Dệt may là ngành truyền thống và luôn là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Với việc chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào ngày 11/01/2007, dệt may đã có rất nhiều cơ hội để mở rộng thị trường và tháng 9 năm 2007, dệt may đã trở thành ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, trong đó xuất khẩu sang thị trường Mỹ chiếm khoảng 55%. Mỹ là một thị trường rộng lớn, nhiều tiềm năng đối với dệt may Việt Nam. Tuy nhiên, Mỹ cũng là nước có hệ thống luật pháp phức tạp, hệ thống rào cản thương mại đa dạng và hết sức tinh vi, đặc biệt là đối với mặt hàng dệt may, mặt hàng sử dụng hơn 1 triệu lao động ở quốc gia này. Vì vậy, để có thể thúc đẩy xuất khẩu dệt may sang Mỹ một cách hiệu quả, cần có các nghiên cứu chi tiết về các rào cản thương mại đối với hàng dệt may ở thị trường Mỹ.
106 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1765 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng lệ quốc tế cho ngành dệt may. Ngành dệt có gần 200 tiêu chuẩn trong đó có tới 72 tiêu chuẩn cần phải xem xét hoặc thay thế do không còn phù hợp với xu thế chung, 49 tiêu chuẩn cần được xây dựng mới tập trung vào các phương pháp xác định tồn dư kim loại và hóa chất có tác động đến con người; bổ sung thêm các nội dung về quy cách ghi nhãn hàng hóa, bao gói; xây dựng và ban hành danh mục thuốc nhuộm độc hại không được phép sử dụng tại Việt Nam và các quy định không được sử dụng các nguyên liệu dệt có sử dụng thuốc nhuộm trong danh mục này.
Từ phía Hiệp hội dệt may:
Hiệp hội vẫn chưa thực sự có sức cạnh tranh và sự liên kết chặt chẽ. Vẫn còn xảy ra hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh giữa các hội viên (tranh mua, tranh bán). Việc vi phạm nghị quyết của Hiệp hội vẫn còn tồn tại trong khi cơ chế ngăn chặn và xử lý lại kém hiệu quả. Hiệp hội với sự tham gia chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia còn ít và chưa có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia Hiệp hội. Vai trò của Hiệp hội mới dừng ở mức đưa ra ý kiến, góp ý. Tiếng nói của Hiệp hội chưa có sức mạnh đủ để bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp dệt may thành viên.
Từ phía các doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam kém ưu thế hơn doanh nghiệp các nước xuất khẩu của nhóm các nước Caribe, Canada và Mêhicô vì các nước này được hưởng mức thuế quan phổ cập GSP là 0% trong khi mức thuế thông thương của hàng Việt Nam là 15. Các nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan tuy có chung mức thuế với Việt Nam nhưng lại có thế mạnh về nguyên phụ liệu.
Đầu tư vào cơ sở sản xuất để vượt qua các rào cản về môi trường còn ít. Một số nhà quản lý, điều hành doanh nghiệp chưa được trang bị kiến thức hoặc hiểu biết còn hạn chế về những yêu cầu “xanh” đối với những sản phẩm dệt may xuất khẩu. Tình trạng các công ty, xí nghiệp trong dây chuyền nhuộm hoàn tất vẫn còn sử dụng một số hoá chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái, sức khoẻ người lao động và thậm chí đến cả người sử dụng sản phẩm. Điển hình nhất là trong quá trình hồ sợi, do sử dụng nhiều hoá chất độc hại nên ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn nước, làm tăng tải lượng COD trong nước thải khó xử lý vi sinh. Nước thải rũ hồ thông thường chứa 4.000 đến 8.000 mg/l COD. Kỹ thuật giảm trọng polieste bông kiềm được áp dụng phổ biến làm sản sinh một lượng lớn terephtalat và glycol trong nước thải sử dụng 5-6 lần, đưa COD có thể lên tới 80.000mg/l. Nếu như tình hình ô nhiễm môi trường gia tăng do không kiểm soát được thì các doanh nghiệp phải đầu tư rất nhiều kinh phí cho việc xử lý môi trường, đáp ứng được các quy định về môi trường.
