LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời, hoạt động hơn bảy năm qua và trở
thành một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế Việt Nam. Trong thời gian gần
đây, thị trường chứng khoán Việt Nam có sự phát triển nhanh chóng, góp phần
không nhỏ trong việc huy động vốn cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Tuy
nhiên, hàng hoá trên thị trường chứng khoán còn quá đơn điệu, ngoài cổ phiếu và
trái phiếu thì vẫn chưa có một sản phẩm nào khác. Ở các nước có thị trường chứng
khoán phát triển, bên cạnh giao dịch các sản phẩm chính còn có sự sôi động không
kém của các sản phẩm phái sinh như quyền chọn chứng khoán, quyền chọn chỉ số
chứng khoán, hợp đồng tương lai,
Trong quá trình hội nhập nền kinh tế và tham gia vào các tổ chức kinh tế lớn
như WTO thì việc mở cửa thị trường tài chính mà trong đó có thị trường chứng
khoán là một bước đi tất yếu. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của thị trường tài
chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng thì việc nghiên cứu và ứng
dụng các sản phẩm tài chính phái sinh là điều cần thiết. Việc nghiên cứu và áp dụng
quyền chọn chứng khoán vào giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam
không chỉ đa dạng hoá sản phẩm cho thị trường mà còn tạo ra công cụ để bảo vệ
nhà đầu tư trước những rủi ro của sự biến động về giá.
Hơn nữa, sự phát triển nhanh thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời
gian vừa qua cũng bộc lộ những rủi ro tiềm ẩn nhất định cho công chúng đầu tư, mà
đặc biệt là nhà đầu tư nhỏ lẻ. Trong tổng số hơn 200.000 tài khoản của nhà đầu tư
hiện tại được mở và giao dịch tại các công ty chứng khoán thì có hơn 70% là tài
khoản của nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ. Khi thị trường chứng khoán trong giai đoạn
suy thoái những nhà đầu tư nhỏ lẻ này không thể nào trụ vững trên thị trường vì vậy
hành động tốt nhất cho họ là ồ ạt bán để bảo toàn vốn và sớm rút ra khỏi thị trường,
làm cho thị trường càng trở nên trầm trọng hơn, dễ dẫn đến khủng hoảng, sụp đổ.
Trong trường hợp này quyền chọn chứng khoán không những giúp cho các nhà đầu
tư bảo toàn được nguồn vốn mà còn hạn chế tình trạng ồ ạt bán tháo trên thị trường,
bảo vệ thị trường chứng khoán trước nguy cơ bị khủng hoảng và sụp đổ.
Xuất phát từ những vấn đề trên, việc tham khảo và ứng dụng quyền chọn
chứng khoán vào điều kiện thực tiễn ở nước ta là một bước đi cần thiết cho sự phát
triển của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, đó cũng là lý do tác giả chọn
đề tài “Quyền chọn và khả năng áp dụng cho thị trường chứng khoán Việt
Nam” làm Luận văn thạc sĩ của mình.
1. Mục tiêu nghiên cứu
¾ Tìm hiểu, làm sáng tỏ đặc điểm, vai trò của công cụ quyền chọn, chiến lược
phòng ngừa rủi ro bằng quyền chọn, các thành phần của thị trường quyền
chọn.
¾ Đánh giá thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam, xem xét các yếu tố
tạo nên rủi ro trên thị trường chứng khoán và sự cần thiết của việc áp dụng
quyền chọn vào giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam
¾ Nghiên cứu các mô hình tổ chức giao dịch quyền chọn tiêu biểu và xây dựng
mô hình tổ chức giao dịch quyền chọn chứng khoán dự kiến cho Việt Nam
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
¾ Nghiên cứu các lý luận về sản phẩm quyền chọn và thị trường quyền chọn.
¾ Nghiên cứu một số mô hình tổ chức giao dịch quyền chọn chứng khoán tiêu
biểu trên thế giới và các điều kiện thực tiễn để ứng dụng vào Việt Nam
¾ Nghiên cứu quá trình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi
thành lập cho đến tháng 08/2007
¾ Ngoài ra, do có sự giới hạn nên trong khuôn khổ Luận văn này, đề tài không
đi sâu vào nghiên cứu các kỹ thuật định giá quyền chọn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn này được nghiên cứu trên cơ sở lý thuyết tài chính hiện đại, lý
thuyết quản trị rủi ro tài chính, cùng với các phương pháp thống kê mô tả, phân tích
và tổng hợp dữ liệu để khái quát hóa lên bản chất của các vấn đề cần nghiên cứu
4. Kết cấu của luận văn
Với phạm vi nghiên cứu như trên, nội dung chính của Luận văn bao gồm 3
chương:
¾ Chương 1: Tổng quan về quyền chọn và thị trường quyền chọn
¾ Chương 2: Thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam
¾ Chương 3: Khả năng áp dụng quyền chọn cho thị trường chứng khoán
Việt Nam
84 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1653 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quyền chọn và khả năng áp dụng cho thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ty tư nhân và tham gia các đợt đấu
giá IPO các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa.
Đối với các công ty niêm yết, các nhà đầu tư nước ngoài liên tục mua vào
các cổ phiếu mạnh và vẫn còn room. Trong suốt giai đoạn thị trường giảm vừa qua,
các cổ phiếu PVD, VNM, DHG, IMP, DMC, KDC, NKD, TAC vẫn được các nhà
đầu tư nước ngoài mua vào liên tục, các cổ phiếu nhóm công ty Kinh Đô, cổ phiếu
dược vẫn liên tục lên giá trong tháng 6 và tháng 7 vừa qua. Lượng vốn của các quỹ
đầu tư nước ngoài huy động để đầu tư vào thị trường Việt nam vào khoảng 5 tỷ
USD, đây là một số tiền rất lớn và để dành cho các đợt IPO các doanh nghiệp lớn tại
Việt Nam. Tuy nhiên, hiện có khá nhiều cổ phiếu niêm yết tại sàn TP. HCM có
“room” dành cho nhà đầu tư nước ngoài đã hết như AGF, BMP, SAM, TAY (đều
49%), STB (30% - ngành ngân hàng chỉ được 30%) hoặc sắp hết room như BT6
(48,96%), CII (48,98%), SJS (44,98%),VNM (46,26%). Do đó, các quỹ đầu tư nước
ngoài không thể giải ngân vào Blue chips này.
Sức ép giải ngân với các quỹ nước ngoài là rất lớn và các quỹ đầu tư đang
mong chờ động thái mở cửa hơn nữa thị trường từ Chính phủ Việt nam. Như vậy,
trong thời gian tới cùng với lộ trình hội nhập của nền kinh tế, Chính phủ cần xem
xét với những lĩnh vực nước ngoài được phép đầu tư 100% vốn để có thể nâng tỷ lệ
sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại các công ty niêm yết lên hơn 49%. Việc mở
room với các công ty niêm yết sẽ có tác dụng khơi thông dòng vốn FII từ nước
ngoài, thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển cũng như nâng cao hiệu quả hoạt
động của các công ty niêm yết.
2.3.5 Nâng cao tính cạnh tranh của thị trường chứng khoán Việt Nam
Một trong những động thái trước mắt cần làm là Việt Nam phải đưa thị
trường chứng khoán trở thành một thị trường có tính cạnh tranh cao và công bằng.
Để thực hiện được yêu cầu này cần thiết phải đưa thị trường chứng khoán vào xu
61
62
thế hội nhập. Trong xu thế hội nhập quốc tế, việc xây dựng thị trường các công cụ
phái sinh mà trong đó quyền chọn chứng khoán là việc hết sức cần thiết. Tuy nhiên
với qui mô thị trường còn nhỏ như hiện nay, việc đưa vào giao dịch các chứng
khoán phái sinh sẽ làm nâng cao tính cạnh tranh của thị trường, đa dạng hóa sản
phẩm, sẽ tăng cung, kích cầu cho thị trường, làm cho thị trường trở nên sôi động thu
hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước từng bước đưa thị trường chứng khoán Việt
Nam hòa mình vào dòng chảy của thị trường tài chính trong khu vực Đông Nam Á
nói riêng và Châu Á nói chung
Trong 2 năm trở lại đây, thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển khá
nhanh, được các chuyên giá đánh giá là một trong những thị trường chứng khoán
phát triển nhanh nhất thế giới, được sự quan tâm rất lớn của các nhà đầu tư trong
và ngoài nước, góp phần quan trọng cho việc huy động vốn để phát triển nền kinh
tế đất nước. Tuy nhiên, xét về qui mô thì thị trường chứng khoán nước ta vẫn còn
nhỏ bé so với các nước trong khu vực và thế giới. Quá trình phát triển của thị
trường chứng khoán cũng trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm và tiềm ẩn những rủi
ro rất lớn cho nhà đầu tư mà đặc biệt là nhà đầu tư nhỏ lẻ. Vì vậy, đây là lúc chúng
ta cần phải triển khai các công cụ tài chính phái sinh nói chung mà trong đó quyền
chọn chứng khoán nói riêng vào giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam
nhằm mục đích tạo ra công cụ bảo vệ nhà đầu tư trước sự thay đổi bất thường của
thị trường, đồng thời cũng góp phần đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa hình thức
đầu tư, nâng cao tính cạnh tranh của thị trường chứng khoán trong quá trình hội
nhập.
