PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Chiến lược phát triển ngành Dầu khí đến năm 2015 và định hướng đến năm 2025 xác định phải nhanh chóng xây dựng PetroVietnam trở thành một Tập đoàn Công nghiệp- Thương mại- Tài chính Dầu khí quan trọng, hoàn chỉnh hoạt động trong và ngoài nước.
Với nhiệm vụ xây dựng PVFC trở thành trung tâm tài chính của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt nam, hoạt động đầu tư, trong đó có hoạt động đầu tư chứng khoán đang ngày càng phát triển trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Công ty Tài chính Dầu khí. Với việc nguồn vốn đầu tư, bao gồm nguồn vốn tự có và nguồn vốn uỷ thác đầu tư đang ngày càng tăng nhanh, danh mục đầu tư của PVFC cũng ngày càng đa dạng, cả về khối lượng đầu tư, hình thức đầu tư và lĩnh vực đầu tư.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập của nền kinh tế hiện nay, nền kinh tế Việt nam nói chung và môi trường đầu tư nói riêng đang có rất nhiều cơ hội và thách thức. Đặc biệt, đối với thị trường chứng khoán còn non trẻ của Việt nam, hoạt động đầu tư chứng khoán còn gặp phải nhiều thách thức to lớn hơn. Do đó, để xây dựng và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán hiệu quả, đạt được các mục tiêu chiến lược là bảo tồn và phát triển nguồn vốn, nâng cao vị thế của Công ty Tài chính Dầu khí và Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt nam trong lĩnh vực đầu tư tài chính, thì bên cạnh việc đa dạng hoá danh mục đầu tư, vai trò quản trị danh mục đầu tư là vô cùng quan trọng.
Chính vì vậy, đề tài “Quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán tại Công ty Tài chính Dầu khí” sẽ tập trung nghiên cứu, xây dựng và hệ thống phương pháp quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư tại PVFC, góp phần tăng hiệu quả hoạt động đầu tư chứng khoán của PVFC.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về đầu tư chứng khoán, quản lý rủi ro đầu tư chứng khoán.
- Phân tích thực trạng hoạt động đầu tư chứng khoán, các biện pháp quản lý rủi ro tại PVFC, từ đó nêu lên những kết quả đạt được và những mặt còn hạn chế.
- Đề xuất giải pháp quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán tại PVFC.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động quản lý rủi ro trong đầu tư chứng khoán tại Công ty Tài chính Dầu khí từ năm 2001 đến năm 2007.
4. Các phương pháp nghiên cứu
- Dựa trên cơ sở các lý luận cơ bản vị kinh tế học và phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
- Khảo sát số liệu thực tế qua các báo cáo tổng kết tại Công ty Tài chính Dầu khí.
- Sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp nhằm rút ra những kết luận có tính quy luật đối với các vấn đề nghiên cứu.
5. Đóng góp của luận văn.
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư chứng khoán, quản lý rủi ro trong đầu tư chứng khoán.
- Phân tích, đánh giá thực trạng đầu tư chứng khoán, quản lý rủi ro đầu tư chứng khoán tại Công ty Tài chính Dầu khí.
- Đề xuất giải pháp quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán tại PVFC.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Tổng quan quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán.
Chương 2: Thực trạng hoạt động quản lý rủi ro đầu tư chứng khoán tại Tổng Công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro trong đầu tư chứng khoán tại Tổng Công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam.
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN 5
1.1. Chứng khoán và đầu tư chứng khoán. 5
1.1.1. Chứng khoán 5
1.1.2. Đầu tư chứng khoán: 7
1.1.2.1. Khái niệm 7
1.1.2.2. Các hình thức đầu tư chứng khoán 8
1.1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định ĐTCK 9
1.2. Rủi ro trong đầu tư chứng khoán. 11
1.2.1. Định nghĩa: 11
1.2.2. Phân loại rủi ro chứng khoán: 12
1.2.2.1. Rủi ro hệ thống: 13
1.2.2.2. Rủi ro không hệ thống: 14
1.3. Các biện pháp quản lý rủi ro trong đầu tư chứng khoán. 14
1.3.1. Phân tích chứng khoán 15
1.3.1.1. Khái niệm và quy trình thực hiện 15
1.3.1.2. Phân tích kinh tế vĩ mô 16
1.3.1.3. Phân tích ngành 18
1.3.2. Xây dựng danh mục đầu tư 27
1.3.2.1. Các chiến lược đầu tư chứng khoán 27
1.3.3. Đánh giá chất lượng quản lý rủi ro trong đầu tư chứng khoán. 37
1.3.3.1. Các nguyên tắc trong đánh giá chất lượng quản lý rủi ro 37
1.3.3.2. Các chuẩn mực trong đánh giá 38
1.3.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng quản lý rủi ro: 41
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI TỔNG CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ PHẦN DẦU KHÍ VIỆT NAM 47
2.1 Tổng quan về Tổng công ty Cổ phần Tài chính Dầu khí 47
2.1.1. Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt nam-quá trình hình thành và phát triển 47
2.1.2. Vai trò của PVFC trong Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt nam 52
2.1.3 Kết quả hoạt động kinh doanh 2001-2007 của PVFC 54
2.1.4. Mạng lưới hoạt động của PVFC 60
2.2. Hoạt động đầu tư chứng khoán tại PVFC 62
2.2.1. Tổng quan về hoạt động đầu tư chứng khoán 62
2.2.1.1. Giai đoạn từ năm 2001-2004 62
2.2.1.2. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay 63
2.2.2. Đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư chứng khoán 65
2.2.2.1. Về giá trị và cơ cấu đầu tư 65
2.2.2.2. Về doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động đầu tư chứng khoán 68
2.3.Thực trạng quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán tại Công ty Tài chính Dầu khí 71
2.3.1.Hệ thống các quy trình, quy chế trong hoạt động đầu tư chứng khoán 71
2.3.2.Quy trình thực hiện đầu tư chứng khoán 72
2.3.3. Hoạt động quản lý rủi ro trong đầu tư chứng khoán tại PVFC 78
2.3.3.1. Vai trò của Ban Quản lý rủi ro tín dụng và đầu tư 78
2.3.3.2. Vai trò của các đơn vị đầu tư 80
2.3.4. Một số kết quả đạt được từ hoạt động quản lý rủi ro trong đầu tư chứng khoán tại PVFC. 80
2.3.5. Nhận diện một số rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán tại PVFC 82
2.3.5.1. Rủi ro trong nội tại hoạt động đầu tư chứng khoán tại PVFC 82
2.3.5.2. Rủi ro đến từ các tổ chức phát hành. 84
2.3.5.3. Rủi ro đến từ thông tin thị trường và các báo cáo nghiên cứu thị trường 87
2.3.5.4. Rủi ro về biến động giá và khả năng thanh khoản 89
2.3.5.5. Rủi ro về cơ chế chính sách của cơ quan quản lý 90
2.3.5.6. Rủi ro từ hệ thống văn bản pháp luật: 91
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI PVFC 93
3.1. Chiến lược phát triển hoạt động đầu tư chứng khoán 93
3.2. Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro trong đầu tư chứng khoán tại PVFC 94
3.2.1. Xây dựng nền tảng nguồn nhân lực cho hoạt động đầu tư chứng khoán 94
3.2.2. Xác định rõ định hướng đầu tư, đa dạng hoá danh mục đầu tư. 95
3.2.3. Quản lý và kiểm soát rủi ro 97
3.3.4. Thực hiện nghiêm túc phân tích kỹ thuật và phân tích cơ bản 99
3.3. Các kiến nghị nhằm tăng cường quản lý rủi ro trong đầu tư chứng khoán tại PVFC 100
3.3.1. Đối với Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt nam 100
3.3.2. Kiến nghị đối với UBCKNN và các cơ quan chức năng 102
3.3.2.1. Cung cấp hàng hóa có chất lượng cao cho thị trường 102
3.3.2.2. Triển khai và áp dụng các công cụ tài chính phái sinh 104
3.3.2.3. Nâng cao chất lượng hoạt động công bố và minh bạch hóa thông tin của các chủ thể tham gia trên thị trường 108
3.3.2.4. Hoàn thiện hệ thống pháp lý và nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, giám sát thị trường. 112
3.3.2.5. Hình thành và phát triển các định chế trung gian 115
3.3.2.6. Phổ biến, tuyên truyền kiến thức về CK và TTCK 117
KẾT LUẬN 120
TÀI LIỆU THAM KHẢO 121
124 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1906 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán tại Công ty Tài chính Dầu khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g vốn của Tập đoàn Dầu khí Việt nam.
Riêng đối với hoạt động đầu tư chứng khoán, PVFC xác dịnh đây là sản phẩm dịch vụ mũi nhọn, với định hướng:
Xây dựng và quản lý danh mục đầu tư với phương châm hoạt động "PVFC là một nhà đầu tư chiến lược"
Phát huy tối đa hạn mức đầu tư dự án được phép, nâng cao khối lượng vốn uỷ thác đầu tư, tập trung vào các lĩnh vực Dầu khí, năng lượng, khoáng sản, du lịch cao cấp, vật liệu xây dựng và tham gia đầu tư một số lĩnh vực ngoài ngành đạt hiệu quả kinh tế cao và đảm abảo an toàn vốn đầu tư.
