Luận văn Quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây: Thực trạng và giải pháp

Đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong những năm qua đã có tác động tích cực thúc đẩy, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh đúng hướng, tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân ngày càng tốt hơn, xoá được đói, giảm được nghèo. Đặc biệt từ khi Luật doanh nghiệp ban hành, các thủ tục hành chính được cải tiến đơn giản hơn tạo ra sự thông thoáng, từ đó các thành phần kinh tế phát triển mạnh, đặc biệt là các cơ sở KTNQD phát triển nhanh chóng, đa dạng và phong phú góp phần tạo nhiều sản phẩm hàng hoá dịch vụ phục vụ nhân dân, thu hút hàng vạn lao động có việc làm, ổn định thu nhập đóng góp một phần đáng kể cho NSNN. Tuy nhiên, bên cạnh quá trình phát triển thì việc thực hiện nghĩa vụ với NSNN của các cơ sở thuộc khu vực KTNQD chưa sát đúng với tình hình hoạt động của cơ sở theo pháp luật hiện hành, do đó dẫn đến sự mất công bằng trong động viên tiền thuế ở tất cả các thành phần kinh tế, hiện tượng thất thu thuế còn nhiều. Cho nên tăng cường và hoàn thiện quản lý thu thuế ở khu vực KTNQD là điều cần thiết trong tiến trình cải cách thuế hiện nay. Với 3 chương thể hiện đề tài nghiên cứu, luận văn “Quản lý thuế khu vực ngoài quốc doanh ở Hà Tây - Thực trạng và giải pháp” đã đi sâu phân tích và giải quyết một số nội dung cơ bản sau: 1. Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về thuế và vấn đề quản lý thuế đối với khu vực kinh tế NQD. 2. Phân tích thực trạng công tác quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Hà Tây trong những năm gần đây, nhất là từ khi thực hiện Luật doanh nghiệp. Những thành công và hạn chế trong công tác quản lý thuế, từ đó rút ra những nguyên nhân chủ yếu tác động đến quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Hà Tây trong thời gian qua. 3. Luận văn đã phân tích những quan điểm quan điểm về việc thi hành chính sách động viên đóng góp qua thuế trên cơ sở bình đẳng, công bằng, bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. 4. Trên cơ sở những thực trạng quản lý thu thuế NQD ở tỉnh Hà Tây, luận văn đã đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường và hoàn thiện công tác quản lý thu thuế NQD trong giai đoạn hiện nay, hạn chế sự thất thu về thuếổtên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.

doc106 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2818 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hị trường định hướng XHCN [21, tr. 188]. Đối với những cơ sở sản xuất kinh doanh có tính chất độc quyền, có nhiều lợi thuế về trang thiết bị, về sản xuất, về tiêu thụ, giá cả… phải có sự điều tiết cao hơn, vì thường các cơ sở này có thu nhập cao hoặc rất cao so với các ngành nghề bình thường. “Đối với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích phát triển, hướng mạnh vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu, hàng hoá và dịch vụ có công nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng” [13, tr. 191 - 192], việc ưu đãi về thuế ở mức độ nhất định, thời gian đầu tư của quá trình chủ động mở cửa hội nhập là cần thiết nhằm mục tiêu thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nhưng thực tế, đây không phải là yếu tố hấp dẫn duy nhất, những vấn đề mà các nhà đầu tư quan tâm hơn là: tình hình chính trị, luật pháp ổn định, điều kiện về cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc, kinh tế - xã hội… Ưu đãi về thuế quá nhiều chưa hẳn đã gây được sự quan tâm của các nhà đầu tư, có khi còn tạo cho họ hoài nghi môi trường đầu tư và tạo sơ hở để họ lợi dụng hoạt động “núp bóng” nhằm trốn thuế. Thường thường, môi trường đầu tư tốt được thể hiện trên các mặt quan trọng về chính sách thuế thống nhất, quyền lực thuế tập trung, pháp chế thuế được kiện toàn. Về mặt tài chính của NSNN, nhiều cuộc điều tra ở các nước đang phát triển cho thấy những ưu đãi về thuế thường làm giảm từ 2 - 13% tổng số thu ngân sách, có khi kết quả mang lại về tài chính – kinh tế - xã hội cho nước chủ nhà bị suy giảm nhưng lại làm giàu cho tư bản nước ngoài, có điều kiện khai thác tài nguyên, nhân công rẻ mạt để có thu nhập siêu ngạch. Do đó, về lâu dài cần phải nghiên cứu, thu hẹp, từng bước xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử tràn lan về nghĩa vụ nộp thuế đối với thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, bảo đảm sự bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh với các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế trong nước, tạo điều kiện bảo vệ và thúc đẩy sản xuất nội địa phát triển lành mạnh, có lợi cho quốc tế dân sinh. 3.1.3. Quản lý thuế NQD phải được đổi mới theo hướng: ĐTNT tự tính, tự khai và tự nộp thuế. Chế độ tự khai, tự tính, tự nộp thuế là xu hướng của nền quản lý thuế hiện đại, sẽ nâng cao ý thức tự giác, đề cao trách nhiệm trước pháp luật của người nộp thuế. Có như vậy mới thể hiện nộp thuế là nghĩa vụ và là quyền lợi của mọi tổ chức, cá nhân. Nếu việc tính thuế, khai thuế sai và nộp thuế không đúng thời hạn sẽ bị xử lý vi phạm hành chính về thuế mà không thể đổ lỗi cho người khác. Trong cơ chế kinh tế thị trường, đối tượng nộp thuế ngày càng nhiều. Đối tượng nộp thuế thuế sử dụng đất, thuế thu nhập cá nhân đã và sẽ lên tới hàng chục triệu. Cơ quan thuế sẽ không thể làm thay công việc của đối tượng nộp thuế. Hiện nay cơ quan thuế còn kiểm tra để ra thông báo mức thuế phải nộp cho các đối tượng nộp thuế. Việc thông báo này có hạn chế do tờ khai thuế là các số liệu tổng hợp nên việc kiểm tra tính chính xác hay không chính xác rất khó khăn, vì vậy, chủ yếu là thông báo theo mức kê khai của đối tượng nộp thuế; Nếu chờ nhận được tờ khai, kiểm tra và ra thông báo thuế thường phải dồn vào khoảng tuần thứ 2 của tháng (tuần đầu do đơn vị kê khai), do đó tạo ra cho cơ quan thế một khối lượng công việc rất nặng nề, phải triển khai trong một khoảng thời gian ngắn; Mặt khác trong trường hợp này, đối tượng nộp thuế phải chờ đợi thông báo thuế nên việc nộp thuế bị chậm trễ. Chế độ tự khai, tự tính, tự nộp thuế sẽ giảm bớt được chi phí thông báo nộp thuế và chi phí tuân thủ pháp luật thuế của cơ sở kinh doanh. Với cơ chế nộp thuế hiện nay, hàng năm cơ quan thuế phải thông báo thuế ít nhất là 2 lần cho gần 23 triệu hộ nộp thuế ổn định (trong đó: 11 triệu hộ nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp; khoảng 10,5 triệu hộ nộp thuế nhà đất và gần 1,5 triệu hộ kinh doanh cá thể). Ngoài ra hàng tháng cơ quan thuế phát hành thông báo nộp thuế GTGT cho khoảng 137.000 tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh. Trong đó, TP. Hồ Chí Minh 30.000 tờ/tháng, TP Hà Nội 15.000 tờ/tháng. Với số lượng in thông báo nêu trên rất tốn kém. Đặc biệt áp dụng chế độ tự khai, tự tính, tự nộp thuế