Quyền chiếm hữu có vị trí vô cùng quan trọng, là tiền đề để thực hiện hai quyền tiếp theo của quyền sở hữu. Mà sở hữu là yếu tố quyết định của quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất với tính cách là hạ tầng cơ sở lại quyết định thượng tầng kiến trúc, cho nên chiếm hữu là một vấn đề thuộc nền tảng của đời sống xã hội, chiếm hữu có tác dụng quyết định không nhỏ đến chế độ xã hội.
Xét về mặt lý luận cũng như thực tiễn thì chiếm hữu luôn luôn là một vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Cách mạng về chính trị bao giờ cũng phải đi đến cách mạng về kinh tế mà cách mạng về kinh tế phải có cải biến về chiếm hữu để đưa ra năng suất lao động cao hơn tạo nên thắng lợi của một trật tự xã hội mới. Bởi vậy, các nhà lý luận kinh tế của chủ nghĩa Mác – Lênin đã rất đúng khi nói rằng một cuộc cách mạng dẫu có được tuyên bố hàng trăm lần đi chăng nữa cùng hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì đối với sự phát triển thực tế, đối với việc xây dựng một xã hội mới, nếu nó không trực tiếp động chạm đến vấn đề sở hữu. Mà quyền chiếm hữu trong quyền sở hữu được xác định rõ ràng nhất trên thực tế.
62 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2006 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quyền chiếm hữu và các hình thức chiếm hữu trong Bộ luật dân sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ết.
2. Anh Hồng, chị Tuyết phải trả cho bà Nâu (do anh Vương đại diện) số tiền trị giá trên đất là 64.800.000 đồng…
Sau khi xử phúc thẩm, gia đình bà Nâu có nhiều đơn khiếu nại và tiếp tục yêu cầu vợ chồng chị Tuyết trả nhà đất cho gia đình bà.
Vụ kiện trên đây cho thấy, ngôi nhà 46 T.H.Đ, thị trấn M.H nguyên là của vợ chồng ông Đỗ Văn Khoa và bà Nguyễn Thị Xuân. Nhưng kể từ sau ngày 17/11/1958 thì căn nhà này đã chuyển quyền sở hữu cho vợ chồng ông Tam và bà Nâu bằng một bản giao kèo "bán đứt" căn nhà đó và người mua đã trả đủ tiền. Trong giao kèo ghi rõ người bán ở lại một năm kể từ ngày 1/11/1959 thì phải dọn đi để giao nhà cho vợ chồng ông Tam. Hết thời hạn trên, vợ chồng ông Khoa, bà Xuân không giao nhà là vi phạm hợp đồng.
Năm 1969, Tòa thượng thẩm S.G của chế độ cũ đã xử buộc bà Xuân phải trả nhà cho vợ chồng ông Tam. Bản án chưa được thi hành thì bà Xuân mất tích và vợ chồng chị Tuyết đã dọn tới ở. Như vậy, có căn cứ xác định gia đình chị Tuyết chỉ "ở nhờ" nhà đất của vợ chồng ông Tam. Trong quá trình ở, vợ chồng chị Tuyết đã sửa chữa… các chi phí sửa chữa đã được Tòa án cấp sơ thẩm định giá. Thực ra, đây không phải là việc ở nhờ bình thường, tức là có sự thỏa thuận giữa chủ sở hữu và người ở nhờ, mà bản chất của nó là một dạng chiếm dụng của chủ sở hữu. Do đó, để cho công bằng, lẽ ra pháp luật cần có quy định trong những trường hợp như thế này thì chủ sở hữu phải thanh toán tiền sửa chữa nhà (nếu có sửa chữa) cho người sử dụng nhà, đồng thời người sử dụng nhà phải trả tiền thuê nhà cho chủ sở hữu từ thời điểm vào ở mà không thông qua bất cứ một sự thỏa thuận nào với chủ sở hữu. Có như vậy mới ngăn chặn động cơ trục lợi của người chây ỳ, không thực hiện việc giao nhà theo hợp đồng mua bán. Nhưng pháp luật cũng như thực tiễn xét xử chưa đặt ra vấn đề đó. Việc Tòa án cấp sơ thẩm quyết định buộc vợ chồng chị Tuyết phải trả lại nhà là hoàn toàn đúng đắn. Tòa án cấp phúc thẩm, tại bản án phúc thẩm số 171 ngày 1/12/1993 do không đánh giá đầy đủ tính chất của quan hệ tranh chấp đã cho rằng, tuy là việc tranh chấp nhà đất, nhưng thực chất căn nhà này sau nhiều năm chỉ còn lại nền đất, gia đình anh Hồng, chị Tuyết sửa lại toàn bộ, đổ nền nhà cho dài thêm… Vì vậy, Tòa cấp phúc thẩm đã sửa bản án sơ thẩm: Công nhận quyền sở hữu căn nhà 46 đường T.H.Đ, thị trấn M.H, tỉnh L.A là của anh Ngô Văn Hồng và chị Đỗ Thị Tuyết… Quyết định của bản án phúc thẩm rõ ràng là không hợp lý, vi phạm quyền tự định đoạt của đương sự. Tòa án không thể buộc bên này phải bán cho bên kia những tài sản đang thuộc sở hữu của họ. Tuy nhiên, cả hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm đều có một sai sót chung là khi mua bán vợ chồng bà Xuân thỏa thuận bán cho ông Tam căn nhà ngói trên thửa đất số 119 đều không xác định diện tích nhà đất là bao nhiêu mét vuông. Tại mục 2 biên bản định giá ngày 11/6/1992 của Tòa án nhân dân tỉnh L.A ghi: "giá trị nhà 46 T.H.Đ diện tích 31,57 m2 (nhà trước) và 23,31 m2 (nhà sau), tổng diện tích là 54,88 m2, tổng trị giá đất là 116.707.500 đồng". Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã không điều tra làm rõ trong quá trình quản lý, sử dụng nhà đất gia đình chị Tuyết có lấn chiếm hoặc mua thêm đất của ai khác không mà cả hai Tòa án mặc nhiên coi toàn bộ diện tích nhà đất 54,88 m2 là đất nền nhà (như quyết định của bản án phúc thẩm) đều là thiếu căn cứ.Do có những sai sót trên, nên Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định giám đốc thẩm ngày 25/2/1999 Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quyết định:
Huỷ bản án phúc thẩm số 171 ngày 1/12/1993 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố H.C.M và bản án sơ thẩm số 01 ngày 15/1/1993 của Tòa án nhân dân tỉnh L.A về vụ án đòi nhà cho ở nhờ giữa bà Nguyễn Thị Nâu và vợ chồng chị Đỗ Thị Tuyết
Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh L.A giải quyết lại vụ án từ giai đoạn sơ thẩm theo hướng điều tra thêm để xác định chính xác diện tích khuôn viên nhà đất mà ông Tam đã mua của vợ chồng bà Xuân năm 1958 và giải quyết yêu cầu đòi nhà đất của bà Nâu theo quy định tại khoản 3 Điều 4 của Nghị quyết số 58-1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1/7/1991.
Quyết định giám đốc thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là hoàn toàn chính xác.
Vụ án trên cho thấy việc điều tra đầy đủ các chứng cứ trong vụ án là rất quan trọng; mọi quyết định trong bản án phải dựa trên những chứng cứ chính xác trong quá trình điều tra, thì các phán quyết của Tòa án mới có căn cứ vững chắc.
Vướng mắc thứ hai là trong việc chia di sản thừa kế.