Nguyên nhân của các tồn tại
Từ phía Chính phủ
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản dưới luật chưa đầy đủ:
Việc biên soạn, chỉnh sửa các bộ tiêu chuẩn về môi trường trong ngành dệt còn chưa kịp thời
Các quy định về việc áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường còn chung chung
Chưa có chế tài cụ thể đối với một số doanh nghiệp có các tiêu chuẩn sản xuất, tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội thấp; các doanh nghiệp hạ giá cục bộ ảnh hưởng chung đến việc xuất khẩu của ngành.
Các quy định về vai trò, nhiệm vụ, chức năng của Hiệp hội dệt may còn chưa rõ ràng dẫn đến việc các Bộ, ban, ngành chưa hiểu đúng về Hiệp hội, chưa coi trọng vai trò của Hiệp hội trong việc cùng Chính phủ vượt qua các rào cản đối với hàng dệt may của Mỹ.
Chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các bộ, ban, ngành trong việc đưa ra các quy định, các quyết định điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp dệt may trong các tình huống phát sinh như phân bổ hạn ngạch, giám sát hàng dệt may,...
Chưa chủ động, tích cực đối phó với những rào cản thương mại đối với hàng dệt may mà thị trường Mỹ dựng lên. Ví dụ: việc hàng dệt may Việt Nam bị áp dụng chế độ hạn ngạch năm 2003 sau khi Việt Nam và Mỹ ký kết hiệp định thương mại song phương là có thể thấy trước được. Tuy nhiên, việc phân bổ hạn ngạch lại thiếu khoa học, hết sức chậm trễ, chưa có sự chuẩn bị trước.
Việc hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may nâng cao nhận thức về các vấn đề liên quan đến trách nhiệm xã hội và sở hữu trí tuệ còn chưa được quan tâm đúng mức
Từ phía Hiệp hội dệt may
Cơ cấu tổ chức của Hiệp hội còn thiếu chặt chẽ, chưa phát huy được hết hiệu quả hoạt động:
Hiệp hội chưa có bộ phận thông tin riêng để thu thập và xử lý các thông tin về thị trường Mỹ - thị trường hàng dệt may lớn nhất và nhiều tiềm năng nhất của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
Bộ phận hỗ trợ luật pháp chưa nắm bắt các thông tin kịp thời để hướng dẫn và trợ giúp cho các doanh nghiệp khởi kiện và kháng kiện trong các vụ kiện bán phá giá.
Chưa khẳng định được vai trò định hướng của Hiệp hội trong việc điều hoà quy mô sản xuất và xuất khẩu, giá cả sản phẩm dệt may để tránh các vụ kiện bán phá giá, điều tra về trợ cấp
Các hoạt động của Hiệp hội mới chỉ tập trung trong nước, ít mở rộng ảnh hưởng ra phạm vi khu vực và quốc tế nên chưa thể hiện được tầm quan trọng của Hiệp hội.
Từ phía doanh nghiệp
Hiểu biết về luật pháp Mỹ và khả năng thích ứng với môi trường cạnh tranh quốc tế còn ở mức thấp
Hệ thống kế toán, hồ sơ lưu trữ còn chưa khoa học; khó cung cấp thông tin trong trường hợp bị kiện bán phá giá
Chưa chú trọng đến các tiêu chuẩn kỹ thuật, các tiêu chuẩn về môi trường và trách nhiệm xã hội
Tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm xuất khẩu còn thấp nên chưa được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP)
Tóm lại, chương 2 đã nghiên cứu sâu hơn về các rào cản của Mỹ đối với hàng dệt may, ảnh hưởng của các rào cản này đến việc xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ, các biện pháp mà Chính phủ, Hiệp hội dệt may cũng như các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã áp dụng để vượt qua các rào cản. Chương 2 cũng chỉ ra ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại làm cơ sở đưa ra những giải pháp khắc phục ở chương 3.