Nhận ủy thác và quản trị vốn đầu tư theo yêu cầu của khách hàng. Đầu tư song song với cung cấp các dịch vụ tài chính của PVFC.
Bảng 7: Dự kiến kế hoạch đầu tư chứng khoán giai đoạn 2007-2011
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
2011
Tổng vốn đầu tư (bao gồm vốn PVFC và vốn nhận UTĐT)
10.500
25.220
36.800
48.390
Tỷ trọng vốn đầu tư/tổng nguồn vốn
14.89%
21.22%
26.82%
30.29%
Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro trong đầu tư chứng khoán tại PVFC
3.2.1. Xây dựng nền tảng nguồn nhân lực cho hoạt động đầu tư chứng khoán
Yếu tố nhân lực luôn là yêú tố quan trọng hàng đầu, xác định thành bại cho mỗi hoạt động kinh doanh, đặc biệt trong đầu tư chứng khoán.
Để có thể thu hút được các nguồn nhân lực, bên cạnh các chính sách nhân viên, các chế độ lương thưởng hợp lý thì việc tạo ra các nền tảng văn hoá, nhân văn trong môi trường làm việc là hết sức quan trọng. PVFC là một trong những đơn vị có ưu tín và thể mạnh trong chính sách tuyển dụng nhân sự, bằng chứng là PVFC đã được xêp vào “100 nhà tuyển dụng ưu tín” của cả nước. Tuy nhiên, chính sách tuyển dụng của PVFC mới chỉ hướng đến thị trường tuyển dụng nội địa. Trong khi đó, hoạt động đầu tư chứng khoán đòi hỏi chúng ta phải có những kinh nghiệm từ bên ngoài, do đó, một trong những yếu tố có thể làm tăng chất lượng nguồn nhân lực đầu tư, kể cả nguồn nhân lực cao cấp tại PVFC đó là thuê các chuyên gia, các tổ chức tư vấn nước ngoài.
Bên cạnh đó, PVFC cũng cần nâng cao nguồn nhân lực hiện có bằng việc tăng cường các khoá đào tạo trung và dài hạn tại nước ngoài. Hiện tại, hoạt động đào tạo ngắn hạn trong và ngoài nước được PVFC triển khai tương đối tốt, nhưng để thực sự các khoá học này chưa đáp ứng được nhu cầu cần thay đổi về chất lượng của nguồn nhân lực.
3.2.2. Xác định rõ định hướng đầu tư, đa dạng hoá danh mục đầu tư.
Là một nhà đầu tư có tổ chức, lại là Công ty tài chính thuộc tập đoàn kinh tế lớn, việc xác định rõ ngành nghề đầu tư và theo đuổi, quán triệt định hướng đó sẽ giúp PVFC có thể hạn chế được rủi ro, tránh phân tán nguồn lực đầu tư, đưa hoạt động đầu tư trong toàn hệ thống được thực hiện đồng bộ và chuyên nghiệp.
Bên cạnh đó, đa dạng hóa danh mục đầu tư cũng là một biện pháp phổ biến nhằm phân tán rủi ro, việc bỏ vốn đầu tư vào các trái phiếu, cổ phiếu có độ rủi ro khác nhau dựa trên những tỷ lệ đầu tư không giống nhau trên thị trường để xây dựng nên một cơ cấu tài sản hợp lý nhằm hạn chế tối đa rủi ro đầu tư.…
Do đó, một trong những trọng tâm hang đầu của PVFC là xây dựng chiến lược đầu tư vừa có thể giúp thể hiện được định hướng đầu tư nhưng vẫn có thể phân tán hóa đầu tư để giảm thiểu rủi ro. Như vậy,cần lưu ý các điểm sau:
- Xác định rõ ngành nghề cần ưu tiên đầu tư, phân định rõ nhưng ngành nghề được phép đầu tư, hạn mức đầu tư cho mỗi ngành nghề trong từng thời kỳ.
- Phải có kế hoạch đa dạng hoá danh mục đầu tư, trong đó phân bổ tỷ lệ đầu tư cho trái phiếu, cổ phiếu ngắn hạn, dài hạn cụ thể, đồng thời phân bổ tỷ lệ đầu tư cho toàn hệ thống. Qua đó, các đơn vị đầu tư có thể định lượng được chiến lược đầu tư của Tổng công ty.
Muốn vậy, hoạt động đầu tư chứng khoán tại PVFC cần phải chú ý đến các vấn đề sau đây:
+ Phải cân đối giữa nguồn vốn đầu tư chứng khoán với chiến lược đầu tư của Tổng công ty. Do thị trường chứng khoán còn non trẻ, các họat động đầu tư bị ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố tâm lý, do đó, để tránh những rủi ro dẫn đến đổ vỡ, mất vốn, việc quản trị nguồn vốn cho hoạt động đầu tư là rất quan trọng. Chúng ta cần phải xác định hạn mức đầu tư dài hạn dựa trên nguồn vốn huy động dài hạn, hạn mức đầu tư ngắn hạn dựa trên nguồn vốn huy động ngắn hạn. Và trong việc điều hành, ra quyết định đầu tư, cơ cấu khoản đầu tư cần phải tuyệt đối tôn trọng hạn mức này. Có như vậy, ta mới có thể chủ động trong hoạt động đầu tư của mình, và không chịu sức ép của thị trường.
+ Đối với việc lựa chọn ngành nghề đầu tư, cần có những phân tích, đánh giá cụ thể, có số liệu thống kê và có những dự báo tin cậy, để từ đó có cái nhìn tổng thể về ngành nghề đâu tư. Mặt khác, PVFC cũng cần linh hoạt trong việc xác định ngành nghề đầu tư. Trừ một số ngành nghề mũi nhọn, chúng ta cũng cần điều chỉnh định hướng đầu tư cho phù hợp với từng thời kỳ, phù hợp với triển vọng phát triển của ngành nghề đó. Muốn vậy, PVFC cần quan tâm phát triển hơn nữa hoạt động nghiên cứu, dự báo, để có thể đưa ra những phân tích chính xác, hợp lý về các chính sách vĩ mô, các ngành nghề kinh tế…
3.2.3. Quản lý và kiểm soát rủi ro
Song song với việc đa dạng hóa danh mục đầu tư, để đạt được tỷ lệ lợi nhuận cao đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong đầu tư CK, vấn đề đặt ra đối với PVFC là phải quản lý được mức rủi ro này. Vấn đề quan trọng nhất trong quản trị rủi ro là phải xây dựng được quy trình quản lý rủi ro. Thông thường, quản lý rủi ro được chia thành 5 bước:
- Bước 1: Nhận dạng rủi ro. Đây là bước đầu tiên nhằm tìm hiểu cặn kẽ về bản chất của rủi ro. Cách đơn giản và trực tiếp nhất là liệt kê từng nhân tố và các biến cố có thể gây ra rủi ro. Cách làm rõ bản chất của rủi ro là:
+ Thứ nhất: Nhận dạng những tác nhân kinh tế có thể gây ra rủi ro, ví dụ: yếu tố lãi suất, lạm phát, tỷ giá hối đoái, tăng trưởng kinh tế,…
+ Thứ hai: Tìm hiểu xem chiều hướng có thể gây ra rủi ro, ví dụ: việc Ngân hàng Trung ương tăng lãi suất sẽ tác động đến giá cả CK như thế nào?.
+ Thứ ba: Kiểm tra lại xem biểu hiện rủi ro đang phân tích có phụ thuộc vào biến cố nào khác hay không, chẳng hạn công ty có biểu hiện rủi ro trong trường hợp không được tín nhiệm của khách hàng,…
- Bước 2: Ước tính, định lượng rủi ro. Bước này sẽ đo lường mức độ phản ứng của công ty đối với các nguồn gốc rủi ro đã xác định ở trên. Cụ thể, dùng một phương pháp giả định nếu có nhân tố rủi ro thì công ty được gì và mất gì.
- Bưóc3: Đánh giá tác động của rủi ro. Để đánh giá rủi ro người ta thường làm bài toán chi phí và lợi tức. Đôi khi, việc quản lý rủi ro tiêu tốn nhiều nguồn lực của công ty như tiền bạc và thời gian, do đó cần phải cân nhắc xem liệu việc quản lý rủi ro như vậy có thực sự đem lại lợi ích lớn hơn chi phí bỏ ra để thực hiện nó hay không.
- Bước 4: Đánh giá năng lực của người thực hiện chương trình bảo hiểm rủi ro. Để quản lý rủi ro có 2 chiến lược:
+ Thứ nhất: Dựa vào tổ chức tài chính chuyên nghiệp, thuê họ thiết kế một giải pháp quản lý rủi ro cụ thể, thích hợp với chiến lược quản lý của công ty.
