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Trung Quốc nằm trong một tổng thể các mối quan hệ toàn diện, có nền tảng sâu dầy hàng ngàn năm qua giữa hai nước, vận mệnh của nó gắn liền với mối quan hệ toàn diện đó. Do vậy, đi đôi với việc khôi phục và phát triển nhanh chóng các quan hệ giữa hai nước thể hiện qua các cuộc thăm viếng lẫn nhau liên tục và dồn dập của lãnh đạo cấp cao, của các giới, các đoàn thể giữa hai bên, mối quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Trung Quốc 10 năm qua cũng tốt đẹp chưa từng có trong lịch sử bang giao giữa hai nước. Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Trung Quốc trong những năm vừa qua được thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Ngoài những hình thức truyền thống như thương mại, viện trợ phát triển, tín dụng, hợp tác kinh tế kỹ thuật… giữa hai nước còn xuất hiện hình thức quan hệ kinh tế thương mại mà trước đây chưa từng có là đầu tư và tiếp nhận đầu tư trực tiếp, hợp tác du lịch… Tất cả các hình thức này đều phát triển rất sôi động và tương đối có hiệu quả. Phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Trung Quốc là một mặt quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam và Trung Quốc. Cùng với việc phát triển của tình hình mới, quan hệ kinh tế mậu dịch của hai nước cũng được mở rộng và phát triển. Đến nay, hai nước Việt Nam - Trung Quốc đã ký được một số hiệp định kinh tế hoặc có liên quan đến kinh tế, trong đó có một số hiệp định quan trọng như : Hiệp định vận chuyển hàng không dân dụng. Hiệp định vận chuyển hàng hải. Hiệp định đường sắt. Hiệp định khuyến khích và bảo đảm đầu tư…Căn cứ vào những hiệp định kinh tế thương mại mà chính phủ Việt Nam đã ký chính thức 11/1991 trở đi, một số bộ, ngành của hai nước đã có những trao đổi và ký kết một số văn bản về hợp tác kinh tế song phương. Về trao đổi thương mại, Việt Nam – Trung Quốc từ sau 11/1991 đã chính thức mang tính Nhà nước và đã được triển khai mở rộng về quy mô phát triển về số lượng hàng hoá với nhau, kim ngạch trao đổi hai chiều tăng nhanh, năm sau cao hơn năm trước. Hiện nay, Trung Quốc đã trở thành một trong số những đối tác quan trọng của Việt Nam. Xuất khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam chiếm 6,2 tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, đưa Trung Quốc lên hàng thứ 7 trong hơn 100 nước và vùng lãnh thổ có quan hệ với Việt Nam. Trong khi đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc còn khiêm tốn, mới chỉ đạt 0,39% tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc. Đến cuối 1997, Việt Nam đã xuất khẩu sang Trung Quốc hàng cụ thể như : gạo, cao su, hạt điều, dầu thô, dầu thực vật, các loại hoa quả đặc sản, sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và một số hàng tiêu dùng hàng ngày. Trong số các mặt hàng nêu trên, cà phê, hạt điều chiếm tỷ lệ khá lớn trong số các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc. Nhưng các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc chủ yếu ở dạng thô, chưa qua chế biến, do đó trọng lượng xuất khẩu nhiều nhưng thu nhập thấp.. Sau một số năm có những bước phát triển ngoạn mục, kim ngạch buôn bán hai nước luôn đạt tình hình năm sau cao hơn năm trước, thì mấy năm gần đây tốc độ buôn bán hai nước chậm hẳn. Một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã xác định được vị trí ổn định như dầu thô, hàng hải sản, hoa quả, cao su. Tháng 7-2001 Việt Nam đã xuất khẩu sang Trung Quốc 135 triệu USD hàng hải sản, 126 triệu USD hàng hoa quả, 11 triệu hàng dệt may và 3,2 triệu USD hàng giầy dép. Hiện nay Trung Quốc nhập khoảng 80.000 tấn cao su chiếm 60% cao su xuất khẩu của Việt Nam. Sẽ là không đầy đủ khi bàn về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc mà không đề cập đến hoạt động xuất nhập khẩu tiểu ngạch (và cả buôn lậu) rất sôi động tại vùng biên giới hai nước. Việt Nam có 6 tỉnh tiếp giáp với Trung Quốc là Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, và Lai Châu với số dân (của cả 6 tỉnh) là 4,07 triệu người. Hiện nay trên mô hình biên giới Việt Nam – Trung Quốc có 16 cửa khẩu cấp tỉnh và 5 cửa khẩu cấp quốc gia. Đồng bào các dân tộc trên biên giới hai nước có phong tục tập quán, ngôn ngữ khá tương đồng, trong đó có nhiều dân tộc có quan hệ hôn nhân, có sự giao lưu qua lại thân thiết với nhau về kinh tế, văn hoá ngay cả trong thời kỳ hai nước có xung đột biên giới. Vì vậy từ khi hai nước tuyên bố bình thường hoá quan hệ thì các hoạt động đó, nhất là hoạt động buôn bán tiểu ngạch trở nên vô cùng sôi động. Không có con số về xuất nhập khẩu tiểu ngạch tổng hợp của toàn tuyến biên giới, tuy nhiên nhiều nhà quản lý và xúc tiến thương mại Việt Nam đã lượng định là tỷ lệ giữa buôn bán chính ngạch và buôn bán tiểu ngạch trong 10 năm qua là khoảng 50/50. Dù sao trong 10 năm qua buôn bán tiểu ngạch vùng biên giới có tác động rất to lớn đến việc xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của nhân dân các tỉnh, huyện, thị vùng biên giới. Cơ sở hạ tầng như đường giao thông, nhà ở… được nâng cấp đáng kể, một số trung tâm thương mại được xây dựng khang trang, hệ thống thông tin liên lạc phát triển khá đã giúp cho việc liên lạc giữa Trung ương, các tỉnh bạn trong cả nước được thông suốt và nhanh chóng. Buôn bán tiểu ngạch cũng tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người dân từ thành thị đến nông thôn, vùng miền núi và vùng đồng bào các dân tộc. Nhìn tổng thể bộ mặt kinh tế, xã hội vùng biên đã thay đổi sau hơn 10 năm mở cửa biên giới Việt – Trung. Quan hệ thương mại Việt Nam –Trung Quốc trong thời gian qua, tuy quy mô và giá trị còn thấp, nhưng cũng đưa lại một số tác dụng tích cực. Việc hợp tác kinh tế và trao đổi thương mại đã đáp ứng được một phần yêu cầu của nền sản xuất và tiêu dùng của Việt Nam như: Việt Nam đã nhập khẩu được một số nguyên liệu, hoá chất, thiết bị máy móc, vận tải…phục vụ cho yêu cầu sản xuất nông nghiệp và công nghiệp mà không phải dùng ngọai tệ mạnh. Trung Quốc là một thị trường lớn có sức tiêu thụ hàng hoá đa dạng nhiều chủng loại, vì vậy Việt Nam đã bán được một khối lượng đáng kể các loại hàng hoá mà thị trường Trung Quốc có nhu cầu như: nguyên nhiên vật liệu, hàng thủ công mỹ nghệ…, trong đó có những mặt hàng bán được giá cao hơn so với các thị trường khác do cước phí vận chuyển thấp. Về mặt xã hội, nhờ phát triển thương mại, nhất là buôn bán qua biên giới đã góp phần vào việc phát triển kinh tế, hình thành các trung tâm buôn bán tương đối sầm uất tại các cửa khẩu, đồng thời góp phần tạo thêm nhiều công ăn việc làm, từ đó góp phần cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân và các dân tộc sinh sống trên địa bàn các tỉnh biên giới hai nước. Về đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam : Cần nói ngay rằng, khác với quan hệ thương mại, khi nói đến quan hệ đầu tư thì chủ yếu nói về dòng đầu tư từ Trung Quốc vào Việt Nam. Điều này hoàn toàn dễ hiểu, Trung Quốc và Việt Nam vẫn được tính là hai nước đang phát triển.Tuy nhiên so với Việt Nam thì Trung Quốc là nước có tiềm lực kinh tế manh hơn nhiều lần. Đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Trung Quốc vào Việt Nam bắt đầu từ tháng 11/1991. Trong những năm tiếp theo, số đầu tư trực tiếp vào Việt Nam vẫn được thực hiện song số lượng không nhiều, tổng số vốn đầu tư còn khiêm tốn. Theo thống kê của bộ kế hoạch và Đầu tư, tính đến tháng 12/1999, Trung Quốc có 76 dự án đầu tư trực tiếp vào Việt Nam với tổng số vốn đầu tư trên 130 triệu USD, đứng thứ 20 trên tổng số 60 nước và vùng lãnh thổ có đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Hầu hết, các dự án đầu tư trực tiếp vào Việt Nam là những dự án nhỏ dưới 1 triệu USD số dự án có quy mô đầu tư với số vốn 4 triệu USD trở lên còn rất ít. Cơ cấu đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam có những điểm giống với đầu tư của Trung Quốc trên thế giới vào các nước ASEAN khác, chủ yếu đầu tư vào cơ sở hạ tầng do Trung Quốc có kinh nghiệm tích luỹ về vấn đề xây dựng kết cấu hạ tầng tại một nước đang phát triển về kinh tế, có đội ngũ kỹ sư và công nhân xây dựng tinh thông nghiệp vụ, được tôi luyện trong những năm cải cách kinh tế. Đầu tư của Trung Quốc góp phần ổn định xã hội và thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển. Hiện nay Trung Quốc đứng thứ 24 trong tổng số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với hình thức phong phú, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, xí nghiệp liên doanh, hợp doanh có cả ở 3 miền Bắc, Trung, Nam. Tuy với số vốn ít và hạng mục hạn chế ở một số ngành, nhưng các dự án đầu tư của Trung Quốc đã tạo công ăn việc làm cho trên 1500 lao động trực tiếp vào Việt Nam. Quan hệ đầu tư Việt – Trung chủ yếu là quan hệ một chiều từ Trung Quốc sang Việt Nam do năng lực tài chính của Việt Nam quá nhỏ bé so với Trung Quốc. Các doanh nghiệp lớn của Trung Quốc chưa thực sự coi trọng thị trường của Việt Nam. Bên cạnh những hoạt động thương mại và đầu tư nêu trên, Trung Quốc còn dành cho Việt Nam một số khoản vay để tiến hành cải tạo và mở rộng các nhà máy do Trung Quốc giúp Việt Nam xây dựng trong thập kỷ 60 như nhà máy phân đạm Hà Bắc, nhà máy gang thép Thái Nguyên, dệt 8/3… Nhìn chung tiềm năng quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Trung Quốc là vô cùng to lớn. Mối quan hệ này sẽ phát triển cả chiều sâu lẫn chiều rộng, diễn ra trên mọi lĩnh vực đời sống kinh tế và tiến từ hợp tác song phương đến hợp tác đa phương. Trong thời gian tới, hai nước sẽ làm hết sức mình với những biện pháp cụ thể, thoả thuận trong chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Chu Dung Cơ. Hiện nay, hai bên đang thúc đẩy buôn bán trao đổi hàng hoá, tăng cường hợp tác giữa các ngân hàng quốc doanh để thúc đẩy buôn bán qua biên giới, tăng cường trao đổi các hàng kinh tế của các tỉnh biên giới. Hợp tác kinh tế – thương mại Việt – Trung rất có triển vọng vì nó dựa trên những cơ sở chắc chắn về chính trị, pháp lý, kinh tế và những lợi thế về địa lý, phù hợp với những nhu cầu khách quan và chiến lược phát triển kinh tế giữa hai nước. Ba vùng tam giác trong chiến lược phát triển kinh tế của Trung Quốc là: “ Tiểu tam giác ( chỉ Trung Quốc đại lục, Hồng Kông, Đài Loan); trung tam giác ( chỉ các nước láng giềng ASEAN và Hàn Quốc); đại tam giác ( chỉ Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản và các nước phát triển kinh tế). Trung Quốc phát triển rõ chiến lược thúc đẩy quan hệ kinh tế với tiểu tam giác liên hợp với trung tam giác, quan hệ với đại tam giác”. Các dự án đầu tư của Trung Quốc có quy mô nhỏ (trung bình 2 triệu