Trong việc phân chia di sản thừa kế tồn tại nhiều vấn đề phức tạp. Vấn đề chia thừa kế theo di chúc, phân chia giá trị tài sản thì không có gì khó khăn. Nhưng các tranh chấp hiện nay trong vấn đề chia thừa kế là thời điểm chia, các đồng thừa kế không có mặt đầy đủ, Tòa án xác định rõ chia kỷ phần cho từng thừa kế. Khoảng một thời gian sau, những thừa kế vắng mặt mới kiện ra Tòa đòi chia lại… hoặc tranh chấp vấn đề chia thừa kế giữa con nuôi và con đẻ… trên thực tế đã gặp không ít khó khăn, vướng mắc.
Điển hình là vụ tranh chấp chia di sản của cụ Khánh cho vợ và 7 người con ở phường 16, quận 4, thành phố H.C.M. Cụ Khánh và cụ Phượng có 7 người con. Năm 1980 cụ Khánh chết. Tài sản do hai cụ Khánh - Phượng tạo dựng gồm một căn nhà và 12 đồ dùng sinh hoạt khác. Năm 1991, cụ Nguyễn Xuân Phượng xin chia khối di sản trên. Bản án sơ thẩm lần thứ nhất số 38 ngày 8/6/1991 của Tòa án nhân dân thành phố H.C.M đã xử: 1/2 ngôi nhà (phía bên trái) và 1/2 giá trị tài sản của 12 đồ dùng là phần của cụ Phượng. Phần của cụ Khánh sẽ chia đều cho 7 người con. Theo đó, mỗi người con được 1,285 lượng vàng (một người được 1,927 lượng vàng gồm cả tiền người này bỏ ra sửa chữa nhà). 1/2 ngôi nhà giai đoạn cho ông Tần (là một trong 7 người con của cụ Khánh - Phượng). Ông Tần có trách nhiệm thanh toán cho 6 người còn lại.
Bản án phúc thẩm (lần thứ nhất) số 64 ngày 28/8/1991 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố H.C.M đã xử y án sơ thẩm.
Bản án phúc thẩm nói trên được thi hành năm 1995. Phần nhà của ông Tần được sở hữu, năm 1994 ông đã bán một phần và chỉ giữ lại 8,5 m2 nhà đất để ở - nay được định giá là 14.705.000 đồng.
Năm 1996, ông Thanh (một trong các con của cụ Khánh - Phượng) hồi hương về nước, khởi kiện yêu cầu ông Tần trả lại phần di sản mà ông được hưởng thừa kế của cụ Khánh và yêu cầu tính theo giá hiện tại. Nhưng ông Tần chỉ đồng ý trả cho ông Thanh 1,285 lượng vàng, sau đó ông đồng ý trả tròn 2 lượng.
Tại bản án sơ thẩm (lần thứ hai) số 46 ngày 10/7/1998 của Tòa án nhân dân quận 4, thành phố H.C.M quyết định: Buộc ông Tần phải trả cho ông Thanh 3,3 lượng vàng (tính theo phần mà ông Tần được giao sở hữu và được tính theo giá hiện nay bao gồm cả phần nhà ông Tần đã bán năm 1994 và phần còn lại).
Ông Tần kháng cáo. Bản án phúc thẩm (lần thứ hai) số 445 ngày 27/10/1998 Tòa án nhân dân thành phố H.C.M đã xử y án sơ thẩm.
Qua vụ án trên chúng tôi thấy thời điểm cụ Khánh mất (năm 1980) là thời điểm mở thừa kế phần di sản của cụ Khánh. Tuy nhiên, đến lúc đó chưa có ai yêu cầu chia di sản của cụ Khánh. Mãi đến năm 1991, cụ Phượng mới yêu cầu chia di sản. Bản án sơ thẩm và phúc thẩm năm 1991 (lần thứ nhất) đã chia theo đúng tinh thần của BLDS về vấn đề tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng và thừa kế. Cả hai bản án trên đều có sai sót là không tuyên rõ kỷ phần thừa kế mà ông Thanh được hưởng, giao cho ai quản lý cho nên ông Tần mặc nhiên trở thành người quản lý, vì ông là người được chia hiện vật và có trách nhiệm thanh toán lại cho các thừa kế khác. Ông Tần đã thanh toán xong cho các thừa kế khác (trừ ông Thanh đang ở nước ngoài là chưa nhận). Từ thời điểm bản án phúc thẩm xử chia thừa kế năm 1991 có hiệu lực pháp luật, phần của cụ Khánh không còn là nhà và đồ dùng sinh hoạt nữa mà đã chuyển thành giá trị (9 lượng vàng và 364.000 đồng). Chính bản án sơ thẩm (lần thứ hai) số 46 ngày 10/7/1998 của Tòa án nhân dân quận 4 đã xác nhận điều này. Nhưng do không xác định được thời điểm chuyển hóa về mặt pháp lý của tài sản, nên Tòa cấp sơ thẩm và phúc thẩm coi việc ông Tần quản lý kỷ phần của ông Thanh đồng nghĩa với việc quản lý một phần nhà như là một phần thừa kế chưa chia, nên trong bản án phúc thẩm (lần thứ hai) của Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết việc tranh chấp giữa ông Thanh và ông Tần mới có đoạn: "… phần thừa kế của ông Nguyễn Hữu Thanh trong phần nhà bên phải của căn nhà… do ông Tần quản lý vì lúc đó ông Thanh đang ở Inđônêxia…". Đoạn nhận định này rõ ràng không đúng với quyết định trong bản án sơ thẩm và phúc thẩm (lần thứ nhất) xử chia thừa kế năm 1991 bởi lẽ, di sản của cụ Khánh đã chia và kỷ phần thừa kế của ông Thanh đã được xác định bằng giá trị, chứ không hề có bất cứ một quyết định nào trong bản án phúc thẩm số 46 ngày 28/8/1991 xác định phần nhà bên phải là sở hữu chung của ông Thanh và ông Tần.
Chỉ vì nhận thức và đánh giá không đúng, nên Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm (lần thứ hai) đều coi kỷ phần của ông Thanh là một phần nhà, từ đó đã định giá lại căn nhà bên phải (1/2 căn nhà của cụ Khánh - Phượng) theo thời giá hiện tại là 23,2 lượng vàng và chia làm 7 phần, từ đó xác định kỷ phần của ông Thanh là 3,3 lượng vàng. Quyết định này đã gây thiệt hại cho ông Tần. Đáng lý ra Tòa án chỉ có thể ghi nhận sự tự nguyện của ông Tần thanh toán cho ông Thanh ai lượng vàng 24k là bảo đảm cả tình lẫn lý.
Vướng mắc thứ ba là trong một số hợp đồng thuê nhà mà người thuê nhà tự ý sửa chữa nhà để ở, hoặc trong hợp đồng tặng cho có điều kiện, khi một bên vi phạm phần cam kết được thỏa thuận thì hợp đồng có tiếp tục được thực hiện không? Thực tiễn giải quyết các vụ tranh chấp tương tự như trên gặp không ít khó khăn, vướng mắc.
Điển hình là vụ án đòi nhà cho thuê là di sản thừa kế thuộc sở hữu chung của người chết ở căn nhà số 45 phố N.C.T, thành phố H.N.
Cụ Trương Văn Thân có hai vợ. Vợ cả là cụ Ngọ, hai cụ có 4 người con chung là bà T.T. Lan, T.T. Chinh, T.T. An và ông T.V. Minh (ông Minh đã hy sinh năm 1947 không có vợ con). Vợ hai của cụ Thân là cụ Tam không có con. Cụ Ngọ, cụ Thân và cụ Tam đã chết đều không để lại di chúc.
Căn nhà 45 phố N.C.T, thành phố H.N thuộc quyền sở hữu của cụ Thân và cụ Tam.
Năm 1958, gia đình cụ Thân cho ông D.V.Vấn và N.V.Quân thuê nhà. Việc cho thuê chỉ bằng miệng không giấy tờ. Từ năm 1963 những người thuê nhà không trả tiền thuê nhà.