CÁC GIẢI PHÁP VƯỢT QUA RÀO CẢN THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM NHẬP KHẨU VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ
Sau khi phân tích thực trạng nhập khẩu của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam, các rào cản của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam, rút ra các tồn tại, hạn chế của các biện pháp mà Chính phủ, Hiệp hội và các doanh nghiệp Việt Nam đang nỗ lực thực hiện để vượt qua các rào cản ở chương 2, chương 3 sẽ đề xuất các giải pháp để vượt qua các rào cản đối với hàng dệt may Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Mỹ thông qua việc nghiên cứu chiến lược phát triển dệt may của Chính phủ Việt Nam đến năm 2015, tiềm năng thị trường tiêu thụ hàng dệt may của Mỹ cũng như những thuận lợi và khó khăn mà Việt Nam gặp phải khi gia nhập WTO.
Cơ hội và thách thức của việc Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ khi là thành viên chính thức của WTO
Việc trở thành thành viên chính thức của WTO ngày 11/01/2007 đã đem tới cho hàng hoá Việt Nam nói chung cũng như hàng dệt may nói riêng nhiều cơ hội để mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu. Tuy nhiên, việc tham gia một sân chơi chung với nhiều quy luật mới cũng sẽ đặt các doanh nghiệp Việt Nam trước nhiều thách thức to lớn.
Cơ hội xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ
Khi Việt Nam gia nhập WTO, Mỹ buộc phải bãi bỏ hạn ngạch với hàng dệt may của Việt Nam. Nhờ đó, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này, tăng quy mô sản xuất từ đó hưởng tính lợi ích kinh tế nhờ quy mô
Việc phân bổ hạn ngạch dệt may theo Hiệp định ATC đã làm tăng chi phí xuất khẩu cho doanh nghiệp. Chi phí này chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng chi phí xuất khẩu đối với Việt Nam, chi phí do hạn ngạch sinh ra đối với mặt hàng dệt xuất khẩu sang Mỹ chiếm 6.9% tổng chi phí, đối với mặt hàng may mặc vào thị trường này là 7.1%. Với việc gia nhập WTO, Mỹ phải xoá bỏ hạn ngạch đối với Việt Nam, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sẽ có điều kiện giảm giá xuất khẩu do không phải mất chi phí do việc cấp hạn ngạch gây ra
Theo nguyên tắc minh bạch hóa chính sách, trong quá trình gia nhập WTO, Việt Nam phải minh bạch hoá toàn bộ các chính sách liên quan đến thương mại của mình và thông báo các kế hoạch hành động để tuân thủ dần dần các nguyên tắc của WTO. Thông qua quá trình này, khuôn khổ pháp lý của Việt Nam về ngành dệt may sẽ minh bạch hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh và khuyến khích thương mại, đầu tư cũng như hợp tác về các vấn đề khác với cộng đồng quốc tế. Việt Nam sẽ có cơ hội đàm phán với Mỹ khi có phát sinh tranh chấp theo quy định của WTO. Ví dụ, về bán phá giá, theo quy định của WTO, các nước thành viên có quyền khiếu kiện lên WTO và yêu cầu quốc gia khởi kiện ngồi vào bàn thương lượng nếu nước thành viên đó không chấp nhận kết luận của chính phủ nước khởi kiện. Ngay cả khi không thể thay đổi được những quyết định trừng phạt, sau thời hạn năm năm kể từ ngày bị áp thuế chống phá giá, doanh nghiệp có quyền nộp kháng nghị phúc thẩm. Đây là một lợi ích quan trọng của các thành viên WTO.