+ Thứ hai: Tự công ty đứng ra thực hiện phòng chống rủi ro bằng cách sử dụng các công cụ CK phái sinh như chứng quyền, chứng khế, quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai... đồng thời xây dựng một đội ngũ nhân viên của công ty có khả năng lập và thực hiện hàng rào chống rủi ro. Vấn đề này đòi hỏi nhân viên công ty vừa phải thiết kế đúng lại vừa phải thực hiện tốt chương trình phòng chống rủi ro bởi quản lý rủi ro cần phải được theo dõi thường xuyên và điều chỉnh kịp thời với sự biến đổi của thời gian.
- Bước 5: Lựa chọn công cụ và quản lý rủi ro thích hợp. Đây là bước mấu chốt cuối cùng trong việc xây dựng chiến lược quản lý rủi ro. Trong bước này nhà quản lý phải chọn một giải pháp cụ thể. Chẳng hạn, đối với các công cụ trên thị trường hối đoái, người ta có thể sử dụng hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn, swap... làm công cụ phòng chống rủi ro, công cụ này có ưu điểm là có tính thanh khoản cao và có hiệu quả về giá.
Bên cạnh việc quản lý rủi ro, để quá trình đầu tư được thành công đòi hỏi PVFC thực hiện tốt quá trình kiểm soát rủi ro các khoản đầu tư. Vẫn còn rất nhiều rủi ro tiềm ẩn trên thị trường sẵn sàng “ập tới” nếu lơ là mà bỏ qua giai đoạn này. Các công việc cần thiết để kiểm soát rủi ro như sau:
Thứ nhất, Thực hiện tốt công tác thống kê, tổng hợp số liệu trong từng hệ thống. Theo dõi sát sao thông tin thị trường về danh mục đầu tư hiện có, để có thể nắm rõ tình hình hiện tại của danh mục đầu tư và đưa ra những quyết định phù hợp.
Thứ hai, thường xuyên thu thập thông tin. Nắm thông tin là yêu cầu rất quan trọng trong quá trình kiểm soát các khoản đầu tư. Có nắm tốt thông tin mới có thể nhạy bén trước những biến động của thị trường, của nền kinh tế, tránh khỏi tình trạng “nước đến chân mới nhảy”. Để thực hiện được hiệu quả việc này, PVFC cần xây dựng một bộ phận chuyên nghiên cứu, phân tích và đưa ra những nhận định từ các thông tin thị trường theo định kỳ từng ngày, từng tuần. Qua đó, giúp PVFC có thể đánh giá, phân tích chính xác về sự biến động của TTCK và các cổ phiếu trên thị trường. Từ đó, đưa ra quyết định xem nên đầu tư vào loại cổ phiếu nào cho hiệu quả và an toàn.
3.3.4. Thực hiện nghiêm túc phân tích kỹ thuật và phân tích cơ bản
Theo quy trình đầu tư tại PVFC, trước khi quyết định đầu tư, các chuyên viên thực hiện cần có những phân tích cơ bản về loại chứng khoán đầu tư cũng như phân tích kỹ thuật về thị trường. Tuy nhiên, để hoạt động thực sự có hiệu quả, thì kỹ năng và chất lượng các phân tích cần được nâng cao.
Phân tích cơ bản CP nhằm cung cấp thông tin để đánh giá triển vọng tăng trưởng và lợi nhuận trên cơ sở dự báo tương lai của CP, của ngành hoạt động và của nền kinh tế. Các phương pháp được sử dụng trong phân tích cơ bản, bao gồm: chiết khấu luồng cổ tức/luồng tiền, hệ số P/E và các hệ số tài chính, đánh giá giá trị tài sản ròng, đánh giá môi trường kinh doanh và các phương pháp kết hợp khác để dự báo thu nhập tương lai của CP, đánh giá giá trị của CP trên thị trường hiện nay có hợp lý hay không. Do đó, phân tích cơ bản là phương pháp tiếp cận dài hạn, còn có nhiều biến số phải tính đến và không biết trước chắc chắn được.
Nếu như phân tích cơ bản là phương pháp nghiên cứu các thông tin tài chính như cổ tức, lợi nhuận, báo cáo thu nhập, bảng cân đối kế toán,… nhằm xác định một giá trị hợp lý của một loại CP hoặc các CP trên thị trường nói chung thì phân tích kỹ thuật là phương pháp chỉ dựa vào các diễn biến của giá và khối lượng giao dịch trong quá khứ để dự đoán xu thế giá trong tương lai, từ đó đưa ra quyết định thời điểm thích hợp để mua hoặc bán một loại CP nào đó. Việc xác định thời điểm có ý nghĩa hết sức quan trọng, đặc biệt trong giai đoạn thị trường hay biến động và khi thực hiện chiến lược đầu tư ngắn hạn. Do đó, có thể nói rằng, phân tích cơ bản được dùng để trả lời câu hỏi “Cái gì?” và phân tích kỹ thuật được dùng để trả lời câu hỏi “Khi nào?”.
Muốn thực hiện có chất lượng hoạt động phân tích, đòi hỏi PVFC cần phải trang bị những hệ thống thông tin, công nghệ tin học có chất lượng, đồng thời đầu tư những hệ thống phần mềm hỗ trợ cho hoạt động đầu tư chứng khoán, đây là một trong những điểm yếu của PVFC và cần khắc phục trong thời gian tới.
Các kiến nghị nhằm tăng cường quản lý rủi ro trong đầu tư chứng khoán tại PVFC
Đối với Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt nam
Với quan điểm phát triển Tổng Công ty Tài chính Dầu khí dựa trên cơ sở vị thế tài chính của ngành Dầu khí và phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển Tập đoàn Dầu khí, với các sản phẩm dịch vụ đa dạng, trong đó sản phẩm đầu tư tài chính là sản phẩm nòng cốt.
Đồng thời, với mục tiêu tổng quát xây dựng Tổng Công ty Tài chính Dầu khí trở thành Tập đoàn tài chính hàng đầu tại Việt Nam. Đến năm 2015 sẽ là Tập đoàn tài chính quan trọng nhất, là xương sống trong các định chế tài chính khác của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, đáp ứng được tối đa nhu cầu vốn cho các dự án của Tập đoàn, thì việc hỗ trợ Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt nam là hết sức quan trọng.
Trước hết, đó là sự hỗ trợ về cơ chế hoạt động. Là một tập đoàn kinh tế hang đầu tại Việt nam, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực Dầu khí, Năng lượng, thì việc xây dựng các định chế tài chính mạnh, thực hiện chức năng điều hoà, tăng hiệu quả cho dòng chảy vốn, là hết sức quan trọng. Riêng với PVFC, để có thể phát huy được hết thế mạnh trong ngành, cần có cơ chế hoạt động, phối hợp đồng bộ giữa Tập đoàn, các đơn vị trong ngành và PVFC, giúp cho PVFC có thể tham gia đầu tư vào các dự án, các đơn vị làm ăn hiệu quả trong ngành, đồng thời, cũng tạo điều kiện để PVFC có thể cùng Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt nam đầu tư vào các ngành nghề, lĩnh vực có hiệu quả phát triển trong và ngoài nước.
Yếu tố nguồn vốn cũng là một trong những yếu tố quan trọng hang đầu trong hoạt động đầu tư. Để hoạt động đầu tư chứng khoán tại PVFC thực sự hiệu quả và bền vững, cần có sự hỗ trợ của Tập đoàn trong việc được quản trị và sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi của Tập đoàn. Thông qua các chức năng của mình, như tín dụng, đầu tư….PVFC sẽ góp phần sử dụng hiệu quả nguồn vốn đó, đồng thời, đây cũng sẽ tạo nên lợi thế của PVFC so với các nhà đầu tư có tổ chức khác trên thị trường.
Một yếu tố nữa cần sự hỗ trợ to lớn từ Tập đoàn đó là vấn đề con người. Một trong những lĩnh vực ưu tiên đầu tư hang đầu của PVFC là Dầu khí, Năng lượng và khoáng sản…, đây cũng là lĩnh vực hoạt động chinh của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt nam và nhiều đơn vị thành viên. Do đó, PVFC rất cần sự hỗ trợ của tập đoàn về các ý kiến tư vấn chuyên môn, kinh nghiệm và kỹ năng triển khai hoạt động trong các lĩnh vực này.