Trong quá trình ở thuê, vì nhà cũ, dột nát nên ông Quân phải sửa chữa nhiều lần. Năm 1986, ông Quân kê khai đăng ký nhà tư nhân. Tại tờ khai có ghi ông Quân thuê nhà 45 N.C.T từ năm 1960, những năm chiến tranh, chủ nhà bàn giao nhà cho Sở Nhà đất, nhưng không thấy ai xuống quản lý. Có xác nhận của Ban chỉ đạo đăng ký nhà quận H. Năm 1991, ông Quân đã bị đội thanh tra xây dựng nhà đất quận H xử lý hành chính do việc xây dựng không có giấy phép. Năm 1986 ông Quân phá phần bếp phía sau xây thêm một phòng 10 m2 nhìn ra ngõ N.C.T cho mẹ con chị Liên (con ông Vấn) ở, và sử dụng toàn bộ nhà và đất còn lại.
Tại công văn số 530 ngày 9/4/1993 của Phòng Chính sách - Sở Nhà đất thành phố H.N ghi: "… Ngôi nhà 45 - N.C.T, bằng khoán điền thổ số 878, khu Đ.T, sở hữu chủ là T.V.Thân và vợ là N.T.Tam mua năm 1949. Kể từ đó đến nay chưa có sự đăng ký, chuyển dịch tại Sở Nhà đất".
Ngày 12/4/1991, các bà T.T. Lan, T.T. Chinh, T.T. An khởi kiện yêu cầu ông N.V.Quân trả nhà. Ông Quân không đồng ý trả với lý do: Năm 1958 gia đình ông có thuê nhà của cụ Tam, nhưng từ năm 1963, do nhà bì hư hỏng nên cụ Tam không lấy tiền thuê nhà nữa, để ông bà tự sửa để ở. Năm 1986 và 1991, ông bà đã kê khai đăng ký nhà tư nhân, nhà này vô chủ, thuộc diện Nhà nước quản lý, ông bà đã sử dụng từ năm 1963 đến nay.
Con của ông bà Quân (anh Chuyên) khai: Gia đình anh có thuê nhà của cụ Tam, cụ Tam chỉ sống một mình, ngoài cụ Tam ra, gia đình anh không biết ai khác. Gia đình anh chỉ đồng ý trả nhà khi nguyên đơn có giấy tờ hợp lệ về sở hữu chủ ngôi nhà.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 33 ngày 25/9/1993 Tòa án nhân dân quận H và bản án dân sự phúc thẩm số 36 ngày 31/3/1994 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã ra quyết định khác nhau nhưng có điểm chung là chấp nhận yêu cầu đòi nhà của nguyên đơn, nguyên đơn phải thanh toán cho gia đình ông Quân, anh Chuyên số tiền 16.018.000 đồng giá trị xây dựng sửa chữa nhà.
Tại Quyết định kháng nghị số 88 ngày 15/9/1994 Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao huỷ bản án dân sự sơ thẩm và phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định giám đốc thẩm ngày 17/5/1995 Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định: Chấp nhận kháng nghị số 88 ngày 15/9/1994. Sửa bản án phúc thẩm số 36 ngày 31/3/1994 của Tòa án nhân dân thành phố HN là: Bác yêu cầu đòi nhà 45 - N.C.T, thành phố H.N của nguyên đơn.
Bà Lan, bà Chinh, bà An vẫn có nhiều đơn khiếu nại.
Sau đó, qua Quyết định kháng nghị số 8 ngày 16/5/1998 đối với quyết định giám đốc thẩm số 156 ngày 17/5/1995 nêu trên. Đến bản kết luận số 187 ngày 19/10/1998, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, giữ nguyên hiệu lực của quyết định giám đốc thẩm nêu trên.
Đây là vụ án đòi nhà cho thuê, vì vậy cần phải xác định những người đi kiện có quyền năng gì đối với ngôi nhà, và quyền năng đó đến đâu. Từ đó xem xét yêu cầu nào của họ là phù hợp pháp luật, yêu cầu nào vượt quá quyền lợi của họ.
Theo những chứng cứ trong hồ sơ vụ án chúng tôi thấy rằng:
Căn nhà 45 - N.C.T thuộc quyền sở hữu của cụ Thân và vợ kế là cụ Tam. Hai cụ không có con, khi chết không để lại di chúc, nhưng cụ Thân có bốn con riêng (trong đó một người đã hy sinh năm 1947 không có vợ con). Như vậy, việc ông Quân cho rằng đây là nhà vô chủ là không đúng. Trong quá trình ở đây ông Quân đã có sửa chữa nhà nhiều lần, song việc sửa chữa này cũng không thể làm thay đổi quyền sở hữu. Việc ông Quân kê khai nhà vào các năm 1986 và 1991, có xác nhận của ban chỉ đạo đăng ký nhà quận H. Song, trong hồ sơ không có tài liệu nào phản ánh việc Nhà nước quản lý nhà 45 - N.C.T. Chính tại công văn số 530 ngày 9/4/1993 Phòng Chính sách của Sở Nhà đất H.N đã cung cấp cho Tòa án đã khẳng định: Ngôi nhà 45 - N.C.T, sở hữu chủ là T.V.Thân và vợ là N.T.Tam mua năm 1949. Kể từ đó đến nay chưa có sự đăng ký, chuyển dịch quyền sở hữu nhà đất.
Quyết định kháng nghị số 88 ngày 15/9/1994 của Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Quyết định giám đốc thẩm ngày 17/5/1995 của Tòa án dân sự Tòa án nhân dân tối cao tuy có thừa nhận căn nhà đó là di sản của hai cụ nhưng lại cho rằng: "… các nguyên đơn chưa làm thủ tục và sang tên thừa kế nên chưa phải là chủ sở hữu đối với căn nhà 45 - N.C.T" từ đó đã bác yêu cầu đòi nhà cho thuê của nguyên đơn.
Có thể nói, dù cụ Thân và cụ Tam đã chết từ lâu, di sản của hai cụ vẫn chưa chia và những người được hưởng di sản của hai cụ chưa có ai chính thức được xác lập quyền sở hữu đối với ngôi nhà này. Theo Điều 639 (Bộ luật Dân sự) thì: "kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại". Như vậy, kể từ thời điểm cụ Thân chết, những người thừa kế của cụ Thân đã có các quyền tài sản do cụ Thân để lại chứ không phải cho đén lúc phân chia di sản hoặc sang tên trước bạ, họ mới có các quyền tài sản. Các con riêng của cụ Thân tuy không được hưởng di sản của cụ Tam nhưng họ có quyền hưởng di sản của cụ Thân. Mà cụ Tam và cụ Thân là vợ chồng, căn nhà 45 - N.C.T là sở hữu chung của hai cụ. Theo pháp luật, khi cụ Thân chết, thanh toán tài sản chung, phần cụ Thân được sở hữu 1/2 căn nhà và đó là di sản thừa kế được chia cho 4 người là cụ Tam, bà Chinh, bà Lan, bà An. Vì vậy, về pháp lý, các bà Chinh, Lan, An có quyền khởi kiện yêu cầu gia đình ông Quân trả lại nhà đất tương ứng với kỷ phần thừa kế mà các bà được hưởng của cụ Thân. Phần di sản của cụ Tam, nếu xét lần lượt hàng thừa kế thứ nhất không có ai, thứ hai không có ai, sẽ chuyển sang hàng thừa kế thứ ba. Nếu trường hợp các thừa kế của cụ Tam uỷ quyền cho bà Chinh, bà Lan, bà An đòi lại nhà 45 - N.C.T thì các bà có quyền đòi lại toàn bộ căn nhà. Mặt khác, theo Nghị quyết 58/1998-NQ-UBTVQH10 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1/7/1991 thì các bà Chinh, Lan, An vẫn có quyền đòi nhà. Tuy nhiên, việc đòi nhà cho thuê lại là di sản thừa kế chưa chia, nên đối với phần nhà mà Tòa án cho các bà Chinh, bà Lan, bà An được lấy để ở, chỉ nên tạm giao cho các bà quản lý, sử dụng, chứ không nên giao sở hữu.