là phù hợp với cơ chế quản lý thuế của tất cả các nước trên thế giới, các nước trong khối ASIAN và các nước có nền kinh tế chuyển đổi như Trung Quốc và Đông Âu. 3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ THUẾ ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH 3.2.1. Nâng cao chất lượng công tác quản lý thuế đối với KTNQD trên địa bàn. Chất lượng công tác quản lý thuế đối với khu vực KTNQD liên quan tới rất nhiều vấn đề nhưng trước hết trực tiếp phụ thuộc vào công tác quản lý đối tượng nộp thuế (đơn vị kinh doanh) và quản lý số thuế phải nộp tại các đơn vị này. - Về quản lý đối tượng kinh doanh Phải phối hợp với các ngành chức năng kiểm tra, xác định số lượng doanh nghiệp thực tế không hoạt động, số lượng có hoạt động, quy mô, ngành nghề kinh doanh và số thuế tồn đọng, thực trạng năng lực quản lý của kinh doanh để làm cơ sở cho việc đề ra các biện pháp quản lý phù hợp. Cụ thể: Đối chiếu số doanh nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh với số doanh nghiệp được cấp mã số thuế, số doanh nghiệp kê khai nộp thuế trên cơ sở đó thống kê những doanh nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh nhưng không đăng ký thuế, không xin cấp mã số thuế, số doanh nghiệp đã có mã số thuế nhưng trong thời gian dài không hoạt động, không kê khai nộp thuế, từ đó phối hợp với các ngành ở địa phương và cơ quan thuế tỉnh, huyện, thị xã tổ chức kiểm tra phát hiện những doanh nghiệp có kinh doanh nhưng không xin cấp mã số, không kê khai nộp thuế. Tiến hành xử phạt vi phạm hành chính và ấn định thuế GTGT, TNDN để thu ở những tháng không kê khai. Đối với những doanh nghiệp qua kiểm tra không tồn tại hoặc đã ngừng hoạt động thì đề nghị Sở Kế hoạch - Đầu tư thông báo công khai và thực hiện thu hồi đăng ký kinh doanh. Đối với những doanh nghiệp di chuyển địa điểm nhưng không khai báo phải phạt vi phạm hành chính và ấn định thuế đối với những tháng không kê khai, yêu cầu doanh nghiệp nộp ngày tiền thuế vào ngân sách. - Về quản lý nộp thuế Đẩy mạnh triển khai chế độ kế toán đối với các doanh nghiệp NQD đặc biệt là đối với các doanh nghiệp mới thành lập, đảm bảo 100% doanh nghiệp đều thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ và kê khai nộp thuế theo quy định. Kết hợp kiểm tra kê khai nộp thuế, kiểm tra quyết toán thuế với kiểm tra việc thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ phát hiện và xử lý các doanh nghiệp vi phạm chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ, những doanh nghiệp khai khống giá mua hàng, bán hàng không lập hoá đơn hoặc lập hoá đơn nhưng ghi giá thấp hơn giá thực tế thanh toán nhằm mục đích trốn lậu thuế. Nếu kiểm tra phát hiện được các vi phạm phải kiên quyết áp dụng các biện pháp ấn định giá để tính thuế. Tất nhiên biện pháp này không thể thực hiện tuỳ tiện, không được sử dụng như một mục đích để tăng thu. Qua kiểm tra quyết toán thuế và kiểm tra kê khai nộp thuế, nếu thấy doanh nghiệp có dấu hiệu kê khai không thực hoặc có nghi vấn trốn lậu thuế thì báo cáo lãnh đạo Cục thuế tiến hành kiểm tra thực tế hoặc xác minh hoá đơn, nếu phát hiện phạm vi thì thuỳ theo mức độ vi phạm mà xử phạt vi phạm hành chính, truy thu thuế hoặc ấn định mức thuế phải nộp cao hơn mức kê khai sát đúng với thực tế kinh doanh của cơ sở. Đối với những doanh nghiệp Cục thuế đã phân cấp cho Chi cục thuế quản lý, các chi cục thuế phải hướng dẫn và kiểm tra doanh nghiệp thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ và kê khai nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Không được áp dụng hình thức thu thuế khoán. Trường hợp doanh nghiệp vi phạm chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ, vi phạm chế độ kê khai phải phạt vi phạm hành chính và ấn định mức thuế phải nộp. Đối với các doanh nghiệp NQD do chi cục thuế quản lý thu, để tiện việc theo dõi và quản lý các chi cục nên bố trí bộ phận cán bộ quản lý thu phù hợp, không nên để doanh nghiệp ở địa bàn phường, xã nào đội thuế phường, xã đó quản lý sẽ dẫn đến khó khăn cho quá trình tổ chức quản lý thu cũng như việc đánh giá kết quả 3 tháng, 6 tháng, 1 năm. Để đổi mới phương thức quản lý thu-nộp thuế, cần thực hiện tốt quy trình quản lý thuế hiện đại mà các nước đang thực hiện, là xoá bỏ quy trình quản lý theo chế độ “chuyên quản”, không phù hợp với tình hình nhiệm vụ mới, áp dụng rộng rãi chế độ tự tính, tự khai, tự nộp thuế. Theo chế độ này, đối tượng nộp thuế phải đề cao tinh thần tự giác thực hiện nghĩa vụ theo luật pháp quy định, thực hiện tự tính thuế, tự kê khai thuế dược vào kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của mình và nộp thuế và Kho bạc Nhà nước. Cơ quan thuế thực hiện hành thu theo đúng chức năng Nhà nước quy định, hạn chế việc cán bộ thuế tiếp xúc riêng với hạn chế nộp thuế, áp dụng hình thức phạt nặng đối với các trường hợp khai man, trốn thuế, bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời cho NSNN, giảm hiện tượng tiêu cực cả đối với người nộp thuế và cán bộ thu thuế. Các doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hoá đơn, kế toán, đặc biệt theo chế độ mã số thuế, cả đối với người bán và người mua hàng. Qua đó, có căn cứ chính xác để thực hiện đúng đắn việc tự tính thuế, kê khai thuế đối với doanh nghiệp, có cơ sở việc khaúa trừ tiền thuế GTGT đầu vào và có tài liệu để cán bộ thuế kiểm tra xác định tính thuế đúng hay sai. Thông qua chế độ tự tính thuế, tự kê khai, tự nộp thuế vào kho bạc Nhà nước, doanh nghiệp nâng cao được ý thức trách nhiệm về thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, kết hợp với việc xử lý nghiêm minh các trường hợp trốn lậu thuế [28]. Liên quan đến vấn đề này, ngành thuế và các cơ quan lãnh đạo tỉnh Hà Tây cần sớm rà soát lại việc thực hiện thí điểm các Đề án quản lý thuế đối với các doanh nghiệp chuyên ngành (các ngành kinh doanh xăng dầu, sản xuất bia, kinh doanh vận tải). Từ những mô hình này, ngành thuế cần rút ra những bài học kinh nghiệm để hoàn thiện cơ chế quản lý đối tượng và công tác thu – nộp thuế KTNQD trên địa bàn. 3.2.2. Kiện toàn bộ máy quản lý thuế, nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Theo phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 ở Đại hội Đảng lần thứ IX, cải cách hành chính là một công việc quan trọng quyết định hành công của công cuộc đổi mới. Tổ chức bộ máy Nhà nước theo hướng tinh gọn, trong sạch, có đủ phẩm chất ngày càng cao của bộ quản lý thu thuế nhằm tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ thuế cũng như nâng cao tinh thần trách nhiệm của công chức thuế trong quá trình thi hành công vụ ngành thuế cần thiết cũng phải có những cải cách phù hợp về công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ, công chức ngành thuế. - Trước hết, về việc kiện toàn bộ máy quản lý thuế. Trọng tâm của vấn đề này