62
63
Chương 3
KHẢ NĂNG ÁP DỤNG QUYỀN CHỌN CHO THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN VIỆT
NAM TRONG NHỮNG NĂM TỚI
3.1.1 Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong những
năm tới
Thị trường vốn Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển, thể chế và
cấu trúc thị trường đang từng bước hoàn thiện, quy mô thị trường đang tăng nhanh,
đặc biệt trong thời gian vừa qua. Đến nay, thị trường vốn Việt Nam đã bước đầu
thiết lập được hệ thống thị trường có tổ chức của Nhà nước, bao gồm đầy đủ các
yếu tố: cơ chế vận hành, cơ quan quản lý, hạ tầng thị trường, hệ thống các tổ chức
phát hành, các nhà đầu tư, các trung tâm hoạt động trên thị trường. Về cơ bản, thị
trường đã được quản lý theo luật pháp, trên nguyên tắc công bằng, công khai, bảo
vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Quy mô tuy còn nhỏ, nhưng tốc độ phát triển
của thị trường đạt mức khá nhanh, chỉ tính đến hết năm 2006, tổng lượng vốn huy
động cho đầu tư phát triển thông qua hình thức phát hành trái phiếu đã đạt 109.000
tỷ đồng các loại; đã có gần 200 DNNN cổ phần hoá đã tổ chức đấu giá công khai
qua trung tâm giao dịch chứng khoán với tổng giá trị đạt gần 13.000 tỷ đồng. Về
giao dịch chứng khoán, đến nay đã có 200 công ty thực hiện niêm yết tại hai trung
tâm giao dịch Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, tổng giá trị vốn hoá đạt khoảng 22,7%
GDP năm 2006, tăng xấp xỉ 20 lần so với thời kỳ cuối năm 2005; đã có trên 400
loại trái phiếu được niêm yết với tổng giá trị đạt khoảng 70.000 tỷ đồng, chiếm
7,7% GDP. Hệ thống định chế trung gian tài chính đã được thiết lập, ngoài số các
ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính, kế toán, kiểm toán tham gia cung cấp
dịch vụ trên thị trường, thì số lượng các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ
đã tăng mạnh; nhà đầu tư cả trong và ngoài nước cũng tăng rất nhanh. Theo thống
63
64
kê, hiện tại đã có 55 công ty chứng khoán, 18 công ty quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán được cấp phép hoạt động với tổng số vốn điều lệ lên tới 4.335 tỷ đồng. Số
công ty cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán đã lên tới 120 đơn vị, với trên 1000
người được cấp chứng chỉ kiểm toán viên hành nghề.
Một trong những mục tiêu của đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến
2020 do Bộ Tài chính đề xuất, vừa được Thủ tướng phê duyệt là thị trường vốn sẽ
chiếm khoảng 70% GDP. Đề án cũng đặt ra mục tiêu đến năm 2010, tổng giá trị vốn
hóa thị trường phải đạt 50% GDP. Trong đề án của Bộ Tài chính cũng đưa ra mục
tiêu huy động vốn cho đầu tư phát triển qua thị trường vốn đạt khoảng 16% GDP và
mục tiêu này sẽ tăng gần gấp đôi vào năm 2020, khoảng 30% GDP.
Đến hết tháng 6/2007, tổng giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu niêm yết đạt
khoảng 300.000 tỷ đồng (20 tỷ USD), chiếm khoảng 31% GDP so với tổng giá trị
vốn hóa cuối năm 2006 là 14 tỷ USD, chiếm khoảng 22,7% GDP. Trong khi đó,
vốn hóa của thị trường trái phiếu bằng 8% GDP. Như vậy, tổng giá trị vốn hóa thị
trường chứng khoán đạt gần 40% GDP. Năm 2010, Chính phủ đặt mục tiêu huy
động nguồn vốn gần 140 tỷ USD, trong đó có khoảng 65% vốn trong nước, còn lại
là vốn nước ngoài. Thị trường vốn với thị trường chứng khoán là trọng tâm sẽ là
kênh huy động lớn để thực hiện mục tiêu.
Theo đánh giá của Bộ Tài chính, trong thời gian qua, mặc dù thị trường phát
triển khá nhanh, nhưng quy mô thị trường vốn còn nhỏ, chất lượng chưa cao, hàng
hoá kém đa dạng; tính công khai, minh bạch của thị trường còn hạn chế; số lượng
các nhà đầu tư chuyên nghiệp chưa nhiều. Công tác quản lý, giám sát còn nhiều bất
cập trên cả phương diện điều hành vĩ mô và giám sát thị trường, thiếu hệ thống
kiểm soát rủi do cho thị trường; năng lực cưỡng chế thực thi của cơ quan quản lý
giám sát đối với các hoạt động trên thị trường vừa thiếu, vừa yếu. Một trong những
hạn chế khác đó là lượng vốn cũng như các giao dịch trên thị trường tự do đang
chiếm phần lớn, trong khi đó các yêu cầu công khai, minh bạch rất hạn chế đã phần
nào tác động tiêu cực đến thị trường có tổ chức, thậm chí còn tiềm ẩn lý do bất ổn
định cho cả hệ thống tài chính. Mặt khác, trong thời gian vừa qua, nhất là giai đoạn
64
65
từ cuối năm 2006 đến tháng 3/2007, tình trạng nhà nhà đầu tư chứng khoán, đầu tư
theo phong trào trong khi nguồn cung hàng hoá chưa đủ đáp ứng đã tạo ra hiệu ứng
mất cân đối cung - cầu, làm cho giá chứng khoán bị đẩy lên cao, thậm chí vượt khỏi
giá trị thực của doanh nghiệp; thị trường có tổ chức và cả tự do có lúc “nóng - lạnh”
bất thường…
Theo thứ trưởng Trần Văn Tá, hiện tại Bộ Tài chính đã đưa ra năm nhóm
mục tiêu chủ yếu để đảm bảo mục tiêu phát triển thị trường vốn đến năm 2010 và
định hướng 2020.
Thứ nhất, phát triển về số lượng, nâng cao chất lượng, đa dạng hoá các loại
hàng hoá để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Để làm được việc đó, Chính phủ cũng
như các Bộ, ngành cần đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá các doanh nghiệp, các tổng
công ty, ngân hàng thương mại nhà nước, gắn việc cổ phần hoá DNNN với việc
niêm yết trên thị trường chứng khoán. Thúc đẩy các doanh nghiệp đã cổ phần hoá
có đủ điều kiện phải thực hiện niêm yết, đồng thời cần xem xét bán bớt phần vốn
nhà nước tại các công ty cổ phần không thuộc diện Nhà nước nắm giữ cổ phần chi
phối. Đi liền với các biện pháp đó, cần đa dạng hoá các loại hình trái phiếu trên thị
trường, bao gồm: trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu doanh nghiệp,
phát triển các sản phẩm chứng khoán như: quyền chọn mua, chọn bán chứng khoán,
hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, các sản phẩm liên kết, các sản phẩm từ chứng
khoán hoá tài sản và các khoản nợ.
Thứ hai là hiện đại hoá thị trường vốn, hoàn chỉnh về cấu trúc, quản lý, giám
sát bởi nhà nước, tạo ra khả năng liên kết với các thị trường khu vực và quốc tế.