3.3.2. Kiến nghị đối với UBCKNN và các cơ quan chức năng
3.3.2.1. Cung cấp hàng hóa có chất lượng cao cho thị trường
Tăng cung, kích cầu là những vấn đề nhức nhối của cơ quan quản lý từ trước đến nay. Với đặc điểm của một nền kinh tế mà các DNNN là chủ yếu, hàng hóa cung cấp cho TTCK trông chờ chủ yếu từ các DNNN này. Do vậy, để nâng cao chất lượng CK giao dịch, chương trình cải cách các DNNN cần được đẩy mạnh, UBCKNN phối hợp với Cục Tài chính Doanh nghiệp xây dựng kế hoạch đưa các Tổng công ty Nhà nước, DNNN có quy mô lớn, làm ăn có hiệu quả trình Thủ tướng Chính phủ cho thí điểm thực hiện CPH gắn với niêm yết, chuyển đổi các DN có vốn đầu tư nước ngoài thành CTCP và hướng dẫn các công ty đó niêm yết trên TTCK.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần hỗ trợ và tạo điều kiện các DN CPH đưa CP lên niêm yết như: hỗ trợ về thuế, hỗ trợ nâng cấp hệ thống quản trị DN, sản phẩm,… đồng thời giúp bản thân DN thấy được lợi ích khi tham gia niêm yết trên TTCK như: giúp DN tiếp cận với một kênh huy động vốn mới có hiệu quả hơn từ đó tăng thêm khả năng có được nguồn vốn dài hạn để đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh, quảng bá hình ảnh và thương hiệu đến công chúng đầu tư,…
Nhìn chung, các công ty niêm yết hiện nay trên TTCK chưa phải là những công ty hàng đầu và ngành nghề của những công ty này chưa bao quát hết toàn bộ nền kinh tế, do đó nên tăng cường niêm yết CP của các công ty lớn với những ngành nghề đa dạng và những công ty độc quyền của Nhà nước từ trước đến nay như: bưu chính viễn thông, dầu khí, hàng không, điện lực… để vừa góp phần tạo sức bật cho thị trường cũng như thu hút nhiều hơn nữa các NĐT trong và ngoài nước, vừa góp phần xây dựng TTCK trở thành một “hàn thử biểu” của nền kinh tế. Triển vọng của TTCK Việt Nam sắp đến sẽ trở nên sôi động hơn bởi sự tham gia của nhiều DN lớn, làm ăn có hiệu quả và có uy tín như: Vietcombank, BIDV, Incombank, MHB, Mobifone, Vinafone,… Việc CP của những ngành làm ăn có hiệu quả và mang lại lợi nhuận cao được tham gia niêm yết và giao dịch trên TTCK tập trung là sự chờ đợi và kỳ vọng của nhiều NĐT.
Đối với các CTCP mà Nhà nước không nắm cổ phần chi phối, hoạt động có hiệu quả cao và có triển vọng phát triển cần tạo điều kiện khuyến khích tối ưu về cơ chế để họ dễ dàng niêm yết. Cần thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu về thị trường, về lợi ích của việc niêm yết đến các CTCP. Việc phổ cập hóa kiến thức CK không chỉ diễn ra với đối tượng là các NĐT, mà giám đốc, chủ tịch HĐQT các CTCP cũng là những đối tượng cần được xóa mù CK ở Việt Nam.
Thị trường CP phát triển đến đâu thì Chính phủ cũng nên quan tâm đến sự phát triển của thị trường TP. Điều này đáp ứng phần lớn nhu cầu của các NĐT muốn tham gia thị trường nhưng ngại rủi ro, xem mức độ an toàn của CK là yếu tố quyết định sự lựa chọn của chính mình. Do đó, cần cải tiến phương pháp phát hành TP Chính phủ, tăng cường phát hành theo phương pháp đấu thầu, đa dạng hóa các kỳ hạn của TP Chính phủ, triển khai phát hành TP Quỹ hỗ trợ phát triển, TP địa phương, TP công trình, đô thị lên niêm yết và giao dịch trên TTCK.
Tăng cung có chất lượng chính là kích cầu. Tuy nhiên, với đặc trưng TTCK Việt Nam còn trong thời kỳ sơ khai, cần thận trọng phát triển TTCK bằng những DN có chất lượng trước, những DN có khả năng tăng trưởng lợi nhuận hàng năm thì giá CP đương nhiên sẽ tăng qua từng năm, tăng một cách có cơ sở và thực chất. Không cách gì hấp dẫn các NĐT đến với TTCK một cách hữu hiệu hơn là hạn chế được một phần rủi ro và gia tăng cơ hội tìm kiếm lợi nhuận cho họ. Cần giúp NĐT kiếm tiền trước khi thuyết phục họ đổ những lượng tiền lớn hơn vào thị trường. Muốn hình thành một tầng lớp NĐT chuyên nghiệp trong mười năm nữa chúng ta phải có một lượng NĐT tham dự thị trường ngày hôm nay.
Tóm lại, việc tăng hàng hóa có chất lượng cao là rất cần thiết cho TTCK. Tuy nhiên, việc tăng này cần diễn ra một cách thận trọng, từng bước. Bản chất thị trường là nơi gặp gỡ cung - cầu. Giá cả hàng hoá do quan hệ cung - cầu quyết định, việc vội vã tăng cung trong khi không có một lượng cầu tương ứng có thể làm TTCK sụp đổ hoặc trầm lắng kéo dài. Ngoài ra, ngay cả khi đã có một lượng cầu tương ứng, thì lượng cầu này cũng chỉ tập trung vào những CP tốt. Việc nhiều CP đã đăng ký niêm yết 3, 4 năm nay mà vẫn chỉ có lượng giao dịch nhỏ bé, không hề được quan tâm, có mặt trên TTCK chỉ để… tượng trưng là bài học cần rút kinh nghiệm. Chính những DN yếu kém này đã và đang làm xấu đi hình ảnh TTCK Việt Nam. Như vậy, khái niệm tăng cung cần được hiểu là tăng cung có chất lượng. Những DN được xem xét niêm yết phải là những DN tốt nhất có thể. Những DN đủ điều kiện niêm yết, nhưng có chất lượng kém hơn sẽ được xem xét đưa lên niêm yết sau. Việc vội vã phát triển TTCK quá nhanh không chọn lọc có thể làm “ô nhiễm” TTCK ngay từ đầu, trong khi với tiềm năng của nền kinh tế hiện tại, Việt Nam hoàn toàn có thể tạo ra một thị trường với những DN rất tốt làm nền tảng.
3.3.2.2. Triển khai và áp dụng các công cụ tài chính phái sinh
Sự biến động theo chiều hướng tiêu cực của TTCK trong thời gian qua đã gây ra tâm lý bất an cho các NĐT. Vậy đâu là nguyên nhân khiến cho họ phải gánh chịu toàn bộ thua lỗ trong khi đáng lẽ ra họ có thể hạn chế được phần nào rủi ro đó. Điều cần nói đến nhất là TTCK Việt Nam chưa thực sự có các công cụ hạn chế rủi ro. Trong khi đó, ở các TTCK phát triển trên thế giới, NĐT lại có các công cụ phái sinh để giảm thiểu thua lỗ, bao gồm: quyền chọn bán (Put option), quyền chọn mua (Call option), hợp đồng hoán đổi (Swap), hợp đồng tương lai (Futures), hợp đồng kỳ hạn (Forward). Những người môi giới CK hoạt động rất hiệu quả với chức năng trung gian thực hiện các giao dịch và tư vấn, giúp NĐT đánh giá danh mục đầu tư của mình. Trong khi đó, TTCK Việt Nam còn thiếu các công cụ này và vai trò của môi giới CK cũng chưa thực sự được phát huy. Vì vậy, khi thị trường tụt dốc, hàng loạt CP giảm giá thì các NĐT phải gánh chịu toàn bộ rủi ro. Nói một cách khác, việc đầu tư của họ chịu tác động rất lớn từ sự biến động của thị trường nhưng họ lại không thể chủ động hạn chế rủi ro. Cách phổ biến nhất mà các NĐT trên thị trường Việt Nam lựa chọn để giảm thua lỗ là đầu tư vào nhiều loại CK hay mở rộng danh mục đầu tư. Cách làm này cũng góp phần hạn chế được rủi ro nhưng cũng sẽ không hiệu quả khi thị trường liên tục tụt dốc và hầu hết các loại CK đều đồng loạt giảm giá như giai đoạn vừa qua. Do đó, việc triển khai và đưa vào sử dụng các loại sản phẩm phái sinh trên TTCK Việt Nam là một nhu cầu không thể thiếu được cho các NĐT, DN và cho cả nền kinh tế.
Quyền chọn mua: người mua quyền chọn trả một khoản tiền (gọi là phí quyền chọn) cho người bán. Người mua sẽ có quyền được mua (không bắt buộc mua) một lượng tài sản nhất định theo một mức giá thoả thuận trước, tại một thời điểm xác định trong tương lai. Người bán nhận phí quyền chọn có trách nhiệm phải bán một lượng tài sản như đã thoả thuận cho người mua, theo mức giá đã thoả thuận vào thời điểm xác định trong tương lai (hoặc trước thời điểm đó) khi người mua muốn thực hiện quyền chọn mua. Các NĐT sử dụng quyền chọn mua khi phân tích và đưa ra dự đoán, kỳ vọng giá cổ phiếu sẽ tăng lên trong tương lai. Nếu giá CK tăng như dự đoán thì người mua hợp đồng sẽ thu được lợi nhuận trong khi chỉ phải đầu tư một khoản nhỏ (phí hợp đồng) hơn là phải bỏ tiền ra mua toàn bộ số CK đó, trường hợp này thì hợp đồng quyền chọn mua có lãi.
Quyền chọn bán: người mua quyền chọn bán sẽ trả phí cho người cung cấp quyền chọn bán để đảm bảo rằng cổ phiếu của mình sẽ được giao dịch ở một mức giá nhất định trong tương lai. Quyền chọn bán được sử dụng khi các NĐT lo lắng về giá CP có thể giảm xuống trong tương lai.
