MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong vốn từ vựng của mỗi ngôn ngữ, bên cạnh đơn vị từ còn có
một số lượng lớn các loại đơn vị ngữ cố định được gọi là quán ngữ
(QN), Chúng được dùng rất phổ biến trong lời ăn tiếng nói hàng ngày
cũng như trong các bài nói, bài viết, trong sáng tác văn chương, trên đài
phát thanh, truyền hình, sân khấu, báo chí, Vì vậy, việc nắm hiểu và
trau dồi khả năng sử dụng những ngữ cố định đó đã trở thành nhu cầu tự
nhiên của mỗi người.
Gần đây, cùng với khuynh hướng chú trọng hơn đến nhân tố con
người trong ngôn ngữ và trong hoạt động ngôn ngữ, giới nghiên cứu Việt
ngữ học ngày càng quan tâm đến vấn đề tính tình thái, ý nghĩa tình thái
của ngôn ngữ. Đó cũng là lẽ tất yếu bởi không có một nội dung nhận
thức và giao tiếp hiện thực nào lại có thể tách khỏi những nhân tố như
mục đích, nhu cầu, thái độ đánh giá của người nói đối với điều được
nói ra xét trong mối quan hệ với hiện thực, với đối tượng giao tiếp và các
nhân tố khác của ngữ cảnh giao tiếp.
Như đã biết, một trong những mục đích chính của giao tiếp là trao
đổi thông tin. Độ phức tạp trong việc xử lí thông tin và hiệu ứng mà phát
ngôn tác động đến người nghe đòi hỏi người nói có những thao tác xử lí
nhất định về mặt ngôn ngữ. Việc sử dụng ngữ điệu hay các phương tiện
từ vựng không giống nhau giúp người nói thể hiện các thái độ khác nhau
đối với nội dung phát ngôn. Các thông tin liên nhân được truyền đạt bên
cạnh những thông tin ngôn liệu được gọi là thông tin tình thái nhận
thức.
Trong số những đơn vị từ vựng biểu đạt thông tin tình thái nhận
thức, có một loại ngữ cố định chuyên biểu thị ý nghĩa tình thái, thường được gọi là quán ngữ tình thái (QNTT). Loại đơn vị này có những nét
đặc thù về cấu tạo, chức năng và ngữ nghĩa. Sự tồn tại của các QNTT
với ý nghĩa, vai trò của chúng trong cơ chế giao tiếp liên nhân đã thôi
thúc chúng tôi tìm hiểu, khảo sát đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp của loại
đơn vị này với đề tài “Quán ngữ tình thái trong tiếng Việt”.
Về mặt lí luận, luận văn hi vọng góp phần tìm hiểu một số đặc
điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa - ngữ dụng của QNTT, một vấn đề từ trước
đến nay ít được đề cập đến.
Về mặt thực tiễn, quá trình giải quyết những vấn đề cụ thể về
QNTT trong luận văn có thể góp thêm ý kiến cho việc biên soạn tài liệu
nghiên cứu cũng như trong việc vận dụng vào công tác giảng dạy của
bản thân về những vấn đề có liên quan đến QNTT trong tiếng Việt.
2. Lịch sử vấn đề
Như đã nói, trong tiếng Việt, các nhà nghiên cứu từ vựng học đã
gọi lớp từ chuyên dụng này là QN. Tuy nhiên, cho đến nay, sự nhìn nhận
và nắm bắt về QN một cách nhất quán, giúp người dạy, người học không
cảm thấy mơ hồ và nhập nhằng với các khái niệm tương cận vẫn còn là
vấn đề phía trước. Trong khi các hiện tượng khác thuộc ngữ cố định
được nghiên cứu một cách có hệ thống thì QN chỉ mới được đề cập đến
với những nhận định ban đầu. Chúng tôi chỉ tìm thấy được một số ít
công trình, bài viết (chủ yếu là về từ vựng học) có trình bày sơ lược về
đơn vị quán ngữ trong tiếng Việt. Các tác giả như Đỗ Hữu Châu,
Nguyễn Thiện Giáp, Hoàng Trọng Phiến đã đề cập đến QN trong các
công trình của mình nhưng cũng chỉ là những gợi mở cho các hướng
nghiên cứu sâu và qui mô hơn. Hoàng Trọng Phiến [22] đã liệt kê được
gần 500 QN trong công trình từ điển giải thích hư từ tiếng Việt của tác
giả. Đỗ Thanh và các đồng sự đã bổ sung hàng trăm đơn vị nữa trong công trình của họ [15]. Và như đã nói, chúng tôi lấy lớp từ này làm xuất
phát điểm nghiên cứu.
Một số tác giả khác đã khảo sát QN một cách gián tiếp như là
những phương tiện “hiện thực hoá” cho các đơn vị, hiện tượng ngôn ngữ
có liên quan trong từ pháp, ngữ pháp, lôgíc-cú pháp, . Cụ thể, Đinh Văn
Đức đã xác lập khái niệm tình thái và miêu tả lớp tiểu từ tình thái trong
đó chúng có khả năng được hiện thực hoá bằng QN [10]. Ngoài ra, trong
các thành phần câu, theo đa số tác giả ngữ pháp tiếng Việt, lớp từ này
xuất hiện dưới dạng là thành phần phụ tình thái, đề tình thái hoặc thuyết
tình thái trong câu. Các tác giả phân tích diễn ngôn thì phần nhiều quan
tâm đến đặc tính liên kết của QN. Vì thế, có thể thấy rằng QN, trong địa
hạt ngữ pháp, cũng đã từng được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau, trong thế đối lập với trạng ngữ, liên ngữ và tình thái ngữ, Thật
vậy, trên thực tế, các nhà nghiên cứu đã tỏ ra rất nỗ lực trong việc làm rõ
vấn đề này. Nhiều tác giả đã thấy được bản chất của QN trong câu đơn
nhưng không thể xếp chúng vào một thành phần cú pháp nào cả về nên
đề nghị gọi là phụ chú ngữ (nói trộm bóng, có lẽ, kể ra .). (Nguyễn Kim
Thản) cho là gia tố (ấy thế, vả lại, mới chết chửa, có ai ngờ, ) (Lưu Vân
Lăng), hay thành phần xen kẽ (có lẽ, có ai ngờ, .) (Nguyễn Tài Cẩn).
Trong ngữ pháp chức năng, chúng là yếu tố tình thái làm thành Đề của
câu được đánh dấu bằng thì (theo ý tôi thì, nếu tôi không nhầm thì, thật
ra thì .); bằng la (quả là, nói thật là, miễn là .) (Cao Xuân Hạo). Trong
đó, Nguyễn Văn Hiệp [57] là tác giả đã quan tâm và đầu tư nhiều cho
việc kiến giải, phân biệt lớp từ này với trạng ngữ, “vị ngữ thứ yếu” (thuật
ngữ của các tác giả) mặc dù chỉ dưới góc nhìn của ngữ pháp câu và ngữ
nghĩa lôgic cú pháp. Nguyễn Văn Hiệp đặt tên cho chúng là “định ngữ
câu”. Tuy nhiên, do cố gắng tìm ra bản chất của các tham tố ngoài cú
pháp câu, các tác giả trên khá thiên về ngữ nghĩa lôgic-cú pháp. Trong thực tế nói năng, việc sử dụng và ý nghĩa dụng học phong phú của lớp từ
này vượt hẳn ra cái gọi là “điều kiện sử dụng câu có định ngữ câu” của
tác giả.
Diệp Quang Ban đã đề nghị một đơn vị gọi là liên ngữ để chỉ quan
hệ ngoại hướng, liên kết câu chứa nó với các câu liên quan phía trước mà
thực chất chính là những QN liên kết. Ngoài ra, có hai công trình nổi bật
về liên kết văn bản của Trần Ngọc Thêm [85] và liên kết lời nói của
Nguyễn Thị Việt Thanh [73] đều bàn về QN với cách gọi khác như
“cụm từ làm thành phần chuyển tiếp”, “từ nối”, .
Trong khi đó, việc nghiên cứu QN chỉ dừng lại ở những giải nghĩa
cho từng QN, chỉ ra một vài cách dùng, một số giá trị sử dụng nào đó
của nó. Nghĩa là các tác giả hoặc chỉ nêu khái niệm QN một cách khái
lược trong các giáo trình ngôn ngữ (phần từ vựng) hoặc bàn đến một
cách chung chung về cách phân loại, cách sử dụng và đặc trưng ngữ
nghĩa của các QN tiếng Việt qua một số bài nghiên cứu đăng trên tạp chí
chuyên ngành. Chẳng hạn:
Nguyễn Thị Thìn (2000) với bài “Quán ngữ tiếng Việt” [71] đã
dựa vào công dụng thường dùng của QN để phân chia nó thành bốn loại.
Ngô Hữu Hoàng (2002)đđã chỉ ra một số điểm khác biệt giữa
thành ngữ (TN) và QN, trong bài “Vài suy nghĩ về cụm từ cố định nói
chung và quán ngữ nói riêng” [42]. Theo đó, tác giả đưa ra kết luận TN
“là kết quả của việc vay mượn để đúc kết ngữ nghĩa từ vựng (định danh)
bậc hai nhằm đáp ứng tình trạng nhu cầu phản ánh “nghĩa” của thế giới
khách quan trong giao tiếp”, còn QN “phục vụ cho các chức năng của lời
nói, tạo ra một hành vi giao tiếp sao cho có hiệu quả Ngữ nghĩa của nó
bị hư hóa nên mất tính TN và cấu trúc nội tại từ đó cũng rất lỏng lẻo”.
Chi tiết hơn là bài viết “Bàn về điều kiện sử dụng của một số
QNTT nhận thức dưới góc độ lí thuyết quan yếu” của Ngũ Thiện Hùng [45]. Qua khảo sát cứ liệu tiếng Anh và tiếng Việt, tác giả đã khẳng định
“việc sử dụng các QNTT nhận thức không chỉ chịu sự chế định của các
yếu tố logic cú pháp mà còn phải tính đến các điều kiện như định hướng
nội dung hay định hướng quan hệ (động cơ vì người nghe/người nói)”.
Ngoài ra, các giáo trình về từ vựng học, các từ điển có nêu khái
niệm QN chẳng hạn:
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, 2001), Nxb Hà Nội có
nêu định nghĩa về QN như sau: “là những tổ hợp từ cố định dùng lâu
thành quen, nghĩa có thể suy ra từ nghĩa của các yếu tố hợp thành (tr.84).