Thách thức đối với xuất khẩu dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ khi Việt Nam là thành viên của WTO
Khi Việt Nam gia nhập WTO, lượng hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường Mỹ sẽ tăng mạnh, dẫn tới nguy cơ bị áp dụng các biện pháp tự vệ và chống bán phá giá của Mỹ. Mặc dù so với Trung Quốc, ngành dệt may Việt Nam có năng lực chỉ bằng 1/50 và hiện chỉ chiếm 3% thị phần hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ và Việt Nam đa phần chỉ xuất khẩu hàng may sẵn nhưng ngay khi Việt Nam gia nhập WTO, Mỹ đã áp dụng cơ chế kiểm soát dệt may đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam, một biện pháp nhằm thu thập các số liệu điều tra về bán phá giá của dệt may Việt Nam. Biện pháp này có khả năng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao và ảnh hưởng xấu tới ngành dệt may do đặc thù của ngành là thời gian từ khi ký kết hợp đồng – thu xếp vải, nguyên phụ liệu – sản xuất, giao hàng kéo dài từ 4-5 tháng. Việc các nước nhập khẩu có quyền áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu hàng dệt may vào bất cứ thời điểm nào sẽ làm tăng tính bất ổn và gây thiệt hại nghiêm trọng đối với các nhà xuất khẩu và nhập khẩu do sản xuất bị dở dang. Bên cạnh đó, Việt Nam lại chưa được công nhận là nền kinh tế thị trường nên sẽ có nhiều bất lợi khi Mỹ tiến hành điều tra về việc bán phá giá.
Ngành dệt may chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng do các hình thức trợ cấp hiện tại bị bãi bỏ hoặc cắt giảm: Việt Nam sẽ phải cam kết bãi bỏ ngay từ thời điểm gia nhập hình thức trợ cấp dưới dạng cấp phát tiền trực tiếp cho doanh nghiệp theo doanh số xuất khẩu khi tham gia các chương trình xúc tiến thương mại và trên thực tế Việt Nam đã bỏ hình thức trợ cấp này từ tháng 7/2005. Như vậy, tác động đối với ngành dệt may đến từ việc Việt Nam sẽ phải cắt giảm 3 hình thức ưu đãi còn lại: ưu đãi về tín dụng, ưu đãi về đầu tư, bảo lãnh tín dụng. Như vậy, ngành dệt may sẽ nhận được ít hỗ trợ hơn từ phía Chính phủ, do đó sẽ bị ảnh hưởng sau khi Việt Nam gia nhập. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng cụ thể còn tùy thuộc vào khả năng chủ động, lường trước khó khăn và chủ động điều chỉnh chính sách sản xuất và xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp.
Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến 2015
Ngày 10/03/2008, Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số 36/2008/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược phát triển ngành dệt may đến 2015, định hướng 2020. Chiến lược đã nêu lên quan điểm phát triển, đề ra các mục tiêu, định hướng phát triển.
Quan điểm phát triển của ngành dệt may
Phát triển ngành Dệt May theo hướng chuyên môn hoá, hiện đại hóa, nhằm tạo ra bước nhảy vọt về chất và lượng sản phẩm. Tạo điều kiện cho ngành Dệt May Việt Nam tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững và hiệu quả. Khắc phục những điểm yếu của ngành dệt may là thương hiệu của các doanh nghiệp còn yếu, mẫu mã thời trang chưa được quan tâm, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, cung cấp nguyên phụ liệu vừa thiếu, vừa không kịp thời.
Lấy xuất khẩu làm mục tiêu cho phát triển của ngành, mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời phát triển tối đa thị trường nội địa. Tập trung phát triển mạnh các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, sản xuất nguyên phụ liệu, giảm nhập siêu, nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm trong ngành.
Phát triển ngành Dệt May phải gắn với bảo vệ môi trường và xu thế dịch chuyển lao động nông nghiệp nông thôn. Di chuyển các cơ sở gây ô nhiễm môi trường vào các Khu, Cụm Công nghiệp tập trung để tạo điều kiện xử lý môi trường. Chuyển các doanh nghiệp Dệt May sử dụng nhiều lao động về các vùng nông thôn, đồng thời phát triển thị trường thời trang Dệt May Việt Nam tại các đô thị và thành phố lớn.