Qua khảo sát thực tiễn giải quyết tranh chấp hiện nay, thực tế là sai lầm thiếu sót phổ biến trong quá trình giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền chiếm hữu thường gặp một số vấn đề như:
- Việc xác định nguồn gốc tài sản (căn cứ xác lập) chưa chính xác và chưa phù hợp với thực tế. Một số trường hợp xác định được nguồn gốc chính xác, nhưng khi phân chia đã không chú ý tới các lợi ích chính đáng của các đương sự, mà chỉ thực hiện việc "chia tách thuần túy".
- Việc đánh giá công sức của những người đã có công duy trì, tạo dựng và phát triển tài sản chưa thỏa đáng và chưa phù hợp với thực tế.
Một trong những nguyên nhân làm việc giải quyết tranh chấp dân sự liên quan đến quyền chiếm hữu phức tạp đó là sự thiếu rõ ràng, thiếu độ tin cậy của các giấy tờ, chứng thư chứng minh quyền chiếm hữu pháp lý tài sản hoặc quyền sử dụng đất hợp pháp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tình trạng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cơ sở để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở cho đến nay vẫn là vấn đề bức xúc cần sớm được giải quyết.
2. Quyền chiếm hữu và việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền chiếm hữu tại ngành TAND.
Trong thực tế, sự xâm phạm quyền chiếm hữu hợp pháp rất đa dạng và phong phú. Vì vậy, Điều 263 BLDS đã ghi nhận các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu của người chiếm hữu hợp pháp.
Bảo vệ quyền chiếm hữu hợp pháp bao gồm các biện pháp tác động bằng pháp luật đối với hành vi xử xự của con người, ngăn chặn những hành vi xâm hại, khắc phục những thiệt hại vật chất cho người chiếm hữu hợp pháp.
Để thực hiện sự bảo hộ của nhà nước đối với quyền sở hữu nói chung và quyền chiếm hữu hợp pháp nói riêng, nhà nước ta đã tiến hành các hoạt động sau đây:
- Ban hành các quy phạm pháp luật quy định phạm vi những quyền năng của người chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản của họ, bảo đảm cơ sở pháp lý vững chắc và đầy đủ để người chiếm hữu hợp pháp có thể thực hiện các quyền của mình một cách đầy đủ và an toàn nhất.
- Nhà nước quy định các biện pháp pháp lý cụ thể để dựa vào đó các cơ quan nhà nước tiến hành các hoạt động bảo vệ, đồng thời để cho người chiếm hữu hợp pháp hay chủ sở hữu sử dụng để tự bảo vệ quyền chiếm hữu hợp pháp của mình.
Nhà nước ta sử dụng nhiều ngành luật khác nhau để bảo vệ quyền sở hữu. Tuy nhiên, mỗi ngành Luật bảo vệ quyền sở hữu theo những phương pháp, cách thức phù hợp với chức năng vốn có của nó.
Ngành Luật hành chính bảo vệ quyền sở hữu bằng việc quy định những thể lệ nhằm quản lý và bảo vệ tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân công dân. Trong một số trường hợp Nhà nước sử dụng biện pháp cưỡng chế bằng bạo lực của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với một cá nhân hay tổ chức nhất định về mặt vật chất hay tinh thần nhằm buộc các cá nhân hay tổ chức phải thực hiện hoặc không thực hiện những hành vi nhất định để bảo vệ những quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác; hoặc người đó phải phục tùng những hạn chế nhất định đối với tài sản của mình hoặc tự do thân thể nhằm bảo đảm quyền lợi cho các chủ thể khác. Việc áp dụng các biện pháp hành chính (gồm cưỡng chế, phòng ngừa, ngăn chặn) do các cơ quan hành chính Nhà Nước và trong những trường hợp nhất định do Toà án nhân dân quyết định đối với cá nhân, tổ chức đã có hành vi vi phạm hành chính xâm phạm đến tài sản quyền chiếm hữu hợp pháp tài sản hoặc cản trở trái pháp luật người chiếm hữu hợp pháp.
Ngành Luật hình sự bảo vệ quyền chiếm hữu bằng việc quy định một số hành vi nhất định xâm phạm đến quyền sở hữu, quyền chiếm hữu là tội phạm và quy định mức hình phạt tương xứng với những loại hành vi phạm tội đó. Việc bảo vệ bằng biện pháp hình sự mang tính chất trừng trị và răn đe như: Người nào xâm phạm sở hữu của công dân (theo Điều 151 đến Điều 163 BLHS), thì phải chịu trách nhiệm pháp lý tùy theo mức độ phạm tội. Ví dụ, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 157 BLHS).
Ngành Luật Dân sự bảo vệ quyền sở hữu bằng việc quy định những phương thức kiện dân sự trước Toà án để người chiếm hữu hợp pháp có thể thông qua đó mà đòi lại tài sản của mình đang bị người khác chiếm giữ bất hợp pháp; yêu cầu người khác chấm dứt hành vi cản trở hoặc có quyền yêu cầu ngăn chặn khi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp thực hiện quyền chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản; hoặc người chiếm hữu hợp pháp có thể đòi người khác phải bồi thường những thiệt hại về tài sản nếu người đó có hành vi xâm phạm đến quyền chiếm hữu của mình.
Như vậy, mỗi ngành Luật đều có những vai trò quan trọng của nó trong việc bảo vệ quyền chiếm hữu hợp pháp. Nhưng mỗi ngành Luật đó không bảo vệ quyền chiếm hữu một cách hoàn toàn tách biệt mà nó luôn có sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau. Trong thực tế nhiều khi phải áp dụng cùng một lúc những quy phạm của hai hay nhiều ngành Luật để điều chỉnh và bảo vệ quyền của người chiếm hữu hợp pháp khi bị xâm phạm.
Một trong những phương thức bảo vệ quyền chiếm hữu hợp pháp được pháp luật dân sự quy định đó là: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ tài sản thuộc sở hữu của mình, tài sản đang chiếm hữu hợp pháp bằng những biện pháp theo quy định của pháp luật” (Điều 263 - BLDS). Phương thức bảo vệ quyền chiếm hữu theo trình tự dân sự có vai trò quan trọng và mang nhiều đặc điểm riêng. Đặc trưng của phương thức này là lấy sự chủ động của đương sự với nguyên tắc tự quyết, tự định đoạt lấy số phận tài sản cũng như quyền và lơị ích hợp pháp của họ làm cơ sở tố tụng đồng thời lấy tính toàn vẹn của tài sản làm mục tiêu. Giá trị thực tiễn của các biện pháp này thể hiện ở chỗ chúng giúp khôi phục lại tình trạng ban đầu của tài sản trước khi bị xâm hại. Quyền tự bảo vệ của người chiếm hữu hợp pháp gắn liền với việc ngăn cản bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm quyền chiếm hữu hợp pháp của mình. Người chiếm hữu hợp pháp còn được quyền truy tìm, đòi lại tài sản bị người khác chiếm hữu, sử dụng không có căn cứ pháp luật.
Khi người chiếm hữu hợp pháp không thể “tự mình” bảo vệ quyền chiếm hữu hợp pháp nếu có sự xâm hại, thì họ “có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại” (Điều 263 - BLHS).