Nguyễn Thiện Giáp (1990) trong giáo trình “Từ vựng học tiếng
Việt”, Nxb GD cho rằng QN “là những cụm từ được dùng lặp đi lặp lại
trong các loại văn bản để liên kết, đưa đẩy, rào đón hoặc nhấn mạnh nội
dung cần diễn đạt nào đó”.
Đỗ Hữu Châu (1999) trong “Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt” Nxb
GD lại xếp QN vào phần trung gian giữa ngữ cố định với cụm từ tự do.
Hoàng Trọng Phiến (2003), “Cách dùng của hư từ tiếng Việt hiện
đại” có nêu cách dùng của một số QN.
Cao Xuân Hạo (1991) trong “Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức
năng" (quyển 1) dù không trực tiếp đề cập đến khái niệm QN hay QNTT,
nhưng tác giả đã dành một phần trong chương II để mô tả phân tích đặc
điểm chức năng của các thành phần làm thành Đề tình thái, Thuyết tình
thái.
Điểm qua một số công trình nghiên cứu trên đây ta thấy, cho đến
thời điểm này, nhiều vấn đề cơ bản của QNTT vẫn còn bỏ ngỏ. Như vậy,
Quán ngữ tình thái tiếng Việt thực sự là một đề tài hấp dẫn, đáng được
quan tâm nghiên cứu bởi tính đa loại, đa công dụng và những đặc trưng
riêng của nó. Từ đó chúng tôi hy vọng góp phần tìm ra hoạt động của
QNTT để vận dụng vào việc nói, viết tiếng Việt cho tốt. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là tìm ra những đặc điểm ngữ nghĩa- chức
năng của QNTT. Để đạt được mục đích đó , chúng tôi tập trung giải
quyết những nhiệm vụ sau:
- Tìm ra những tiêu chí để nhận diện QNTT tiếngViệt, trên cơ sở đó
lập một danh sách về QNTT thông dụng.
- Miêu tả những đặc điểm cơ bản của QNTT về hình thức.
- Phân tích ngữ nghĩa – chức năng của lớp từ này. Từ đó khảo sát ba
chức năng cơ bản của QNTT tiếng Việt.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu, trong quá trình tiếp cận và phân
tích đối tượng, ngoài những phương pháp, thủ pháp nghiên cứu khoa học
chung như thu thập ngữ liệu, khảo sát, phân loại ngữ liệu , luận văn
chủ yếu sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ học để phân tích ngữ nghĩa
chức năng của các QNTT thu thập được.
- Phương pháp miêu tả để trình bày quá trình khảo sát, phân tích
đối tượng và kết quả nghiên cứu.
4.2. Nguồn ngữ liệu
QNTT thường xuất hiện trong khẩu ngữ, trong những lời đối thoại
trực tiếp của những người tham gia giao tiếp. Nó cũng được liệt kê trong
một số từ điển tiếng Việt. Vì vậy để tìm ra được các đặc điểm chức năng
của lớp từ này, tư liệu chủ yếu của luận văn bao gồm:
- Các tác phẩm, các văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn
chương, chủ yếu là của Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, tuyển tập truyện
ngắn, tạp chí Văn nghệ quân đội,
- Từ điển tiếng Việt và Từ điển giải thích hư từ tiếng Việt. 5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần Nội dung gồm 2 chương như
sau:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết
Trong chương này, luận văn đã điểm qua vài nét về QN như: khái
niệm, phân biệt QN với TN, phân loại các QN tiếng Việt (QNTV). Ngoài
ra, chúng tôi còn đề cập đến một số vấn đề về tình thái trong ngôn ngữ
học. Theo đó, luận văn đã nêu ra một số đặc điểm bản chất của QNTT
tiếng Việt.
Chương 2: Đặc điểm của QNTT tiếng Việt
Ở chương 2, luận văn tập trung nghiên cứu, khảo sát đặc điểm cấu
tạo, các chức năng ngữ nghĩa cơ bản của QNTT tiếng Việt như chức
năng đánh giá, chức năng tham gia biểu thị mục đích phát ngôn và chức
năng biểu thị thái độ, tình cảm của người nói.
94 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2603 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quán Ngữ tình thái tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c bắt đầu, tiếp diễn bình thường và đi đến kết thúc.
Mặt khác chức năng này sẽ làm cho người đối thoại nhận biết các hành
vi phát ngôn (xác tín, đồng tình, bác bỏ, yêu cầu, khuyên bảo, hỏi, hứa
hẹn,…) [12, tr.59].
Để làm rõ bình diện ngữ nghĩa chức năng của QNTT TV, chúng tôi
chỉ khảo sát ba chức năng cơ bản sau:
- Chức năng đánh giá
- Chức năng tham gia biểu thị mục đích phát ngôn.
- Chức năng phản ánh tình thái.
2.2.2. Các chức năng ngữ nghĩa cơ bản của QNTT tiếng Việt
2.2.2.1. Chức năng đánh giá
Khi xem xét ngữ nghĩa chức năng của đánh giá, Volf đã đưa
đánh giá vào phạm trù tình thái. Tác giả đã nhận xét: “Có thể xem đánh
giá như là một trong những dạng của tính tình thái, tức là cái được đặt
chồng lên thêm cho một nội dung mô tả có trong sự thể hiện bằng ngôn
ngữ” [12, tr.11]. Vốn là một trong những hoạt động gắn liền
với nhận thức của con người, đánh giá chính là nêu ý kiến nhận xét,
thường là chủ quan, của người nói về sự việc được nêu trong câu. Do đó,
nội dung đánh giá ít nhiều hàm chứa cả thái độ của người đánh giá như
hài lòng, không hài lòng, thán phục hoặc chê bai, vui mừng hoặc tức
giận; đánh giá về lượng, mức độ, hay đánh giá về tính hợp lí, hợp lẽ của
điều được nói tới trong câu… Thực tế có nhiều cách đánh giá và ý nghĩa
đánh giá được thể hiện trong ngôn ngữ dưới nhiều hình thức. Dưới đây
chỉ là một số cách đánh giá thường gặp trong đó có sự tham gia của các
QNTT:
* Đánh giá về lượng, mức độ
Bất quá P là cũng, cũng chỉ P là cùng, cùng lắm thì (là) P, quá lắm
là P, P biết mấy, P biết bao, P là mấy, P là bao, có mỗi P, ít nhất (là) P,
P là đằng khác …
Ví dụ: (46) - Theo anh mấy ngày nữa thì mẹ về ?
- Bất quá hai ngày nữa là cùng.
(47) - Lên đường chậm vài giờ thì đã sao. Rồi lên phân
trần cùng đồng chí trạm trưởng, may ra thì đồng chí ấy thông cảm,
không thì đành nghe chửi. Quá lắm cũng đưa ra khiển trách.
(Núi đồi và thảo nguyên/tr.84).
Biểu thị sự phỏng đoán, đánh giá của chủ ngôn rằng sự việc, số
lượng nêu ở P là ở mức cùng cực, khả năng xấu nhất có thể xảy ra.
Ví dụ: (48) - Con bò có con năm trăm là mắc lắm. Thường ba,
bốn trăm là cùng.
(49) - Số tiền phải nộp phạt chỉ chênh có vài nghìn đến
mươi nghìn là cùng.
(Tuyển tập truyện ngắn I/476)
QNTT “P là cùng” thường dùng trong khẩu ngữ, có vị trí cố định
ở cuối câu. Trong hai trường hợp trên, ta thấy đứng trước “là cùng” là
một số từ, một danh ngữ có số từ làm trung tâm. Khi đó, QNTT này biểu
thị sự khẳng định của người nói rằng con số được nói đến là ở mức cao
nhất mà P đạt tới, không thể vượt hơn.
(50) Ít ra nó cũng phải có vài lời xin lỗi.
(Từ điển tiếng Việt/463)
(51) Anh đề nghị nếu binh trạm không bổ sung thú y về thì
anh em trong tổ nên cử người đi học lấy dăm bảy tháng. Ít ra cũng còn
biết cách xem bệnh và bốc thuốc cho voi.
(Tuyển tập truyện ngắn I/260)
QNTT “ít ra” biểu thị ý khẳng định của người nói rằng P là khả
năng ở mức độ tối thiểu cần đạt đến, có như thế mới hợp lí.
* Đánh giá về tính hiện thực/ phi hiện thực của sự việc
đáng lẽ, lẽ ra, lẽ nào, chẳng lẽ, đúng lí ra, công bằng mà nói, ai lại
P, ai đời P, đúng ra, P mới phải, đằng thằng ra, thì P, nỡ lòng nào,..
Ví dụ: (52) Đáng lẽ tôi cũng đi rồi. Nhưng cậu lái xe bỗng nổi cơn
sốt rét. Tôi phải để cậu ấy nghỉ ngơi. (Tuyển tập truyện ngắn
II/508)
(53) Tôi yêu cô ấy. Đáng lẽ tôi phải gặp cô ấy từ rất lâu;
như thế mới hợp lý.
(Bi kịch nhỏ/105)
(54) Trăng sáng đầy vườn hoa, cô ấy đáng lẽ phải ở bên
chú và thưởng thức khung cảnh ấy. Nhưng không.
(Tuyển tập truyện ngắn I / tr.76).
QNTT “đáng lẽ” theo đúng lẽ thường thì đã P nhưng vì một lý
do nào đó, điều xảy ra trong thực tế lại trái ngược P.
* Đánh giá về tính tất yếu/ phi tất yếu của điều được nói tới trong
câu
ắt hẳn, chắc hẳn, chắc chắn, dĩ nhiên là, cố nhiên là, tất nhiên là,
đương nhiên là, có lẽ,…
Ví dụ: (55) - Đầu tháng sáu Tây, tôi nghỉ thật. Anh sẽ được thêm số
tiền ấy của tôi mà trả tiền nhà với tiêu pha. Ăn thì bởi có một mình, cố
nhiên là bà Hà không thể nhận rồi.
(Tuyển tập Nam Cao, tr.300)
QNTT cố nhiên là biểu thị ý khẳng định dứt khoát của người
nói đối với tính tất yếu của điều được nói đến ở mệnh đề.
(56) Trở lại chỉ huy sở của đoàn, tôi cắm đầu viết lại câu chuyện
này. Tất nhiên là các nhân vật trong chuyện tôi thay tên. Cả những gì
thuộc về tính chất sự việc tôi cũng bớt đi cho đỡ rườm rà.