Thứ ba, phát triển các định chế trung gian và dịch vụ thị trường, thúc đẩy
việc tăng số lượng, nâng cao chất lượng hoạt động và năng lực tài chính của các
công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, các công ty đầu tư chứng khoán; đa dạng
hoá các loại hình dịch vụ cung cấp trên thị trường, nâng cao tính chuyên nghiệp,
chất lượng các dịch vụ. Đồng thời, các cơ quan hữu quan cũng sẽ nghiên cứu thành
lập các tổ chức định mức tín nhiệm tại Việt Nam, cho phép các tổ chức định mức tín
65
66
nhiệm có uy tín của nước ngoài được thực hiện hoạt động đánh giá, định mức tín
nhiệm tại Việt Nam.
Thứ tư, tập trung khuyến khích các định chế đầu tư chuyên nghiệp như: ngân
hàng, các tổ chức tài chính, bảo hiểm… cùng tham gia đầu tư trên thị trường; thu
hút nguồn vốn dân cư đầu tư thông qua các quỹ; khuyến khích việc thành lập các
quỹ đầu tư ở nước ngoài để đầu tư dài hạn vào thị trường trong nước.
Thứ năm là hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp lý thống nhất, đồng bộ, đáp
ứng yêu cầu quản lý, giám sát và hội nhập với thị trường vốn khu vực, quốc tế. Đi
liền với đó, từng bước sẽ áp dụng các tiêu chuẩn giám sát thị trường theo thông lệ
quốc tế; tăng cường việc thanh kiểm tra, giám sát tuân thủ pháp luật của các thành
viên; tăng cường năng lực giám sát, cưỡng chế thực thi của các cơ quan giám sát thị
trường. Về phía Nhà nước cũng sẽ thực hiện việc củng cố bộ máy, nâng cao năng
lực của cơ quan quản lý, giám sát với thị trường vốn và sẽ nghiên cứu thành lập cơ
quan giám sát dịch vụ tài chính độc lập để thống nhất giám sát đối với các hoạt
động dịch vụ tài chính. Đặc biệt, sẽ nghiên cứu biện pháp quản lý vốn chặt chẽ
trong những trường hợp cần thiết trên nguyên tắc được thể chế hoá, công bố công
khai cho nhà đầu tư và sẽ chỉ được áp dụng khi có những nguy cơ ảnh hưởng an
ninh của hệ thống tài chính, đảm bảo cho thị trường vốn Việt Nam nói chung và thị
trường chứng khoán nói riêng từng bước đi vào quỹ đạo phát triển ổn định, hạn chế
được những tác động lớn do yếu tố đầu cơ hay lũng loạn thị trường của các định chế
tài chính lớn.
3.1.2 Khó khăn và thách thức trong việc áp dụng quyền chọn chứng khoán vào
giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Trong lộ trình cam kết mở cửa thị trường tài chính nói chung và thị trường
chứng khoán nói riêng theo tiến trình đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) thì việc mở cửa thị trường là một bước đi bắt buộc. Việc chấp nhận các
nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường chứng khoán đã thúc đẩy thị trường
chứng khoán phát triển rất mạnh mẽ trong thời gian vừa qua nhưng cũng đồng nghĩa
với việc chấp nhận rủi ro gia tăng. Để có thể hạn chế bớt những rủi cho các nhà đầu
66
67
tư cả trong lẫn ngoài nước khi tham gia vào thị trường tài chính vốn rất dễ đổ vỡ
này, xây dựng quyền chọn cho thị trường chứng khoán Việt Nam là một giải pháp.
Tuy nhiên, đối với Việt Nam hiện nay quá trình xây dựng các công cụ phái sinh sẽ
gặp không ít khó khăn và thách thức.
3.1.2.1 Khung pháp lý chưa hoàn chỉnh
Luật chứng khoán ra đời và có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã có sự đóng
góp tích cực cho sự phát triển của thị trường chứng khoán trong thời gian vừa qua
và thể hiện quyết tâm của Chính phủ cho việc phát triển và ổn định của thị trường
chứng khoán. Vấn đề liên quan đến chứng khoán phái sinh thì trong Luật cũng mới
chỉ đề cập đến nhưng chưa có sự bao quát toàn bộ hoạt động của lĩnh vực này. Mặt
khác, đến thời điểm hiện nay thì vẫn chưa có văn bản nào dưới luật đề cập hàng hoá
phái sinh trên thị trường chứng khoán.
Thêm vào đó, các chuẩn mực kế toán và kiểm toán Việt Nam vẫn đang trong
quá trình điều chỉnh, sửa đổi cho phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, tuy nhiên vẫn
chưa có đề cập đến cách hạch toán các công cụ phái sinh này.
3.1.2.2 Hạ tầng kỹ thuật chưa đáp ứng được nhu cầu hiện tại
Thị trường chứng khoán Việt Nam mới ra đời hơn 7 năm, xét về qui mô và
bề dày lịch sử rõ ràng không thể sánh kịp với các nước phát triển. Tuy có áp dụng
những công nghệ tiên tiến, hiện đại trong giao dịch chứng khoán như giao dịch qua
điện thoại, internet, ...nhưng hạ tầng kỹ thuật nhìn chung chưa đáp ứng được nhu
cầu của đa số nhà đầu tư. Tình trạng nghẽn mạch thường xuyên xảy ra, một số trang
web giao dịch trực tuyến thường xuyên bị quá tải vào giờ giao dịch cao điểm.
Chưa có sự đầu tư đồng bộ về công nghệ thông tin giữa Sở giao dịch chứng
khoán và các công ty chứng khoán thành viên điều này tất yếu dẫn đến những trục
trặc về mặt kỹ thuật trong quá trình kết nối. Sàn giao dịch không nhận lệnh trực tiếp
từ các công ty chứng khoán mà phải qua thành viên đại diện trên sàn nhập lệnh vào
hệ thống, nhưng số lượng nhân viên nhập lệnh đại diện của mỗi công ty chứng
khoán rất ít dẫn đến tình trạng quá tải cho nhân viên nhập lệnh và lệnh giao dịch
67
68
chứng khoán không nhập hết vào sàn giao dịch xảy ra thường xuyên và điều này
làm thiệt hại rất lớn cho các nhà đầu tư.
3.1.2.3 Nhận thức và trình độ của nhà đầu tư trong nước
Nếu như từ năm 2005 trở về trước, các nhà đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
chủ yếu là các nhà đầu tư chuyên nghiệp, có tổ chức hoặc những sinh viên, công
chức đương nhiệm, cán bộ và nhà kinh doanh có kiến thức, thông tin về thị trường
chứng khoán…, thì trong thời gian nửa cuối năm 2006 trở lại đây, cơ cấu các nhà
đầu tư tư nhân có sự thay đổi, mở rộng đáng kể. Đội ngũ các nhà đầu tư chứng
khoán bao gồm cả những người buôn bán nhỏ, công chức về hưu, giáo viên, bộ đội,
thậm chí cả nông dân, trong đó có nhiều người chưa hề đọc hết một tài liệu lý
thuyết, một bản tin chứng khoán, hoặc tham gia một lớp bồi dưỡng kiến thức thị
trường chứng khoán ngắn hạn nào…
Hiện tượng gia tăng các nhà đầu tư tư nhân không chuyên hoặc thiếu chuyên
nghiệp như đã nêu trên là bình thường và tất yếu, để dần hình thành một đội ngũ
đông đảo hơn các nhà đầu tư chuyên nghiệp. Sự gia tăng đó xuất phát từ chỗ: thị
trường chứng khoán của Việt Nam mới chính thức được thành lập và hoạt động
trong vài năm gần đây. Thị trường chứng khoán đang còn là mới mẻ không chỉ với
các nhà đầu tư, mà còn cả với bản thân các nhà quản lý, cũng như các nhà tổ chức
loại hình thị trường này. Thêm vào đó, sự phát triển của thị trường chứng khoán vừa
đòi hỏi, vừa cho phép các nhà đầu tư tư nhân không chuyên tham gia rộng rãi và
thuận lợi vào hoạt động kinh doanh chứng khoán, không phân biệt họ là ai, có vốn
nhiều hay ít. Mức độ tham gia rộng rãi của công chúng đầu tư chính là một trong
những thước đo sự thành công trong phát triển thị trường chứng khoán của một
nước. Sự nới lỏng việc tham gia của các nhà đầu tư chuyên nghiệp nước ngoài vào
thị trường chứng khoán Việt Nam đã, đang và sẽ càng kích thích các nhà đầu tư tư
nhân không chuyên nghiệp thêm động lực và chỗ dựa để nhập “cuộc chơi” này, bởi
họ có thể đầu tư kiểu “ăn theo”, bắt chước, hoặc thông qua công ty tín thác do các
nhà đầu tư chuyên nghiệp nước ngoài quản lý.