là rà soát lại đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý thuế, loại bỏ những cán bộ năng lực kém, phẩm chất yếu nhằm tinh lọc và nâng cao chất lượng đội ngũ. Bên cạnh đó, tiếp tục sắp xếp, bố trí đội ngũ cán bộ chuyên trách theo mô hình tách ba bộ phận nhằm phát huy tác dụng của mô hình này trong quản lý thuế đối với KTNQD. Việc thực hiện quy trình quản lý, thu thuế theo ba bộ phận phải đi vào thực chất nhằm tăng cường công tác quản lý thu nộp thuế hiệu quả cao, bảo đảm tính công khai, dân chủ, công bằng xã hội trong quá trình thực hiện các luật thuế. Phát huy tính độc lập trong chuyên môn để nâng cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân và tập thể trong quản lý thu, nộp thuế, có sự hỗ trợ tích cực giữa các bộ phận, khắc phục những nhược điểm, những sơ hở trong từng bộ phận công tác, từng bước cải tiến các nghiệp vụ hành thu theo hướng ngày càng văn minh, tiến bộ, tạo tiền đề cho việc vi tính hoá công tác quản lý thu thuế. Ba bộ phận quản lý thu thuế gồm: + Bộ phận quản lý đối tượng nộp thuế, đôn đốc thu nộp thuế và các khoản thu nộp khác do cơ quan thuế phụ trách (bộ phận quản lý). + Bộ phận tính thuế, lập sổ thuế, trình lãnh đạo cơ quan thuế duyệt các mức doanh thu, mức thuế, lập sổ thuế, phát hành thông báo thuế, theo dõi thu nộp thuế (bộ phận kế toán). + Bộ phận kiểm tra, thanh tra theo dõi, xem xét việc thực hiện các quy trình công tác của các bộ phận quản lý, bộ phận kế toán có gì đúng, sai cần được uốn nắm, xử lý theo đúng luật gồm cả đối với cán bộ nhân viên ngành thuế cũng như các cơ sở sản xuất kinh doanh (bộ phận thanh tra). Ba bộ phận trên vừa có tính độc lập, đồng thời có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau để đảm bảo chất lượng quản lý, thu thuế với hiệu quả cao nhất. Bộ phận quản lý có vị trí hết sức quan trọng tạo căn cứ ban đầu cho bộ phận kế toán, bộ phận kiểm tra thực hiện chức năng của mình được đầy đủ. Bộ phận kế toán thực hiện việc tính thuế, lập sổ thuế, trình lãnh đạo cơ quan thuế duyệt và ra thông báo để đảm bảo cho bộ phận quản lý và bộ phận kiểm tra có cơ sở thực hiện việc thu thuế, xử lý nộp chậm… Bộ phận kiểm tra giúp bộ phận quản lý và bộ phận kế toán phát hiện các sai sót trong việc thực hiện các quy trình nghiệp vụ. Trên cơ sở đó hoàn chỉnh và uốn nắm kịp thời sai lệch, bảo đmr việc chấp hành các luật thuế được đúng đắn. Ba bộ phận thường xuyên cung cấp thông tin cho nhau, cùng trao đổi, bàn bạc những vướng mắc phát sinh trong quá trình tổ chức quản lý thu thuế hàng ngày hoặc đề xuất lên lãnh đạo xử lý những vấn đề quan trọng theo đúng thẩm quyền. Kết quả công việc cùng bộ phận này là căn cứ, tài liệu để thực hiện nhiệm vụ của bộ phận khác, cùng hỗ trợ nhau đảm bảo các quy trình quản lý được thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh, khép kín và khắc phục hiện tượng tuỳ tiện có thể phát sinh tiêu cực trong từng bộ phận. - Về công tác tuyển dụng, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Công tác thuế là công tác mang tính kinh tế - chính trị - xã hội tổng hợp, vì vậ cán bộ thuế một mặt phải là người am hiểu sâu về các chính sách tài chính, kế toán, các luật thuế, pháp lệnh thuế đồng thời phải là người am hiểu các chính sách xã hội. Mặt khác, cũng cần phải có khả năng tuyên truyền, vận động quần chúng, bên cạnh đó phải là người có bản lĩnh kiên định vững vàng. Do đó, để có đội ngũ công chức thuế tốt, đủ tư cách đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công tác thuế gây lãng phí cho xã hội, ngành thuế đã đến lúc cần có một cơ sở đào tạo riêng, không phải chỉ đào tạo mới mà còn đào tạo lại, bồi dưỡng, tập huấn, phổ biến kinh nghiệm, một trung tâm chuyên ngành có chất lượng cao phù hợp với yêu cầu thực tiến của công tác thuế. Muốn có được đội ngũ công chức đủ đảm đương công tác thuế trong thời gian tới, công tác tổ chức cán bộ hàng năm trên cơ sở cân đối tổng thể cả nước sẽ có chỉ tiêu tuyển dụng đề đào tạo thay thế. Vì yêu cầu của mỗi công chức thuế rất cao đòi hỏi phải nắm vững nhiều kiến thức và có năng lực, có sức khoẻ nên nhất thiết phải qua sơ tuyển. Nội dung đào tạo nhất thiết phải có nhiều kiến thức thực hành… khi ra trường nếu đủ yêu cầu sẽ được tuyển dụng chính thức vào các vị trí đã được cân đối từ trước. Việc đào tạo có địa chỉnh sẽ tạo nên khí thế tự học tập, tự rèn luyện cho mỗi học sinh, sinh viên mà từ đây chất lượng đội ngũ cán bộ sẽ được nâng cao. Đối với một số cán bộ không được đào tạo đúng chuyên ngành thì hàng năm phải có kế hoạch bồi dưỡng tập trung để nâng cao chất lượng cán bộ, còn bộ phận cán bộ thuế có chức danh như: thanh tra viên thuế, kiểm soát viên thuế… thì nhất thiết hàng năm phải được tập huấn nghiệp vụ đồng thời phổ cập kiến thức quản lý mới, học tập trao đồi thêm kinh nghiệm nhằm nâng cao trình độ chuyên môn. Luôn coi trọng công tác giáo dục tư tưởng, thường xuyên rèn luyện phẩm chất “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” có như vậy mới có đủ đội ngũ cán bộ có đức, có tài đáp ứng được yêu cầu quản lý thuế trong tình hình mới. Để đánh giá công tác cán bộ hàng năm, từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, có thể dựa vào tiêu chuẩn để phân biệt phẩm chất và năng lực của một số cán bộ thuế thông qua tinh thần phục vụ các đối tượng nộp thuế như sau: Bảng 6: Một số tiêu chí phân biệt năng lực cán bộ quản lý thuế Cán bộ thuế yếu kém Cán bộ thuế giỏi 1. Bắt buộc và ra lệnh 1. Chỉ dẫn và tư vấn 2. Dự trên quyền hành của mình 2. Dựa trên lòng tin cậy và thiện trí của đối tượng nộp thuế (ĐTNT) 3. Gây sự sợ hãi cho ĐTNT 3. Làm cho ĐTNT phấn khởi 4. Thường dùng chữ “Tôi” 4. Thường dùng chữ “chúng ta” 5. Đổ lỗi cho người khác 5. Giải quyết khó khăn hiện có 6. Nói với ĐTNT - Hãy đóng thuế đi - Hãi khai thuế đi 6. Nói với ĐTNT - Chúng tôi sẽ chỉ dẫn cho Ông (bà) khai thuế - Ông (bà) vui lòng nộp thuế để xây dựng đất nước Nguồn: [7, tr. 41]. Thực tế công tác quản lý thuế ở Hà Tây cho thấy, những thành công đạt được của ngành thuế gắn liền với những cố gắng trong việc kiện toàn bộ máy và công tác cán bộ. Song cũng đã có những biểu hiện tiêu cực và sai phạm trong quản lý thuế mà một nguyên nhân quan trọng bắt nguồn từ việc xa rời chế độ quản lý và nguyên tắc quản lý cán bộ. Ví dụ điển hình cho vấn đề này là vụ vi phạm quy định về chính sách hoàn thuế ở Cục Thuế Hà Tây năm 2002. Chính vì vậy, quan tâm đầy đủ đến việc nâng cao trình độ và thường xuyên làm tốt công tác giáo dục phẩm chất cán bộ ngành thuế là một nhân tố quan trọng hàng đầu đảm bảo cho công tác quản lý thuế đi vào nền nếp và có hiệu quả. 3.2.3. Hoàn thiện chế độ sổ sách kế toán, chứng từ hoá đơn trong quản lý thu thuế. Hoá đơn và sổ sách kế toán là phương tiện để ngành thuế tiến hành quản lý các đối tượng kinh doanh và thực hiện thu thuế theo đúng luật. Hoá đơn bán hàng, cung ứng dịch vụ là chứng từ ban đầu cho việc hạch toán hoạt động kinh doanh vào các sổ kế toán của cơ sở. Hoá đơn phải ánh đầy đủ quan hệ tín nhiệm giữa cơ sở kinh doanh và khách hàng. Đây cũng là căn cứ hợp pháp cho việc thanh toán tiền mua hàng, tiền dịch vụ trong các cơ quan, doanh nghiệp… Hoá đơn là chỗ dựa để xác định doanh thu tính thuế, các chi phí hợp lý được trừ khi xác định TNCT. Việc lập và lưu hành bắt buộc hoá đơn là một biện pháp quan trọng làm lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế - xã hội, góp phần thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá theo nền nếp, kỷ cương, hạn chế buôn bán trốn thuế, hạn chế làm hàng giả. Kế toán là công việc ghi chép, tính toán bằng con số những hiện vật, thời gian lao động chủ yếu dưới hình thái giá trị để phản ánh, kiểm tra tình hình vận động của các loại tài sản, quá trình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn ở cơ sở. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh, kế toán là công cụ để tính toán, điều hành các hoạt động kinh tế, kiểm tra việc bảo vệ sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn nhằm đảm bảo quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh. Kế toán có nhiệm vụ ghi chép, tính toán, phải ánh đầy đủ, chính xác, kịp thời, liên tục và có hệ thống số hiện có và quá trình sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn, lao động, kết quả… Mọi công việc trên phải được thực hiện theo đúng chế độ kế toán do Nhà nước quy định và yêu cầu quản lý kinh tế - tài chính của cơ sở. Thông qua việc ghi chép, tính toán, hoạch toán kế toán phục vụ yêu cầu kiểm tra, thực hiện kế hoạch, chủ trương, hợp đồng sản xuất kinh doanh… Cung cấp số liệu, tài liệu, thông tin kinh tế phục vụ cho chủ cơ sở và Nhà nước điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, kiểm tra và phân tích đánh giá hiệu quả kinh tế. Muốn thực hiện tốt mục tiêu thực hiện chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ ở các cơ sở sản xuất kinh doanh cần thiết phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Nâng cao chất lượng công tác sổ sách kế toán và sử dụng hoá đơn chứng từ trong sản xuất kinh doanh Thực hiện tốt chế độ kế toán NQD là một trong những công việc rất khó khăn phức tạp, bở lẽ; ở khu vực kinh tế này trình độ của cơ sở kinh doanh còn hạn chế, chưa qua đào tạo, hầu như chưa nắm bắt kịp những chính sách, chế độ còn do Nhà nước ban hành; với mục tiêu lợi nhuận là trên hết, cơ sở luôn tìm mọi cách để luồn lách trốn thuế của Nhà nước cho nên việc ghi chép trên sổ sách kế toán, chứng từ hoá đơn còn nhièu hạn chế. Do vậy, đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ và quán triệt sâu sắc mục tiêu, ý nghĩa của công tác kế toán trong quá trình thu thuế. Để nâng cao chất lượng thực hiện công tác này và đưa nó trở thành công cụ giúp ngành thuế thu thuế đúng luật, thực hiện công bằng xã hội, ngành thuế cần phối hợp tích cực với ngành trong việc chỉ dạo công tác tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích cho các cơ sở thực hiện. Cán bộ thuế phải nắm bắt đầy đủ, kịp thời các chế độ kế toán và hoá đơn chứng từ do Nhà nước quy định. Tăng cường trách nhiệm cá nhân của cán bộ quản lý đối với các cơ sở thực hiện chế độ sổ sách kế toán. Thường xuyên bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ kế toán, nghiệp vụ quản lý thu thuế nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ đủ mạnh về lượng và chất để đáp ứng yêu cầu quản lý ngày càng cao đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh. - Tăng cường quản lý việc sử dụng hoá đơn chứng từ Theo các quy định hiện hành của Nhà nước, tất cả các tc, cá nhân có sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc mọi thành phần kinh tế khi mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ thu tiền đều phải thực hiện chế độ quản lý sử dụng hoá đơn. Các trường hợp mua, bán hàng hoá, dịch vụ có giá trị từ 100.000đ trở lên đều phải lập và giao hoá đơn bán hàng đúng quy định. Tuy nhiên việc sử dụng hoá đơn bán hàng hiện nay chưa được thực hiện nghiêm túc. Nhiều tổ chức, cá nhân chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt nền đã tìm cách lợi dụng hoá đơn để trốn thuế, thu lợi bất chính, gây thiệt hại về tài chính công quỹ của Nhà nước thể hiện bằng các hành vi sau [6, tr. 39-40]. + Sử dụng hoá đơn in giả mẫu của Bộ tài chính để kinh doanh trốn thuế hoặc dùng để thanh toán, quyết toán tài chính trong các cơ quan - đơn vị thụ hưởng tiền từ NSNN. + In hoá đơn giả mẫu của Bộ tài chính. + Lập hoá đơn ghi liên 2 cao hơn liên 1 để chiếm đoạt tiền thuế, thanh toán, quyết toán tài chính. + Bán hoá đơn khống. + Cạo sửa hoá đơn mau hàng ghi số tiền cao hơn số tiền thực tế đẻ khấu trừ, hoàn thuế, thanh toán, quyết toán tài chính. (Gần đây có hiện tượng mua hàng hoá với giá trị thấp thu được người bán cấp hoá đơn liên 2 sau đó tẩy xoá các nội dung đã lập, ghi lại giá trị, số thuế GTGT cao hơn để đưa vào khấu trừ thuế, hoàn thuế, thanh toán, quyết toán tài chính). + Lập hoá đơn khống (thực tế là không mua, bán hàng hoá) thông đồng với đơn vị xuất khẩu để kê khai hoàn thuế GTGT hàng xuất khẩu. + Khi bán hàng hoá, dịch vụ, việclập, giao hoá đơn bán hàng của các cơ sở vẫn còn tuỳ tiện: không giao hoặc giao hoá đơn thì đòi nâng giá hàng hoặc giao hoá đơn không hợp pháp để kinh doanh trốn thuế. Đối với khách hàng khi mua hàng tiêu dùng cho gia đình thì không quan tâm đến việc đòi hoá đơn hợp pháp. Nếu mua hàng cho cơ quan - đơn vị nhiều trường hợp đã chủ động yêu cầu người bán hàng lập hoá đơn với sóo tiền cao hơn thực tế để thanh toán hoặc tự lập hoá đơn mua bán hàng cao hơn để lấy tiền, tham ô công quỹ của Nhà nước. + Lợi dụng Nhà nước tạo thuận lợi trong việc cấp giấy kinh doanh đã xuất hiện một số doanh nghiệp sau khi được cấp giấy phép thành lập, đã đăng ký thuế, mã số thuế và mua hoá đơn tại cơ quan thuế sử dụng nhưng mang hoá đơn đi bán. Từ tình hình thực tế nêu trên, Bộ tìài chính đề nghị UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo các cơ quan bảo vệ quản lý, cơ quan thuế, cơ quan tài chính các cấp. Thứ nhất, quán triệt chỉ thị số 15/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 11/6/2001 về việc tăng cường quản lý thu và chống thất thu NSNN; Chỉ thị của Bộ tưởng Bộ tài chính số 3824/1999/CT/BTC ngày 5/8/1999 về việc thực hiện phòng chống hoá đơn giả trong mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thu tiền và thanh toán tài chính; tăng cường kiểm tra, thanh tra có trọng điểm; thực hiện đối chiếu hoá đơn đầu vào, đầu ra, hoá đơn mua hàng của các doanh nghiệp, đơn vị hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang trong thanh toán, quyết toán tài chính; phát hiện và xử lý nghiêm các đối tượng sử dụng hoá đơn giả, hoá đơn