(Kiếp người, tr.251)
(57) Kỳ thi năm ấy, Dân bỏ thi môn của tôi. Như thế, đương nhiên
tôi phải cho Dân điểm không.
(Tuyển tập truyện ngắn, tr.430)
đương nhiên biểu thị sự khẳng định, thừa nhận của người nói
rằng điều được nói đến tất yếu như vậy không thể khác được.
(58)Sao em không học Sư phạm? Có lẽ nghề này nghèo túng phải
không em?
(Văn nghệ quân đội 8/96, tr.42)
có lẽ biểu thị ý phỏng đoán khẳng định một cách dè dặt của
người nói đối với tính chân thực của điều được nói đến. Như vậy QNTT
này được dùng trong trường hợp diễn tả điều không tất yếu sẽ xảy ra.
* Đánh giá về khả năng/ phi khả năng của điều được nhắc đến
nghe đồn, nghe nói, thấy bảo, trông như, dáng như, thoáng như,
dường như, chưa biết chừng, có khi, không chừng,…
Ví dụ: (59) Cô dè dặt:
- Nghe nói anh sắp lấy vợ.
(Tuyển tập truyện ngắn, tr.152)
(60) Thấy bảo người đàn bà này uống rượu nhiều.
(Tuyển tập truyện ngắn, tr.8)
(61) Anh ta dáng chừng sốt ruột, hết đứng lại ngồi.
(Từ điển tiếng Việt, tr.233)
(62) Đám đàn bà tức tối khi thấy bác đi qua. Làm sao nó lại đẹp
thế, lại trắng trơn đến thế? Dễ chừng nó chưa bao giờ bị đỉa bám vào
chân?
Người nói không cam kết hay bảo đảm tính chân thực của điều
được nói ra. Nghĩa là trên thực tế sự việc có thể như thế này mà cũng có
thể không. Bản thân các QNTT thấy bảo, dáng chừng, dễ chừng cho
chúng ta biết nội dung thông tin mệnh đề đi kèm có thể có khả năng xảy
ra hoặc không có khả năng xảy ra.
(63) Có khi mình hẹn lần vì bất đắc dĩ mà người ta lầm mình là
hạng người cẩn thận, kín đáo, chắc chắn cũng không biết chừng.
(Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tr.85)
(64) Tôi về chuyến này đem những ngót năm trăm bạc mà để kẻ cắp
biết thì có khi cũng không về được tới nhà.
(Tuyển tập truyện ngắn I/501)
Theo đánh giá của người nói vào thời điểm phát ngôn thì cả hai
khả năng này đều có thể xảy ra. Tuy nhiên, đựa trên những căn cứ, cơ sở
suy luận nhất định người nói thiên về phía khả năng P hoặc coi P là khả
năng đáng quan tâm, chú ý.
* Đánh giá về tính tích cực/ tiêu cực của điều được nói tới trong câu
ngộ nhỡ P, được cái P, chỉ (phải) mỗi tội P, hiềm một nỗi P, (nói)
của đáng tội, may sao, suýt nữa,…
Ví dụ:
(65) Được cái cậu ta không cờ bạc, rượu chè gì.
(66) Chỉ phải mỗi tội sức vóc nó nhỏ yếu, khó mà kham nổi công
việc nặng nhọc.
(67) Ngộ nhỡ ông ấy biết thì chết.
(68) Việc nghiêm trọng nhất mà ông không ngờ tới là hai con ruột
của ông, qua mọi thăng trầm của cuộc sống, gặp nhau và yêu nhau, suýt
nữa thành vợ chồng chính thức.
(Bi kịch nhỏ/48)
“Suýt nữa” biểu thị P là sự tình không có thật, mặc dù khả năng
trở thành hiện thực đã rất gần. Tuỳ vào nội dung mà P diễn đạt cũng như
tuỳ vào tình huống giao tiếp cụ thể mà QNTT này thể hiện những sắc
thái đánh giá (tích cực hoặc tiêu cực) khác nhau của người nói đối với P.
QNTT “được cái” theo cách nhìn nhận đánh giá chủ quan của
người nói thì P là điều tốt, có tính tích cực, bù lại cho những cái xấu, có
tính tiêu cực đã được nói đến ở trước.
“Chỉ mỗi tội” thể hiện sự đánh giá của người nói về cái điều P
đáng tiếc, hạn chế bên cạnh những cái hay, điều tốt mà đối tượng được
nêu có.
Dễ nhận thấy là kiểu phát ngôn có chứa QNTT thuộc nhóm này
luôn tiền giả định sự tồn tại của một hoặc một chuỗi phát ngôn Q đứng
trước.
Mặc dù trên hình thức là đánh giá nhưng chúng xuất hiện vào
những phát ngôn với vai trò như một phương tiện để đền bù vào những
chỗ mà người nói sợ rằng sẽ xảy ra vi phạm các phương châm hội thoại
(nhất là phương châm lịch sự). Khi không tuân thủ được cái lịch sự
thường tình trong giao tiếp, từ trong tiềm thức, họ tự thấy mình cần phải
có sự che chắn, rào đón để có thể giữ được xã giao trong tình trạng bình
thường. Và một khi không thể tránh né cái dở, bồi đắp cái hay được nữa
thì họ có những cách nói lòng vòng hoặc che chắn bằng những cách khen
rồi dùng những QNTT có lập luận nghịch như:
Ví dụ: (69) Anh chàng có bề ngoài khá bắt mắt chỉ mỗi tội nói
chuyện chán thật.
Những QNTT ra đời, tồn tại và “được sử dụng lâu dần thành quen”
chính vì chúng phù hợp với lối nói năng ưa tế nhị, ý tứ, trọng tình, trọng
các mối quan hệ, sợ mất lòng, sợ phải phê bình người khác một cách quá
thẳng thắn. Vì vậy, tuy đã chắc rồi, nhưng sợ mất lòng nên người nói cứ
rào đón hoặc dành phần thất lợi về mình, kiểu như: Tôi đoảng quá, nói
của đáng tội, nói bỏ lỗi, nói khí vô phép, khốn nỗi, … Và thường có
khuynh hướng là những QNTT trang trọng có khả năng ngày một mất
dần.
Ví dụ:(70) Con tưởng cô ấy lấy được ai giỏi giang hơn con chứ
cũng lấy thằng xe thằng bếp mà lại phải lấy làm hai. Lấy con làm một
mà cô ấy không thèm lấy.
Ông Học ngắt lời anh:
- Không lấy thì thôi, thiếu gì con gái mà anh còn phải tiếc. Tôi
ấy à ! Nói khí vô phép chứ vợ tôi mà thế thì mấy tôi cũng không lấy nữa.
(Truyện ngắn Nam Cao / tr.278)
(71) - Nhưng khốn nỗi xưa nay không ai chết lần thứ hai để được
bài học kinh nghiệm về cái chết. Vì vậy có nhiều người chết một cách
ngờ nghệch.
(Nguyễn Công Hoan – Truyện ngắn tuyển chọn)
QNTT “khốn nỗi” biểu lộ thái độ đánh giá của người nói, cho
rằng đó là điều bất lợi.
2.2.2.2. Chức năng tham gia biểu thị hành động ngôn từ
Những năm gần đây, vấn đề câu trong giao tiếp được giới Việt ngữ
học quan tâm với tên gọi là phát ngôn. Các mục đích của phát ngôn thời
gian gần đây được các nhà ngôn ngữ học đặc biệt quan tâm và khảo sát
chúng một cách tương đối hệ thống bởi lí thuyết hành động ngôn từ
(speech acts).
Ngữ dụng học chỉ ra rằng nói năng cũng là một loại hành động
tương tự như các hành động vật lí khác. Theo J.L.Austin [13, tr.238-349]
hành động ngôn từ gồm ba loại lớn: hành động tạo lời, hành động tại lời
và hành động mượn lời. Trong đó, hành động tại lời là những hành động
mà người nói thực hiện ngay khi nói năng. Nói cách khác, khi ta nói một
câu nghĩa là tư duy lô gích xác lập một mệnh đề và đồng thời ta cũng đã
thực hiện một hành động giao tiếp nhất định (mệnh đề được tình thái
hoá). Các hành động được thực hiện bằng phương tiện ngôn ngữ khi nói
được gọi là hành động tại lời (hay còn được gọi là hành động ngôn
trung). Có rất nhiều hành động tại lời như trình bày, miêu tả, giải thích,
minh hoạ, khẳng định, loan báo, minh chứng, đánh giá, phủ định, trả lời,
biện luận,… Nội dung của hành động tại lời được biểu hiện trong lời nói.
Lời nói luôn thể hiện suy nghĩ, nhận định, đánh giá, thái độ, tình cảm của
người nói. Có thể thấy rằng, với tư cách là phương tiện giao tiếp giữa
người nói (viết) và người nghe (đọc), phát ngôn luôn tồn tại trong cơ chế
hoạt động của giao tiếp liên nhân. Trong đó, các đối tượng giao tiếp có
thể sử dụng những dấu hiệu tình thái là trợ từ, thán từ, các tiểu từ tình
thái cuối câu hay các QNTT. QNTT không giống như các loại khác
trong hệ thống ngữ cố định (mặc dầu chúng tạm thời được xếp vào đó).
Vì thế, đối tượng mà chúng tôi đang khảo sát không phải với tư cách là
loại đơn vị ngôn ngữ trong hệ thống (trạng thái tĩnh) mà là đơn vị đang
làm chức năng của thực tiễn giao tiếp lời nói. Qua phân tích cách dùng
của QNTT tiếng Việt trên cơ sở ngữ liệu hiện có, chúng tôi thấy lớp từ
này có khả năng tham gia biểu thị một số loại hành động ngôn từ khác
nhau khá sinh động và phong phú. Tuy nhiên, trong điều kiện hạn hẹp
của luận văn, chúng tôi chỉ khảo sát cách diễn đạt tình thái cảm thán và
nghi vấn. Các cách diễn đạt này không chỉ để tiếp nhận câu trả lời mà
còn có giá trị khẳng định, phủ định hoặc trách mắng. Và tình thái cảm
thán là hành động ngôn từ dùng để thể hiện cảm xúc, tình cảm, thái độ
của người nói đối với một người, một vật hay một sự kiện nào đó. Để
thấy rõ chức năng tham gia biểu thị mục đích phát ngôn của các QNTT,
cụ thể là tạo tình thái hành động nghi vấn và cảm thán, có thể xét các ví
dụ sau:
(72) Ở cái cảnh của chúng ta lúc này, hạnh phúc chỉ là một cái
chăn quá hẹp. Người này có thì người kia bị hở. Đâu phải tôi muốn tệ?