68
69
Khi tỷ lệ các nhà đầu tư tư nhân thiếu chuyên nghiệp đạt tới mức độ nào đó
trong tổng giao dịch trên thị trường chứng khoán sẽ có khả năng tạo ra những tiềm
ẩn bất ổn, thậm chí dẫn đến đổ vỡ trong hoạt động của thị trường chứng khoán. Bởi
lẽ, những phán đoán và phản ứng của họ thường nặng về cảm tính và tâm lý đám
đông, dựa trên các mục tiêu kinh doanh ngắn hạn, thậm chí mang đậm tính đầu cơ.
Chỉ cần một tin đồn kiểu rỉ tai, hoặc trước một hoạt động mua – bán chứng khoán
của một “đại gia” nào đó mà họ ngầm theo dõi để bắt chước, cũng khiến các phản
ứng mua - bán chứng khoán của họ trở nên gia tăng đột biến, một thị trường mà có
nhiều nhà đầu tư không chuyên rất dễ bị các nhà đầu tư chuyên nghiệp thao túng, từ
đó làm hỗn loạn các hoạt động trên thị trường chứng khoán và có thể làm lây lan
sang các thị trường và hoạt động kinh tế - xã hội khác. Đến lúc đó, rủi ro mà các
nhà đầu tư tư nhân gánh chịu sẽ không chỉ là rủi ro do rớt giá chứng khoán do biến
động của tình trạng “sức khỏe” của các doanh nghiệp phát hành chứng khoán mà họ
nắm giữ, mà còn là những thiệt hại từ sự thiếu hiểu biết và phản ứng không phù hợp
với thị trường của mình.
3.1.2.4 Sự phức tạp trong khâu tổ chức
Rõ ràng quyền chọn chứng khoán là một sản phẩm tài chính cao cấp, cho nên
việc xây dựng và phát triển thị trường giao dịch các sản phẩm tài chính này hoàn
toàn không phải là điều đơn giản, nhất là đối với một thị trường chứng khoán có qui
mô còn nhỏ bé và chưa mang tính chuyên nghiệp cao như thị trường chứng khoán
Việt Nam, khi mà các nhà đầu tư không chuyên nghiệp không quen với việc bán
cao, mua thấp.
3.1.3 Thuận lợi trong việc áp dụng quyền chọn chứng khoán vào giao dịch trên
thị trường chứng khoán Việt Nam
Ngoài những khó khăn được nêu ra ở trên thì việc áp dụng quyền chọn
chứng khoán cũng có nhiều thuận lợi như sau:
3.1.3.1 Tiềm năng phát triển của thị trường chứng khoán rất lớn
Theo nhận định của giới chuyên môn, thị trường tài chính Việt Nam là một
trong những thị trường phát triển nhanh nhất thế giới trong những năm gần đây. Đặc
69
70
biệt trong năm 2006, thị trường vốn và tài chính Việt Nam đạt được tốc độ tăng
trưởng cao vượt bậc và nhanh chóng trở thành “địa điểm” đầu tư hấp dẫn trong con
mắt của các tổ chức, nhà đầu tư nước ngoài.
Theo ông Sammy Ho, Giám đốc Euro Events, đơn vị chuyên tổ chức các hội
nghị hỗ trợ phát triển thị trường vốn uy tín trên thế giới, nhận định thị trường tài
chính Việt Nam đang có bước chuyển biến mới và đây cũng chính là lý do khiến
Euro Events tổ chức một hội nghị về phát triển thị trường vốn và tài chính quy mô
lớn tại Việt Nam vào cuối năm qua.
Việc Chính phủ Việt Nam quyết tâm hoàn thành tiến trình chuyển đổi sở hữu
doanh nghiệp Nhà nước sẽ mở ra cơ hội cho nhà đầu tư nước ngoài tìm được thị
trường để đầu tư. Song song đó, việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới cũng tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam hấp thụ hết nguồn vốn đầu tư gián
tiếp và là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư, thu hút vốn trên thị trường
thế giới. Việc đầu tư theo danh mục thông qua thị trường chứng khoán, thị trường
vốn, đặc biệt sự tham dự của các nhà đầu tư nước ngoài luôn là những xung lực
mạnh cho phát triển và tăng trưởng tại các nước đang phát triển
Theo các chuyên gia, hiện tại, tiềm năng tăng trưởng của nhiều doanh nghiệp
Việt Nam là rất lớn, bởi xuất phát điểm của doanh nghiệp Việt Nam so với các
doanh nghiệp ở nước ngoài còn thấp. Ông Sammy Ho cho rằng chính điều này đã
đặc biệt hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, việc nhiều doanh nghiệp đang
niêm yết tại thị trường chứng khoán Việt Nam chuẩn bị niêm yết ở thị trường chứng
khoán nước ngoài, cùng với tốc độ phát triển vượt bậc của thị trường chứng khoán
Việt Nam trong hơn một năm qua đã khiến các nhà đầu tư nước ngoài thêm quan
tâm đầu tư vào cổ phiếu của doanh nghiệp Việt Nam.
Ngoài ra Chính phủ đang đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước,
gắn với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán, nhằm tăng cường khả năng huy
động vốn và tạo tiền đề phát triển thị trường chứng khoán. Theo thứ trưởng Bộ Tài
chính Trần Xuân Hà, quyết tâm phát triển mọi nguồn lực của Chính phủ được thể
hiện rất rõ qua việc đa dạng sở hữu, chú trọng phát triển kinh tế tư nhân và tiến
70
71
hành cổ phần hóa một cách mạnh mẽ. Ông Hà cho biết trong năm nay Việt Nam sẽ
tiếp tục cổ phần hóa 4 ngân hàng thương mại lớn của Nhà nước cùng 71 tập đoàn và
Tổng công ty lớn. Bên cạnh đó, công tác phân cấp quản lý tài chính cũng sẽ được
thực hiện mạnh mẽ và triệt để hơn.
3.1.3.2 Ý thức về rủi ro chứng khoán của nhà đầu tư Việt Nam rất cao
Thị trường chứng khoán từ khi được hình thành cho đến năm 2005 có sự thờ
ơ của nhà đầu tư trong nước, ít được công chúng quan tâm bởi vì họ ý thức được
rằng có rủi ro rất lớn khi tham gia giao dịch chứng khoán. Trong thời gian gần đây
họ tham gia ồ ạt không phải vì họ không còn ý thức được rủi ro mà tại vì bị cuốn
hút từ lợi nhuận khổng lồ từ đầu tư chứng khoán mang lại và họ bất chấp tất cả rủi
ro mà chấp nhận đầu tư.
Quyền chọn chứng khoán ra đời là công cụ phòng ngừa rủi ro hữu hiệu và
nếu được phổ biến rộng rãi đến công chúng thì chắc chắn rằng những nhà đầu tư
này sẽ sử dụng nhằm bảo vệ quyền lợi cho mình, họ sẽ yên tâm hơn trong đầu tư
chứng khoán. Có như vậy thị trường chứng khoán mới ngày càng thu hút được
nhiều nhà đầu tư hơn mà đặc biệt là những nhà đầu tư cá nhân trong nước, ngày
càng thu hút được nhiều nguồn vốn hơn cho sự phát triển kinh tế của đất nước.
3.1.3.3 Có sự định hướng từ các cơ quan quản lý nhà nước
Thị trường chứng khoán sẽ là một kênh huy động vốn lớn cho sự phát triển
kinh tế của đất nước vì vậy đã được các nhà quản lý nhà nước rất quan tâm. Mới
đây, Chính phủ vừa phê duyệt đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm
2010 và tầm nhìn đến năm 2020 theo quyết định số 128/2007/QĐ-TTg ngày
20/08/2007. Theo quyết định này đưa ra mục tiêu phát triển nhanh, đồng bộ, vững
chắc thị trường vốn Việt Nam, trong đó thị trường chứng khoán đóng vai trò chủ
đạo; từng bước đưa thị trường vốn trở thành một cấu thành quan trọng của thị
trường tài chính, góp phần đắc lực trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển và
cải cách nền kinh tế; đảm bảo tính công khai, minh bạch, duy trì trật tự, an toàn,
hiệu quả, tăng cường quản lý, giám sát thị trường; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người đầu tư; từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị
71
72
trường tài chính quốc tế. Phấn đấu đến năm 2020, thị trường vốn Việt Nam phát
triển tương đương thị trường các nước trong khu vực. Phấn đấu đến năm 2010 giá
trị vốn hoá thị trường chứng khoán đạt 50% GDP và đến năm 2020 đạt 70% GDP.