Lúc mua, bán các hợp đồng này ban đầu không hề diễn ra việc chuyển giao CK thực tế mà đúng hơn chỉ là sự trao quyền mua một loại tài sản tài chính để đổi lại một khoản phí. Do có những nguồn thông tin khác nhau, cách phân tích, đánh giá khác nhau cho nên mới nảy sinh sự kỳ vọng khác biệt giữa người mua và người bán, dẫn đến việc các hợp đồng quyền chọn mua, quyền chọn bán được ký kết giữa các bên.
Hợp đồng tương lai: là loại hợp đồng trong đó có sự thoả thuận giữa các bên ký hợp đồng về những nghĩa vụ mua, bán phải thực hiện theo mức giá đã được xác định cho tương lai mà không phụ thuộc vào giá cả của thị trường tại thời điểm tương lai đó. Các NĐT mua và bán các hợp đồng tương lai với mục đích nhằm giảm bớt sự lo ngại xảy ra những biến cố khiến giá bị đẩy lên cao hay xuống thấp trong thời gian sau đó.
Hợp đồng kỳ hạn: là loại hợp đồng trong đó có sự thoả thuận giữa các bên ký hợp đồng về giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với mức giá xác định vào thời điểm ký hợp đồng. Mức giá trong hợp đồng kỳ hạn có thể thay đổi tại thời điểm giao nhận hàng hoá theo sự thoả thuận của các bên.
Điểm khác biệt giữa hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng tương lai là giá cả do hai bên tự thỏa thuận với nhau dựa theo những ước lượng mang tính cá nhân và giá này vào thời điểm giao nhận hàng hoá có thể thay đổi, tăng lên hoặc giảm xuống so với mức giá đã ký kết trong hợp đồng.
Với vai trò là một công cụ bảo vệ lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro. Những lợi ích của các công cụ phái sinh luôn được các NĐT khai thác triệt để nhằm tránh những khoản thua lỗ do sự biến động của giá cả. Một cách đơn giản, với việc mua các công cụ phái sinh, các NĐT đang đánh cược rằng thị trường sẽ biến động theo chiều hướng ngược lại mong muốn sinh lời của mình; từ đó, với “một mũi tên trúng hai đích”, các nhà đầu từ vừa có được lợi nhuận nếu giá cổ phiếu lên cao, vừa đảm bảo sẽ không thua lỗ trong trường hợp cổ phiếu mất giá. Do đó, nếu biết vận dụng các kỹ thuật mua bán CK kết hợp với công cụ phái sinh, các NĐT có thể bảo vệ được lợi nhuận trong kinh doanh CK một cách hữu hiệu. Qua đó, sẽ thu hút thêm nhiều NĐT còn e ngại về mức độ mạo hiểm, rủi ro trên TTCK mạnh dạn tham gia thị trường. Khi nhiều người tham gia thị trường sẽ có tác động kích cầu, điều này làm cho thị trường mở rộng và phát triển sôi động. Hơn nữa, việc ứng dụng giao dịch các công cụ phái sinh vừa đáp ứng được sự mong đợi, vừa đem lại cho NĐT trên TTCK Việt Nam một công cụ đầu tư mới.
Bên cạnh đó, việc áp dụng các công cụ phái sinh còn có tác động gián tiếp đến các công ty niêm yết và nền kinh tế. Chẳng hạn như, một công ty niêm yết nhận thấy quyền chọn bán CP của công ty mình được mua bán liên tục trên thị trường là dấu hiệu cho thấy thị trường dự đoán giá CP của công ty sẽ đi xuống và điều này cho thấy uy tín của công ty trên thị trường đang giảm dần. Như vậy, công ty có thể nhìn vào xu hướng giao dịch công cụ phái sinh như quyền chọn, hợp đồng giao sau trên thị trường để nhận biết sự đánh giá của thị trường đối với công ty mình, điều này giúp công ty có những điều chỉnh kịp thời trong chiến lược kinh doanh để giữ uy tín trên thị trường. Như vậy, các công cụ phái sinh giúp NĐT giám sát gián tiếp hoạt động của các công ty niêm yết. Một khi có thêm người giám sát, đòi hỏi công ty niêm yết phải nỗ lực hơn trong hoạt động kinh doanh.
Ở các TTCK phát triển, các công cụ phái sinh đã giúp cho nhiều người hạn chế, thậm chí là thoát khỏi các vụ thua lỗ lớn. Nhưng đối với các NĐT mạo hiểm thì công cụ này lại không có ý nghĩa lớn vì họ chấp nhận rủi ro để được lợi nhuận cao. Mặt khác, TTCK ở những nước phát triển tương đối ổn định nên đôi khi công cụ này không đem lại nhiều lợi nhuận như mong muốn. Tuy nhiên, với một TTCK còn đang phát triển ở những giai đoạn đầu như Việt Nam thì công cụ hạn chế rủi ro này lại có ý nghĩa rất lớn. Nó giúp cho các NĐT bảo vệ được khoản tiền của mình khi có những biến cố xảy ra ngoài dự kiến. Hơn nữa, việc đầu tư cũng trở nên hiệu quả hơn bằng cách kết hợp giữa mua/bán CP với mua/bán CK phái sinh để có lợi nhuận, kể cả trong trường hợp thị trường tụt dốc. Hy vọng rằng trong một tương lai gần, CK phái sinh sẽ được giao dịch ở Việt Nam và các NĐT sẽ không còn bị phụ thuộc quá nhiều vào sự biến động của thị trường như hiện nay.
3.3.2.3. Nâng cao chất lượng hoạt động công bố và minh bạch hóa thông tin của các chủ thể tham gia trên thị trường
Thông tin có vai trò cực kỳ quan trọng trên TTCK. Các thông tin tốt hay xấu ngay lập tức đều tác động đến giá CK. Độ tin cậy của thông tin chính là cơ sở để NĐT đưa ra quyết định đầu tư và là yếu tố quyết định thành công hay thất bại của danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro đầu tư. Công khai hóa và minh bạch hóa thông tin là yếu tố bắt buộc đối với mọi chủ thể phát hành CK. Đây là một trong những điều kiện tiên quyết cho một TTCK minh bạch, NĐT chỉ thực sự yên tâm khi thông tin trên thị trường có tính hoàn hảo cao.
Điều 9 Luật Chứng khoán qui định về những hành vi bị nghiêm cấm: “Trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện hành vi gian lận, lừa đảo, tạo dựng thông tin sai sự thật hoặc bỏ sót thông tin cần thiết gây hiểu lầm, gây hậu quả nghiêm trọng….”. Nhưng như thế nào là thông tin cần thiết và gây hậu quả như thế nào được coi là nghiêm trọng thì vẫn chưa được làm rõ. Song song với điều đó là các biện pháp chế tài đảm bảo việc thực thi nghiêm chỉnh các qui định trên.
Ngày 08/08/2007, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 97/2007/TT-BTC hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 36/2007/NĐ-CP ngày 08/03/2007 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực CK và TTCK Tuy nhiên, thực tế diễn biến trên TTCK thời gian vừa qua cho thấy các khung xử lý vi phạm còn nhẹ và chưa cương quyết, chưa rõ ràng nên không có tác dụng răn đe. Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 trong đó có qui định về việc thanh tra và xử lý vi phạm. Do đó, trong quá trình thực hiện cần mạnh dạn xử lý các hành vi vi phạm công bố thông tin để tạo ra một tiền lệ và thói quen tuân thủ pháp luật của các đối tượng có nghĩa vụ công bố thông tin. Tùy theo mức độ nghiêm trọng hay hậu quả mang lại thì bên cạnh việc xử phạt hành chính cần phải xem xét đến khả năng truy cứu trách nhiệm hình sự. Bên cạnh đó, cần phải có một ban giám sát tài chính có trình độ chuyên môn cao và hoạt động độc lập để kiểm tra tình hình hoạt động và các báo cáo tài chính của các công ty niêm yết dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế, từ đó phát hiện ra những điểm bất bình thường của các DN để khuyến cáo và cảnh báo cho NĐT. Có như vậy, lòng tin NĐT – một nhân tố rất quan trọng trên TTCK Việt Nam mới được khôi phục và duy trì.
Hiện nay, nhiều thông tin do các công ty cổ phần đưa ra còn thiếu tính trung thực, chính xác do chưa có cơ quan nào thẩm định; thị trường nhiều rủi ro, bất lợi cho các NĐT. Do vậy, thông tin cáo bạch của các công ty đôi khi không có giá trị. Vì vậy, cơ quan chức năng cần có cơ chế để ràng buộc các công ty niêm yết tuân thủ nguyên tắc công bố thông tin ra thị trường. Đồng thời đưa ra công cụ quản lý hiệu quả để tạo tính công khai, minh bạch; sớm triển khai hiệu quả Luật Chứng khoán có cơ chế, chính sách gắn quyền lợi, trách nhiệm của DN sau CPH; ban hành quy định giám sát chống độc quyền... Bộ Tài chính, UBCKNN cần có quy định về việc cung cấp thông tin, tạo điều kiện thuận lợi cho NĐT. Bên cạnh đó, cần ban hành cơ chế kiểm tra, kiểm soát các thành phần tham gia vào TTCK; cần nâng cấp hệ thống tin học, nhân sự đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trên thị trường.