không hợp pháp để kê khai khấu trừ thuế, hoàn thuế, thanh toán và quyết toán tài chính, những hành vi lợi dụng, vi phạm phải được thông báo công khai để giáo dục, ngăn chặn. Trường hợp phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ mức độ vi phạm mà xử lý theo quy định hiện hành. Thứ hai, khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tự in hoá đơn theo mẫu và quy định đăng ký sử dụng theo chế độ quản lý, sử dụng hoá đơn bán hàng kèm theo quyết định số 885/QĐ/BTC ngày 16/7/1998 của Bộ trưởng Bộ tài chính. Trường hợp không tự in hoá đơn thì sử dụng hoá đơn do Bộ tài chính phát hành, nhưng bắt buộc tổ chức, cá nhân phải ghi đầy đủ; tên, địa chỉ, mã số thuế trên liên 2 (liên giao khách hàng) của từng số hoá đơn trước khi mang ra khỏi cơ quan thuế. Người mua hàng có trách nhiệm đối chiếu tên, mã số thuế khi nhận hoá đơn mua hàng để bảo hành hàng hoá, kê khai thuế, khấu trừ thuế, xác định chi phí hợp lý khi tính thuế theo quy định. Thứ ba, các tổ chức, cá nhân được sử dụng hoá đơn nếu sau thời hạn nộp tờ khai thuế theo quy định mà chưa nộp thì cơ quan thuế tiến hành kiểm tra tình hình quản lý và sử dụng hoá đơn. Nếu vi phạm thì xử lý theo chế độ quản lý, sử dụng hoá đơn ban hành theo quyết định số 885/QĐ/BTC ngày 16/7/1998 của Bộ trưởng Bộ tài chính. Thứ tư, cục thuế các tỉnh, thành phố tổ chức rà soát lại doanh nghiệp thành lập những không kinh doanh, sử dụng hoá đơn nhưng không kê khai nộp thuế để xử lý; thông báo công khai, kịp thời cho cơ quan chức năng, phối hợp chặt chẽ với cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan cấp giấy phép kinh doanh để ngăn chặn việc lợi dụng gây thiệt hại cho NSNN. Thứ năm, định kỳ 10 ngày đầu tháng sau, cơ quan tài chính, cơ quan thuế các cấp thực hiện báo cáo UBND cùng cấp các hành vi vi phạm và xử lý về sử dụng hoá đơn không hợp pháp trong thanh toán, quyết toán tài chính, kê khai thuế của tháng trước, để UBND theo dõi và chỉ đạo ngăn chặn kịp thời ở địa phương. Để thực hiện tốt những nguyên tắc đã chỉ đạo của Bộ tài chính về việc tăng cường quản lý sử dụng hoá đơn chứng từ ở mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân, cần thiết UBND tỉnh, thành phố và các cơ quan chức năng trong tỉnh, thành phố như: Sở tài chính, cục thuế… phải phối hợp để thực hiện. Cụ thể: + Quy định Thủ trưởng các đơn vị chịu thuế trách nhiệm trong việc duyệt thanh quyết toán tài chính đối với những háo đơn bán hàng không hợp pháp; đồng thời quán triệt cho cán bộ, công chức trong đơn vị, ngành, địa phương khi mua hàng hoá, dịch vụ cho cá nhân, gia đình đều phải yêu cầu người bán cung cấp hoá đơn hợp pháp, ghi đúng giá bán thực tế thanh toán. Trường hợp người bán xuất hoá đơn yêu cầu trả thên tiền hàng thì phải kịp thời thông báo cho cơ quan quản lý thị trường, cơ quan thuế gần nhất để phối hợp xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật hiện hành. + Khi lập báo cáo quyết toán tình hình sử dụng kinh phí Nhà nước, các cơ quan, đơn vị thụ hưởng tiền từ NSNN phải lập bảng kê hoá đơn của hàng hoá, dịch vụ mua vào gửi cùng với báo cáo quyết toán cho cho cơ quan tài chính. Bảng kê hoá đơn phải ghi rõ ký hiệu xêri, số hoá đơn, tên hàng hoá, dịch vụ, số tiền mua hàng và tên, địa chỉ, mã số thuế của dịch vụ bán hàng. Cơ quan tài chính các cấp khi thực hiện kiểm tra, kiểm sát, thanh quyết toán tài chính phải đối chiếu hoá đơn, chứng từ để phát hiện những hoá đơn giả; hoá đơn không hợp pháp trong chi tiêu, thanh quyết toán tài chính ở các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý. Thực hiện tốt công tác kiểm sát chi NSNN. Các vi phạm về sử dụng hoá đơn, chứng từ đã phát hiện phải xử lý theo quy định của pháp luật, đồng thời thường xuyên phối hợp với cơ quan thuế để xem xét, thẩm tra, xác minh các hoá đơn có dấu hiệu vi phạm. + Ngoài ra, đối với người lãnh đạo bình thường để tăng cường quản lý hoá đơn, chứng từ, nên giao nhiệm vụ tuyên truyền vận động gia đình, cá nhân mua bán hàng hoá, dịch vụ phải thông qua chứng từ, hoá đơn cho chính quyền cấp cơ sở (các khối, tổ dân phố, thôn, xóm, bản) và xem đây là một nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động của mình. Là cơ sở để đánh giá mức độ hoàn thành của nhiệm vụ chính trị được giao. + Đối với cơ quan thuế. Tổ chức thực hiện ghi (đóng dấu) tên, địa chỉ, mã số thuế trên liên 2 (liên giao khách hàng) của từng số hàng hoá ngay tại cơ quan thuế đối với hoá đơn do Bộ tài chính phát hành, khi cơ sở đến cơ quan thuế để mua hoá đơn, tránh tình trạng cho, bán hoá đơn trắng. Tăng cường công tác hướng dẫn các cơ sở sản xuất kinh doanh thực hiện việc quản lý, sử dụng hoá đơn chứng từ đúng quy dịnh; khi bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ phải xuất hoá đơn cho khách hàng, kể cả trường hợp hàng hoá có giá trị dưới 100.000đ mà người mua yêu cầu. Đẩy mạnh việc triển khai chế độ kế toán kinh doanh, đồng thời phối hợp với các cơ quan chức năng như: công an, quản lý thị trường định kỳ kiểm tra, xử phạt nghiêm minh, đúng pháp luật đối với những cơ sở đặt, in hoá đơn không hợp pháp, các cơ sở khi bán hàng hoá, dịch vụ không xuất hoá đơn hoặc yêu cầu khách hàng phải trả thêm tiền mới xuất hoá đơn và những trường hợp sử dụng hoá đơn giả, hoá đơn không hợp pháp để kê khai khấu trừ thuế, hoàn thuế. Phối hợp với các cơ quan truyền thông đại chúng địa phương tổ chức tuyên truyền công tác quản lý sử dụng hoá đơn cho mọi đối tượng để người bán hàng lẫn người mua hàng khi đi mua, bán hàng hoá, dịch vụ phải xuất và nhận hoá đơn, đồng thời đưa tin những vụ vi phạm điển hình về hoá đơn, chứng từ ở địa phương trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm ngăn chặn tình trạng vi phạm chế độ quản lý hoá đơn, chứng từ còn phổ biến trong giai đoạn hiện nay. + UBND các cấp tăng cường trách nhiệm trong việc chỉ đạo kiểm tra tình hình sử dụng hoá đơn để thanh quyết toán kinh phí Nhà nước đối với cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp. Chỉ đạo cơ quan thuế tăng cường, củng cố, mở rộng diện hộ kinh doanh thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ trong quá trình sản xuất kinh doanh của cơ sở. + Định kỳ vào những ngày đầu tháng, quý, cơ quan tài chính, cơ quan thuế các cấp hàng hoá báo cáo bằng văn bản cho UBND cùng cấp các vi phạm và xử lý về sử dụng hoá đơn không hợp pháp trong thanh quyết toán tài chính, trong kê khai thuế để UBND theo dõi và chỉ đạo kip thời. + Ngoài ra, để thực hiện tốt chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ trong mọi hoạt động kinh tế, tạo thêm môi trường thuận lợi cho việc chống thất thu thuế có hiệu quả và hỗ trợ tích cực cho chủ trương chống tham nhũng cần có thêm những quy định sau: Có chế độ khen thưởng phù hợp đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ thực hiện tốt chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ. Chẳng hạn, hộ kinh doanh có thể được giảm 5% - 10% số thuế khoán phải nộp trong tháng… Muốn được giảm thuế, hộ phải đăng ký với cơ quan thuế địa phương cam kết thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ. Hàng tháng phải kê khai doanh số hàng mua vào, bán ra kèm theo tờ khai cụ thể về hoá đơn đã có cán bộ chuyên quản kiểm tra xác nhận tờ khai trình lãnh đạo chi cục thuế xét duyệt việc giảm thuế. Đối với cơ quan đơn vị hành chính sự nghiệp khi mua hàng hoặc cung ứng dịch vụ có đầy đủ hoá đơn hợp lệ, có bảng kê hoá đơn (ghi rõ ký hiệu sêri, số hoá đơn, tên hàng hoá, dịch vụ, số tiền mua hàng và tên, địa chỉ, mã số thuế của đơn vị bán hàng), được cơ quan tài chính chấp nhận thanh toán đầy đủ khi quyết toán tài chính năm. áp dụng thủ nghiệm hình thức mở thưởng đối với số xêri của hoá đơn, chỉ nên áp dụng đối với khu vực người tiêu dùng hàng hoá trực tiếp cho sinh hoạt không kể các cơ quan Nhà nước vì khu vực này có thể kiểm soát dễ dàng. Có thể số tiền thưởng trong mở thưởng sẽ tiết kiệm hơn nhiều sơ với công tác kiểm tra mà hiệu qủa hơn, nhanh chóng hơn, mang tầm vĩ mô hơn, tránh được phiền hà, nhũng nhiễu… Việc mở thưởng nên thực hiện theo tháng và được thông tin đến tận người dân. Trong quá trình thực hiện sẽ mất nhiều thời gian và công sức của cán bộ, công chức và một phần số thu ngân sách nhưng dần dân từng bước với biện pháp kích thích này sẽ phát huy tác dụng tích cực và có tác dụng đòn bẩy trong quá trình quản lý thu thuế. Yêu cầu của việc mở thưởng là chọn đối tượng tham gia, điều kiện để được lãnh thưởng, số lượng quy mô giải thưởng, quá trình tổ chức mở thưởng không xảy ra sự lợi dụng, thiếu công tâm. Khuyến khích việc sử dụng hoá đơn bán hàng đối với những hộ nông dân tiêu thụ sản phẩm thường xuyên hoặc định kỳ với giá trị lớn. Đây là điều kiện thuận lợi để sản phẩm của người nông dân được tiêu thụ dễ dàng, giữ được giá bán phù hợp, không bị các tổ chức, cá nhân thu mua ép cấp, ép giá, tránh phiền hà trong quá trình vận chuyển và phản ánh đúng giá trị sản phẩm hhh bán ra, giúp cho hộ nông dân tăng tích luỹ, tái đầu tư mở rộng sản xuất. Đồng thời nâng cao đời sống vật chất cho người nông dân và làm cơ sở cho các chính sách ưu đãi đầu tư, phát triển sản xuất. Mặt khác, nhằm giảm bớt những vướng mắc, những thủ tục rườm rà, tiêu cực trong quá trình kiểm tra, kiểm soát đối với người nông dân khi mang sản phẩm đi tiêu thụ trên thị trường. Việc người nông dân khi bán sản phẩm có sử dụng hoá đơn sẽ giảm bớt việc sử dụng bản kê thu mua hàng trong việc hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh ở các huyện, hạn chế hiện tượng tiêu cực, quá trình khấu trừ, hoàn thuế GTGT, tăng cường hiệu quả của công tác quản lý thu thuế. + Ban hành mẫu hoá đơn đặc thù cho việc mua bán hàng hoá theo hình thức đặt, gửi hàng thông qua điện thoại, Fax, ký gửi phù hợp với yêu cầu thực tế phát sinh hiện tại. Loại hoá đơn này áp dụng theo phương thức hồi báo (liên2 và liên 3 được gửi kèm theo hàng, khi người mua nhận đủ hàng thì ký nhận và gửi hồ báo liên 3 cho người bán hàng làm cơ sở thanh toán), nhằm xác lập tính pháp lý rõ ràng giữa người mua, người bán, khuyến khích các đơn vị tích cực sử dụng hoá đơn bán hàng, tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan chức năng dễ kiểm tra, đối chiếu xác minh, hạn chế trường hợp quay vòng hoá đơn để trốn thuế. Thực hiện được những bước công việc trên mới hạn chế được tình trạng sử dụng hoá đơn giả, mua bán hoá đơn trắng, ghi hoá đơn liên trên doanh số ít liên dưới doanh số cao hơn… góp phần xây dựng trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực tài chính, tăng cường pháp chế của Nhà nước trong quản lý kinh tế và góp phần bảo vệ công bằng xã hội. 3.2.4. Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương trong quản lý thu thuế. Quản lý thu thuế được thực hiện trên cơ sở chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Do đó, từng cấp uỷ Đảng, tổ chức Đảng các cấp phải có chương trình và biện pháp cụ thể để lãnh đạo cơ quan chính quyền, chuyên môn, đoàn thể triển khai tích cực và thực hiện tốt công tác lớn của Nhà nước và nhân dân. Đây đồng thời cũng là một cuộc đấu tranh quyết liệt, bởi nó đụng chạm đến lợi ích của Nhà nước, của từng đơn vị sản xuất kinh doanh và mỗi người dân trong xã hội. Trong khi chính sách thuế còn nhiều tồn tại cần phải khắc phục, hoạt động của bộ máy ngành thuế còn chưa ổn định, cơ chế quản lý thuế còn nhiều sơ hở, giác ngộ về nghĩa vụ thuế của đa số các đối tượng nộp thuế còn thấp, sự phát triển của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập ngày càng mở mang đa dạng, phong phú về các phát sinh kinh tế… tất cả tạo nên sự phức tạp cao độ trong công tác quản lý thu thuế cho nên nếu không có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Đảng và chính quyền Nhà nước các cấp thì hiện tượng thu thuế sẽ ngày càng tăng. Trong điều kiện hiện nay, chính quyền địa phương có vai trò rất quan trọng đến công tác tổ chức quản lý thu thuế. Nhưng để thực hiện tốt vai trò chỉ đạo của chính quyền các cấp. Trung ương cần quy định chức năng, quyền hạn của chính quyền địa phương trên cơ sở quán tịt luật NSNN. Xác định rõ ranh giới giữa tài chính Trung ương và tài chính địa phương để xây dựng một hệ thống ngân sách thống nhất. Trên cơ sở đó tăng cường sự chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp đối với công tác quản lý thu thuế; UBND các cấp cần coi việc chỉ đạo điều hành công tác quản lý thu thuế trong địa phương mình là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng và Nhà nước giao phó. Từ nhận thức đó để bố trí cán bộ theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc việc quản lý thu thuế, cần chỉ đạo để giúp ngành thuế phối hợp tốt với các ngành tài chính, ngân hàng, kế hoạch, đầu tư, xây dựng… để chống thất thu thuế. Cần quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của UBND các cấp trong tổ chức quản lý thu thuế. Chính quyền địa phương phải thực hiện quyền thu thuế trên lãnh thổ của mình, giúp cho chính quyền địa phương là cơ quan thuế. Tránh tình trạng chính quyền thờ ơ với công tác thuế, coi đó là nhiệm vụ riêng của ngành thuế, đồng thời cũng không được can thiệp một cách sai trái vào chính sách, pháp luật thuế. 3.2.5. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền chính sách thuế. Xây dựng các luật thuế, pháp lệnh thuế nhằm cung cấp cho cơ chế quản lý tài chính những phương tiện quản lý, làm cơ sở và đảm bảo việc ban hành các quyết định phù hợp với đối tượng quản lý. Muốn các quy phạm pháp luật thuế tác động vào đối tượng nộp thuế, cần khâu tiếp theo đó là việc áp dụng luật thuế, đảm bảo cho chủ thể quản lý tổ chức thực hiện các quy phạm pháp luật thuế đối với các đối tượng nộp thuế đối với các đối tượng nộp thuế. Các quyết định quản lý mang lại hiệu quả khi nó tác động tới đối tượng quản lý, tới những người chấp hành và thực hiện nghiêm túc. Điều đó, phụ thuộc vào khâu thực hiện luật thuế, vào tính tự giác của mỗi công dân, đồng thời phụ thuộc vào hiệu qủa của luật thuế. ở nước ta hiện nay, việc xây dựng, áp dụng và tổ chức thực hiện luật thuế còn nhiều hạn chế. Thể hiện sự coi thường pháp luật của các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế. Để khắc phục tình trạng trên, điều quan trọng là phải tiến hành thường xuyên việc giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật là điều kiện hàng đầu để tăng cường pháp chế trong thực hiện các luật thuế. Phải giáo dục những điều sơ đẳng về chính sách thuế ngay trong ghế nhà trường tiểu học, giáo dục và phổ cập những điều cơ bản của luật cho mọi công dân hiểu biết và thực hiện tốt. Các nhà chức trách, các tổ chức, đặc biệt là cơ quan thi hành pháp luật phải có biện pháp nâng cao sự hiểu biết và hình thành một ý thức pháp luật trong quảng đại quần chúng nhân dân. Điều đó, không những là tiền đề mà còn là chỗ dựa cho việc xây dựng và thi hành các luật thuế. Cần có sự kết hợp chặt chẽ của ngành giáo dục để tuyên truyền phổ biến luật thuế. Cần tạo ra một sự chuyển biến sâu sắc trong toàn xã hội từ chỗ khuyến khích chống thuế dưới chế độ cũ sang hình thức nộp thuế là nghĩa vụ, là biểu hiện nhiệt tình yêu nước của mỗi người, niềm tự hào về mức đóng góp của mình đối với đất nước. Trốn thuế, lậu thuế đồng nghĩa với lừa đảo và ăn cắp, không những bị pháp luật trừng trị nặng, ghi vào hồ sơ cá nhân, không ai muốn thuê mướn sử dụng người đang bị án mà còn bị xã hội khinh rẻ, phê phán. Phương pháp tuyên truyền có hiệu quả nhất là thông qua các cấp chính quyền, cơ quan đoàn thể quần chúng. Cần nhận thức rằng, Nhà nước Việt Nam là “Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” [13, tr. 48]. Do đó, phải bằng mọi cách làm cho người dân hiểu đúng pháp luật và chấp hành pháp luật, thực hiện sự kiểm tra của nhân dân đối với cơ quan thuế. Ngành thuế và các cấp chính quyền tranh thủ kết hợp trong các cuộc họp, hội nghị tổng kết của Đảng, chính quyền, đoàn thể, quần chúng để tuyên truyền, vận động thực hiện chính sách thuế. Việc cung ứng tri thức và giáo dục, tuyên truyền ý thức về pháp luật cho mỗi công dân không phải sự nghiệp riêng của ngành thuế mà là nhiệm vụ có tầm chiến lực quốc gia cầnphải đặt dưới sự chỉ đạo của Trung ương và các cấp chính quyền địa phương. Kinh nghiệm cho thấy, trong quá trình tuyên truyền cầm phải lưu ý quan tâm đến tâm tư của người nộp thuế. người nắm được chính sách thuế thì luôn mong đợi câu trả lời chính xác, người mua chưa nắm được trình bày và giải thích rõ hơn. Nếu làm được như vậy sẽ cải tiến được mối quan hệ giữa nhân dân và người nộp thuế và các cơ quan chức năng quản lý Nhà nước về thuế. Các địa phương cần đẩy mạnh công việc thành lập các trung tâm dịch vụ, tư vấn pháp luật về thuế (có thể thu lệ phí hoặc không thu lệ phí hướng dãn, tư vấn). Giúp đỡ, hướng dẫn thực hiện công tác kế toán, sổ sách chứng từ và khuyến khích động viên sự trung thực trong khai báo và tự giác nộp thuế. Phải đề cao trách nhiệm của Bộ Tư pháp và các cơ quan tư pháp ở địa phương trong việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật thuế. Hàng năm, cần tiến hành tổ chức tổng kết công tác thuế với đối tượng nộp thuế trên địa bàn để rút kinh nghiệm. Coi trọng việc biểu dương khen thưởng tổ chức, cá nhân nộp thuế đúng luật và phê phán những cơ sở trốn thuế, lậu thuế để có tác dụng giáo dục. “Cần thiết phải tôn vinh và có chế độ khen thưởng phù hợp ở các đối tượng nộp thuế và doanh nghiệp kinh doanh có hiêụ quả, thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế” [14, tr. 4]. Ban tuyên giáo, các cấp uỷ cần quan tâm hơn nữa đối với công tác này phải coi đây là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của mình. Qua các phiên họp của hội đồng nhân dân các cấp, cần phải thông báo cụ thể cho nhân dân biết về tình hình vệ hiệu quả sử dụng nguồn thu thuế, nhằm tăng thêm chất lượng trong công tác tuyên truyền. Mở rộng hình thức tuyên truyền bằng tranh cổ động, áp phích thể hiện các công trình được xây dựng bằng nguồn thu thuế. KẾT LUẬN Đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong những năm qua đã có tác động tích cực thúc đẩy, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh đúng hướng, tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân ngày càng tốt hơn, xoá được đói, giảm được nghèo. Đặc biệt từ khi Luật doanh nghiệp ban hành, các thủ tục hành chính được cải tiến đơn giản hơn tạo ra sự thông thoáng, từ đó các thành phần kinh tế phát triển mạnh, đặc biệt là các cơ sở KTNQD phát triển nhanh chóng, đa dạng và phong phú góp phần tạo nhiều sản phẩm hàng hoá dịch vụ phục vụ nhân dân, thu hút hàng vạn lao động có việc làm, ổn định thu nhập đóng góp một phần đáng kể cho NSNN. Tuy nhiên, bên cạnh quá trình phát triển thì việc thực hiện nghĩa vụ với NSNN của các cơ sở thuộc khu vực KTNQD chưa sát đúng với tình hình hoạt động của cơ sở theo pháp luật hiện hành, do đó dẫn đến sự mất công bằng trong động viên tiền thuế ở tất cả các thành phần kinh tế, hiện tượng thất thu thuế còn nhiều. Cho nên tăng cường và hoàn thiện quản lý thu thuế ở khu vực KTNQD là điều cần thiết trong tiến trình cải cách thuế hiện nay. Với 3 chương thể hiện đề tài nghiên cứu, luận văn “Quản lý thuế khu vực ngoài quốc doanh ở Hà Tây - Thực trạng và giải pháp” đã đi sâu phân tích và giải quyết một số nội dung cơ bản sau: 1. Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về thuế và vấn đề quản lý thuế đối với khu vực kinh tế NQD. 2. Phân tích thực trạng công tác quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Hà Tây trong những năm gần đây, nhất là từ khi thực hiện Luật doanh nghiệp. Những thành công và hạn chế trong công tác quản lý thuế, từ đó rút ra những nguyên nhân chủ yếu tác động đến quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Hà Tây trong thời gian qua. 3. Luận văn đã phân tích những quan điểm quan điểm về việc thi hành chính sách động viên đóng góp qua thuế trên cơ sở bình đẳng, công bằng, bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. 4. Trên cơ sở những thực trạng quản lý thu thuế NQD ở tỉnh Hà Tây, luận văn đã đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường và hoàn thiện công tác quản lý thu thuế NQD trong giai đoạn hiện nay, hạn chế sự thất thu về thuếổtên địa bàn tỉnh trong thời gian tới. Hy vọng rằng, cùng với những nỗ lực chung của toàn Đảng, toàn dân tỉnh Hà Tây trong tiến trình đổi mới kinh tế, ngành thuế Hà Tây cũng sẽ có những chuyển biến tích cực trong công tác quản lý thuế. Luận văn có thể đóng góp được một số giải pháp trong quản lý thu thuế ở khu vực KTNQD trên điạ bàn tỉnh Hà Tây có hiệu quả thiết thực. Qua đó góp phần đảm bảo hệ thống thuế có thể phục vụ ngày càng tốt hơn trong phát triển kinh tế - xã hội và công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo tổng kết công tác thu thuế năm 1999, Hà Tây. Cục thuế Hà Tây (2000). 