Trong đề án phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam cũng đề cập đến việc đa
dạng hoá các sản phẩm trên thị trường chứng khoán, trong đó có các sản phẩm phái
sinh như hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn và quyền chọn chứng khoán.
Các cơ quan chức năng sẽ sớm hoàn thiện thể chế hoạt động của thị trường
chứng khoán, từng bước mở rộng sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị
trường chứng khoán Việt Nam theo cam kết hội nhập, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp Việt Nam, trước mắt là các doanh nghiệp lớn, tham gia vào thị trường vốn
quốc tế.
“Dưới góc độ cơ quan quản lý thị trường, Bộ Tài chính và Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước sẽ tiếp tục các biện pháp phát triển bền vững thị trường vốn, thị
trường chứng khoán để tạo một môi trường an toàn, công khai, minh bạch và hiệu
quả cho đầu tư và bảo vệ các nhà đầu tư”, ông Nguyễn Đoan Hùng, Phó Chủ tịch
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước khẳng định.
3.1.3.4 Kinh nghiệm từ việc ứng dụng quyền chọn trong giao dịch ngoại tệ và
vàng ở Việt Nam
Tại Việt Nam, quyền chọn mới bắt đầu áp dụng từ ngày 12/02/2003 ở Ngân
hàng thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) nhưng chỉ là
quyền chọn ngoại tệ. Sau đó, bốn ngân hàng khác trong nước và hai ngân hàng nước
ngoài cũng áp dụng sản phẩm này là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
(BIDV) ngày 20/05/2003; Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam (Agribank) ngày 01/08/2003; Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
(Vietconbank) ngày 19/09/2003; Ngân hàng Công thương Việt Nam (ICB) ngày
25/10/2003; ngân hàng Citibank ngày 09/07/2003; và ngân hàng Hongkong
Shanghai Banking Corp. (HSBC) – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh ngày
25/10/2003.
72
73
Đến năm 2004 thì quyền chọn vàng, quyền chọn lãi suất được triển khai,
năm 2005 thì quyền chọn đồng Việt Nam được áp dụng. Ngoài ra, Ngân hàng Kỹ
thương Việt Nam (Techcombank) còn áp dụng cả quyền chọn cho nông sản như cà
phê, ca cao, đường, bông vải, ...Việc ứng dụng các loại hình quyền chọn trên nhà
đầu tư Việt Nam đã bắt đầu làm quen với việc sử dụng quyền chọn. Đây là tiền đề
quan trọng cho sự ra đời và phát triển của một thị trường quyền chọn chứng khoán
trong tương lai.
3.1.4 Đánh giá khả năng đáp ứng những yêu cầu cơ bản cho việc phát triển
quyền chọn chứng khoán trong giao dịch tại Việt Nam
Đây là thời điểm chín muồi để triển khai quyền chọn chứng khoán vì thỏa
mãn những điều kiện sau:
- Tốc độ phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian vừa
qua khá nhanh, giá cả chứng khoán tăng giảm đột biến, thị trường lúc nóng – lạnh
thất thường, do đó nhu cầu bảo vệ rủi ro bằng quyền chọn chứng khoán càng trở nên
cấp bách.
- Tính thanh khoản trên thị trường chứng khoán ngày càng cao, hàng hóa
tăng mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng, đã xuất hiện nhiều công ty cổ phần đại
chúng lớn, sắp tới đây sẽ tiến hành cổ phần hóa gắn kết niêm yết trên thị trường
chứng khoán các công ty hàng đầu, các tổng công ty lớn như: các ngân hàng quốc
doanh (Vietcombank, BIDV, Incombank), tổng công ty Bưu chính Viễn thông
(Vinaphone, Mobifone), tập đoàn dầu khí Petrolimex ...
- Có sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài có tổ chức lẫn cá nhân, nhà
đầu tư trong nước cũng rất quan tâm đến thị trường chứng khoán Việt Nam, theo số
liệu của Ủy ban Chứng khoán đến hết tháng 06/2007 có trên 200.000 tài khoản đã
được mở, trong đó có khoảng 5.568 tài khoản giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài
(5.353 tài khoản của cá nhân và 215 tài khoản của tổ chức), tăng 7 lần so với năm
2005 và 1,5 lần so với năm 2006. Hiện có khoảng 260 quỹ nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam với tổng giá trị danh mục đầu tư ước
73
74
tính khoảng 5 tỷ USD. Riêng số tài khoản cá nhân của các nhà đầu tư Nhật chiếm
hơn 70% trong tổng số tài khoản cá nhân của nhà đầu tư nước ngoài.
Từ những đánh giá và nhận định trên, chứng tỏ thị trường chứng khoán Việt
Nam đã đủ lớn để có thể đưa quyền chọn vào giao dịch.
3.2 MÔ HÌNH TỔ CHỨC GIAO DỊCH QUYỀN CHỌN Ở VIỆT NAM – MÔ
HÌNH DỰ KIẾN
Trên cơ sở nghiên cứu mô hình thị trường quyền chọn của CBOE, TSE và
mô hình tổ chức sàn giao dịch chứng khoán của Sở giao dịch chứng khoán thành
phố Hồ Chí Minh, chúng ta có thể đề xuất xây dựng một mô hình quyền chọn
chứng khoán ban đầu cho thị trường chứng khoán Việt Nam trên cơ sở nền tảng
hiện tại.
3.3.1 Môi trường giao dịch
Môi trường cho hoạt động giao dịch của công cụ cấp cao này phải được thực
hiện trên một qui trình giao dịch tự động, được vi tính hóa từ khâu nhận lệnh, xử lý
lệnh, khớp lệnh và báo cáo kết quả. Tất cả các lệnh giao dịch phải được chuyển trực
tiếp từ các công ty chứng khoán vào sàn giao dịch quyền chọn mà không thông qua
đại điện công ty chứng khoán tại sàn, điều này sẽ tránh được trường hợp bị quá tải
cho nhân viên nhập lệnh tại sàn như hiện nay và không mất nhiều thời gian trong
quá trình chuyển lệnh. Để làm được điều này các công ty chứng khoán đảm bảo
trang bị tốt cơ sở vật chất, môi trường kỹ thuật hiện đại, có chương trình phần mềm
kiểm tra, kiểm soát tốt ở khâu nhập lệnh.
3.2.2 Nhà tạo lập thị trường, nhà môi giới
Với qui mô thị trường chứng khoán còn nhỏ, nếu bước đầu áp dụng giao dịch
quyền chọn chứng khoán thì các công ty chứng khoán có thể vừa đảm nhận vai trò
nhà môi giới của các nhà đầu tư quyền chọn vừa đóng vai trò là người tạo lập thị
trường. Trong giới hạn chức năng của mình, các công ty chứng khoán có thể tự kinh
doanh quyền chọn nhằm tạo nguồn cung cầu quyền chọn cho thị trường phong phú,
đa dạng, tạo thêm thu nhập cho các công ty chứng khoán và đây cũng là cách phòng
ngừa rủi ro cho danh mục tự kinh doanh chứng khoán của các công ty này.
74
75
Để tránh rủi ro cho các công ty chứng khoán cũng như nhà đầu tư, cơ quan
quản lý thị trường cần qui định tổng giá trị của tất cả các hợp đồng quyền chọn mà
mỗi công ty có thể tự kinh doanh trên cơ sở phần trăm của vốn điều lệ.
3.2.3 Mô hình tổ chức và phương thức giao dịch
Thị trường chứng khoán Việt Nam mới ra đời với qui mô còn hạn chế và
trong giai đoạn thử nghiệm quyền chọn chứng khoán vì vậy sàn giao dịch quyền
chọn nên kết hợp chung với sàn giao dịch cổ phiếu, với phương thức giao dịch cần
được đơn giản hoá các thủ tục nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư khi
tham gia giao dịch quyền chọn. Mô hình giao dịch quyền chọn dự kiến có thể phát
hoạ bằng sơ đồ sau:
Hình 3.1 Mô hình tổ chức giao dịch quyền chọn dự kiến cho Việt Nam
Bản điện
Sở giao dịch
chứng khoán
Công ty
chứng
khoán
Công ty
chứng
khoán
Kết quả giao dịch
Trung tâm lưu ký,
thanh toán bù trừ
Nhà đầu tư
(bên mua)
Nhà đầu tư
(bên bán)
Cũng giống như giao dịch mua bán chứng khoán, nhà đầu phải mở một tài
khoản giao dịch quyền chọn tại một công ty chứng khoán và trước khi giao dịch nhà
đầu tư phải ký quỹ tương ứng, sau đó ra chỉ thị cho công ty chứng khoán tiến hành
thực hiện mua hoặc bán một quyền chọn cụ thể với một mức giá cụ thể hay giá yết
trên sàn.