USD/dự án, trong khi quy mô trung bình của các dự án FDI tại Việt Nam là 16,5 triệu USD). Tuy nhiên việc đó là phù hợp với năng lực tài chính của các nhà đầu tư Trung Quốc đến từ các tỉnh Quảng Tây, Vân Nam, Hải Nam, Giang Tô, Sơn Đông là những tỉnh còn nghèo, kỹ thuật công nghệ lạc hậu, sức cạnh tranh yếu và cũng đang rất cần thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chỉ có rất ít các nhà đầu tư đến từ Quảng Châu, Thượng Hải, Bắc Kinh. Dự án đầu tư quan trọng nhất của Trung Quốc ở Việt Nam hiện nay là công ty liên doanh khai thác, kinh doanh chế xuất Linh Trung – Sài Gòn. Đối tác của phía Trung Quốc cũng là một công ty lớn: China United Electric Import and Export Corporation. Phần còn lại các dự án của các nhà đầu tư Trung Quốc tập trung vào các lĩnh vực: khách sạn, nhà hàng, sản xuất lắp ráp đồ điện gia dụng, sản xuất phụ tùng và lắp giáp xe máy, sản xuất gạch men, gốm sứ vệ sinh phục vụ xây dựng dân dụng, sản xuất thức ăn gia súc, gia công gương kính, chế biến nông sản phẩm, chế biến lâm sản, sản xuất đầu lọc thuốc lá, giấy vệ sinh… Đó là những ngành công nghiệp nhẹ mà lợi thế so sánh của Trung Quốc là tương đối cao. Và đó cũng là ngành sử dụng nhiều lao động vốn rất dồi dào của Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần nói thêm rằng, phần lớn các sản phẩm của các dự án đầu tư (liên doanh 100% vốn của Trung Quốc) được tiêu thụ chủ yếu trên thị trường Việt Nam. Đây có thể coi là một bất lợi lớn cho phia Việt Nam nếu xem xét vấn đề trong mối quan hệ với chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu mà Việt Nam đang hướng tới. Những số liệu cụ thể về hoạt động thương mại và đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam như trên, cho ta thấy rằng: Trong hơn 10 năm qua, quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Trung Quốc đã có bước phát triển khá nhanh chóng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nền kinh tế và tiêu dùng của nhân dân hai nước, đặc biệt là dân cư vùng biên. Tuy nhiên, sự phát triển đó chưa tương xứng với tiềm năng của hai nước, đặc biệt là của phía Trung Quốc. Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu phản ánh đặc điểm, trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước cũng như bổ sung cho nhau giữa hai nền kinh tế, cụ thể hơn là giữa Việt Nam và các tỉnh phía Nam Trung Quốc. Các mặt hàng Việt Nam nhập của Trung Quốc chủ yếu là máy móc cơ khí thông dụng, hàng dệt may và một số hàng tiêu dùng. Có thể thấy đại đa số hàng Trung Quốc chất lượng không cao so với hàng Việt Nam cùng loại, nhưng lại có ưu thế giá rẻ hơn rất nhiều so với hàng Việt Nam. Ví dụ một xe máy Dream sản xuất ở Việt Nam mua đựơc 3 xe máy của Trung Quốc. Mức giá đó phù hợp với sức mua của người dân Việt Nam. Có thể nói, hoạt động thương mại Việt Nam – Trung Quốc diễn ra rất sôi động nhất là dọc theo biên giới hai nước kể cả chính thức và tiểu ngạch, chính thức và buôn lậu. Tại đó, đối với Việt Nam trong thương mại chính ngạch luôn nhập siêu, thì buôn bán tiểu ngạch lại xuất siêu. Điều này có nguyên nhân là Chính phủ Trung Quốc chủ trương đẩy mạnh thương mại tiểu ngạch (đánh thuế hàng hoá xuất nhập khẩu tiểu ngạch thấp hơn chính ngạch).Còn phía Việt Nam ưu tiên buôn bán chính ngạch, kiểm soát chặt chẽ buôn bán tiểu ngạch. Như vậy, việc phát triển kinh tế với các nước láng giềng trong đó có Việt Nam sẽ tạo cơ sở cho Trung Quốc tham gia nhiều hơn nữa vào những hoạt động kinh tế quốc tế, thể hiện qua việc đẩy mạnh quan hệ kinh tế thương mại với các nước phát triển về kinh tế. Đối với Việt Nam, việc phát triển kinh tế thương mại với Trung Quốc chẳng những phù hợp với đường lối đối ngoại “bạn với tất cả các nước"mà còn phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Việt Nam chú trọng mối quan hệ với các nước láng giềng nhằm tạo ra môi trường xung quanh hoà bình ổn định góp phần giữ vững an ninh của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới. Dựa trên cơ sở vững chắc về chính trị, pháp lý, kinh tế và điều kiện thuận lợi với quyết tâm cao của cả hai bên, trong thời gian tới quan hệ kinh tế thương mại Việt – Trung sẽ phát triển cao cả về chiều rộng và chiều sâu góp phần vào sự phát triển kinh tế của mỗi nước và sự thịnh vượng chung của khu vực. Tóm lại, thời gian qua, sự hợp tác Việt – Trung trong lĩnh vực kinh tế – thương mại tuy số lượng chưa nhiều, quy mô chưa lớn nhưng đã mang lại những nội dung và những phương thức hết sức mới thể hiện đúng tinh thần hợp tác bình đẳng, cùng có lợi và bước đầu tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường. Với thiện chí và quyết tâm lãnh đạo hai nước, với các chính sách hợp quy luật, hợp lòng dân, khai thác được lợi thế so sánh của hai bên trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá, chúng tôi tin chắc rằng, bước vào thế kỷ mới, quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Trung Quốc sẽ phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ, đóng góp tích cực cho sự nghiệp đổi mới và cải cách mở cửa của hai nước. 2.1. 