Bộ luật Dân sự ghi nhận và phân biệt nhiều phương thức kiện dân sự khác nhau để bảo vệ quyền sở hữu. Sự đa dạng của cuộc sống cho chúng ta thấy rằng, sự xâm phạm đến quyền chiếm hữu khác nhau cùng với những tình tiết khác nhau. Vì vậy, vấn đề lựa chọn phương thức nào cho phù hợp với mức độ và tình tiết cụ thể của vụ việc. Trong nội dung nhỏ hẹp của công trình nghiên cứu khoa học của sinh viên, công trình nêu một vài phương thức sau:
2.1. Kiện đòi lại tài sản.
Kiện đòi lại tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu Toà án buộc người có hành vi chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho mình. Đòi lại tài sản là một trong những phương thức bảo vệ quyền của người chiếm hữu hợp pháp. Điều 264 – BLDS quy định: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc thuộc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó…”. Tuy nhiên, đối với những tài sản được chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai và đã được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu, thì không áp dụng việc đòi lại tài sản (theo quy định tại khoản 1Điều 255 BLDS).
Phương thức kiện đòi lại tài sản đỏi hỏi đương sự và cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ các điều kiện sau:
a. Đối với chủ thể quyền khởi kiện.
Người khởi kiện đòi lại tài sản là người chủ sở hữu, chiếm hữu hợp pháp tài sản đang tranh chấp, phải chứng minh được quyền chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản đang bị người bị kiện (bị đơn) chiếm giữ bất hợp pháp. Trong trường hợp người khởi kiện (nguyên đơn) là người chiếm hữu hợp pháp thông qua hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng phù hợp với ý chí của chủ sở hữu thì người đó phải chứng minh: mình là người có quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản đang bị bị đơn chiếm giữ bất hợp pháp. Về nguyên tắc chung: vật đang bị bị đơn chiếm giữ bất hợp pháp đã rời khỏi người chiếm giữ hợp pháp ngoài ý chí của những người này.
Khi sử dụng phương thức kiện đòi lại tài sản, yêu cầu của người khởi kiện sẽ được Toà án chấp nhận. Người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật và không ngay tình phải trả lại tài sản cho người chiếm hữu hợp pháp. Người chiếm hữu hợp pháp không phải bồi thường một khoản tiền nào, trừ trường hợp người chiếm giữ bất hợp pháp phải bỏ ra chi phí hợp lý để sửa chữa tài sản, bảo đảm cho tài sản trong trạng thái bình thường. Cách giải quyết sẽ khác đi đối với người chiếm hữu bất hợp pháp nhưng ngay tình, tức là người không biết và không thể biết việc mình chiếm hữu tài sản là không có căn cứ pháp luật. Trong trường hợp này người chiếm hữu bất hợp pháp vẫn phải trả lại tài sản nhưng quyền lợi của họ được bảo đảm bằng việc: Cho phép người ngày được kiện đòi bồi thường thiệt hại đối với người đã chuyển dịch tài sản cho mình. điều 147 BLDS quy định: “Trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu, nhưng tài sản giai đoạn dịch đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình, thì giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực; nếu tài sản giao dịch bị tịch thu, xung quỹ Nhà nước hoặc trả lại cho người có quyền nhận tài sản đó, thì người thứ ba có quyền yêu cầu người xác lập giao dịch với mình bồi thường thiệt hại”.
b. Đối với người bị kiện (bị đơn).
Người bị kiện là bị đơn trong vụ án, là người đang thực tế chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của người khác. Người bị kiện phải trả lại tài sản là người đang thực tế chiếm hữu vật bất hợp pháp.
Nếu bị đơn là người chiếm hữu bất hợp pháp không ngay tình, tức là đang chiếm giữ trái phép, có thể do trộm cắp, lừa đảo mà có hoặc biết rõ tài sản đó là của gian, nhưng vẫn tìm cách chiếm hữu hoặc nhặt được tài sản do chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đánh rơi, bỏ quên… nhưng đã không giao nộp cho cơ quan công an hoặc UBND xã, thì người chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Trong trường hợp người chiếm hữu tài sản mà không có căn cứ pháp luật nhưng đã giao tài sản cho người thứ ba thì người thứ ba cũng có nghĩa vụ hoàn trả tài sản đó nếu người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu hoàn trả (Điều 607 BLDS).
Quyền lợi của người chiếm hữu bất hợp pháp không ngay tình không được pháp luật bảo vệ. Khoản 1, Điều 606 – BLDS quy định: Ngoài việc trả lại tài sản, người chiếm hữu bất hợp pháp không ngay tình còn “phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật”.
Nếu bị đơn là người chiếm hữu bất hợp pháp nhưng ngay tình tức là người không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật như: thông qua một giao dịch theo ý chí của người chiếm hữu bất hợp pháp của chủ sở hữu. Nghĩa là: người thuê, người mượn… tài sản của chủ sở hữu đã bán, đổi, tặng, cho…tài sản của chủ sở hữu mà không được chủ sở hữu uỷ quyền định đoạt. Người khởi kiện vụ án đòi lại tài sản chỉ được đòi lại tài sản từ tay người chiếm hữu bất hợp pháp nhưng ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu tài sản nhận được tài sản đó theo các giao dịch không mang tính chất đền bù như:tặng, cho, thừa kế. Cách tiếp cận này đảm bảo không gây thiệt hại về mặt vật chất cho người chiếm hữu bất hợp pháp nhưng ngay tình. Còn trong tất cả các trường hợp khác, người chiếm hữu bất hợp pháp ngay tình được pháp luật bảo vệ nếu giao dịch dân sự vô hiệu. Trong một số trường hợp, tài sản giao dịch đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình, thì giao dịch dân sự với người thứ ba vẫn có hiệu lực. Người thứ ba còn có quyền yêu cầu người đã xác lập giao dịch với mình phải bồi thường thiệt hại nếu tài sản bị tịch thu sung quỹ Nhà nước hoặc trả lại cho người có quyền nhận tài sản đó (Điều 177- BLDS).
Có quan điểm cho rằng, người thứ ba ngay tình “có thể” được pháp luật bảo vệ khi tài sản rời khỏi chủ sở hữu theo ý chí của người này sang người chiếm hữu hợp pháp, tài sản lại rời người chiếm hữu hợp pháp sang người thứ ba ngay tình theo ý chí của người này.
Trong quan hệ pháp luật này, lợi ích vật chất của người chiếm hữu hợp pháp và người đang thực tế chiếm giữ vật là người chiếm hữu bất hợp pháp ngay tình đều được pháp luật bảo vệ thoả đáng.
c. Đối tượng của vụ kiện đòi lại tài sản.
Là vật đặc định và vật này đang còn trong tay người chiếm hữu hợp pháp. Đây là điều kiện quan trọng đối với phương thức kiện đòi lại tài sản, vì người chiếm hữu hợp pháp khi khởi kiện phải căn cứ vào thực tế, tài sản của họ là còn tồn tại trong thực tế, chưa bị huỷ hoại, còn nguyên trạng. Nhờ có đặc điểm riêng về ký hiệu, hình dáng, màu sắc, chất liệu, đặc tính, tính năng tác dụng mà người chiếm hữu hợp pháp phát hiện ra nó khi đang bị người khác chiếm giữ trái pháp luật. Hơn nữa, tài sản tranh chấp trong vụ án là loại vật đặc định, đang còn trên thực tế sẽ là vật chứng để người chiếm hữu hợp pháp chứng minh quyền chiếm hữu của mình đối với tài sản đó. Đây chính là cơ sở thực tiễn, là chứng cứ không thể thiếu chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của đương sự.
Tóm lại, trong việc kiện đòi lại tài sản theo quy định tại Điều 264 BLDS, người chiếm hữu hợp pháp được lấy lại tài sản khi có đủ các yếu tố sau đây:
- Vật rời khỏi người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí của họ.