Công ty chứng khoán sau khi nhận được lệnh của nhà đầu tư tiến hành kiểm
tra, đối chiếu với số dư tài khoản của nhà đầu tư và nếu phù hợp với các điều kiện
75
76
qui định thì nhập lệnh vào Sở giao dịch chứng khoán. Quá trình này có thể tiến hành
thông qua giao dịch tại quầy của các công ty chứng khoán, hoặc thông qua điện
thoại hoặc giao dịch trực tiếp bằng Internet giống như giao dịch mua bán chứng
khoán hiện nay.
Kết quả giao dịch sẽ được thông báo về trung tâm lưu ký - thanh toán bù trừ
và công ty chứng khoán để các công ty này thông báo cho người mua hay bán
quyền chọn chứng khoán tương ứng. Các nhà đầu tư sẽ ký gửi phí quyền chọn cho
các công ty chứng khoán. Sau đó, công ty chứng khoán bên người mua và bán sẽ ký
gửi phí quyền chọn và tiền ký quỹ cho trung tâm lưu ký - thanh toán bù trừ.
Đến ngày đáo hạn của hợp đồng quyền chọn, nếu người mua quyền quyết
định thực hiện hợp đồng thì nhà đầu tư sẽ thông báo cho công ty chứng khoán và
tiến hành các thủ tục cần thiết như nộp tiền hay giao chứng khoán tương ứng với
hợp đồng quyền chọn. Công ty chứng khoán sẽ thông báo ngay cho trung tâm lưu
ký – thanh toán bù trừ để thực hiện các giao dịch thông qua tài khoản của công ty
chứng khoán mở tại trung tâm lưu ký – thanh toán bù trừ.
3.2.4 Phí giao dịch, phí thanh toán và hoa hồng
Phí giao dịch và phí thanh toán có vai trò rất quan trọng trong việc khuyến
khích các nhà đầu tư tham gia giao dịch quyền chọn chứng khoán. Khoản phí này
trả cho các công ty môi giới chứng khoán được tính dựa trên một giá trị cố định tối
thiểu và theo tỷ lệ phần trăm trên tổng giá trị của mỗi hợp đồng quyền chọn. Mức
phí tối thiểu cố định do sàn giao dịch, trung tâm lưu ký – thanh toán bù trừ ấn định,
còn tỷ lệ phần trăm trên mỗi hợp đồng quyền chọn do các công ty chứng khoán qui
định nhằm tạo sự cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán và khoản phí này xem
như là hoa hồng môi giới giao dịch của các công ty chứng khoán. Đối với các công
ty chứng khoán thực hiện chức năng nhà tạo lập thị trường, sẽ phải nộp phí cho Sở
giao dịch chứng khoán căn cứ vào từng hợp đồng giao dịch.
Nếu các hợp đồng quyền chọn được thực hiện thì nhà đầu tư phải trả thêm
một khoản hoa hồng cho việc mua bán cổ phiếu. Đối với các quyền chọn không
thực hiện khi đáo hạn thì không phải trả khoản phí hoa hồng này.
76
77
3.2.5 Cơ chế quản lý, giám sát
Quản lý và giám sát là một khâu khá quan trọng trong việc tổ chức hoạt động
của sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán, nó quyết định cho sự thành công của
sàn giao dịch quyền chọn, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư. Ở Việt Nam
Sở giao dịch chứng khoán, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước phải thiết lập các qui
định và qui trình áp dụng cho tất cả các thành viên tham gia giao dịch quyền chọn
chứng khoán trên cơ sở của Luật chứng khoán và các định hướng của nhà nước về
phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2020. Các bộ phận của cơ chế quản lý và
giám sát có thể bao gồm:
¾ Bộ phận giám sát thị trường: trực thuộc Sở giao dịch chứng khoán, có
nhiệm vụ theo dõi và phát hiện các giao dịch bất thường, kịp thời ngăn
chặn những vi phạm hoặc báo cáo lên bộ phận thanh tra, kiểm tra để tiếp
tục có biện pháp thích hợp
¾ Bộ phận thanh tra, kiểm tra: là một bộ phận độc lập với Sở giao dịch
chứng khoán, có nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra những giao dịch bất
thường, các hành vi thao túng thị trường, thao túng giá cả, lũng đoạn thị
trường dựa trên những thông tin được cung cấp từ bộ phận giám sát thị
trường hoặc cũng có thể dựa trên những dấu hiệu nghi vấn được phát hiện
bằng những nghiệp vụ riêng của mình. Bộ phận này có quyền giám sát tất
cả các hoạt động từ Sở giao dịch chứng khoán, các công ty chứng khoán,
đến các nhà đầu tư.
¾ Bộ phận giám sát thông tin thị trường: bộ phận trực thuộc Sở giao dịch
chứng khoán, có nhiệm vụ giám sát tất cả các thông tin được công bố liên
quan đến giao dịch quyền chọn, kiểm tra tính xác thực, tính kịp thời của
nguồn thông tin được công bố và có trách nhiệm cung cấp những thông
tin liên quan đến kết quả giao dịch quyền chọn trên sàn ra bên ngoài.
¾ Bộ phận xử lý vi phạm: bộ phận này căn cứ vào những báo cáo vi phạm
được gửi tới từ các bộ phận trên mà tiến hành xử lý theo Luật chứng
khoán, những qui định của Ủy ban chứng khoán Nhà nước và nội qui của
77
78
Sở giao dịch chứng khoán. Sau đó báo cáo kết quả cho Ủy ban chứng
khoán Nhà nước, cũng có thể đưa ra những ý kiến, kiến nghị phù hợp để
Ủy ban này xem xét và có thể sửa đổi, bổ sung những vấn đề mới phát
sinh vào Luật chứng khoán hay các văn bản dưới luật cho phù hợp với sự
phát triển của thị trường hiện tại.
3.3 MỘT SỐ ĐỀ XUẤT LÀM TĂNG KHẢ NĂNG ÁP DỤNG QUYỀN CHỌN
CHỨNG KHOÁN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
3.3.1 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền – tạo nhận thức cho công chúng về công
cụ quyền chọn chứng khoán.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng thị trường giao
dịch các sản phẩm phái sinh nói chung và quyền chọn nói riêng tại nước ta chưa
phát triển như kỳ vọng và vẫn còn trong quá trình khởi động thị trường là do chúng
còn quá mới mẻ và xa lạ đối với công chúng. Chúng ta chưa nhận thức hết vai trò
rất quan trọng của công cụ tài chính phái sinh là bảo vệ nhà đầu tư trước sự thay đổi
của giá cả trong tương lai. Một số người lại cho rằng nó dễ sinh ra giao dịch bong
bóng không cần thiết.