2.1.3 An ninh – Quốc phòng Có thể nói đây là lĩnh vực phức tạp nhất trong quan hệ Trung Quốc – Việt Nam hiện nay. Mục tiêu của Trung Quốc và Việt Nam hiện nay là cố gắng duy trì và giữ gìn môi trường an ninh ổn định tập trung sức phát triển kinh tế. Với những vấn đề tồn tại như vấn đề biên giới trên đất liền, phân định Vịnh Bắc Bộ, tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông, lãnh đạo hai nước ta đã đạt được thoả thuận chung là “trong khi chờ đợi giải quyết, hai bên đều không tiến hành các hoạt động làm phức tạp thêm tranh chấp về biên giới lãnh thổ”. Về việc giải quyết vấn đề biên giới là vấn đề mà nhân dân hai nước và dư luận quốc tế rất quan tâm, từ sau bình thường hoá hai bên đều bày tỏ nguyện vọng muốn giải quyêt vấn đề này. Tính đến năm 1997 đã có 10 vòng đàm phán cấp chuyên viên về vấn đề biên giới. Trong vòng đàm phán thứ 10 được tổ chức tại Bắc Kinh từ sau 6- 9/5/1997, hai bên đã trao đổi ý kiến về việc xác định hướng đi của đường biên giới và các biện pháp công tác cụ thể nhằm sớm giải quyết vấn đề biên giới Việt – Trung và đến ngày 30/12/1999, bản hiệp ước biên giới đất liền đã được ký kết tại Trung tâm Hội nghị quốc tế Hà Nội. Việc ký kết hiệp ước biên giới đất liền giữa hai nước Việt – Trung thực sự là một bước phát triển tốt đẹp trong quan hệ hai nước. Hai bên đã gạt bỏ những mâu thuẫn lợi ích cá nhân để cùng giải quyết vấn đề chung, vì sự hoà bình ổn định trong khu vực. Về phân định Vịnh Bắc Bộ, trong mấy năm qua, hai bên Việt Nam – Trung Quốc đã tiến hành 9 vòng đàm phán và cũng đạt được một số kết quả. Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ đã được ký kết (12-2000) giữa Chủ tịch nước Trần Đức Lương và Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, chấm dứt cuộc tranh chấp kéo dài 27 năm. Còn vấn đề hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giữa hai nước thì tiến triển xem ra rất chậm chạp. Bởi đây là vấn đề mang tính lịch sử không riêng của Việt Nam – Trung Quốc mà còn của một số nước khác trong khu vực Đông Nam Á. Thêm vào đó Trung Quốc luôn nêu vấn đề Biển Đông ( trong đó có quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa) là vấn đề chung và là điều kiện để quan hệ với các nước Đông Nam Á, song lại muốn giải quyết vấn đề đó với từng nước riêng rẽ. Vì vậy mà các nước ASEAN luôn nghi ngờ thiện chí của Trung Quốc, họ lo lắng Trung Quốc chuẩn bị giải quyết vấn đề tranh chấp bằng vũ lực. Việc Trung Quốc lấn quần đảo Trường Sa đã vi phạm chủ quyền của Việt Nam và nhiều nước Đông Nam Á khác. Việt Nam cần cùng các nước đấu tranh bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Bởi hai quần đảo này có vai trò cực kỳ to lớn đối với Việt Nam. Nằm trải dài trên một khu biển rộng lớn dọc theo bờ bỉên Việt Nam. Hai quần đảo này chẳng những là vị trí tiền tiêu bảo vệ sườn đông của đất nước mà còn là lá chắn quan trọng bảo vệ vùng biển và chiều dài bờ biển Việt Nam. Hai quần đảo này còn được coi là những vị trí lý tưởng để thiết lập các căn cứ chiến lược nhằm kiểm soát các tuyến đường qua biển Đông và khi cần thiết là bàn đạp tấn công vào đất liền. Hai quần đảo này cũng có giá trị to lớn về mặt kinh tế. Nằm trên một vùng biển rộng 3,5 triệu km2 giữa biển Đông. Nó chứa đựng nhiều nguồn tài nguyên dầu khí mà kết quả khảo sát đánh giá là rất có triển vọng. Tóm lại, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển cả về kinh tế và quân sự của Việt Nam và Trung Quốc. Việt Nam có những chứng cứ sát thực để khẳng định chủ quyền của hai quần đảo này. Tuy nhiên, hai nước đều đưa ra quan điểm và lập trường riêng của mình. Hai bên đã tiến hành 3 vòng đàm phán mà vấn đề vẫn dừng lại ở chỗ hai bên tiếp tục thảo luận về phạm vi và nội dung đàm phán cũng như sơ bộ trao đổi ý kiến về khả năng hợp tác trong một số lĩnh vực. Mặc dù chưa có một giải pháp tích cực cho vấn đề hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, nhưng vì hoà bình và ổn định và phát triển trong khu vực cũng như trong nước. Hai bên đồng ý “ gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác” tôn trọng và nhân nhượng lẫn nhau vì đại cục vì quan hệ lâu dài. Nhìn chung, vấn đề an ninh quốc phòng giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc còn một số vấn đề tồn tại, nhưng hai nước mong muốn sớm tìm ra giải pháp được giải quyết. Thời gian qua, vấn đề quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa lại nổi lên, sau khi Trung Quốc phản đối việc Việt Nam tổ chức các tour du lịch đến Trường Sa và Hà Nội cảnh báo Đài Loan xây cất các công trình trên bãi cạn Bàn Than. Theo việc Tổng cục Du lịch Việt Nam, ngày 19/4, tour đầu tiên tới Trường Sa sẽ khởi hành với 100 hành khách và đại diện các công ty du lịch lữ hành của thành phố Hồ Chí Minh. Đây mới chỉ là chuyến du lịch mang tính khảo sát. Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc lên tiếng phản đối, cho rằng Việt Nam xâm phạm chủ quyền của Bắc Kinh trên quần đảo Trường Sa. Ngày 24/3, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng lên tiếng bác bỏ, nói rằng tuyên bố của Trung Quốc không có cơ sở, vì Trường Sa là của Việt Nam. Sau đó , xảy ra vụ Đài Loan đưa người ra bãi cạn Bàn Than vào ngày 23/3, xây dựng các công trình tại đây. Ngày 30/3, Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng phản đối hành động của Đài Loan là xâm phạm chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa. Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Đài Loan sau đó xác nhận các đơn vị tuần tra của nước này đã dựng một chòi quan sát trên bãi cạn và phản bác tuyên bố của Việt Nam. Hai vụ việc trên đã khơi dậy cuộc tranh luận trong nước, trước hết là trên mạng Internet, về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Tiến sĩ Nguyễn Nhã, tác giả luận án tiến sĩ “ Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa” đã bày tỏ ý định phổ biến và chuyển ngữ sang tiếng Anh bản luận án của ông trên Internet, để mọi người thấy rõ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo này. Tiến sĩ Nguyễn Nhã là người đã nghiên cứu về hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa từ trước năm 1975, tức là trước khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa từ quân đội nguỵ quyền Sài Gòn. Tiến sĩ Nguyễn Nhã trình bày những luận cứ và quan điểm của ông về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa như sau: Ngày 18/5/2003, tôi có bản luận án tại trường Đại học Khoa học-xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh với đề tài “ Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”. Trước đó, năm 1975, tôi là chủ biên ra một đặc san về Hoàng Sa và Trường Sa. Những luận điểm chính của tôi về vấn đề này là: Thứ nhất, Việt Nam đã chiếm hữu thực sự và hoà bình và thực thi một cách liên tục chủ quyền của mình suốt từ đầu thế kỷ 17 cho đến khi có tranh chấp 1909. Những luận cứ và chứng cứ rất nhiều, lấy từ những tài liệu của Việt Nam và hầu hết từ những tài liệu công và nói rất rõ sự xác lập chủ quyền của nhà nước từ thời chúa Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa và Bắc Hải ở phía Nam. Theo đó, từ năm 1916 trở đi, thuỷ quân Việt Nam đã làm những công việc cụ thể như đo đạc diện tích, vẽ bản đồ, dựng bia khẳng định chủ quyền của mình, xây dựng các công trình. Ngoài ra, các tài liệu của nước ngoài cũng nói rất rõ về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam. Sau này, từ 1909 trở đi, Trung Quốc mới bắt đầu cho Hoàng Sa, mà Trung Quốc gọi là Tây Sa là hòn đảo vô chủ và tổ chức thám giám từ năm 1909. Từ đó, giữa Việt Nam và Trung Quốc luôn có sự tranh giành chủ quyền, vốn thực ra là Việt Nam có từ rất lâu rồi. Trung Quốc với quan điểm “ bỏ tiểu cục, lấy đại cục”, Việt Nam với mong muốn một môi trường an ninh, đã gác lại tranh chấp và mâu thuẫn cùng nhau phát triển kinh tế đưa đến một triển vọng tốt đẹp trong quan hệ hai nước. Từ đó dẫn đến tìm ra giải pháp quyết định những vấn đề tồn tại. 2.1.4 Quan hệ văn hoá Thời gian qua, cùng với sự phát triển hợp tác về kinh tế, thương mại và đầu tư, mối quan hệ hợp tác về mặt văn hoá giữa hai nước cũng không ngừng củng cố và phát triển. Về mặt văn hoá giáo dục, từ sau ngày bình thường hoá quan hệ, mối quan hệ hợp tác về văn hoá giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc ngày càng phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu. Cuối tháng 11/1992 Thủ tướng nước CHND Trung Hoa Lý Bằng sang thăm chính thức nước CHXHCN Việt Nam theo lời mời của Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Chiều ngày 2/12/1992, trước sự chứng kiến của Thủ tướng Lý Bằng và Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thứ trưởng Bộ văn hoá thông tin Việt Nam Vũ Khắc Liên và Thứ trưởng Bộ văn hoá thông tin Trung Quốc Lưu Đức Hữu đã ký kết Hiệp định hợp tác văn hoá. Nội dung cơ bản của Hiệp định là hai bên đã nhất trí trên nguyên tắc bình đẳng khuyến khích giao lưu, tăng cường hợp tác báo chí phát thanh truyền hình, điện ảnh, giao lưu đồng xuất bản, viện bảo tàng, khuyến khích thúc đẩy xuất bản các tác phẩm văn học ưu tú, cử cán bộ nghiệp vụ sang thăm và trao đổi lẫn nhau. Chính những điểm đã thoả thuận trong hiệp định đã thúc đẩy quan hệ giao lưu văn hoá giữa hai nước. Việc ký hiệp định văn hoá giữa chính phủ hai nước, góp phần quan trọng vào việc tăng cường hiểu biết lẫn nhau. Thực hiện kế hoạch trao đổi văn hoá hàng năm giữa hai nước, Việt Nam đã cử khoảng 100 đoàn đại biểu văn hoá sang thăm và làm việc tại Trung Quốc, tổ chức triển lãm Mỹ thuật, thăm và biểu diễn hữu nghị, nghiên cứu khảo sát về các lĩnh vực bảo tồn bảo tàng, mỹ thuật, văn học nghệ thuật âm nhạc điện ảnh, các đoàn nghiên cứu chính sách văn hoá, pháp quy văn hoá. Các đoàn thuộc Hội nhà văn, Hội điện ảnh, Hội sân khấu…Cũng thực hiện kế hoạch trao đổi văn hoá hàng năm giữa hai nước phía Trung Quốc cũng đã cử hàng chục đoàn đại biểu văn hoá sang thăm và làm việc tại Việt Nam như đoàn đại biểu báo chí – xuất bản Trung Quốc do ông Tài Kỳ Thanh – Bí thư Đảng uỷ Tổng cục báo chí xuất bản Trung Quốc dẫn đầu sang thăm Việt Nam 1993, đoàn đại biểu văn hoá chính phủ Trung Quốc do ông Đông Tuấn Tân, Phó cục trưởng cục liên lạc văn hoá đối ngoại Bộ văn hoá Trung Quốc dẫn đầu thăm Việt Nam vào thượng tuần tháng 1/2000. Bên cạnh đó các loại hình văn hoá nghệ thuật truyền thống của Trung Quốc cũng đã được trưng bày ở Việt Nam như Băng Đăng, đèn lồng. Ngoài thăm và biểu diễn hàng năm vào dịp quốc khánh, hai nước đã trao đổi và cử nhiều đoàn nghệ thuật nhà nước sang biểu diễn. Cùng với hoạt động giao lưu về văn hoá thì quan hệ hợp tác trao đổi về lĩnh vực du lịch là một lĩnh vực được tăng cường và phát triển mạnh mẽ trong nhiều năm qua. Các công ty du lịch của hai nước, kể cả công ty du lịch địa phương đã có những chuyến khảo sát tìm hiểu tiềm năng du lịch trong nước. Trung Quốc là một đất nước có nhiều tiềm năng du lịch trong nước to lớn, bất cứ một tỉnh nào của Trung Quốc cũng có những điểm du lịch hấp dẫn. Các phương tiện thông tin thông tin đại chúng ở Việt Nam đã giới thiệu cung cấp những thông tin về đất nước con người phong tục tập quán của Trung Quốc đến với người dân Việt Nam. Đồng thời Trung Quốc hiểu biết thêm về đất nước và con người Việt Nam. Ngoài giao lưu về du lịch, Trung Quốc còn mở lớp đào tạo ngắn hạn cho cán bộ quản lý và hướng dẫn viên du lịch, phối hợp dạy tiếng Trung cho hướng dẫn viên Việt Nam và đề nghị phía Việt Nam dạy tiếng Việt cho hướng dẫn viên Trung Quốc. Thông qua các hoạt động du lịch, nhân dân hai nước có điều kiện hiểu biết nhau hơn, mang lại lợi ích đáng kể về kinh tế, đồng thời góp phần củng cố, xây dựng lòng tin và tăng cường tinh thần hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước Việt Nam – Trung Quốc. Đặc biệt, các địa phương biên giới như Lạng Sơn, Quảng Ninh của Việt Nam và Quảng Tây, Vân Nam của Trung Quốc còn thường xuyên cử đại diện tham dự các cuộc hội thảo, hội chợ thương mại du lịch do phía bên kia tổ chức, gắn du lịch với thương mại, góp phần thúc đẩy quan hệ kinh tế – thương mại giữa hai nước. Trong lĩnh vực thể dục thể thao, hai nước đã đưa đoàn vận động viên sang tập huấn và thi đấu. Ngoài ra, hai bên còn trao đổi chiến thuật và kinh nghiệm thi đấu. Trung Quốc còn giúp đỡ Việt Nam hoàn thiện trang thiết bị tập luyện. Sự hợp tác về giáo dục giữa hai nước cũng được coi trọng và phát triển. Ngành giáo dục hai nước đã tiến hành những cuộc hội đàm và ký kết các văn bản thoả thuận về giao lưu và hợp tác giáo dục. Tính đến nay, có hơn 20 trường đại học của Việt Nam có quan hệ giao lưu hợp tác với hơn 40 trường đại học và học viện của Trung Quốc . Hàng năm, Chính phủ Trung Quốc cấp 45 suất học bổng cho lưu học sinh Việt Nam đến Trung Quốc học tập. Phía Việt Nam cũng cấp khoảng 5-10 suất học bổng cho lưu học sinh Trung Quốc sang Việt Nam học tập. Nhìn chung, tình hình hợp tác giao lưu văn hoá giữa Việt Nam và Trung Quốc kể từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay đã có những bước phát triển nhanh chóng, giúp cho nhân dân hai nước Việt – Trung trao đổi tình cảm, tăng cường hữu nghị truyền thống, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, thúc đẩy cùng tiến bộ. 2.2 Triển vọng trong vài thập kỷ tới. Trong quan hệ hai nước hiện nay tuy vẫn còn một số khó khăn và tồn tại, nhiều tiềm năng chưa được khai thác phát huy, nhưng nhìn nhận một cách toàn diện và lâu dài, triển vọng của mối quan hệ Việt – Trung trong thời gian tới là tốt đẹp. Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có mối quan hệ nhiều mặt về lịch sử, văn hoá. Nhân dân hai nước có truyền thống hữu nghị lâu đời, trước đây từng bị áp bức bóc lột, sau này lại cùng ủng hộ giúp đỡ lẫn nhau trong công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Những điều kiện địa lý, lịch sử, văn hoá đó đã gắn kết một cách tự nhiên nhân dân hai nước, đồng thời tạo nên mối quan hệ biện chứng, nương tựa lẫn nhau, không thể tách rời giữa cuộc cách mạng của hai nước Việt Nam – Trung Quốc. Việt Nam và Trung Quốc là hai nước đang phát triển và là hai nước XHCN đang trong quá trình đổi mới, cải cách nhằm thực hiện mục tiêu hiện đại hóa XHCN. Trong thế kỷ mới, hai nước chúng ta cùng chung một bối cảnh quốc tế và khu vực, trên nhiều lĩnh vực cùng có những cơ hội và cùng phải đối phó với những thử thách. Hai nước đều đặt trọng tâm vào việc phát triển kinh tế, vì vậy đều cần môi trường xung quanh hoà bình, ổn định để có điều kiện tập trung mọi nguồn lực cho việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm nêu trên. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, Trung Quốc đã là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam tuy chưa phải là thành viên của WTO nhưng đã được Chính phủ Trung Quốc dành cho quy chế tối hụê quốc, đây là một điều kiện thuận lợi cho hàng hoá Việt Nam khi thâm nhập thị trường Trung Quốc. Ngoài ra, hiện nay các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam đang khẩn trương đàm phán với Trung Quốc về việc thành lập khu mậu dịch tự do ASEAN –Trung Quốc, điều đó hứa hẹn một triển vọng tốt đẹp cho việc tự do hoá thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên, tạo cơ hội mới cho kinh tế hai nước và quan hệ kinh tế hai nước tiếp tục phát triển. Việc phát triển quan hệ Việt – Trung là phù hợp với trào lưu của mỗi nước góp phần vào việc duy trì hoà bình ổn định an ninh của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Cùng với quan hệ về chính trị, quan hệ kinh tế với tính toán toàn diện bổ sung cho nhau phát triển khoa học kỹ thuật thương mại Việt – Trung đúng với tiềm năng hai bên, tương xứng với quan hệ chính trị tốt đẹp giữa hai nước, là nguyện vọng của nhân dân Việt Nam và Trung Quốc. Phát triển hơn nữa mối quan hệ hợp tác khoa học kỹ thuật giữa hai nước là cơ sở để thúc đẩy quan hệ chính trị ngày càng phát triển. Bên cạnh đó, việc phát triển kinh tế khoa học kỹ thuật Việt – Trung cũng phù hợp với chính sách của Trung Quốc tăng cường mối quan hệ đa dạng với các nước ASEAN, đặc biệt là quan hệ hợp tác như tiểu vùng sông Mê Kông, hợp tác giao thông đường sắt, đường bộ. Đối với vấn đề biên giới, lãnh thổ còn tồn tại giữa hai nước, nhất là những vấn đề trên biển, chỉ cần hai nước triệt