Các DN niêm yết và cả các công ty đại chúng nên đầu tư nhiều hơn cho bộ phận công bố thông tin để hình thành văn hóa quan hệ với NĐT. Các DN niêm yết cần xây dựng qui trình công bố thông tin trong nội bộ công ty trên cơ sở qui trình công bố thông tin mẫu của TTGDCK. Đồng thời, để nâng cao chất lượng công bố thông tin, các công ty cần lập ra bộ phận chuyên trách theo dõi và kiểm tra việc công bố thông tin của bộ phận trên, tiến tới chuẩn hóa chức vụ, tiêu chuẩn của người chịu trách nhiệm công bố thông tin như: phải có kiến thức nhất định về kinh tế tài chính, luật pháp và công nghệ thông tin. Khi có những sự kiện xảy ra có khả năng ảnh hưởng đến SXKD, giá CP trên thị trường thì các công ty niêm yết cần phải báo cáo công khai ngay lập tức. UBCKNN cần chủ động xác minh tính chính xác của thông tin để đề phòng trường hợp các thông tin gây nhiễu thị trường và công bố kết quả trên website của UBCKNN, TTGDCK được cập nhật liên tục. NĐT có thể dùng bất cứ biện pháp gì như email, điện thoại, fax... để tìm hiểu thông tin về DN, tránh mua bán dựa theo tin đồn. Có như vậy, NĐT mới dễ dàng tiếp cận thông tin hơn. Đồng thời, UBCKNN phải thường xuyên bám sát những biến động của thị trường để kịp thời có những biện pháp giải quyết linh hoạt trong khuôn khổ pháp luật cho phép.
Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, để có thể phát triển được, TTCK Việt Nam nói chung, các DN nói riêng, rất cần thu hút sự tham gia của NĐT nước ngoài. Để thu hút được đối tượng này, việc minh bạch hóa thông tin và trách nhiệm công bố thông tin cần phải trở thành thói quen bình thường đối với các chủ thể trên TTCK. Tuy nhiên, làm thế nào để công bố thông tin trở thành văn hóa kinh doanh của các DN Việt Nam; làm thế nào để DN nhận thấy việc kiểm toán báo cáo tài chính là cần thiết cho lợi ích của chính mình thì không thể trông chờ vào nỗ lực của UBCKNN mà còn cần sự hợp tác và ý thức minh bạch hóa thông tin của chính các DN, làm cho các DN thấy được lợi ích của việc công khai hóa thông tin để từ đó tiến hành việc công bố thông tin một cách tự nguyện.
Trong thời gian qua, công tác kiểm toán đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo dựng niềm tin đối với các NĐT trên TTCK. Chứng nhận của kiểm toán là một trong những căn cứ để NĐT ra quyết định, vì thế nếu thông tin không xác thực có thể dẫn tới quyết định sai lầm, ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền lợi của các NĐT, vi phạm nguyên tắc công bằng trên TTCK. Các thông tin do các kiểm toán viên đưa ra đòi hỏi tính trung thực, hợp lý, khách quan và có độ tin cậy cao không chỉ riêng đối với TTCK mà cả với cơ quan Nhà nước và những người sử dụng kết quả kiểm toán. Qua đó, cho thấy yếu tố đạo đức nghề nghiệp của người làm kiểm toán đóng vai trò rất quan trọng. Trong quá trình kiểm toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp yêu cầu kiểm toán viên và người hành nghề kế toán phải thực sự không bị chi phối hoặc bị tác động bởi bất kỳ lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào làm ảnh hưởng đến sự trung thực, khách quan và độc lập nghề nghiệp của mình.
Nhìn chung, đội ngũ kiểm toán viên nước ta hiện nay không chỉ thiếu về lượng, yếu về chất mà còn quá ít người có trình độ kiểm toán đạt chuẩn quốc tế. Các báo cáo tài chính của các DN mặc dù đã thông qua kiểm toán nhưng hầu như thị trường không tin tưởng vào các báo cáo này. Do đó, bộ máy thanh tra, kiểm soát thị trường cần thu hút các chuyên gia có kinh nghiệm để kiểm tra lĩnh vực này. Bên cạnh đó, các DN kiểm toán cần quan tâm đến công tác đào tạo, nâng cao năng lực chuyên môn và tính bảo mật thông tin cho nhân viên nghiệp vụ nhằm đảm bảo tuân thủ các chuẩn mực chuyên môn, đó cũng là những nguyên tắc cơ bản của đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động kiểm toán, đồng thời các DN kiểm toán cũng phải xây dựng và thực hiện hệ thống kiểm soát chất lượng đối với dịch vụ kiểm toán, các dịch vụ đảm bảo và các dịch vụ liên quan khác.
Ngày 15/05/2007 Bộ Tài chính ban hành quyết định số 32/2007/QĐ-BTC ban hành Quy chế kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán. Quy chế này nhằm mục đích xem xét việc xây dựng và thực hiện hệ thống kiểm soát chất lượng, bao gồm các chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng dịch vụ của các DN kế toán, kiểm toán để đảm bảo các dịch vụ kế toán và các cuộc kiểm toán đều được tiến hành phù hợp với quy định của pháp luật và các chuẩn mực nghề nghiệp. Thông qua quy chế này, Bộ Tài chính mong muốn phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những tồn tại, tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục để hoàn thiện hệ thống kiểm soát chất lượng, quy trình nghiệp vụ và phương pháp làm việc của đơn vị nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán, làm tăng độ tin cậy của xã hội đối với thông tin tài chính và nghề nghiệp kế toán, kiểm toán.
3.3.2.4. Hoàn thiện hệ thống pháp lý và nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, giám sát thị trường.
Chứng khoán là một thị trường nhạy cảm, nơi mà lòng tin của NĐT vào sự hưng thịnh của nền kinh tế, vào tính minh bạch của thị trường quyết định đến thành công của thị trường. Trong thời gian qua, niềm tin của NĐT vào TTCK ở nước ta đang bị lung lay bởi rất nhiều lý do, trong đó đáng kể nhất là thị trường thiếu tính minh bạch. Giao dịch nội gián, tiết lộ thông tin nội bộ, cổ đông lớn chèn ép cổ đông nhỏ, hối lộ bằng quyền mua CP, ưu tiên lệnh công ty trước lệnh khách hàng,… và hàng loạt các vi phạm khác nhưng chưa được xử phạt một cách đúng mức, chưa đủ sức răn đe làm cho NĐT cảm thấy nỗ lực của cơ quan quản lý nhằm tăng cường tính minh bạch cho thị trường còn yếu ớt. Do đó, để xác định khung xử phạt hợp lý cần có những tổng kết thực tế để sửa nghị định, kiến nghị Quốc hội sửa Luật.
Còn rất nhiều việc phải làm để xây dựng hành lang pháp lý nhằm tăng cường tính minh bạch, giảm rủi ro cho thị trường và tính cấp bách của vấn đề này không cho phép kéo dài hơn nữa. Các hoạt động kiểm tra, thanh tra phát hiện vi phạm của cá nhân và DN phải được xử phạt thật nặng để làm gương, chắc chắn sẽ tác động tích cực đến thị trường.
Một môi trường pháp lý ổn định và đầy đủ là nhân tố đầu tiên đảm bảo lòng tin của NĐT. Theo đó, các NĐT trong nước và nước ngoài chỉ có thể đầu tư vào TTCK nếu họ nhận thấy rằng vốn đầu tư cũng như kỳ vọng sinh lời của họ được bảo vệ bởi một khuân khổ luật pháp minh bạch và an toàn. Với sự ra đời của Luật Chứng khoán và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007, đã từng bước hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho các chủ thể tham gia TTCK Việt Nam, khắc phục được những hạn chế của Nghị định 144/2003/NĐ-CP ban hành ngày 28/11/2003, đảm bảo tính công bằng, công khai, minh bạch của thị trường. Luật Chứng khoán ra đời tạo cơ sở pháp lý cho TTCK Việt Nam phát triển ổn định, an toàn, có hiệu quả, tạo niềm tin cho NĐT, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động trên TTCK. Một tiêu chí cần đạt được trong quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và tăng cường năng lực hoạch định chính sách của UBCKNN là tiếp cận các chuẩn mực quốc tế và phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam. Song song với việc hoàn thiện Luật Chứng khoán, cần bổ sung và hoàn thiện thêm một số luật như: Luật hình sự, Luật đầu tư, Luật các tổ chức tín dụng, Pháp lệnh ngoại hối,… Hoạt động của TTCK chắc chắn sẽ phát sinh một số tội danh mới cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự chưa được được qui định trong Luật hình sự, nên cần bổ sung thêm một số điều khoản về tội danh như: thông tin sai sau khi xin phép phát hành CK, mua bán nội gián, lũng đoạn thị trường,… gây thiệt hại cho NĐT. Ngoài ra, cũng cần xem xét chỉnh sửa qui chế về chế độ quản lý ngoại hối đối với các NĐT nước ngoài, đặc biệt là cơ chế lưu ký, thanh toán đối với các tổ chức lưu ký nước ngoài. Đồng thời, nghiên cứu hoàn chỉnh chính sách về sự tham gia của bên nước ngoài vào TTCK Việt Nam; chính sách thuế đối với các tổ chức niêm yết và đăng ký giao dịch trên các TTGDCK; chỉnh sửa quy định về kế toán đối với các tổ chức tham gia thị trường theo hướng tiếp cận dần với hệ thống kế toán quốc tế. Việc xây dựng Luật Chứng khoán và hoàn thiện các luật có liên quan sẽ giúp cho TTCK Việt Nam hoạt động hiệu quả và ổn định.