Nếu chúng ta muốn thành công khi triển khai quyền chọn chứng khoán trong
thời gian sắp tới thì biện pháp đầu tiên là phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên
truyền, giới thiệu quyền chọn chứng khoán cũng như những vai trò, công dụng hữu
ích của nó đến với công chúng nhằm xóa bỏ những e ngại của mọi người khi tiếp
cận với công cụ này, làm cho họ thấy được sự cần thiết phải sử dụng công cụ này để
tự bảo vệ rủi ro trước sự biến đổi thất thường của thị trường chứng khoán Việt Nam
hiện nay. Cần phải đào tạo, phổ cập kiến thức cho công chúng dưới các hình thức
khác nhau, để công chúng đầu tư, các doanh nghiệp hiểu được các nội dung của
công cụ này, các nghiệp vụ liên quan, thậm chí cần trang bị các kiến thức về đầu tư,
về rủi ro và biện pháp phòng ngừa cũng như khả năng phân tích dự báo tình hình
biến động của thị trường chứng khoán
Về phía các nhà hoạch định chính sách trong thời gian vừa qua cũng chưa
nhận thức chính xác và đầy đủ về vai trò và tiện ích của các công cụ tài chính phái
78
79
sinh nói chung và quyền chọn chứng khoán nói riêng. Rất nhiều nhà hoạch định
chính sách cho rằng thị trường tài chính phái sinh phục vụ đắt lực cho hoạt động
đầu cơ và cờ bạc. Phát triển thị trường tài chính phái sinh dễ dẫn đến tiêu cực, gây
xáo trộn, và bất ổn cho nền kinh tế. Thật ra, quan điểm như vậy cũng chưa hẵn sai
nhưng chưa hẵn đúng, vì nó mang tính phiến diện và chưa nhận thấy hết được tính
hai mặt của vấn đề. Vì công cụ tài chính phái sinh chưa phát triển ở Việt Nam nên
rất nhiều người chưa nhận thức hết công dụng của nó, từ đó, dẫn đến hiểu và sử
dụng sai công dụng và sớm qui kết các công cụ tài chính phái sinh chỉ phục vụ cho
đầu cơ. Thật ra các công cụ tài chính phái sinh có thể sử dụng cho cả hai mục đích
đầu cơ và phòng ngừa rủi ro. Việc sử dụng nó như thế nào và vào mục đích gì phụ
thuộc vào thái độ của người sử dụng đối với rủi ro, hơn nữa nếu thị trường tài chính
hiệu quả thì ai đó muốn đầu cơ lũng đoạn thị trường cũng không thể làm được. Do
vậy, các nhà hoạch định chính sách cũng không nên lo ngại quá đáng về đầu cơ.
Trong thời gian tới, các nhà hoạch định chính sách cần sớm và mạnh dạn cho
phép và khuyến khích phát triển quyền chọn chứng khoán nói riêng và thị trường tài
chính phái sinh nói chung dựa trên sự phát triển đồng bộ của tất cả thị trường cơ sở
bao gồm thị trường hàng hóa, thị trường chứng khoán và thị trường ngoại hối. Mặt
khác, rà soát lại tất cả các văn bản pháp lý để bổ sung, sửa đổi, ban hành thêm nhằm
tạo ra khung pháp lý đủ vững chắc cho việc quản lý thị trường này, sao cho tất cả
các bên tham gia giao dịch trên thị trường đều được bình đẳng, không ai có thể lợi
dụng sự kém hiệu quả của thị trường để chiến thắng người khác. Làm được điều này
sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư tham gia giao dịch. Ngược lại, sự tham gia ngày
càng nhiều của nhà đầu tư góp phần làm cho thị trường trở nên “dày” và hoàn hảo
hơn, từ đó góp phần làm cho thị trường hoạt động trở nên hiệu quả hơn.
3.3.2 Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý
Trong thời gian vừa qua thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển khá
nhanh và phát sinh một số vấn đề mới vượt ra khỏi sự điều chỉnh của khung pháp lý
hiện tại, nhưng khung pháp lý vẫn chưa kịp sửa đổi bổ sung cho phù hợp với sự
phát triển của thị trường. Để thị trường chứng khoán phát triển tốt thì yêu cầu cấp
79
80
thiết là phải xây dựng khung pháp lý hoàn chỉnh và đồng bộ với hệ thống các văn
bản pháp quy đầy đủ, rõ ràng, điều chỉnh các mặt hoạt động của thị trường chứng
khoán giúp cho thị trường hoạt động an toàn, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp
pháp cho các chủ thể tham gia thị trường.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho công cụ quyền chọn chứng khoán ra đời thì
trước hết Chính phủ, Bộ Tài chính, Ủy ban chứng khoán Nhà nước, cùng với các cơ
quan quản lý thị trường chứng khoán phải tiến hành soạn thảo hệ thống văn bản qui
phạm điều chỉnh những hoạt động này. Trước tiên có thể ban hành những văn bản
dưới luật để tạm thời điều chỉnh hoạt động mua bán quyền chọn chứng khoán,
nhưng về lâu dài phải ban hành cho được văn bản có tính pháp lý cao nhất đó là
“Luật các công cụ phái sinh” trong đó có một phần điều chỉnh lĩnh vực mua bán
quyền chọn nói chung và quyền chọn chứng khoán nói riêng. Khung pháp lý phải
chú trọng đến các vấn đề cơ bản sau:
¾ Những điều khoản ràng buộc của các hợp đồng quyền chọn chứng khoán.
¾ Đưa ra các điều kiện đối với chứng khoán cơ sở được chọn giao dịch
quyền chọn.
¾ Qui định về giới hạn giá và số lượng hợp đồng quyền chọn mà nhằm
tránh hiện tượng thao túng giá cả, thao túng thị trường.
¾ Yêu cầu vốn, mức ký quỹ và tài sản thế chấp để tránh tình trạng lừa đảo,
mất khả năng thanh toán.
¾ Yêu cầu về công bố thông tin liên quan một cách công khai, minh bạch,
chuẩn xác và kịp thời trên thị trường.
¾ Bổ sung những vấn đề liên quan đến thị trường chứng khoán, các công cụ
tài chính phái sinh và những vấn đề mới phát sinh vào một số bộ luật có
liên quan như Luật hình sự, Luật dân sự, Luật chứng khoán, …nhằm tạo
hành lang pháp lý đầy đủ điều chỉnh hoạt động của lĩnh vực này.
Ngoài những ưu điểm, hợp đồng quyền chọn còn có những mặt trái nhất định
và có thể được sử dụng cho các mục đích bất chính như trốn thuế, làm sai lệch các
báo cáo tài chính, luồn lách để né tránh những qui định về kế toán hoặc các qui chế
80
81
về giám sát tài chính của Chính phủ. Vì vậy, Bộ Tài chính và các cơ quan chức
năng cần sớm kiện toàn các chuẩn mực kế toán, ban hành các qui định, hướng dẫn
về cách hạch toán kế toán liên quan đến giao dịch của sản phẩm phái sinh. Trong đó
hướng dẫn cách ghi nhận khoản phí giao dịch hợp đồng quyền chọn, xác định thời
điểm kết chuyển lãi lỗ khoản phí này, cách ghi nhận lãi lỗ khi quyền chọn đáo hạn
v.v …để thống nhất cách hạch toán và tránh những hành vi tiêu cực như thổi phồng
hay che giấu số liệu liên quan đến các sản phẩm phái sinh trên báo cáo tài chính.
3.3.3 Sớm hình thành sàn giao dịch các công cụ tài chính phái sinh
Ở các nước phát triển như Mỹ, Anh, Đức, Nhật và Singapore đều có sàn giao
dịch các công cụ tài chính phái sinh tập trung, cùng tồn tại song song với sàn giao
dịch không tập trung thông qua thị trường OTC. Thời gian qua giao dịch tài chính
phái sinh ở Việt Nam, chủ yếu là giao dịch phái sinh trên thị trường ngoại hối đều
được thực hiện trên thị trường phi tập trung, dựa trên sự thỏa thuận giữa khách hàng
và ngân hàng thương mại. Việc giao dịch phi tập trung như thế này có nhiều nhược
điểm và làm hạn chế nhu cầu giao dịch của khách hàng, thể hiện ở chỗ:
Do không có thị trường tập trung nên chi phí tìm kiếm thông tin và tìm
kiếm khách hàng thường cao nhưng khách hàng giao dịch lại không
nhiều. Kết quả là chi phí giao dịch thường cao khiến khách hàng không
có động cơ giao dịch.
Do không có thị trường tập trung được quản lý và điều hành chuyên
nghiệp bởi một tổ chức trung gian, tất cả các giao dịch phái sinh đều
thông qua thương lượng trực tiếp giữa khách hàng và ngân hàng. Trong
cuộc thương lượng trực tiếp này, khách hàng rất e ngại vì cho rằng họ
không đủ mạnh về kiến thức, chuyên môn, kinh nghiệm, thông tin và kể
cả qui định pháp lý để có thể thương lượng giao dịch bình đẳng với ngân
hàng.
Do không có thị trường tập trung hoạt động như là một thị trường thứ cấp
phát triển đủ mạnh nên tính thanh khoản của các công cụ tài chính phái
81
82
sinh thấp. Khách hàng e ngại khi mua công cụ phái sinh vì rất khó thanh
lý khi cần.