Nhưng biết làm sao được? Ai bảo cuộc đời cứ khắt khe vậy?
(Tuyển tập Nam Cao, tr.49)
(73) Nhưng bỗng hắn hơi ngần ngại, biết đâu cái lão cáo già này
nó lại chả lừa hắn vào nhà rồi lôi thôi.
(Tuyển tập Nam Cao, tr.28)
(74) Nhưng thói đời, tre già măng mọc, có bao giờ hết những
thằng du côn?
(Tuyển tập Nam Cao, tr.29)
(75) Chẳng lẽ cháu bà đành không có vợ?
(Tuyển tập Nam Cao, tr.76)
(76) Thứ ngạc nhiên:
- Công mỗi tháng có hai đồng.
- Chứ còn gì ? Cơm nuôi, quần áo chủ may mà.
(Tuyển tập Nam Cao, tr.249)
(77) Oanh có một mình, y đang mải miết viết gì. Thấy Thứ lên,
y xếp cả vào ngăn kéo (…).
- Cô lại viết thư cho ông Đích chứ gì ?
(Tuyển tập Nam Cao, tr.262)
(78) Tôi cố đưa mắt mờ vì mưa, mờ cả vì tâm trạng của mình lúc
ấy, cố tìm lấy một người hay một vật. Không lẽ nào giặc đã qua mà
người ta không trở lại ?
(Tuyển tập truyện ngắn II, tr.346)
(79) - Em hãy nói cho anh biết: em hay lui tới nhà ai ? Làm gì ?
Anh cần biết để giúp đỡ em.
- Làm gì mà tra hỏi như quan toà thế ? Ai cũng có bạn. Anh
cũng có tự do.
(Tuyển tập Nam Cao, tập 2, tr.24)
(80) Chưa bao giờ tôi đi bộ như thế này. Phải chăng đây là bước
đầu cuộc sống mới của tôi ?
(Tuyển tập Nam Cao, tập 1, tr.15)
(81) Chàng đã thất bại ba lần. Lần thứ tư sao lại chẳng là một
thắng cuộc?
(Tuyển tập truyện ngắn I, tr.157)
Dễ dàng nhận thấy là trong các phát ngôn trên, dù có hình thức là
nghi vấn nhưng những QNTT ai bảo, biết đâu, có bao giờ, chẳng lẽ, chứ
còn gì nữa, chớ gì, chứ gì, không lẽ nào, làm gì mà P thế, phải chăng,
sao lại chẳng,… lại biểu thị nhiều cung bậc tình thái khác nhau như bác
bỏ, phỏng đoán, khẳng định, nghi vấn, hoài nghi, … Điều đó cho thấy
khả năng tham gia biểu thị các ý nghĩa hàm ẩn của các QNTT TV. Khả
năng này cũng góp phần lí giải tại sao người Việt thường sử dụng QNTT
trong giao tiếp. Chúng không chỉ giàu sắc thái chủ quan và tính khẩu ngữ
tự nhiên mà còn là đơn vị góp phần làm phong phú thêm cách diễn đạt tư
tưởng, tình cảm bằng ngôn từ trong giao tiếp. Nhận thấy vai trò tham gia
biểu thị mục đích phát ngôn của lớp từ này, Nguyễn Thị Lương[69,
tr.32-35] đã bổ sung một số chức năng thể hiện tình thái hành động ngôn
từ của các QN tiếng Việt như sau:
- Đánh dấu hành động phỏng đoán, giả định: có lẽ, chưa biết
chừng, biết đâu, chắc hẳn,…
- Đánh dấu hành động phủ định bác bỏ: nào phải, nào có, nào
đâu, đâu có,…
- Đánh dấu hành động phản đối, can ngăn: tội gì mà, phải vạ, chả
phải tội, hơi sức đâu, sức mấy, việc gì,…
- Đánh dấu hành động chấp nhận, chấp thuận, thừa nhận thôi
được, đã đành, hèn gì, chả trách, phải đấy,…
- Đánh dấu hành động cảm thán: nhờ trời, ấy chết, rõ khổ, tiếc
thay, biết nhường nào,…
- Đánh dấu hành động cảnh báo, nhắc nhở: không khéo, kẻo nữa,
ngộ như,…
- Đánh dấu hành động đưa đẩy, rào đón: nói khí không phải, nói
trộm bóng vía, nói bỏ ngoài tai, của đáng tội,…
2.2.2.3. Chức năng biểu thị thái độ, tình cảm của người nói
Ngay tên gọi của đối tượng mà chúng tôi đang khảo sát – QNTT
tiếng Việt – cũng đã cho thấy rằng phản ánh tình thái là chức năng đầu
tiên, quan trọng nhất của lớp từ này. Và trong nhóm các QNTT có chức
năng đánh giá hay các QNTT tham gia biểu thị các mục đích phát ngôn
cũng phản ánh ý nghĩa tình thái. Có điều, chúng tôi tách chúng ra riêng
để khảo sát những tình cảm, thái độ chủ quan mà người nói bộc lộ, bày
tỏ trong phát ngôn thông qua các QNTT. Có thể nói, nhờ QNTT, người
nghe “đọc” được ý đồ, thái độ, tình cảm của người nói đối với P hoặc
những gì thuộc P. Và như vậy, rõ ràng, nhờ các QNTT thuộc nhóm này
mà người nói “nói” được những gì mà mình cần diễn đạt. Hay nói cách
khác, người nói không cần nêu lên một cách hiển ngôn thái độ, tình cảm
của mình song người đối thoại vẫn có thể cảm nhận được tình cảm, thái
độ ấy. Điều này rất phù hợp với văn hoá của người Việt, vốn dĩ coi việc
thể hiện tình cảm, thái độ một cách quá rõ ràng thường bị coi là thiếu tế
nhị, lịch sự.
Trong ngôn ngữ của loài người, ở bất kì loại hình ngôn ngữ nào
cũng đều tồn tại một lớp từ biểu thị thái độ, tình cảm. Và với tiếng Việt,
ngoài các thực từ hay thán từ, trợ từ còn có một số QNTT chuyên biểu
thị thái độ, tình cảm của người nói với nội dung sự tình hoặc với đối
thoại. Nói chung, các cung bậc tình cảm, tâm lí của con người rất phức
tạp. Trong giới hạn, khả năng của mình, chúng tôi chỉ đưa vào khảo sát
những trạng thái tâm lí, những biểu hiện thái độ điển hình, cơ bản
thường được đánh dấu bằng các QNTT đi kèm. Theo đó, chúng tôi phân
ra những nhóm sau:
* Biểu thị thái độ tin cậy của người nói đối với tính xác thực của
nội dung sự việc được nêu trong câu
Trong đó, căn cứ vào mức độ tin cậy, chúng lại có thể được xếp vào
hai nhóm sau:
* Người nói muốn biểu thị thái độ tin cậy cao
quả thật (là) P, rõ ràng (là) P, chắc chắn là P, ắt hẳn là P, cố nhiên
là P, còn phải nói, rõ thật P, …
Ví dụ:
(82) Nếu không một lần đắm mình trong tiếng lửa reo giữa đêm
đông giá buốt, chắc hẳn chúng ta chẳng thấy thích thú gì khi nhắc đến
những con người lầm lụi này, những người đốt gạch.
(Văn nghệ quân đội 5/97 – tr.30)
QNTT “chắc hẳn” biểu thị ý khẳng định tin chắc của người nói
đối với tính chân thực của P.
(83) Một hôm Thứ bảo đùa San hỏi nó xem có thể trọ ở nhà nó
không. Cố nhiên là San cũng chỉ coi đó là một câu nói đùa thôi.
(Tuyển tập truyện ngắn I.188).
QNTT “cố nhiên (là)” biểu thị ý khẳng định dứt khoát của người
nói đối với tính chân thực của điều được nói đến ở P, gạt bỏ, ngăn chặn
trước những ý kiến, suy đoán cho rằng không P hoặc có thể được nảy
sinh từ phía người tham gia giao tiếp.
(84) Tôi xấu hổ đến đau đớn vì lời nhiếc móc của tôi với Dân hôm
nọ. Quả thực tôi mới là thằng ngu nhưng chắc tôi không có gan để nói
với Dân điều ấy.
(Tuyển tập truyện ngắn II/429)
QNTT “quả thực” biểu thị ý khẳng định, xác nhận tuyệt đối của
người nói đối với tính chân thực của P, rằng P là đúng như vậy, không có
gì phải nghi ngờ nữa.
(85) Anh khách bình phẩm:
- Cái thằng cắt tóc số nó được nhờ con vợ.
Bà chủ xen vào:
- Thì còn phải nói. Ngày xưa khi anh ấy là bộ đội trong B tuy chỉ
là láng giềng thôi nhưng cô ấy chăm sóc bà cụ chẳng khác gì con cháu
trong nhà.
QNTT “còn phải nói” biểu thị ý khẳng định, xác nhận hoàn toàn
của người nói đối với tính chân thực của P rằng P đúng là như vậy, thậm
chí còn hơn thế.
(86) Từ nay thì im lặng ! Vừa nhàn thân, vừa nhẹ đầu. Giá sáng
hôm qua mình cũng tỉnh táo được như thế nhỉ. Rõ thật, ôm rơm chỉ nhặm
bụng. (Tuyển tập truyên ngắn II/460)
QNTT “rõ thật” biểu thị ý khẳng định, xác nhận của người nói
đối với P, rằng qua thực tế thấy P đúng là như vậy, không còn gì phải
nghi ngờ nữa.
* Thể hiện thái độ hoài nghi, chưa chắc chắn
Hình như, dường như, cũng có thể, không khéo, chưa biết chừng,
chắc đâu, phải chăng, dễ thường, có vẻ như, dễ chừng, dễ chừng,…
Ví dụ:
(87) Nó không đáp chỉ lắc đầu uể oải. Hình như nó đang bận
nghĩ ngợi điều gì.
(Truyện ngắn Nam Cao / 49)
(88) Tôi lập tức đạp xe đi vòng quanh vùng Gia Định tìm lão
Tầm Xuân nhưng lão vẫn bặt tăm. Hình như lão đã về quê rồi.
(Văn nghệ quân đội 3/97, tr.28)
QNTT “hình như” biểu thị ý phỏng đoán một cách dè dặt về P
dựa trên những điều mà người nói đã quan sát, cảm nhận được.
(89) Chưa bao giờ tôi đi bộ thế này. Phải chăng đây là bước đầu
cuộc sống mới của tôi
(90) Chúng mình quen nhau bao lâu rồi mà sao vẫn xa cách thế.
Nhiều lúc tưởng gần nhau hơn, nhưng chính lại đang xa vời vợi phải
chăng chúng mình phức tạp quá?
(Văn nghệ quân đội 5/97, tr.67)
QNTT “phải chăng” biểu thị ý khẳng định có phần dè dặt của
người nói đối với P. P được người nói nêu ra như để thăm dò trao đổi ý
kiến với người đối thoại hoặc cũng có thể là ý thắc mắc về một điều mà
người nói biết rằng người đối thoại cũng cảm thấy vô lí và khó trả lời.
Cũng cần nói thêm rằng, một số tác giả như Đoàn Thị Thu Hà,
Nguyễn Thị Cẩm Thanh hay Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp
đã dựa vào phạm trù nội dung nhận thức (epistemic) của Lyons để đề ra
phân loại QNTT:
a) QNTT thực hữu (factive): Báo hiệu nội dung ở P mà người nói
cho là có tính chân thực.
b) QNTT không thực hữu (non-factive): Báo hiệu nội dung ở P
mà người nói cho là không chắc chắn.
c) QNTT phản thực hữu (contra-factive): Báo hiệu nội dung ở P
mà người nghe cho là đi ngược lại với sự thật, điều kiện giả định không
đúng với sự thật.
Ví dụ và phân tích ví dụ của Nguyễn Thị Cẩm Thanh:
(91) Anh hỏi, phải chăng lần nào đến nghĩa địa, chị cũng đi tắc xi.
Theo tác giả, “phải chăng” là QNTT thuộc phạm trù nhận thức
không thực hữu vì người nói “không cam kết hay bảo đảm tính chân thực
của điều không nói ra” và giải thích: câu chứa “phải chăng” mang những
đặc trưng ngữ nghĩa sau: “thông tin luận cứ thường là gián tiếp (phải
thông qua suy luận để xác lập nội dung mệnh đề), theo đánh giá của
người nói là chưa đủ tin cậy để có thể hình thành một ý kiến mà chủ
quan người nói tin chắc là phù hợp với thực tế. Người nói còn phân vân
dao động. Người nói không bộc lộ sự chờ đợi hướng trả lời của người
đối thoại. Câu hỏi chứa từ chăng/phải chăng chủ yếu để nêu ra một vấn
đề mà bản thân người nói còn phân vân, còn phải cân nhắc xem xét có
trả lời cụ thể. (tr.91)
Trái lại, Ngô Hữu Hoàng lại cho rằng “quan niệm và cách phân loại
QN theo cách này có vẻ như chưa đến được cái nghĩa cuối cùng của
QNTT mà chỉ mới dừng lại ở nghĩa lôgích – cú pháp nếu không muốn
nói là khá cực doan, dễ rơi vào tình trạng tự cho phép mình theo chủ
nghĩa “áp đặt” ngôn ngữ (prescriptivism) trong khi nhiệm vụ của một
nhà nghiên cứu thông thường vẫn chỉ là quan sát và miêu tả thực tiễn nói
năng của quần chúng (descriptivism)”.
Theo chúng tôi, trong một chừng mực nào đó, mỗi cách phân loại
đều có cơ sở và những đóng góp riêng vào sự nhận diện một số kiểu loại
QNTT. Vả lại, cách tiếp cận đối tượng của chúng tôi cũng chỉ là một
hướng có tích chất tham khảo, dựa trên ngữ nghĩa - chức năng của
QNTT TV. Trở lại với chức năng phản ánh thái độ, tình cảm của người
nói, lớp từ này còn có những nhóm sau:
* Thể hiện thái độ ngạc nhiên, bất ngờ
té ra, hoá ra, thì ra, thế ra, hèn chi, hèn nào, thảo nào,…
* Q hèn chi P:
- Q giải thích cho hành động, trạng thái biểu thị bằng P.
- Xét về thứ tự xuất hiện trên văn bản (hoặc trong chuỗi phát ngôn)
thì Q đứng trước phát ngôn P nhưng xét về trình tự nhận thức thì Q lại là
sự tình được tri nhận sau P.
- Theo cách đánh giá của người nói thì sự tình, trạng thái được diễn
đạt bằng P là có tính chất bất thường, không giống với những gì quen
thuộc, thường thấy và họ lấy làm ngạc nhiên, thắc mắc với chính mình
về điều này.
- Khi có được câu trả lời cho sự thắc mắc này (có thể do người nói
tự tìm ra hoặc được cho biết) thì sự ngạc nhiên không còn nữa. Tuy
nhiên, chịu sự chi phối của các QNTT này, câu trả lời (phát ngôn Q) lại
có đặc tính là nằm ngoài sự dự doán, giả định của chủ ngôn (thường
không được diễn đạt hiển ngôn).
* Q thế ra P:
- P là điều người nói mới phát hiện, nhận biết được tại thời điểm
phát ngôn nhờ có Q.
- P là điều nằm ngoài, khác với dự đoán của người nói. Chính xác
hẳn, P là khả năng mà người nói hoàn toàn không ngờ tới trước đó.
- Người nói bày tỏ sự ngạc nhiên, bất ngờ ở mức độ cao đối với P,
tưởng như P không thể tin được. Chính vì vậy mà kiểu phát ngôn chứa
phương tiện có chức năng nối kết đang xét thường có hình thức câu hỏi.
* Q thì ra P:
- P là điều người nói mới phát hiện, nhận ra tại thời điểm phát ngôn
nhưng chắc chắn là sau Q. Nói khác đi, Q là sự tình được tri nhận trước
và ít nhiều có phần khó hiểu, gây ngạc nhiên đối với người nói.
- Trong mối quan hệ với Q, P là lẽ giải thích cho Q, làm cho người
nói không còn thấy thắc mắc hay ngạc nhiên nữa.
Ví dụ minh hoạ:
(92) Nắng xộc vô từ lúc nào không hay, hèn chi nóng. Trời đã
mưa, ít nhất cũng gần 9 giờ. (Văn nghệ quân đội
3/97, tr.29)
(93) Có lẽ hôm nay là mùng 2, mùng 3 Tây rồi mình nhỉ ?
- À phải, hôm nay mùng 3.
- Hèn nào em thấy người thu tiền nhà sáng nay đến.
(Tuyển tập Nam Cao/tr.101)
(94) Cái thành phố đã một thời nức tiếng khen trong khắp gầm trời
của miền châu Á này về vẻ đẹp vàng son, nhung gấm, bây giờ hoá ra
đầy cỏ, cỏ mọc thành rừng.
(Kiếp người / 257)
(95) - Hôm trước tôi đến cắt tóc ở đây có thấy một bà cụ…
- Là mẹ của nhà tôi. Thế ra bác là khách quen.
- Vâng.
(Tuyển tập truyện ngắn I/ tr.140)
(96) Đêm ấy, đang hành quân đánh đồn, bỗng nhiên chúng tôi bị
giặc phục kích giữa đường, bắn dữ dội. Cả cuộc tấn công đều bị lộ, thì ra
thằng Lộc đã trốn về với giặc, bọn phòng nhì đã lợi dụng được nó.
(Tuyển tập truyện ngắn I/ tr.186)
(97) Té ra anh không phải là người cuối cùng còn sống sót. Còn
Tư Vĩ nữa.
(Văn nghệ quân đội 8/96, tr.46)
(98) Bọn tôi đến, Phẩm mừng ra mặt. Cậu ta cười rất tươi. Thảo
nào mà sáng nay tôi nháy mắt liên tục.
(Kiếp người / 201)
Khảo sát ví dụ trên, chúng tôi nhận thấy một điều là những QNTT
này luôn xuất hiện ở những kiểu phát ngôn mà chúng đã giả định sự tồn
tại của một phát ngôn Q ở trước. Như vậy, chúng là phương tiện nối kết
câu, đoạn văn. Ngoài cái lỗi quan hệ lô gích hình thức, trong ngữ nghĩa
của chúng còn có những hàm ý tình thái nhất định (thường là cảm thấy
bất ngờ, ngạc nhiên). Và chính những nội dung tình thái mà các tổ hợp
từ này biểu thị lại có ảnh hưởng quyết định, chi phối sự hình thành và sử
dụng các cấu trúc ngữ pháp – ngữ nghĩa của câu.
* Biểu thị tâm trạng băn khoăn, trăn trở, lo lắng
liệu mà, liệu có, không biết, chẳng hiểu sao, có lẽ nào, nên chăng,
biết đâu chừng, chưa biết chừng, hay là, có thể, chẳng có lẽ, không biết
rồi, phải chăng là,…
Ví dụ: (99) Có le nào anh lại quên em ?
(Lời của bài hát “Hoa sữa” của Hồng Đăng)
(100) Chẳng hiểu sao lần này nó đi lâu thế.
(Tuyển tập truyện ngắn I/ tr.92)
Ở ví dụ trên, người phát ngôn còn băn khoăn, lo lắng không biết
khả năng khách quan có dẫn đến việc xảy ra P hay không nữa.
(101) Nghĩa nó giống anh như in. nhìn con mà em cồn cào,
không sao kìm được ý nghĩ: “chẳng có lẽ cái duyên kiếp của anh và em
lại có được cái ân sủng lớn đến như vậy sao?
(Kiếp người / 187)
QNTT “chẳng có lẽ” biểu thị ý tự vấn hoặc hoài nghi của người nói
về P, cho đó là điều có vẻ không hợp lí, không bình thường, không có lý
do nào lại như thế. Mà nếu có đúng như thế thì P cũng là điều mà theo
người nói là khó giải thích, khó tin được, ngụ ý đánh giá về tính bất
thường của P.
(102) Ông hoạ sĩ già thắc mắc:
- Sao anh lại bán tất cả số tranh ấy. Lẽ nào anh vẽ vì tiền?
* Hay là P
- Thường đứng trước một mệnh đề hoặc chen giữa chủ ngữ và vị
ngữ.
- Phát ngôn chứa QNTT hay là P có tiền giả định rằng có những
khả năng khác ngoài P.
- Khi sử dụng QNTT này, người nói ngụ ý mình chỉ đang đề cập
đến một trong các khả năng đó. Theo đó, nó là phương tiện đánh dấu sự
biểu hiện tâm trạng băn khoăn của người nói.