Hiện nay, việc giám sát TTCK vẫn được thực hiện theo hướng SGDCK và TTGDCK là nơi giám sát giao dịch, còn các ban chức năng tại UBCKNN thì giám sát việc tuân thủ điều kiện cấp phép hoặc phát hành của khối CTCK, công ty đại chúng. Với hai loại giám sát này, những hiện tượng giao dịch lũng đoạn, giao dịch bất thường, giao dịch có ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của các NĐT khác ra thị trường rất ít được các nhà giám sát phát hiện và công bố. Bên cạnh đó, hoạt động tư vấn, giám sát, định giá cổ phần để niêm yết, chất lượng và quản lý thông tin còn hạn chế; các quy định về quản lý, kiểm soát thị trường đảm bảo phát triển bền vững còn thiếu và chưa đồng bộ; sự chủ động của các bộ, ngành chức năng cũng như sự phối hợp liên ngành để thực hiện quản lý, kiểm soát TTCK chưa thật tốt; năng lực quản lý giám sát thị trường của UBCKNN còn yếu. Trước những hạn chế này, UBCKNN cần phải:
- Phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước, các cơ quan chức năng khác chỉ đạo tăng cường giám sát hoạt động của thị trường, phát triển thị trường các giao dịch chính thức, tăng cường quản lý các công ty đại chúng theo quy định của Luật Chứng khoán nhằm kiểm soát thị trường phi tập trung (OTC).
- Xây dựng chương trình và tổ chức kiểm tra định kỳ hoạt động của các tổ chức tham gia thị trường, tập trung vào việc đánh giá các công ty niêm yết, CTCK, công ty quản lý quỹ.
- Tăng cường công tác giám sát các hoạt động của các quỹ đầu tư CK, đặc biệt đối với các quỹ đầu tư CK nước ngoài phải bảo đảm hoạt động theo đúng các quy định của pháp luật về tỷ lệ CP, công bố thông tin và các quy định hiện hành khác.
- Tăng cường giám sát hoạt động giao dịch trên SGDCK, TTGDCK; chú trọng kiểm soát việc thực hiện quy định về công bố thông tin của các tổ chức, cá nhân hoạt động trên TTCK; bảo đảm tuân thủ quy trình về đặt lệnh giao dịch, lưu ký, thanh toán CK để các hoạt động này đều được thực hiện một cách công khai, minh bạch, đúng pháp luật.
- UBCKNN phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh việc thông tin tuyên truyền với nội dung và phương thức đa dạng để công chúng có sự hiểu biết hơn về những lợi ích cũng như những rủi ro khi tham gia thị trường.
Đối với Ngân hàng Nhà nước, cần phải giám sát hoạt động của các NHTM trong hoạt động repo, huy động, cho vay, cầm cố để đầu tư CK; xây dựng, củng cố về tổ chức và áp dụng các công cụ quản lý thích hợp để bảo đảm giám sát được luồng vốn đầu tư nước ngoài vào TTCK trong mối liên hệ giữa TTCK và thị trường tiền tệ.
3.3.2.5. Hình thành và phát triển các định chế trung gian
Hiện nay, số tổ chức phát triển cộng đồng ở nước ta còn quá ít so với nhu cầu thị trường cũng như so với các nước trên thế giới. Hiện tại, trên TTCK Việt Nam mới chỉ có Hiệp hội các NĐT tài chính (VAFI) và Hiệp hội kinh doanh CK. Vì vậy, nên có chính sách phát triển các hình thức này để thu hút các NĐT tiềm năng cũng như các NĐT chiến lược và củng cố thêm lòng tin của các NĐT hiện tại.
Nhà nước cần có chính sách khuyến khích sự ra đời và phát triển các định chế tài chính trung gian như: Hiệp hội đầu tư CK, Hiệp hội tư vấn CK, Hiệp hội bảo vệ các NĐT,… Các hiệp hội này có chức năng và tôn chỉ riêng của mình. Hiệp hội đầu tư CK được thành lập và hoạt động nhằm bảo vệ lợi ích của các NĐT, đưa ra sự tư vấn đầu tư một cách độc lập và chuyên nghiệp cho các NĐT, nhất là công chúng đầu tư. Hiệp hội tư vấn CK là tổ chức nghề nghiệp của các nhà tư vấn, phân tích CK, được thành lập và hoạt động để nâng cao nghề nghiệp của các nhà tư vấn, đồng thời thúc đẩy phong trào giáo dục CK ra công chúng. Hiệp hội bảo vệ các NĐT chỉ chuyên bảo vệ lợi ích NĐT theo pháp luật hiện hành, luôn đấu tranh chống những biểu hiện hành vi vi phạm pháp luật và là chỗ dựa tin tưởng cho các NĐT.
Ngày nay, hầu hết TTCK của các nước trên thế giới đều tồn tại ít nhất một tổ chức định mức tín nhiệm, một phần là do xu thế của thời đại, nhưng phần lớn là do vai trò quan trọng của tổ chức định mức tín nhiệm trên thị trường tài chính. Nhưng hiện nay so với các nước trong khu vực và trên thế giới, các tổ chức này ở Việt Nam còn khá mới mẻ và chưa có một tổ chức tín nhiệm nào được thành lập.
Khi quyết định thực hiện đầu tư vào CK của một DN nào đó, ngoài việc thu thập các thông tin cơ bản liên quan đến công ty, NĐT có thể sử dụng nguồn thông tin từ bảng xếp hạng của các tổ chức định mức tín nhiệm. Khi các tổ chức tín nhiệm ra đời, công tác giám sát thị trường có thể được thực hiện tốt hơn, các NĐT cá nhân sẽ yên tâm hơn khi đầu tư vào các công cụ tài chính. Tuy nhiên, quá trình ra đời của các tổ chức định mức tín nhiệm tại Việt Nam cần có sự chuẩn bị chu đáo, bởi vì ngành định mức tín nhiệm có những hoạt động hết sức nhạy cảm liên quan đến lòng tin của công chúng, một khi kết quả định mức tín nhiệm bị phát hiện do cố ý làm sai lệch thì ngành định mức tín nhiệm thậm chí có thể bị sụp đổ vì khó có thể xây dựng lại lòng tin. Vì vậy, tính độc lập của quá trình định mức tín nhiệm là điều kiện tối cần thiết đối với sự phát triển bền vững của ngành định mức tín nhiệm ở Việt Nam.
Tóm lại, để TTCK phát triển, việc thành lập tổ chức định mức tín nhiệm là vấn đề hết sức cần thiết. Trong điều kiện mức độ hiểu biết của công chúng đầu tư còn hạn chế, các kênh cung cấp thông tin và đánh giá đúng rủi ro còn rất ít hoặc chưa có, sự xuất hiện của tổ chức định mức tín nhiệm sẽ cung cấp thêm nhiều thông tin cho cộng đồng đầu tư, và chính bảng xếp hạng của tổ chức định mức tín nhiệm sẽ làm cho NĐT yên tâm hơn khi tiếp cận với thị trường, giúp họ có cơ sở và tự tin hơn khi thực hiện quyết định đầu tư vào một loại CK nào đó. Việt Nam đã có TTCK, song hoạt động của các tổ chức định mức tín nhiệm vẫn chưa xuất hiện. Nhưng vì vai trò của tổ chức này là rất quan trọng, trong khi đó Việt Nam lại đang trong quá trình hội nhập quốc tế, tự do hoá tài chính và phát triển triển TTCK, nên việc thành lập và đưa tổ chức định mức tín nhiệm vào hoạt động tại Việt Nam là vấn đề hết sức cấp thiết.
Bên cạnh đó, nhằm giảm thiểu rủi ro, đảm bảo sự ổn định, tránh những biến động lớn và đột ngột của thị trường nên chăng có các cơ quan chức năng và quản lý nên nghĩ đến việc hình thành Quỹ bình ổn thị trường. Từ kinh nghiệm của Trung Quốc, Việt Nam có thể hình thành Quỹ bình ổn thị trường với nguồn vốn đóng góp từ các công ty thành viên và các Quỹ đầu tư CK trên thị trường. Số tiền sẽ được quản lý và sử dụng bởi một công ty được lập ra chuyên để bảo đảm lợi ích cho các NĐT trong những trường hợp xấu. Như vậy, khoản tiền này có thể được tung ra để bình ổn thị trường trong những lúc biến động quá dữ dội, qua đó giúp các NĐT khỏi bị sốc. Quỹ có thể cũng sẽ được dùng để đầu tư sinh lợi và sử dụng lại cho các hoạt động có lợi cho giới đầu tư.