để tôn trọng những hiệp định hay thoả thuận đã ký kết “không để những bất đồng ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của quan hệ hai nước”. Việc tồn tại những bất đồng, nhất là tranh chấp lãnh thổ giữa các nước láng giềng do lịch sử để lại là khá phổ biến trong quan hệ quốc tế. Kiên trì nguyên tắc đã thoả thuận về duy trì ổn định, không tiến hành bất cứ hành động nào có thể gây phức tạp thêm tình hình, không dùng vũ lực và đe doạ vũ lực với vấn đề tranh chấp biên giới. Chúng ta hy vọng rằng những tranh chấp lãnh thổ còn tồn tại, đặc biệt là tranh chấp biển Đông sẽ được giải quyết về thực chất thông qua thương lượng hoà bình. Xu thế hoà bình và phát triển của cục diện thế giới và sự ổn định tương đối của khu vực Châu Á- Thái Bình Dương từ sau chiến tranh lạnh đã tạo môi trường bên ngoài thuận lợi cho công cuộc cải cách, phát triển của Trung Quốc và Việt Nam. Sự cải thiện quan hệ giữa Trung Quốc và ASEAN, nhất là về vấn đề kinh tế- thương mại, cũng tạo bối cảnh thuận lợi cho quan hệ Việt Nam – Trung Quốc . Nhưng mặt khác chúng ta cũng tỉnh táo nhìn thẳng vào sự thật để thấy rõ những thách thức không nhỏ đối với hai nước trong bối cảnh quốc tế mới. Về mặt kinh tế, xu thế toàn cầu hoá và trí tuệ hoá nền kinh tế thế giới đang đặt các nước đang phát triển trước những thách thức gay gắt trong cạnh tranh quốc tế. Riêng đối với các nước XHCN như Trung Quốc, Việt Nam v.v… thì sự hội nhập vào kinh tế thế giới, những ảnh hưởng của toàn cầu hoá về mặt quan hệ sản xuất là một thách thức đối với thể chế kinh tế thị trường XHCN. Về mặt chính trị, an ninh, chúng ta đứng trước thực trạng CNXH đang trong giai đoạn thoái trào, chính trị cường quyền đang tạm thời thắng thế trong quan hệ quốc tế, mâu thuẫn xung đột dân tộc, tôn giáo và đấu tranh chống khủng bố đang bị lợi dụng để xâm phạm luật pháp quốc tế và chủ quyền quốc gia, khu vực Đông Á đang ẩn chứa những nhân tố nếu không được kiềm chế thì có khả năng bùng phát, phá hoại sự ổn định. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực đó, Việt Nam và Trung Quốc đã kiên trì đường lối đổi mới, cải cách đối nội và mở cửa đối ngoại, giành được những thành tựu to lớn trong công cuộc hiện đại hoá XHCN, góp phần xứng đáng của mình vào hoà bình và phát triển trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam cũng đã giành được những thành tựu đáng khích lệ sau hơn 17 năm đổi mới, và đã có những năm mở đầu tốt đẹp cho thế kỷ XXI. Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi, có tình hình chính trị ổn định, có thị trường hơn 80 triệu dân, và đang nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường quan hệ thương mại với các nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh quốc tế và khu vực Việt Nam cũng như Trung Quốc đang đứng trước những thử thách không nhỏ. Bước sang thế kỷ mới, hai nước Việt Nam – Trung Quốc cần tăng cường hơn nữa hợp tác hữu nghị trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế v.v…vì lợi ích căn bản và lâu dài của nhân dân hai nước, vì sự nghiệp hòa bình, phát triển và tiến bộ xã hội trong khu vực và trên thế giới Quan hệ đại cục tốt đẹp chính là tiền đề quan trọng cho việc hai nước đi vào giải quyết dứt điểm những bất đồng còn tồn tại, trên cơ sở luật pháp quốc tế, vừa tạo điều kiện cho mối quan hệ hai nước ngày càng phát triển, vừa là minh chứng cho tình hữu nghị lâu dài của nhân dân hai nước Việt – Trung. Các hoạt động đầu tư, hợp tác du lịch Việt – Trung trong những năm đầu thế kỷ cũng đã có những chuyển biến đáng khích lệ. Chúng ta biết rằng so với tiềm năng, và so với một số quốc gia, lãnh thổ khác thì đầu tư của Trung Quốc ở Việt Nam số lượng chưa nhiều, quy mô chưa lớn, hiệu quả chưa cao. Năm 2001, Trung Quốc là nước đứng thứ 22 trong số các nước và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, với 107 dự án còn hiệu lực, với vốn đầu tư đăng ký 124,1 triệu USD, vốn thực hiện 68,7 triệu USD. Tuy vậy, một số dự án đầu tư đã có kết quả tốt và trên đà phát triển. Điển hình là công ty Liên doanh khai thác kinh doanh khu chế xuất Sài Gòn – Linh Trung, với vốn đầu tư 26,5 triệu USD (tỷ lệ mỗi bên là 50/50). Hiện nay khu chế xuất Sài Gòn – Linh Trung đang tiếp tục mở rộng, nhằm thu hút đầu tư nước ngoài trong những năm tới. Về hợp tác kinh tế, việc Trung Quốc giúp Việt Nam cải tạo, nâng cao khu gang thép Thái Nguyên và Nhà máy Phân đạm Bắc Giang gặp khó khăn trong nhiều năm, thời gian gần đây đã được thực hiện thuận lợi. Hợp tác du lịch Việt – Trung trong những năm gần đây đạt kết quả rất đáng khích lệ và đang đứng trước triển vọng tốt đẹp. Khách du lịch chiếm gần một nửa trong số 1,27 triệu lượt người nước ngoài tới Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2002. Tuyến du lịch mới Hà Nội – Côn Minh vừa được mở. Khách du lịch Việt Nam đi Trung Quốc gần đây cũng tăng nhiều. Việc mở chuyến bay trực tiếp Thượng Hải – thành phố Hồ Chí Minh (tuyến bay thứ 3 giữa hai nước), việc mở lãnh sự quán Việt Nam tại Côn Minh v.v… đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động du lịch, giao lưu kinh tế văn hóa giữa hai nước trong thời gian tới. Kết luận Việt Nam – Trung Quốc có mối quan hệ từ lâu song những năm cuối thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80, quan hệ Việt Nam Trung Quốc gặp nhiều sóng