Ví dụ:
(103) Hôm qua bố chưa về, hay là có chuyện gì không lành ở cơ
quan.
(Thương nhớ đồng quê, tr.145)
(104) Biết đâu chừng hắn sẽ sung sướng khi không con, không vợ.
(Tuyển tập Nam Cao, tập 2, tr.12)
(105) Gạo cứ một ngày một giá. Không biết rồi làm gì ra tiền mà
đong?
(Tuyển tập Nam Cao, tập 2, tr.125)
Trong khi QNTT biết đâu chừng (104) gợi sự phỏng đoán, ngờ vực,
ngần ngại thì QNTT “không biết rồi” bộc lộ một tâm trạng lo lắng, trăn
trở của người nói về sự tình P.
* Thể hiện cảm xúc vui mừng, phấn khởi hay khó chịu, bực tức,
đau đớn
may sao, ơn trời, cực chẳng đã P, khổ một nỗi P,…
Ví dụ:
(106) May quá, mẹ đã về.
(107) Tai nạn vừa rồi, may sao không có ai thiệt mạng.
(Bản tin thời sự)
(108) Ơn trời, mọi việc đều suôn sẻ.
(Tuyển tập truyện ngắn 2/ tr.15)
(109) - Dạ ông lớn thương ! Mùa màu tôi nhờ mướn con bò đắp
đổi qua ngày. Ông lớn bắt tụi tôi chết đói.
- Tôi mua, tôi không ăn cướp. Cực chẳng đã có đám tiệc mới nhờ
tới chú. Chú giúp tôi. Sau này ở ngoài đó có việc gì tôi giúp cho.
(Tuyển tập truyện ngắn I/ tr.476)
QNTT “cực chẳng đã P” biểu thị P là điều mà người nói (hoặc ai
đó) vì bất đắc dĩ mà phải làm chứ thật ra không muốn, không thích như
thế.
Theo Diệp Quang Ban [5, tr.302] “những từ ngữ này mang ý nghĩa
chỉ mức độ cao của một sự việc, một tính chất mào đó có quan hệ rõ rệt
với từ đứng trước chúng, thường được dùng trong khẩu ngữ, tạo thành
câu cảm thán.
Ví dụ:
(110) Mừng chết đi được.
(111) Tốt miễn chê.
(112) Tệ hết chỗ chê.
(113) Sao mà cái đời nó tù túng, nó chật hẹp, nó bần tiện thế ?”
Rõ ràng, ta bắt gặp ở những lớp từ này có nét nghĩa đánh giá về
lượng, mức độ (như ở mục 2.2.1.1). Tuy nhiên, chúng cũng là những
QNTT thể hiện cảm xúc của người nói một cách hiển ngôn. Đó là những
biểu thức cảm thán tường minh, phản ánh tình cảm, thái độ cao điểm
nhất của người nói về P hoặc thành phần của P.
Như vậy, tuy chưa có được một danh sách thật đầy đủ các loại thái
độ, tình cảm của con người, nhưng các loại cảm xúc và các nhóm QNTT
biểu thị các cung bậc cảm xúc đó theo như cách xếp nhóm vừa nêu trên
cũng góp phần chuyển tải được nội dung ngữ nghĩa ẩn chứa bên trong
mỗi phát ngôn có sử dụng QNTT TV. Nhờ những đặc trưng riêng của
lớp từ này, khi sử dụng chúng trong câu / phát ngôn, người nói có thể thể
hiện được tình cảm, thái độ, ý định của mình trong giao tiếp một cách
kín đáo, mà lại tự nhiên, dễ dàng.
Trong giao tiếp, mọi hoạt động của QNTT, nói cho cùng cũng nhằm
làm cho phát ngôn có ý nghĩa giao tiếp cuối cùng của nó - hành động tại
lời và ngữ nghĩa tình thái. Tuy nhiên, sự kiến tạo ngữ nghĩa của QN đối
với phát ngôn đều nằm trên nền tảng giao tiếp liên nhân. Do vậy, sự kiến
giải chức năng tạo nghĩa cuối cùng của QNTT phải dựa vào cả nhân tố
nội nhân lẫn nguyên tắc tương tác giữa cá nhân với cá nhân với nhau.
Và dù ở hình thức ngôn ngữ nào, dù dưới một tên gọi gì chăng nữa thì
QNTT, theo quan niệm của chúng tôi, cũng là thành phần tham gia tổ
chức, điều hành ngữ nghĩa phát ngôn, có chức năng ngữ dụng và có vai
trò đặc biệt trong việc biểu đạt các ý nghĩa tình thái của người nói. Như
thế, có thể khẳng định, QNTT còn là nhu cầu giao tiếp văn hoá xã hội
không thể thiếu dù rằng tần số người sử dụng những QNTT dài (số
lượng từ ngữ nhiều) có tính chất rào đón, ngày một ít đi. Và dù rằng
thỉnh thoảng, có một số QNTT bị khó hiểu do cách dùng có tính chất
phương ngữ. Chẳng hạn, đa số người miền Bắc không dùng QNTT sức
mấy (chỉ hành động phủ định) của người miền Nam và ngược lại, đa số
người miền Nam không hiểu QNTT nói của đáng tội, nói khí không phải
(chỉ ra sự thú nhận, miễn cưỡng hay che chắn,…) của người miền Bắc.
Nhưng như trên đã nói, bằng vào ngữ năng của mình, người bản ngữ rất
nhạy trong việc nắm bắt các sắc thái đánh giá, tâm lí, tình cảm hoà
quyện, dung hợp trong nội dung ý nghĩa của QNTT.
* Tiểu kết: Nhìn một cách khái quát, ở chương này, luận văn đã đi
vào phân tích những đặc điểm về ngữ nghĩa của QNTT tiếng Việt. Trên
cở sở phân lớp từ này thành từng tiểu nhóm, khảo sát ví dụ, chúng tôi
nhận thấy về hình thức, cấu trúc QNTT có thể tồn tại từ nhỏ nhất là từ
đơn đến lớn nhất là mệnh đề. Còn về đặc điểm ngữ nghĩa chức năng,
QNTT thể hiện sự đánh giá (lượng, mức độ, tính hiện thực/phi hiện thực,
khả năng/phi khả năng, tất yếu/phi tất yếu, tính tích cực/tiêu cực,… của
sự vật, sự việc được đề cập đến). Với chức năng tham gia biểu thị hành
động ngôn từ, do điều kiện hạn hẹp, luận văn chỉ khảo sát cách diễn đạt
tình thái cảm thán và nghi vấn của QNTT. Cuối cùng, trong vô số cung
bậc thái độ, tình cảm của con người, chúng tôi đã điểm qua những
QNTT mang nét nghĩa biểu thị thái độ tin cậy hay ngạc nhiên bất ngờ;
tâm trạng băn khoăn, trăn trở và cảm xúc vui mừng hay khó chịu, bực
tức,… Rõ ràng, QNTT không chỉ là lớp từ giàu sắc thái chủ quan và tính
khẩu ngữ tự nhiên mà đây còn là đơn vị góp phần làm phong phú thêm
cách diễn đạt tư tưởng, tình cảm bằng ngôn từ trong giao tiếp.
KẾT LUẬN
Trên đây, chúng tôi đã khái quát một số nét cơ bản về đặc điểm của
QNTT TV. Đồng thời, chúng tôi cũng đã miêu tả, phân loại, khái quát hoá
ở một chừng mực nhất định ý nghĩa và cách dùng của các QNTT TV trên
cơ sở những ngữ liệu thu thập được. Từ đó, luận văn có thể rút ra một số
kết luận như sau:
1. QNTT là một phương tiện đặc biệt có giá trị tiềm năng rất lớn
trong việc biểu đạt các ý nghĩa tình thái. Chúng không đơn thuần là
phương tiện nối kết, cũng không hẳn là phương tiện dùng để đưa đẩy, rào
đón, dẫn ý, chuyển ý như các nhà từ vựng học đã nhận định. Tác dụng của
chúng là làm phương tiện bổ trợ, tác động vào nội dung mệnh đề, vào ý
nghĩa của chỉnh thể câu, đưa câu vào những kiểu tình thái đánh giá, biểu
cảm khác nhau, gắn câu với hoàn cảnh giao tiếp hiện thực, tạo nên tính
sinh động, uyển chuyển, chính xác của câu nói.
2. Các QNTT tuy có thể có sự khác nhau về hình thức, phương thức
cấu tạo, vị trí xuất hiện trong câu cũng như có thể khác nhau về một số sắc
thái ý nghĩa nào đó, nhưng trên đại thể chúng ta vẫn có thể tìm tập hợp và
nhóm chúng lại thành các nhóm có chung kiểu tác động đối với nội dung
mệnh đề. Dựa vào những tiêu chí về đặc điểm ngữ nghĩa – chức năng luận
văn đã đưa ra danh sách các QNTT TV thường dùng, phân chúng thành
những tiểu loại. Ở bước phân loại này, luận văn chấp nhận tính phức hợp
về chức năng ở mỗi QNTT nhưng cũng cố gắng tìm giả pháp hạn chế bớt
sự chồng chéo, không tách bạch ở các tiểu loại được phân ra.
3. Luận văn phân tích một số đặc điểm chức năng cuả QNTT TV
Chức năng đánh giá, chức năng tham gia biểu thị mục đích phát ngôn và
chức năng thể hiện thái độ, tình cảm của người nói. Kết quả phân tích cho
thấy mỗi một QNTT là một phức hợp về nghĩa. Do vậy, việc sử dụng
QNTT có thể biểu thị được những tình cảm tinh tế của người nói cùng với
những ý định khác nhau hàm chứa trong câu nói. Điều này giải thích tại
sao bên cạnh các phương tiện từ vựng biểu đạt ý nghĩa tình thái khác,
QNTT vẫn được người nói sử dụng thường xuyên, một cách tự nhiên, ổn
định.
4. Từ những kết quả đạt được, luận văn đã có những đóng góp
4.1. Về lí luận
Lập ra một bảng danh sách các QNTT thường dùng; phân tích, miêu
tả, phân loại chúng một cách tương đối chi tiết, có hệ thống.
Tiếp thu những thành tựu nghiên cứu về QN nói chung, QNTT nói
riêng, luận văn đã xác định một số đặc điểm về QNTT, chỉ ra khả năng
phong phú của lớp từ này trong việc thể hiện các loại ý nghĩa tình thái
trong câu, cả trực tiếp lẫn gián tiếp.