3.3.2.6. Phổ biến, tuyên truyền kiến thức về CK và TTCK
Tìm hiểu và quyết định đầu tư vào TTCK là những việc làm phức tạp. Các NĐT sẽ phải tìm hiểu rất kỹ lưỡng để có quyết định đầu tư của mình. Điều này đôi khi đòi hỏi NĐT sự kiên trì và những kinh nghiệm cần thiết. Nhưng thực tế hiện nay có rất nhiều các NĐT tại TTCK Việt Nam đầu tư CK theo cảm tính. Họ không cần tính toán, suy nghĩ về tầm nhìn dài hạn và quyết định ồ ạt mua bán theo đám đông. Thậm chí, nhiều phiên NĐT không cần biết cổ phiếu đó thuộc lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh nào nhưng vẫn bỏ tiền ra mua. Các NĐT này là tác nhân chính khiến cho giá CK tăng “vụt” lên, hay rót “rụp” xuống và chính họ cũng là nạn nhân hứng chịu sự rủi ro từ cách đầu tư này.
Một trong những hạn chế lớn nhất của NĐT trên TTCK Việt Nam là thiếu kiến thức hiểu biết về CK và TTCK và đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến họ phải chịu nhiều thua lỗ trong thời gian qua. Điểm yếu nhất trong hơn 10 năm qua kể từ ngày thành lập UBCKNN và 7 năm hoạt động của TTCK Việt Nam là vấn đề phổ biến kiến thức về CK và TTCK. Có thể nói ở lĩnh vực này chúng ta làm chưa tốt và chưa theo kịp sự phát triển của TTCK. Nhà đầu cá nhân hiện vẫn đầu tư theo phong trào, thiếu sự phân tích độc lập, hay không có được sự tư vấn đủ chất lượng của các tổ chức tài chính, ngân hàng, CTCK. Sự hiểu biết về CK và TTCK có nhiều ý nghĩa to lớn, nó không chỉ giúp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư cho công chúng, góp phần gia tăng lượng vốn đầu tư mà còn giúp bình ổn tâm lý NĐT trước những “cơn sóng” thị trường. Do đó, để TTCK Việt Nam phát triển bền vững và giảm thiểu những rủi ro cho NĐT, thu hút họ tham gia nhiều hơn nữa vào thị trường thì Chính phủ, UBCKNN cần phải có các biện pháp sau:
- Mở rộng tuyên truyền, phổ cập kiến thức cho công chúng trên các phương tiện thông tin đại chúng như: báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình, mạng Internet, các khóa đào tạo miễn phí, xây dựng các bản tin, các chuyên mục về CK và TTCK,...
- Tổ chức các trò chơi tìm hiểu về CK và TTCK trên các phương tiện truyền thanh, truyền hình, báo chí, tổ chức các cuộc thi CK ảo, thi phân tích tài chính, thi làm giám đốc tài chính, thi làm giám đốc điều hành,... cũng là biện pháp phổ biến kiến thức cho công chúng.
- Trung tâm nghiên cứu đào tạo UBCKNN cần thiết phải mở các lớp học mẫu ngắn hạn, tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về CK và TTCK tại các Trung tâm văn hóa quận, huyện hay Nhà văn hóa thanh niên cho các đối tượng đang sinh hoạt tại đây để vừa có dịp vui chơi, giải trí vừa có dịp học tập bổ ích bởi vì nhu cầu tìm hiểu và tham gia TTCK trong công chúng là rất lớn.
- Các trường Đại học tiếp tục hình thành và phát triển hơn nữa bộ môn CK cũng như đưa các môn học chuyên sâu vào chương trình để vừa phục vụ công tác đào tạo tại trường vừa đáp ứng nhu cầu học hỏi nâng cao trình độ của những người làm việc trong lĩnh vực này.
- UBCKNN phối hợp đào tạo với các nước có TTCK phát triển để học hỏi kinh nghiệm đầu tư và tiếp cận với nền văn hóa CK tiên tiến của thế giới.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trong chương này, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán tại Tổng Công ty Cổ phần Tài chính Dầu khí Việt nam. Đồng thời cũng đưa ra một số kiến nghị đối với các cơ quan chức năng, các Bộ, Ban ngành và Chính phủ nhằm tập trung vào việc khắc phục những hạn chế từ thị trường và ảnh hưởng đến tâm lý các nhà đầu tư như: hoạt động công bố và minh bạch hóa các thông tin trên thị trường; hệ thống pháp lý và công tác thanh tra, giám sát thị trường; hoạt động kinh doanh và công tác quản trị của DN niêm yết… nhằm xây dựng thị trường chứng khoán Việt nam ngày càng phát triển và bền vững.
KẾT LUẬN
Với chỉ 8 năm hoạt động, nhưng PVFC đã được biết đến như một tổ chức đầu tư tài chính và tài trợ tín dụng có uy tín trên thị trường. Để có được thương hiệu đó, phải kể đến sự nỗ lực, phấn đấu không ngừng của đội ngũ lãnh đạo và chuyên viên làm việc tại Tổng Công ty.
Tuy nhiên, với mục tiêu phát triển thành Tập đoàn Tài chính hang đầu Việt nam, và vươn tầm hoạt động ra khu vực và thế giới, Lãnh đạo và CBNV tại PVFC nhận thấy, thành công đã đạt được chỉ là bước khởi đầu, tạo đà cho sự tăng tốc trong hoạt động. Với phương châm phát triển “An toàn - Hiệu quả - Lành mạnh - Kiểm soát được rủi ro”, PVFC luôn đề cao yếu tố phát triển bền vững. Trong hoạt động đầu tư chứng khoán, là một trong những hoạt động hang đầu tại PVFC, yếu tố phát triển cũng luôn được đặt ra bên cạnh mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Hướng tới là nhà đầu tư chiến lược, PVFC đang từng bước chuyên nghiệp hoá trong hoạt động đầu tư của mình, và từ đó, không ngừng đổi mới và hoàn thiện hoạt động quản lý rủi ro.
Là một trong những cán bộ đang trực tiếp thực hiện các hoạt động đầu tư chứng khoán tại PVFC, không ngoài mong muốn giúp phần nhỏ bé của mình để xây dựng Tổng công ty ngày càng lớn mạnh, tôi hy vọng phần nghiên cứu của mình sẽ góp phần hoàn thiện hơn nữa hoạt động quản lý rủi ro trong đầu tư chứng khoán tại PVFC, để từ đó đưa hoạt động đầu tư chứng khoán tại PVFC ngày càng phát triển và hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo tài chính của Công ty Tài chính Dầu khí trong các năm 2005, 2006, 2007.
Bản cáo bạch của Công ty Tài chính Dầu khí
Học viện Tài chính (2006), Phân tích và đầu tư chứng khoán, Nhà xuất bản tài chính.
Đào Lê Minh, (2002), Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
Lê Thị Mai Linh, (2003), Phân tích và đầu tư chứng khoán, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
Trần Đắc Sinh, (2005), Các giải pháp để đưa doanh nghiệp tiềm năng lên niêm yết trên thị trường chứng khoán, Đề tài nghiên cứu khoa học, Sở Khoa học Công nghệ TP.HCM.
Trần Ngọc Thơ, (2005), Tài chính doanh nghiệp hiện đại, Nhà xuất bản Thống kê.
Hồ Viết Tiến, (2006), “Thị trường cổ phiếu Việt Nam có hiệu quả không?”, Tạp chí phát triển kinh tế 185, 186.
Trần Quốc Tuấn, (2000), Một số biện pháp cơ bản để nâng cao hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Ủy ban chứng khoán Nhà nước, TP.HCM.
Bùi Kim Yến, (2005), “Hoàn thiện nghiệp vụ môi giới tại các công ty chứng khoán”, Tạp chí phát triển kinh tế 181.
Bùi Kim Yến, (2005), Thị trường chứng khoán, Nhà xuất bản Lao động
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, (2006), “Luật chứng khoán”.
Báo đầu tư chứng khoán số 53, 60, 62, 65 năm 2007.
Bản tin thị trường chứng khoán TP.HCM ngày 24/07/2007.
Bản tin thị trường chứng khoán Hà Nội ngày 24/07/2007.
Các trang web
1. Ủy ban chứng khoán Nhà nước
2. Bộ Tài chính
3. Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM
4. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội
5. Đầu tư chứng khoán
6. Tin nhanh chứng khoán
7. Tin nhanh Việt Nam
8. Thời báo kinh tế Việt Nam
9. Saga Việt Nam
10. Báo Tuổi trẻ
11. Báo Vietnamnet
12. Báo thanh niên
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ThS12.docx