gió đã đẩy quan hệ hai nước đi vào thời kỳ đen tối trong lịch sử ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc Bối cảnh quốc tế và khu vực cũng như tình hình của hai nước hiện nay đòi hỏi hai nước Việt Nam – Trung Quốc cần tăng cường hơn nữa quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, không những vì lợi ích của công cuộc xây dựng hiện đại hoá đất nước của nhân dân hai nước, mà còn vì sự nghiệp hoà bình, phát triển, và tiến bộ xã hội trong khu vực và trên thế giới. Tình hình khu vực và thế giới cũng như bối cảnh hai nước Việt Nam – Trung Quốc những năm đầu thập kỷ 80 có nhiều thay đổi theo chiều hướng có lợi cho quan hệ Việt Nam – Trung Quốc. Những nhân tố để khởi tình hữu nghị đã chín muồi, cuộc gặp gỡ cấp cao Việt Nam – Trung Quốc đã đánh dấu quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trở lại bình thường. Mặc dầu còn tồn tại những vấn đề khó khăn, trở ngại, nhưng thuận lợi là chủ yếu. Quan hệ hợp tác toàn diện Việt –Trung hoàn toàn có khả năng phát triển thuận lợi trong thế kỷ mới, và trên thực tế đang phát triển một cách thuận lợi. Để tiếp tục phát triển quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam – Trung Quốc trong thế kỷ XXI cả hai bên cần phải cùng nhau khắc phục những khó khăn trở ngại, thực sự cầu thị, đổi mới tư duy, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, nâng cao độ tin cậy, tìm ra những giải pháp hữu hiệu hơn nữa nhằm đẩy mạnh quan hệ giao lưu hợp tác trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá và an ninh. Vào thời điểm then chốt, loài người đã bước vào thế kỷ XXI với hai nhiệm vụ lớn là hoà bình và phát triển. Đứng trước tình hình thế giới có nhiều biến động, Việt Nam – Trung Quốc là hai nước XHCN tương đối ổn định, kinh tế liên tục phát triển. Hơn nữa, cả hai nước đều nằm trong khu vực tương đối lớn mạnh trên thế giới. Đây là thời cơ để hai nước tranh thủ đẩy mạnh công cuộc cải cách, mở cửa và xây dựng kinh tế. Mặt khác Việt Nam – Trung Quốc đều có sứ mệnh lịch sử là củng cố, phát triển, hoàn thiện chế độ XHCN, có nghĩa vụ quốc tế là đóng góp sức mình vào ổn định phồn vinh ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương cũng như toàn thế giới, vừa phải đón nhận mọi thách thức gay go “diễn biến hoà bình” và cạnh tranh quốc tế. Hai bên đều cần có điều kiện bên ngoài và môi trường xung quanh hoà bình ổn định và lẽ đương nhiên là phải gạt bỏ đối đầu, giải quyết mâu thuẫn, giữ quan hệ láng giềng hữu nghị hợp tác toàn diện để thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển ngày càng sâu rộng hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Lưu Đình Á: Hãy cảnh giác cuộc chiến tranh thế giới không có súng. Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1994. Ban đối ngoại Trung ương: Quan hệ đối ngoại và chính sách đối ngoại của nước ta. Đề tài KX 01 – 12, thuộc chương trình Khoa học – công nghệ Nhà nước KX-01, Hà Nôị, 1995. Đặng Tiểu Bình: Bàn về cải cách mở cửa của Trung Quốc. Nxb Thế giới, Hà Nội, 1995. Bộ Ngoại giao: Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Bối cảnh quốc tế và chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Tư liệu tham khảo, Viện Thông tin khoa học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1999 Vũ Quang Vinh: Một số vấn đề cải cách mở cửa của Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam.Nxb Thanh niên. Hà Nội,2000 PTS Nguyễn Thế Tăng: Việt Nam trong chính sách đối ngoại mở cửa của Trung Quốc. Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc. Nguyễn Mạnh Cầm: Một số nét về tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng ta. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Nguyễn Mạnh Cầm: Ba nét nổi bật của hoạt động ngoại giao năm 1993. Quan hệ quốc tế ( tuần báo) số 2-1994. Cù Ngọc Hưởng: Tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam. Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, số 6-2001, tr32 Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V. Tập I. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1982. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII – Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII – Nxb Sự thật, Hà Nội, 1996. Văn kiện Đại hội XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc, trang 34. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V. Tập II. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1982. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V. Tập III. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1982. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI). Nxb Sự thật, Hà Nội, 1990. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT NAM - TRUNG QUỐC SAU CHIẾN TRANH LẠNH 1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực 1.1.1. Bối cảnh quốc tế 1.1.2. Bối cảnh khu vực 1.2. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại Trung Quốc 1.3. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại Việt Nam CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG QUAN HỆ VIỆT NAM - TRUNG QUỐC 2.1. Về thực trạng quan hệ Việt Nam - Trung Quốc 2.1.1. Quan hệ chính trị 2.1.2. Quan hệ kinh tế - thương mại 2.1.3. An ninh - Quốc phòng 2.1.4. Quan hệ văn hoá 2.2. Triển vọng trong vài thập kỷ tới KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQTH01.doc