- Bước đầu tìm ra bản chất ngữ nghĩa – chức năng của QNTT TV.
Từ đó khẳng định lớp từ này là một trong những phương tiện biểu đạt ý
nghĩa tình thái quan trọng.
4.2. Về thực tiễn
- Các kết quả phân tích về ngữ nghĩa – chức năng của một số
QNTT có thể sử dụng vào việc giảng dạy trong nhà trường cho học sinh,
sinh viên hoặc cho người nước ngoài học tiếng Việt.
- Các kết quả trên cũng có thể ứng dụng vào việc biên soạn từ
điển, giúp người biên soạn có cách nhìn tổng quát hơn về QNTT nói
riêng, về lớp từ biểu thị ý nghĩa tình thái TV nói chung. Để từ đó có cách
định nghĩa nhất quán, phản ánh được các đặc điểm của lớp từ này.
5. QNTT thuộc vào số đối tượng còn ít được nghiên cứu, xem xét
một cách có hệ thống. Đây là một lớp từ có những đặc điểm về ngữ pháp,
ngữ nghĩa cũng như chức năng rất phức tạp, khó nắm bắt, khó phân tích.
Bởi nay là một đề tài rộng nên khó bao quát được đầy đủ mọi khía cạnh.
Với nguồn tư liệu thu thập được, chúng tôi ý thức rất rõ rằng kết quả
nghiên cứu chắc chắn còn khiêm tốn và không tránh khỏi những thiếu sót,
hạn chế nhất định, nhiều vấn đề thú vị còn bỏ ngỏ, các kiến giải đưa ra đôi
chỗ còn chưa thỏa đáng, toàn diện. Tuy vậy, dù sao chúng tôi cũng hi
vọng những gì khảo sát được có thể sẽ giúp ích ít nhiều cho những công
trình nghiên cứu khác còn tiếp tục khai thác đề tài này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Minh Toán (1999), Từ trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt, Nxb
GD, Hà Nội
2. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng, (tập
1), Nxb KHXH, Tp Hồ Chí Minh.
3. Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt. Mấy vấn đề ngữ âm - Ngữ pháp -
Ngữ nghĩa, Nxb GD, Tp Hồ Chí Minh.
4. Cao Xuân Hạo (chủ biên), Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Văn Bằng, Bùi
Tất Tươm (1992), Ngữ pháp chức năng tiếng Việt. Câu trong
tiếng Việt: Cấu trúc - Chức năng - Công dụng, Nxb GD, Hà Nội.
5. Diệp Quang Ban (1989), Ngữ pháp tiếng Việt, (T.1&2), Nxb ĐH &
THCN, Hà Nội.
6. Đào Thản (1998), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật, Nxb
KHXH, Hà Nội
7. Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang, Vương Toàn
(1986), Ngôn ngữ học - Khuynh hướng-lĩnh vực-khái niệm (Hai
tập), Nxb KHXH, Hà Nội
8. Đinh Trọng Lạc (1994), Phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt,
Nxb GD, Hà Nội
9. Đinh Văn Đức (1978), Về một cách hiểu ý nghĩa các từ loại trong
tiếng Việt, Ngôn ngữ (số 2).
10. Đinh Văn Đức (2001), Ngữ pháp tiếng Việt (Từ loại), Nxb ĐHQG,
Hà Nội.
11. Đinh Văn Đức (2001), Tìm hiểu ngữ trị của các từ loại thực từ tiếng
Việt, Ngôn ngữ (số 7)
12. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb GD, Hà
Nội.
13. Đỗ Hữu Châu (1986), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb
KHXH, Hà Nội.
14. Đỗ Thanh (1994), Một số vấn đề của lý luận dịch với việc dạy và học
ngoại ngữ, Khoa học (số 3), ĐHTH, Hà Nội
15. Đỗ Thanh (1998), Từ điển công cụ tiếng Việt, Nxb GD, Hà Nội.
16. Đoàn Thị Thu Hà (2000), Khảo sát ý nghĩa và cách dùng các quán
ngữ biểu thị tình thái trong tiếng Việt, Luận văn Thạc sĩ , ĐH
KHXH, ĐHQG, Hà Nội.
17. Hoàng Phê (1989), Lô gích-ngôn ngữ học, Nxb KHXH, Hà Nội
18. Hoàng Phê (1984), Toán tử lô gích- tình thái, Ngôn ngữ (số 4), Hà
Nội
19. Hoàng Phê (Chủ biên) (2001), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ
học, Nxb KHXH, Hà Nội.
20. Hoàng Trọng Phiến (1981), Đặc trưng ngôn ngữ nói tiếng Việt, Một
số vấn đề ngôn ngữ học Việt Nam, Nxb ĐH&THCN, Hà Nội
21. Hoàng Trọng Phiến (1983), Ngữ pháp tiếng Việt-Câu, Nxb ĐH &
THCN, Hà Nội.
22. Hoàng Trọng Phiến (1991), Tự điển giải thích hư từ tiếng Việt,
Tokyo University of Foreign Studies, Japan.
23. Hoàng Trọng Phiến (1994), Một số mẹo dạy tiếng Việt, Khoa học (số
3), ĐHTH, Hà Nội
24. Hoàng Tuệ (1988), Về khái niệm tình thái tiếng Việt, Ngôn ngữ (số
1).
25. Hoàng Tuệ (1996), Ngôn ngữ và đời sống xã hội văn hoá, Nxb GD,
Hà Nội
26. Hoàng Văn Hành (Chủ biên) (1997), Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ,
Nxb KHXN, Hà Nội
27. Hoàng Văn Hành (Chủ biên), Hà Văn Năng, Nguyễn Văn Khang
(1998), Từ tiếng Việt, Nxb KHXN, Hà Nội
28. M.K.A. Halliday (2001), Dẫn luận ngữ pháp chức năng, Hoàng Văn
Vân dịch từ tác phẩm An Introduction to Functional Grammar
Halliday), Nxb ĐHQG, Hà Nội.
29. Hữu Đạt, Trần Trí Dõi, Đào Thanh Lan (1998), Cơ sở tiếng Việt,
Nxb GD, Hà Nội.
30. Lê Biên (1999), Từ loại tiếng Việt hiện đại, Nxb GD, Hà Nội.
31. Lê Đông (1992), Ngữ nghĩa - ngữ dụng của hư từ tiếng Việt: Siêu
ngôn ngữ và hư từ tiếng Việt, Ngôn ngữ (số 2).
32. Lê Quang Thiêm (1989), So sánh đối chiếu các ngôn ngữ, Nxb
ĐHTHCN, Hà Nội
33. Lê Thị Diệu Hoa (2007), Ôn luyện kiến thức và bài tập rèn luyện
Ngữ văn 11, Nxb GD
34. Lê Thị Hiền (2001), Giải thích một số yếu tố có mặt trong câu-phát
ngôn từ quan điểm dụng học, Luận văn Thạc sĩ, ĐH SPHN, Hà
Nội.
35. Lê Văn Lý (1972), Sơ thảo ngữ pháp chức năng, TTHL BGD, Sài
Gòn
36. Lê Xuân Thại (2000), Nghĩ và viết, Nxb KHXH, Hà Nội
37. Lương Văn Hy (chủ biên) (2000), Ngôn từ, giới và nhóm xã hội từ
thực tiễn tiếng Việt, Nxb KHXH, Hà Nội
38. Lưu Vân Lăng (1998), Ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb KHXH, Hà
Nội
39. Ngô Hữu Hoàng (1999), Phủ định kép trong tiếng Việt và tiếng Anh,
Khoa học (số 4), ĐHQG Hà Nội
40. Ngô Hữu Hoàng (2000), Khởi ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt,
Ngoại ngữ, ĐHNN, ĐHQG, Hà Nội
41. Ngô Hữu Hoàng (2001), Mấy vấn đề về quán ngữ trên cứ liệu tiếng
Anh và tiếng Việt, Kỷ yếu ngữ học trẻ 2001, Thái Nguyên
42. Ngô Hữu Hoàng (2001), Vài suy nghĩ về cụm từ cố định nói chung và
quán ngữ nói riêng, Ngôn ngữ (số 7).
43. Ngô Thị Minh (2001), Một số phương tiện biểu hiện ý nghĩa tình thái
trong câu ghép tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ, ĐHQG Hà Nội
44. Nguyễn Anh Quế (1988), Hư từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb
KHXH, Hà Nội
45. Ngũ Thiện Hùng (2003), Bàn về điều kiện sử dụng một số QNTT
dưới góc độ lí thuyết quan yếu, Ngôn ngữ (số 9)
46. Nguyễn Hiến Lê (1990), Chúng tôi tập viết tiếng Việt, Nxb Long An
47. Nguyễn Hoà (1998), Nghiên cứu diễn ngôn về chính trị-xã hội trên
tư liệu báo chí tiếng Anh và tiếng Việt hiện đại, Luận án Tiến sĩ,
ĐH KHXH & NV ĐHQG, Hà Nội
48. Nguyễn Hữu Quỳnh (1979), Cơ sở ngôn ngữ học (Tập 1&2), Nxb
GD.
49. Nguyễn Hữu Quỳnh (2001), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Từ điển bách
khoa Hà Nội.
50. Nguyễn Kim Thản (1977), Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, Nxb
GD, Hà Nội
51. Nguyễn Kim Thản (1977), Động từ tiếng Việt, Nxb KHXH, Hà Nội
52. Nguyễn Lai (1990), Về mối quan hệ giữa phạm trù ngữ nghĩa và ngữ
pháp trong tiếng Việt, Một số vấn đề ngôn ngữ học hiện đại, Nxb
ĐH & THCN, Hà Nội
53. Nguyễn Lai (1997), Những bài giảng về ngôn ngữ học đại cương
(Tập 1), Nxb ĐHQG, Hà Nội
54. Nguyễn Lai (1998), Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học,
Nxb GD, Hà Nội
55. Nguyễn Lai (2001), Nhóm từ chỉ hướng vận động tiếng Việt hiện đại,
Nxb KHXH, Hà Nội
56. Nguyễn Minh Thuyết (1985), Thảo luận về vấn đề xác định hư từ
trong tiếng Việt, Ngôn ngữ (số 4)
57. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp (1998), Thành phần câu
tiếng Việt, Nxb ĐHQGHN, Hà Nội.
58. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb
VHTT, Hà Nội.