- Người thực tế đang chiếm giữ vật là người chiếm giữ bất hợp pháp
- Vật hiện đang còn trong tay người chiếm hữu bất hợp pháp.
2.2. Kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền chiếm hữu hợp pháp , quyền sở hữu.
Người chiếm hữu hợp pháp có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình, có quyền khai thác lợi ích vật chất của tài sản để thoả mãn các nhu cầu trong sinh hoạt cũng như trong sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật (không được làm thiệt hại và ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền lợi hợp pháp của người khác). Để thực hiện các quyền năng hợp pháp này, BLDS cho phép người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ “yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó”. Ngoài ra, Điều 265 BLDS còn quy định: Nếu người có hành vi cản trở trái pháp luật không tự nguyện chấm dứt thì người chiếm hữu hợp pháp còn có quyền yêu cầu Toà án hoặc cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền khác áp dụng các biện pháp ngăn chặn và buộc người có hành vi cản trở phải chấm dứt hành vi cản trở đó.
Phương thức kiện này nhằm đảm bảo để người chiếm hữu hợp pháp được sử dụng và khai thác công dụng của tài sản một cách bình thường.
Việc sử dụng phương thức kiện này cần phải hội tụ các yếu tố sau:
- Chủ thể khởi kiện phải là người chiếm hữu hợp pháp đang nắm giữ tài sản trong tay và đang bị người khác gây khó khăn cho việc thực hiện quyền chiếm hữu hợp pháp của mình.
- Người bị kiện trong vụ án là người có hành vi trái pháp luật, xâm phạm vào các quyền của người chiếm hữu hợp pháp, không thực hiện các nghĩa vụ ứng xử tương ứng làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền chiếm hữu hợp pháp của người khác.
- Yêu cầu mà đương sự đề ra trong đơn khởi kiện là ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi trái pháp luật đang cản trở người chiếm hữu hợp pháp thực hiện các quyền của mình.
Trong thực tế, loại án kiện này thường xảy ra giữa những người có bất động sản liền kề như nhà ở, công trình xây dựng .v.v… Chính vì vậy, mà quyền của chủ thể này muốn được tôn trọng thì đòi hỏi chủ thể kia phải thực hiện nghĩa vụ tương ứng. Trong số những nghĩa vụ đó cần phải kể đến:
- Nghĩa vụ tôn trọng ranh giới giữa các bất động sản như: Không ai được lấn chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cản giữa các bất động sản liền kề. Dù xây dựng, trồng cây cũng trong khuôn viên đất thuộc quyền của mình theo ranh giới xác định - Nghĩa vụ tôn trọng nguyên tắc xây dựng
- Nghĩa vụ bảo đảm an toàn đối với công trình xây dựng liền kề
- Hạn chế việc trổ cửa ra vào, cửa sổ quay sang nhà bên cạnh, nhà đối diện
- Quyền yêu cầu sửa chữa, phá dỡ bất động sản liền kề khi có nguy cơ sập đổ.
- Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề để đảm bảo các nhu cầu về lối đi, cấp thoát nước và các nhu cầu khác một cách hợp lý.
Các nghĩa vụ trên chính là các quy tắc ứng xử của các thành viên trong xã hội tham gia vào các quan hệ dân sự nói chung và quan hệ sở hữu mà cụ thể là chiếm hữu hợp pháp nói riêng. Trong thực tế còn có một số trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ án đã phải áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, hoặc để đảm bảo an toàn cho công tác thi hành án đã tiến hành biện pháp kê biên tài sản của đương sự trong vụ án, trong đó có cả phần quyền chiếm hữu hợp pháp của các chủ thể khác đi đôi với tài sản bị kê biên (như tài sản bị kê biên là tài sản chung của nhiều người). Do đó, xuất hiện một loại các án kiện yêu cầu giải toả tài sản đang bị kê biên. Trong trường hợp này, chủ thể có quyền khởi kiện là người chiếm hữu hợp pháp tài sản đang bị kê biên, bản thân họ không phải là đương sự trong vụ án có tài sản bị kê biên, nên khi khởi kiện để yêu cầu Toà án công nhận phần quyền chiếm hữu của họ đối với tài sản bị kê biên, từ đó yêu cầu Toà giải toả, trả lại tài sản bị kê biên để họ thực hiện quyền chiếm hữu của mình. Còn người bị kê biên trong trường hợp này là đương sự trong vụ án trước là người có tài sản đang bị kê biên và cơ quan ra quyết định kê biên tài sản.
Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình, người khởi kiện phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh quyền chiếm hữu hợp pháp của mình trong khối tài sản chung đã bị kê biên đó. Nếu không có đủ chứng cứ thuyết phục thì yêu cầu khởi kiện giải toả niêm phong phải trả lại tài sản sẽ bị Toà án bác bỏ.
2.3. Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền)
Điều 266 Bộ luật Dân sự đã quy định: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu pháp có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình bồi thường thiệt hại”.
Quy định trên chỉ được áp dụng khi: Người chiếm hữu hợp pháp hoặc bất hợp pháp đã bán tài sản cho người khác mà không tìm thấy người mua nữa hoặc tài sản đã bị tiêu huỷ… trong trường hợp này, chủ sở hữu không thể lấy lại được tài sản của mình và luật pháp cho phép người chiếm hữu hợp pháp lựa chọn phương thức kiện đòi bồi thường thiệt hại (bồi thường thiệt hại phải đây nghĩa là thanh toán cho người chiếm hữu hợp pháp giá trị của tài sản bằng một khoản tiền nhất định).
Trong những trường hợp nhất định, theo quy định tại Điều 147 BLDS, nếu tài sản giao dịch bị tịch thu sung quỹ Nhà nước hoặc buộc phải trả lại cho người có quyền thì người thứ ba ngay tình cũng có quyền yêu cầu người xác lập giao dịch với mình phải bồi thường thiệt hại.
Tóm lại: Phương thức bảo vệ quyền chiếm hữu hợp pháp bằng biện pháp dân sự có một vai trò quan trọng và ưu thế đặc biệt. Phương thức này được áp dụng một cách rộng rãi so với các biện pháp khác, vì trong nhiều trường hợp không có những khả năng và điều kiện để áp dụng các biện pháp khác. Phương thức này còn tạo điều kiện thuận lợi và dễ dàng cho người có quyền dân sự bị xâm phạm tự mình chủ động bằng phương thức giản đơn đề xuất và yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi cho mình; tạo khả năng khắc phục những thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, phôi phục lại tình trạng tài sản như lúc ban đầu khi chưa bị vi phạm, ngăn chặn chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với quyền chiếm hữu ngay từ khi mới manh nha xuất hiện, bình thường hoá trở lại quan hệ cần có giữa các bên trong các giao dịch dân sự.
3. Các giải pháp hoàn thiện các quy định về quyền chiếm hữu trong BDS 1995
3.1. Nhu cầu khách quan của việc hoàn thiện pháp luật về quyền chiếm hữu của công dân trong giai đoạn hiện nay.
Việc hoàn thiện pháp luật về quyền chiếm hữu của công dân là nhu cầu khách quan, bức thiết trong giai đoạn hiện nay. Quá trình phát triển khách quan của các quan hệ xã hội luôn đặt ra những vấn đề mới cần phải giải quyết và pháp luật với vai trò phản ánh các quan hệ xã hội đó, điều chỉnh chúng cũng phải thay đổi thích ứng. Đến lượt nó, việc hoàn thiện pháp luật về quyền chiếm hữu của công dân cũng là để tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển xã hội, bảo đảm “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng – dân chủ – văn minh” vì tự do và hạnh phúc của con người.