Có thể còn nhiều lý do nữa cho thấy sự hạn chế nhu cầu giao dịch do thiếu
một thị trường hay một sàn giao dịch tài chính phái sinh. Nhưng chỉ với những hạn
chế căn bản như vừa nêu trên cũng đủ cho thấy thời gian tới các nhà hoạch định
chính sách cần mạnh dạn và sớm xúc tiến việc hình thành thị trường giao dịch công
cụ tài chính phái sinh tập trung bên cạnh thị trường phi tập trung hiện có. Có như
vậy thì khi hợp đồng quyền chọn chứng khoán ra đời sẽ dễ dàng được công chúng
đón nhận.
3.3.4 Xây dựng những nhà giao dịch quyền chọn chuyên nghiệp tiên phong
Để quyền chọn chứng khoán sớm đưa vào giao dịch trên thị trường chứng
khoán Việt Nam, trước tiên cần xây dựng các nhà giao dịch chuyên nghiệp tiên
phong. Những nhà đầu tư này sẽ là những người đi đầu trong việc đáp ứng cung -
cầu quyền chọn trên thị trường, là cầu nối trực tiếp giữa người bán và người mua
quyền chọn, cũng đồng thời là nhà kinh doanh quyền chọn chuyên nghiệp trên cả thị
trường chính thức lẫn thị trường OTC.
Những nhà giao dịch chuyên nghiệp này có thể là:
¾ Các công ty độc lập
¾ Các công ty chứng khoán
¾ Các ngân hàng thương mại
Họ sẽ lập ra các hợp đồng quyền chọn, chào giá bán, chào giá mua các loại
quyền chọn và thực hiện các giao dịch chào bán, chào mua quyền chọn của khách
hàng.
3.3.5 Tiến trình xây dựng và áp dụng quyền chọn chứng khoán tại Việt Nam
Thị trường chứng khoán Việt Nam ngày càng phát triển phù hợp với xu thế
mở cửa và hội nhập của thế giới. Quá trình mở cửa thị trường chứng khoán cũng
được thực hiện dần dần theo lộ trình cam kết khi đàm phán gia nhập tổ chức
Thương mại Thế giới. Vì vậy, việc nghiên cứu và áp dụng quyền chọn chứng khoán
vào giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam cũng thực hiện theo lộ trình
82
83
trên. Tuy nhiên, tùy theo sự lớn mạnh của thị trường mà có bước đi thích hợp.
3.3.5.1 Giai đoạn từ nay đến năm 2011
Đây là giai đoạn mà thị trường chứng khoán Việt Nam cần phải xây dựng
những tiền đề, nền tảng vững chắc để chuẩn bị mở cửa thị trường theo lộ trình cam
kết khi đàm phán gia nhập WTO. Theo như phân tích trong phần 3.1.4, thị trường
chứng khoán Việt Nam đã đủ lớn để đưa công cụ quyền chọn chứng khoán vào giao
dịch ngay. Trong giai đoạn này, trước tiên nên áp dụng thí điểm quyền chọn mua và
quyền chọn bán cổ phiếu theo kiểu Châu Âu. Trước khi áp dụng quyền chọn vào
giao dịch ta phải tiến hành các công việc thiết yếu sau:
9 Xây dựng cơ sở pháp lý, xây dựng qui trình nghiệp vụ và sàn giao dịch để
đưa công cụ quyền chọn vào giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt
Nam.
9 Xây dựng danh mục những cổ phiếu đủ điều kiện để có thể làm tài sản cơ sở
cho giao dịch quyền chọn trên cơ sở đánh giá năng lực về vốn, qui mô hoạt
động, tính thanh khoản của chứng khoán trên thị trường hiện tại.
9 Xây dựng tỷ lệ ký quỹ tối thiểu trên mỗi hợp đồng quyền chọn. Tỷ lệ ký quỹ
phù hợp sẽ khuyến khích nhà đầu tư tham gia giao dịch quyền chọn, đồng
thời hạn chế rủi ro cho người sở hữu quyền chọn. Tỷ lệ này phù hợp cho
TTCK Việt Nam là khoảng 30% giá trị của hợp đồng
9 Đánh giá, lựa chọn và cho phép những công ty chứng khoán đủ tiềm lực tài
chính được tự kinh doanh quyền chọn chứng khoán, xây dựng mức tối đa
trên vốn điều lệ mà một công ty chứng khoán có thể tự kinh doanh sản phẩm
này.
3.3.5.2 Giai đoạn sau năm 2011
Kể từ thời điểm này, lĩnh vực tài chính có nhiều thay đổi vì phải mở cửa thị
trường theo cam kết. Đây là giai đoạn rất khó khăn đối với các nhà cung cấp sản
phẩm, dịch vụ tài chính trong nước vì phải cạnh tranh với các tổ chức nước ngoài có
tiềm lực tài chính mạnh, có nhiều kinh nghiệm, có công nghệ tiên tiến hiện đại. Tuy
83
84
nhiên, giai đoạn này cũng mang lai nhiều cơ hội mới cho sự phát triển của lĩnh vực
tài chính nói chung và thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng.
Trong giai đoạn này, bên cạnh việc giao dịch quyền chọn cổ phiếu thì có thể
triển khai thêm quyền chọn chỉ số chứng khoán. Chỉ số chứng khoán có thể là chỉ số
VN-Index hoặc một chỉ số khác mà chúng ta tự xây dựng dựa trên những cổ phiếu
hàng đầu trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Lúc này, tùy thuộc vào sự lớn mạnh của thị trường quyền chọn và khả năng
đáp ứng những yêu cầu cơ bản về hạ tầng kỹ thuật cũng như cơ sở luật pháp mà có
thể mở rộng thêm loại quyền chọn chứng khoán theo kiểu Mỹ.
Tóm lại, sự phát triển nhanh của thị trường chứng khoán Việt Nam trong
những năm gần đây đã đáp ứng những yêu cầu cơ bản cho việc triển khai quyền
chọn chứng khoán. Để tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của sản phẩm tài chính
cao cấp này thì công tác chuẩn bị là điều kiện tiên quyết, mà trước mắt là phải
nghiên cứu các mô hình của nước ngoài để xây dựng một mô hình phù hợp với điều
kiện hiện tại của Việt Nam. Việc nghiên cứu và ứng dụng quyền chọn vào giao dịch
trên thị trường chứng khoán Việt Nam có những thuận lợi và khó khăn nhất định.
Song với quyết tâm và nổ lực của Chính phủ, quyền chọn chứng khoán sẽ sớm được
đưa vào sử dụng.
84
85
KẾT LUẬN
Qua quá trình xem xét, đánh giá tình hình hiện tại của thị trường chứng
khoán Việt Nam và các nước, cho thấy rằng đây là thời điểm chín muồi để triển
khai quyền chọn chứng khoán vào giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Việc triển khai sản phẩm phái sinh này không những tạo ra công cụ để bảo vệ các
nhà đầu tư trước những rủi ro trên thị trường mà còn tạo ra một môi trường đầu tư
mới, một sân chơi mới cho các nhà đầu tư, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh
của thị trường chứng khoán Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Để chuẩn bị cho sự ra đời của sản phẩm tài chính cao cấp này, trước hết
Chính phủ, Uỷ Ban Chứng khoán Nhà nước cùng với Bộ Tài Chính và các cơ quan
quản lý cần phải tiến hành xây dựng đầy đủ cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, v.v…
mà cụ thể là phải tập trung vào các vấn đề cơ bản sau:
¾ Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động giao dịch chứng khoán và các sản
phẩm chứng khoán phái sinh.
¾ Đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng các mô hình tổ chức sàn giao
dịch quyền chọn nước ngoài vào Việt Nam cho phù hợp với tình hình hiện
tại.
¾ Tuyên truyền, phổ biến và đào tạo về quyền chọn chứng khoán nhằm nâng
cao kiến thức và sự hiểu biết cho công chúng.
¾ Sớm hình thành sàn giao dịch chính thức các sản phẩm tài chính phái sinh ở
Việt Nam.
¾ Xây dựng những nhà giao dịch quyền chọn chuyên nghiệp tiên phong cho thị
trường quyền chọn ở Việt Nam.
Sau cùng, do có sự giới hạn về thời gian nghiên cứu, trình độ, kinh nghiệm
thực tiễn còn hạn chế nên Luận văn cũng không thể tránh khỏi những khiếm khuyết
và sai sót. Tác giả rất mong nhận được sự thông cảm và sự đóng góp của Quí Thầy
Cô và bạn đọc.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2007
85
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 47505.pdf