2. Báo cáo tổng kết công tác thu thuế năm 2000, Hà Tây. Cục thuế Hà Tây (2001). 3. Báo cáo chuyên đề: Biện pháp quản lý thu thuế đối với cơ sở kinh doanh NQD năm 2000 và 6 tháng đầu năm 2001, Hà Tây. Cục thuế Hà Tây (2001). 4. Báo cáo tổng kết công tác thu thuế năm 2001, 2002. Cục thuế Hà Tây (2002). 5. Báo cáo công tác quản lý thu thuế đối với hoạt động sản xuất kinh doanh công thương nghiệp và dịch vụ NQD, Hà Nội. 6. Báo cáo tình hình phát triển kinh tế tư nhân giai đoạn (2000 - 2002). Sở Kế hoạch Đầu tư Hà Tây (2002). 7. Lê Văn Chấn (2001), “Cùng trao đổi về việc xử lý quan hệ giữa cán bộ thuế và đối tượng nộp thuế”, Thuế Nhà nước, (6), tr.41. 8. PGS.PTS Ngô Thế Chi - PTS Vũ Công Ty (1999), Hướng dẫn thực hành thuế và kế toán thuế, Nxb Thống kê, Hà Nội. 9. Giáo trình quản lý thuế. Trường Đại học kinh tế quốc dân. NXB thống kê 2003. 10. Nguyễn Sinh Hùng (Bộ trưởng Bộ Tài chính) (2002), “Các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả và thực hiện tốt nghĩa vụ thuế - cần được tôn vinh”, Thuế Nhà nước, (2), tr.4. 11. Luật thuế Giá trị gia tăng ban hành ngày 10/5/1997. NXB chính trị Quốc gia Hà Nội 1999. 12. Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp ban hành ngày 10/5/1997. NXB chính trị Quốc gia Hà Nội 1999. 13. Mác - Ăngghen (1962), tập 1, Nxb Sự thật Hà Nội. 14. Mác - Ăngghen (1962), tập 2, Nxb Sự thật Hà Nội. 15. Nghị định 52/NĐ-CP Chính phủ ban hành ngày 9/9/1996. 16. Nghị định số 28/1998/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thuế Giá trị gia tăng ngày 11/5/1998, Hà Nội. 17. Nghị định số 30/1998/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp ngày 13/5/1998, Hà Nội. 18. Nghị định số 79/2000/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thuế Giá trị gia tăng ngày 11/5/1998, Hà Nội. 19. Nghị định số 26/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp ngày 4/6/2001, Hà Nội. 20. Niên giám thống kê 1999 - 1999. Cục thống kê Hà Tây (1999). Xí nghiệp in, Công ty phát hành biểu mẫu thống kê Hà Tây. 21. Niên giám thống kê 2000 - 2002. Cục thống kê Hà Tây (2002). Xí nghiệp in, Công ty phát hành biểu mẫu thống kê Hà Tây. 22. Đào Duy Quát (2000), “Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng nhằm thực hiện thắng lợi các luật thuế mới”, Thuế Nhà nước, (5), tr.1. 23. Huỳnh Huy Quế (2000), “Thuế trong thời kỳ đổi mới”, Tài chính, tr. 10-12. 24. Thông tư số 89/1998/TT-BTC ngày 27/6/1998 hướng dẫn thi hành Nghị định số 28/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế Giá trị gia tăng, Hà Nội. Bộ Tài chính (1998). 25. Thông tư số 99/1998/TT-BTC ngày 14/7/1998 hướng dẫn thi hành Nghị định số 30/1998/NĐ-CP ngày 13/5/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp, Hà Nội. Bộ Tài chính (1998). 26. Thông tư số 122/2000/TT-BTC ngày 29/12/2000 hướng dẫn thi hành Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế Giá trị gia tăng, Hà Nội. Bộ Tài chính (2000). 27. Thông tư số 18/2002/TT-BTC ngày 20/2/2002 hướng dẫn thi hành Nghị định số 26/2001/NĐ-CP ngày 4/6/2001 của Chính phủ và Nghị định số 30/1998/NĐ-CP ngày 13/5/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp, Hà Nội. Bộ tài chính (2002). 28. Thuế Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, tập II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ tài chính - Tổng cục Thuế (2001). 29. Thanh Thanh (2002), “Luật quá thoáng”, Báo Pháp luật, ngày 13/5. Hà Nội. 30. Vũ Thị Toản (1996), Công tác quản lý thu thuế NQD trên địa bàn Hà Nội. Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 31. Thuế Nhà nước, Nxb Tài chính, Hà Nội 2000. 32. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài. 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2 3. Mục đích và yêu cầu 2 4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu 3 5. Phương pháp nghiên cứu 3 6. Đóng góp mới về mặt khoa học và luận văn 3 7. Kết cấu của luận văn 3 CHƯƠNG 1: TỔNG QUÁT VỀ THUẾ VÀ QUẢN LÝ THUẾ KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH 4 1.1. Một số vấn đề lý luận về thuế 4 1.1.1. Khái niệm - bản chất, đặc điểm của thuế 4 1.1.2. Vai trò của thuế 9 1.2. Khu vực KTNQD và quản lý thuế đối với KT NQD 12 1.2.1. Đặc điểm của kinh tế NQD 12 1.2.2. Yêu cầu và nội dung của công tác quản lý thu thuế NQD 17 1.2.2.1. Mục tiêu yêu cầu của quản lý thu thuế NQD 18 1.2.2.2. Nội dung cơ bản của quản lý thu thuế KTNQD 21 1.3. Nội dung cơ bản của một số sắc thuế đối với KTNQD ở việt nam 29 1.3.1. Thuế môn bài 30 1.3.2. Thuế GTGT 30 1.3.3. Thuế TNDN 33 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH Ở HÀ TÂY 36 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội và thực trạng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây 36 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội 36 2.1.2. Thực trạng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (NQD) ở Hà Tây 43 2.2. Tình hình quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây những năm qua 49 2.2.1. Xây dựng bộ máy quản lý ngành thuế 49 2.2.2. Tổ chức quản lý thu thuế 54 2.2.2.1. Quản lý thu thuế các doanh nghiệp NQD 54 2.2.2.2. Quản lý thu thuế hộ cá thể kinh doanh 59 2.2.3. Công tác thanh tra chống thất thu trong quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Hà Tây 65 2.3. Đánh giá chung 67 2.3.1. Những kết quả đã đạt được 67 2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 71 2.3.2.1. Những hạn chế 71 2.3.2.2. Những nguyên nhân 72 CHƯƠNG 3: NHỮNG QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ KHU VỰC KINH TẾ NQD Ở HÀ TÂY NHỮNG NĂM TỚI 74 3.1. Một số quan điểm cơ bản nhằm hoàn thiện quản lý thu thuế ngoài quốc doanh ở Hà Tây 74 3.1.1. Quản lý thu thuế là nhiệm vụ chung của cơ quan thuế, chính quyền địa phương và cơ quan liên quan 74 3.1.2. Bảo đảm bình đẳng về nghĩa vụ nộp thuế 76 3.1.3. Quản lý thuế NQD phải được đổi mới theo: ĐTNT tự tính, tự khai và tự nộp thuế 77 3.2. Một số giải pháp về tăng cường quản lý thuế đối với khu vực kinh tế NQD 78 3.2.1. Nâng cao chất lượng công tác quản lý thuế đối với KTNQD trên địa bàn 78 3.2.2. Kiện toàn bộ máy quản lý thuế, nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng cán bộ. 81 3.2.3. Hoàn thiện chế độ sổ sách kế toán, chứng từ hoá đơn trong quản lý thu thuế 84 3.2.4. Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương trong quản lý thu thuế 91 3.2.5. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền chính sách thuế 92 KẾT LUẬN 95 DANH MỤC 97

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10748.doc
Tài liệu liên quan