Sự phát triển kinh tế – xã hội là căn cứ và là mục tiêu của điều chỉnh và hoàn thiện pháp luật về quyền chiếm hữu. Do đó, hoàn thiện pháp luật về quyền chiếm hữu của công dân là cơ sở xác định chế độ pháp lý của mỗi chủ thể trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội.
Việc hoàn thiện pháp luật về quyền chiếm hữu còn xuất phát từ sự phát triển nội tại của hệ thống pháp luật hiện hành, nhằm đổi mới hệ thống pháp luật đó phù hợp với cơ chế quản lý mới, đáp ứng yêu cầu, điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội và các quan hệ tài sản trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về chiếm hữu nói riêng là một đòi hỏi khách quan vì quyền chiếm hữu trong quan hệ sở hữu là nền tảng của các quan hệ kinh tế khác, nếu không giải quyết được các vấn đề cấp bách của quyền chiếm hữu thì không giải quyết được các vấn đề khác phát sinh từ phạm trù này. Vì vậy, các giải pháp hoàn thiện chính sách và pháp luật về quyền chiếm hữu và các hình thức chiếm hữu tập trung vào các vấn đề sau đây:
3.2. Về xây dựng pháp luật.
3.2.1. Cần tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật Dân sự.
BLDS được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 và có hiệu lực từ ngày 1/7/1996 là BLDS đầu tiên pháp điển hoá các văn bản quy phạm pháp luật về quyền sở hữu nói chung và quyền chiếm hữu nói riêng về hợp đồng Dân sự, về bồi thường thiệt hại, về thừa kế… và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Việc hoàn thiện BLDS đã tạo ra cơ sở pháp lý chặt chẽ và hệ thống hơn các các quan hệ lưu thông hàng hoá, cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Có thể nói chưa bao giờ hệ thống pháp luật Dân sự ở nước ta lại đồng bộ như bây giờ. Hệ thống quan phạm pháp luật trong BLDSđã quy định tương đối rõ về quyền chiếm hữu, các hình thức chiếm hữu cùng các vấn đề khác.
Để áp dụng có hiệu quả và dễ dàng hơn các quy định pháp luật về Dân sự cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS như hướng dẫn về cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản. Khi ban hành các văn bản hướng dẫn cần bảo đảm tính thống nhất giữa các quy định của Bộ luật với các quy định hướng dẫn và nên có các giải pháp giải quyết những vướng mắc xảy ra trong thực tế.
Sau khi có BLDS, đòi hỏi rất bức xúc hiện nay là cần có sự giải thích pháp luật một cách chính thức đối với các quy định trong BLDS để có nhận thức thống nhất khi vận dụng vào thực tế. Theo thẩm quyền hiện nay, công việc giải thích pháp luật thuộc uỷ ban thường vụ Quốc hội – nhưng trước mắt để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, Toà án nhân dân tối cao nên xây dựng các tập án lệ về tài sản và quyền sở hữu. Ngoài ra, các phương tiện thông tin đại chúng luôn đến với mọi người dân một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất, vì thế cần phổ biến và giải thích từng điều khoản thi hành BLDS trên các phương tiện phát thanh, truyền hình để mọi người dân ai ai cũng hiểu được các quy định của pháp luật hiện hành về Dân sự nói chung và về quyền chiếm hữu nói riêng.
Nguyên tắc áp dụng tập quán, áp dụng tương tự pháp luật cũng được BLDS đề cập đén. Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thoả thuận thì có thể áp dụng tập quán hoặc quy định tương tự của pháp luật. Nhưng không được trái với những nguyên tắc quy định trong Bộ luật. Vấn đề đặt ra hiện nay là tập quán được áp dụng như thế nào và cần có các điều kiện gì. Các cơ quan có thẩm quyền cần tổ chức nghiên cứu và trên cơ sở nghiên cứu đó mà có hướng dẫn cho các cơ quan bảo vệ pháp luật về việc áp dụng tập quán trong lĩnh vực Dân sự theo định hướng hợp lý, tiến bộ, vì lợi ích của mọi công dân và không trái với đạo đức xã hội.
3.2.2. Cần xây dựng các thiết chế cần thiết cho việc thực hiện các quy định của BLDS như thành lập cơ quan đăng ký tài sản…
3.3. Về giải quyết tranh chấp.
3.3.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống các cơ quan tài phán và thành lập cơ quan thừa phát lại, một chế định quan trọng bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp củng cố các toà chuyên trách, các cơ quan trọng tài, cơ chế thi hành các bản án cũng như các phán quyết của trọng tài.
Một nền kinh tế thực sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa là mục tiêu mà Đảng, Nhà Nước và nhân dân ta đang hướng tới. Nhưng nếu không khuyến khích được mọi cá nhân làm ăn lớn, không thể phát triển được nền kinh tế. Nếu chúng ta thiếu cơ chế bảo vệ có hiệu quả đối với quyền chiếm hữu cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của từng cá nhân. Vì vậy, các Toà chuyên trách như Toà dân sự, toà kinh tế .v.v… phải thật sự đủ mạnh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Hiện nay hệ thống các cơ quan tài phán có nhiều bất cập, làm giảm sút tác dụng trong việc giải quyết các tranh chấp. Một vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay là khi chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi kinh tế, đang từng bước hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, từng bước tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC) và đang tiến tới trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và đặc biệt là khi nước ta và Hoa Kỳ đã ký hiệp định thương mại thì chúng ta không thể duy trì cơ chế kém hiệu quả như hiện nay là bỏ ngỏ việc cưỡng chế thi hành bản án cũng như phán quyết của các trọng tài trong nước cũng như trọng tài quốc tế.
Bộ luật Dân sự nước ta ra đời đã tạo ra những chuẩn mực pháp lý quan trọng, đã xác định những nguyên tắc cơ bản nhất trong giao lưu dân sự là tuân thủ pháp luật, là tôn trọng lợi ích xã hội và tôn trọng quyền cũng như lợi ích hợp pháp đặc biệt là quyền chiếm hữu hợp pháp của mỗi cá nhân…
Những nguyên tắc này đòi hỏi mỗi cá nhân phải hành động tự giác và phải chủ động trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ngăn ngừa các vi phạm có thể xảy ra. Nhà Nước cần tạo ra cơ chế để mỗi cá nhân tự do chủ động trong các giao dịch dân sự cũng như giải quyết tranh chấp. Để thực hiện các ý tưởng trên đây Nhà Nước cần xem xét để tổ chức cơ quan thừa phát lại vốn đã từng tồn tại ở nước ta dưới thời pháp thuộc và thời trước năm 1975 ở miền Nam hoặc như ở một số nước trên thế giới. Việc thành lập, tổ chức thừa phát lại ở nước ta là một nhu cầu khách quan tất yếu đáp ứng các yêu cầu sau đây:
- Hỗ trợ cá nhân trong việc bảo vệ quyền chiếm hữu hợp pháp cũng như quyền – lợi ích hợp pháp khác, trong các giao dịch hợp đồng, chống lại các hành vi xâm phạm quyền chiếm hữu hợp pháp…
- Giảm các vụ việc tranh chấp, xét xử tại Toà án, vì rằng với các chứng thư, biên bản do thừa phát lại thực hiện đã ghi lại các sự kiện đúng thời gian, địa điểm và kịp thời. Điều này có nghĩa là thừa phát lại giúp các bên nhận thức ra được quyền và nghĩa vụ của họ để từ đó họ tự thương lượng để giải quyết vụ án, không phải khởi kiện ra toà.
- Giúp đỡ cá nhân trong việc đốc thúc các cơ quan Nhà Nước thực hiện đúng pháp luật như đốc thúc Toà án hay cơ quan thi hành án nếu để vụ việc quá lâu không giải quyết thì các cá nhân công dân có quyền yêu cầu thừa phát lại xác minh lập vi bằng để đôn đốc các cơ quan này thực hiện đúng pháp luật, đúng tiến độ…
Cần sớm ban hành luật chống cạnh tranh bất hợp pháp để bảo vệ quyền chiếm hữu hợp pháp cũng như các quyền lợi hợp pháp khác của công dân.