59. Nguyễn Đức Dân (1976), Lô gich và sắc thái liên từ tiếng Việt, Ngôn
ngữ (số 9)
60. Nguyễn Đức Dân (1987), Lô gich-Ngữ nghĩa-Cú pháp., Nxb ĐH &
THCN, Hà Nội.
61. Nguyễn Đức Dân (1998), Lôgich và tiếng Việt, Nxb GD, Tp Hồ
Chí Minh.
62. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, Nxb GD, Tp Hồ Chí Minh.
63. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng Việt.Tiếng-Từ ghép-Đoản
ngữ, Nxb ĐH & THCN, Hà Nội.
64. Nguyễn Thị Cẩm Thanh (2003), So sánh những phương tiện biểu thị
tình thái không thực hữu trong tiếng Anh và tiếng Việt, Luận văn
Thạc sĩ, Hà Nội
65. Nguyễn Thiện Giáp (1995), Từ vựng học tiếng Việt hiện đại, Nxb
ĐH & THCN, Hà Nội
66. Nguyễn Thiện Giáp (1996), Từ và nhận diện từ tiếng Việt, Nxb GD,
Hà Nội
67. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb GD, Hà
Nội.
68. Nguyễn Thiện Giáp (2000), Dụng học Việt ngữ, Nxb ĐHQG, Hà
Nội.
69. Nguyễn Thị Lương (2005), Câu tiếng Việt, Nxb ĐHSP Hà Nội
70. Nguyễn Thị Quy (1995), Vị từ hành động tiếng Việt, Nxb KHXH, Tp
Hồ Chí Minh
71. Nguyễn Thị Thìn (2000), Quán ngữ tiếng Việt, Ngôn ngữ (số 1), Hà
Nội.
72. Nguyễn Thị Thìn (2001), Câu tiếng Việt và nội dung dạy - học câu ở
trường phổ thông, Nxb ĐHQG Hà Nội
73. Nguyễn Thị Việt Thanh (1999), Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt,
Nxb GD, Hà Nội
74. Nguyễn Văn Hiệp (2001), Hướng đến một cách miêu tả và phân loại
các tiểu từ tình thái cuối câu tiếng Việt, Ngôn ngữ (số 5).
75. Nguyễn Văn Khang (Chủ biên) (1996), Ứng xử ngôn ngữ trong gia
đình người Việt, Nxb VHTT, Hà Nội
76. Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội - những vấn đề cơ
bản, Nxb KHXH, Hà Nội
77. Wallace L. Chafe (1999), Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ, Nguyễn
Văn Lai dịch, Nxb GD, Hà Nội .
78. Nguyễn Văn Mệnh, (1994), Bản chất và vai trò của các đơn vị ngôn
ngữ cố định trong văn bản liên kết tiếng Việt, Khoa học (số 3),
Nxb ĐHTH, Hà Nội
79. Nguyễn Văn Tu (1976), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, Nxb ĐH và
THCN, Hà Nội.
80. Nguyễn Xuân Thơm (2001), Các yếu tố ngôn ngữ trong đàm phán
thương mại quốc tế (Anh-Việt đối chiếu), Luận án Tiến sĩ, ĐH
KHXH & NV, ĐHQG Hà Nội
81. Phạm Hùng Việt (1996), Một số đặc điểm chức năng của trợ từ tiếng
Việt, Luận án PTS, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
82. Phạm Minh Thảo (1999), Nghệ thuật ứng xử của người Việt, Nxb
Thông tin, Tp Hồ Chí Minh
83. Phan Thiều, Lê Cận, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1983),
Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt, Tập 1&2, GD, Hà Nội.
84. Tổ tiếng Việt CĐSP Tp HCM & CĐSP Long An (1988), Tiếng Việt
(Phục vụ chương trình Cải cách giáo dục), Nxb Long An.
85. Trần Ngọc Thêm (1985), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Nxb
KHXH, Hà Nội
86. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb GD, Tp Hồ
Chí Minh
87. Trần Trí Dõi (1997), Bài tập tiếng Việt thực hành, Nxb GD, Hà Nội
88. Uỷ ban KHXN Việt Nam (1983), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb KHXN,
Hà Nội.
89. Vũ Ngọc Khánh (1998), Văn hoá gia đình Việt Nam, Nxb Văn hoá-
Dân tộc
90. Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến, Mai Ngọc Chừ (1997), Cơ sở
ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb GD, Hà Nội.
PHỤ LỤC
DANH SÁCH MỘT SỐ QUÁN NGỮ TÌNH THÁI TIẾNG
VIỆT THÔNG DỤNG
* a, ă, â
1. ai bảo
2. ai chả biết
3. ai có dè đâu
4. ai cũng biết
5. ai dại gì mà
6. ai đời
7. ai lại ... bao giờ
8. ai ngờ
9. ắt hẳn
10. âu cũng là
11. ấy chết
12. ấy chớ
13. ấy thế là
14. ấy thế / vậy mà
15. ấy thế nhưng
b
16. bằng bất cứ giá nào
17. bất quá (bất quá là cùng)
18. biết đâu ( biết đâu cũng nên)
19. biết đâu… chẳng
20. biết đâu chừng
21. biết ngay mà
22. biết như vậy
23. biết thế này thà … còn hơn
c
24. cầm bằng
25. chả là
26. chả ... là gì
27. chẳng nhẽ
28. chả thế mà
29. chả trách
30. chắc hẳn
31. chắc là
32. chắc chắn
33. ... chăng nữa
34. chẳng có lẽ
35. chẳng gì cũng là
36. chẳng hoá ra
37. chẳng ... là gì
38. chẳng lẽ
39. chẳng nước non gì
40. chi bằng
41. chỉ có điều (là)
42. chỉ được cái
43. chỉ mỗi tội
44. chính ra
45. ... cho rồi
46. ... chứ chẳng không
47. ... chứ còn gì nữa ?
48. ... chứ gì
49. ... chứ lị
50. ... chứ mấy
51. ... chứ tưởng (chứ đừng tưởng)
52. có điều
53. có mà đến tết (Công – gô)
54. có hoạ
55. có khi
56. có thể
57. có lẽ nào
58. có thế mà cũng
59. cố nhiên là
60. công bằng mà nói
61. cốt sao ... là được
62. của đáng tội
63. cực chẳng đã
64. chưa biết chừng
d, đ
65. dại gì
66. dáng chừng
67. dẫu sao
68. dễ chừng
69. dễ thường
70. dễ gì
71. dĩ nhiên
72. dù thế nào
73. dù thế nào đi nữa
74. dù sao
75. dường như
76. đã bảo mà
77. đáng lẽ (ra)
78. đáng lí
79. đáng ra
80. đằng nào cũng
81. đằng này
82. đằng thẳng ra (thì)
83. đâu như
84. đến nước này thì
85. đời nào
86. đời thuở nào
87. đời thuở nhà ai
88. đúng hơn (là)
89. đúng là
90. đúng ra là
91. được cái
92. đương nhiên là
g
93. giá như
94. ... gì cho cam
95. gì chứ
96. gì thì gì
h, i
97. hay là
98. hẳn là
99. hèn chi/ gì/ nào
100. hết chỗ chê
101. hình như ... (thì phải)
102. hình như ... hay sao ấy
103. hoá ra
104. hơi đâu mà
105. hơn nữa
106. huống chi/ gì
107. hồi còn mồ ma
108. ít ra cũng
k
109. kể gì đến
110. kể làm gì
111. kể ra
112. khéo mà
113. khí không phải
114. khổ một nỗi
115. khỏi phải nói
116. khốn nỗi
117. không chừng
118. không có lẽ nào
119. không khéo
120. kiểu gì thì kiểu
121. ... kia mà
122. không hẳn
l
123. ... là cái chắc
124. ... là cùng
125. ... là đằng khác
126. ... là thế nào
127. là thế này
128. ... làm gì
129. làm gì có
130. làm gì mà chẳng
131. làm gì mà ... thế
132. làm như
133. ... làm sao được
134. làm sao ... (cho) được
135. lẽ nào
136. lẽ ra
m, n
137. ... mà lại
138. may ra ... (thì sao)
139. may sao/ thay
140. miễn là/ rằng
141. mới biết
142. mới hay
143. nào có
144. nào ngờ
145. nghe bảo
146. nghe chừng
147. nghe đâu
148. nghe đồn
149. nghe như
150. nghe nó
151. nghĩa là
152. ngộ nhỡ ... thì sao ?
153. nhất định
154. nhỡ ra ... thì sao
155. nói gì đến
156. nói đúng hơn là
157. nói của/ quả đáng tội
158. nói gì thì nói
159. nói khí không phải
160. nói khí vô phép
161. nói sai đừng có chấp
162. nói thật với
p, q, r, s
163. phải cái (tội)
164. phải chăng
165. phải chi
166. phải vạ mà
167. phải như
168. phải nói ra rằng
169. phải tội/ vạ gì mà
170. phải đâu
171. phải biết
172. quả nhiên
173. quả thật
174. quả tình
175. ... quá đi chứ
176. ... thì cũng quá tội
177. qua ngày đoạn tháng
178. quá xá
179. quá thể
180. quái gì
181. ra thế
182. ra môn ra khoai
183. ra phết
184. ra sao
185. ra trò
186. ra tuồn
187. rõ thật
188. rốt (rút) cuộc (cục)
189. rách việc
190. rõ khéo
191. sao lại chẳng
192. số là thế này
193. suýt nữa thì
194. sức mấy mà
t
195. tất nhiên là
196. té ra
197. thảo nào
198. thật ra
199. thật/ thực tình
200. thấy bảo/ nói
201. thế mà
202. thế mới biết
203. thế mới hay
204. thế (thể) nào cũng
205. thế nào mà chả
206. thế nào đi chăng nữa
207. thế ra
208. thế rồi
209. ... thì đúng hơn
210. ... thì phải
211. thói đời
212. thôi thì
213. thú thật là
214. thuở đời nay
215. tí nữa thì
216. tội gì mà
217. trách chi mà
218. tuy nhiên
219. tuyệt nhiên
220. thiếu gì
221. thú thực
222. tiện thể
223. tới số
224. tuy rằng
ư, v, x, y
225. ước chi/ gì
226. ước sao
227. vả chăng
228. vả lại
229. vả nữa
230. vạ gì mà
231. vậy ra
232. việc chi
233. vị tất
234. với lại
235. xem chừng như
236. xem ra
237. xin bỏ ngoài tai
238. ý chừng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVNNH003.pdf