Trong nền kinh tế thị trường phải có tự do cạnh tranh, nhưng cạnh tranh phải lành mạnh, phải theo một “luật chơi” thống nhất và chặt chẽ. Do đó, nhu cầu hình thành khuôn khổ pháp lý cho một môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, văn minh ngày càng trở nên cấp bách.
Ngoài ra, để hạn chế tranh chấp dân sự, trước hết phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật thật rộng rãi trong cán bộ và nhân dân, đặc biệt đối với Bộ luật Dân sự. Việc tuyên truyền, phổ biến phải là công việc thường xuyên, có hệ thống. Tổ chức biên soạn tài liệu hướng dẫn thực hiện Bộ luật Dân sự , bình luận từng điều của Bộ luật và xây dựng các loại hợp đồng mẫu. Chủ động trong công tác đào tạo cán bộ thi hành pháp luật nhất là thẩm phán chuyên xét xử án dân sự cùng với kiểm sát viên, chấp hành viên về các quy định của Bộ luật Dân sự. Đồng thời nhanh chóng củng cố các tổ chức hoà giải tại cơ sở.
Kết luận
Quyền chiếm hữu có vị trí vô cùng quan trọng, là tiền đề để thực hiện hai quyền tiếp theo của quyền sở hữu. Mà sở hữu là yếu tố quyết định của quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất với tính cách là hạ tầng cơ sở lại quyết định thượng tầng kiến trúc, cho nên chiếm hữu là một vấn đề thuộc nền tảng của đời sống xã hội, chiếm hữu có tác dụng quyết định không nhỏ đến chế độ xã hội.
Xét về mặt lý luận cũng như thực tiễn thì chiếm hữu luôn luôn là một vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Cách mạng về chính trị bao giờ cũng phải đi đến cách mạng về kinh tế mà cách mạng về kinh tế phải có cải biến về chiếm hữu để đưa ra năng suất lao động cao hơn tạo nên thắng lợi của một trật tự xã hội mới. Bởi vậy, các nhà lý luận kinh tế của chủ nghĩa Mác – Lênin đã rất đúng khi nói rằng một cuộc cách mạng dẫu có được tuyên bố hàng trăm lần đi chăng nữa cùng hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì đối với sự phát triển thực tế, đối với việc xây dựng một xã hội mới, nếu nó không trực tiếp động chạm đến vấn đề sở hữu. Mà quyền chiếm hữu trong quyền sở hữu được xác định rõ ràng nhất trên thực tế.
Thực tiễn 15 năm vừa qua đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối kinh tế do Đảng, Nhà Nước ta khởi xướng và lãnh đạo, đó là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các hình thức chiếm hữu đang tồn tại ở nước ta có mối quan hệ tác động qua lại đan xen với nhau trong một ngôi nhà chung là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà Nước. Nhờ giải quyết và xử lý đúng đắn vấn đề chiếm hữu, đất nước đã bước ra khỏi cuộc khủng hoảng, nền kinh tế phát triển. Toàn Đảng, toàn dân ta ra sức thực hiện nghị quyết Đại hội VI trong năm 5 (1996 -> 2000) đất nước ta đã thu được những thành tựu quan trọng: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hàng năm 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực… Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hằng năm tăng 13,5%… các ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu đều phát triển. Năm 2000 đã chặn được giảm sút mức tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt hoặc vượt mức kế hoạch đề ra… (Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX).
Như vậy, vấn đề chiếm hữu ở nước ta hiện nay vẫn là một hình thức giao tiếp cần thiết ở một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất, là điều kiện cần thiết cho quá trình sản xuất ra đời sống trực tiếp của nhân dân.
Vì vậy, nghiên cứu quyền chiếm hữu, các hình thức chiếm hữu và ý nghĩa của các hình thức chiếm hữu là chủ đề chính, xuyên suốt toàn bộ đề tài. Đề tài đã giải quyết được những vấn đề chủ yếu sau đây:
1. Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về quyền chiếm hữu
2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của chế định quyền chiếm hữu và các phương thức bảo vệ quyền chiếm hữu trong pháp luật Việt Nam.
3. Phân tích nội dung và đặc điểm của các hình thức chiếm hữu và mối liên hệ giữa chiếm hữu pháp lý và chiếm hữu thực tế.
4. Nhà Nước Cộng hoà XHCN Việt Nam luôn luôn quan tâm đến việc bảo vệ quyền chiếm hữu hợp pháp của cá nhân, coi đó là một nhiệm vụ quan trọng của Nhà Nước. Bằng các phương thức của các ngành Luật khác nhau như Luật Hình sự, Luật Hành chính, Luật Dân sự … Nhà Nước đã tác động đến các hành vi xử sự của con người, ngăn chặn những hành vi xâm phạm đến quyền chiếm hữu hợp pháp và khắc phục những thiệt hại vật chất do chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp tài sản.
5. Trên cơ sở thực trạng pháp luật về chiếm hữu cá nhân và thực tiễn vi phạm quyền chiếm hữu hợp pháp, đề tài đã đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về chiếm hữu cá nhân cũng như xây dựng thiết chế cần thiết cho việc thi hành pháp luật nhằm bảo đảm an toàn cho quyền chiếm hữu của công dân.
Tài liệu tham khảo
1
Luận án tiến sỹ : Quyền sở hữu cá nhân và phương thức bảo vệ
- Hoàng Ngọc Thỉnh - Đại học luật Hà Nội
2
Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của BLDS – NXB Chính trị Quốc Gia- Hà Nội 1997
3
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX – NXB Chính trị quốc gia- Hà Nội 2001
4
Quá trình hình thành và phất triển pháp luật về sở hữu ở Việt Nam – Nguyễn Huy Anh – NXB, chính trị quốc gia – Hà Nội 1998
5
Báo cáo tổng kết nghành toà án nhân dân từ năm 1998 đến 2002 – Toà án nhân dân tối cao.
6
Bình luận một số án dân sự và hôn nhân gia đình - NXB, Chính trị Quốc Gia – Hà nội 2001.
7
Giáo trình luật dân sự – NXB, Công an nhân dân.
8
Giáo trình luật La Mã- NXB, Công an nhân dân.
9
Quy chế quản lý và xử lý tài sản khi có quyết định tịch thu xung quỹ nhà nước và được xác lập quyền sở hữu nhà nước.
10
Quy chế xử lý tài sản không cần dùng và không còn sử dụng được các cơ quan hành chính sự nghiệp(ban hành kèm theo Quyết định số 1163/TC-QLTS ngày 21-12-1996)
11
Công văn của Bộ tài chính số 537/TC-QLTS ngày 28-2-1998 về việc hướng dẫn quy chế quản lý và sử lý tài sản khi có quyết định tịch thu sung quỹ nhà nước và được xác lập quyền sở hữu nhà nước.
12
.Tạp chí luật học-2000 số 3 -Phương thức bảo vệ quyền sở hữu cá nhân- Hoàng ngọc Thỉnh
13.
Tạp chí luật học-1996 số 5-Sở hữu tư nhân và các hình thức biểu hiện của nó-Phùng trung Tập
14
.Mác-Ph.Ăngghen tuyển tạp-Tập - NXB, Hà nội-1979
15
Hiến pháp 1946,1959,1980,1992
16
.Bộ luật dân sự nước CHXHCNVN.
17.
Bộ luật hình sự nước CHXHCNVN.
18.
Bình luận khoa hoc BLDS -công trình:Tài sản và quyền sở hữu - NXB chính trị quốc gia.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33880.doc