Đa dạng hóa sở hữu và loại hình doanh nghiệp trong ngành Dệt May, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước để đầu tư phát triển Dệt May Việt Nam. Trong đó chú trọng kêu gọi những nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vào những lĩnh vực mà các nhà đầu tư trong nước còn yếu và thiếu kinh nghiệm.
Phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng cho sự phát triển bền vững của ngành Dệt May Việt Nam; Trong đó, chú trọng đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề nhằm tạo ra đội ngũ doanh nhân giỏi, cán bộ, công nhân lành nghề, chuyên sâu.
Mục tiêu chiến lược của ngành dệt may
Mục tiêu tổng quát
Phát triển ngành Dệt May trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới.
Mục tiêu cụ thể của ngành dệt may
Tốc độ tăng trưởng
Giai đoạn 2008-2010
Giai đoạn 2011-2020
- Tăng trưởng sản xuất hàng năm
16 - 18 %
12 - 14 %
- Tăng trưởng xuất khẩu hàng năm
20 %
15 %
Các chỉ tiêu chủ yếu trong Chiến lược phát triển ngành Dệt May Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 như sau:
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Thực hiện
2006
Mục tiêu toàn ngành đến
2010
2015
2020
1. Doanh thu
triệu USD
7.800
14.800
22.500
31.000
2. Xuất khẩu
triệu USD
5.834
12.000
18.000
25.000
3. Sử dụng lao động
nghìn người
2.150
2.500
2.750
3.000
4. Tỷ lệ nội địa hoá
%
32
50
60
70
5. Sản phẩm chính:
- Bông xơ
1000 tấn
8
20
40
60
- Xơ, Sợi tổng hợp
1000 tấn
-
120
210
300
- Sợi các loại
1000 tấn
265
350
500
650
- Vải
triệu m2
575
1.000
1.500
2.000
- Sản phẩm may
triệu SP
1.212
1.800
2.850
4.000
Định hướng phát triển cho ngành dệt may
Nghị định cũng đưa ra những định hướng phát triển cho ngành dệt may. Các định hướng này tập trung vào ba khía cạnh chính: sản phẩm, đầu tư và phát triển sản xuất, bảo vệ môi trường và đều cho thấy sự quan tâm lớn của chính phủ trong việc vượt qua những rào cản thương mại của các nước nhập khẩu nói chung và của Mỹ nói riêng
Trong định hướng về sản phẩm đã đề cập đến việc nâng cao tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm nhằm hướng tới việc được hưởng mức thuế quan ưu đãi GSP; chú trọng công tác thiết kế thời trang, tạo ra các sản phẩm dệt may có đặc tính khác biệt cao, từng bước xây dựng thương hiệu sản phẩm để đảm bảo tuân thủ các quy định về nhãn hiệu thương mại, xuất xứ hàng hoá cũng như bản quyền mà các quốc gia nhập khẩu nói chung và Mỹ nói riêng yêu cầu; đẩy nhanh việc áp dụng các tiêu chuẩn quản lý chất lượng để vượt qua các rào cản về tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm.
Định hướng về bảo vệ môi trường thể hiện sự quan tâm của chính phủ đến việc vượt qua các rào cản về môi trường ngày càng được nâng cao ở các nước phát triển như Mỹ, EU,... Nội dung của định hướng bảo vệ môi trường bao gồm:
Xây dựng Báo cáo đánh giá tác động môi trường phù hợp với Chiến lược phát triển ngành Dệt May và các quy định pháp luật về môi trường.
Tập trung xử lý triệt để các cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Triển khai xây dựng các Khu, Cụm Công nghiệp Dệt May có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đạt tiêu chuẩn môi trường để di dời các cơ sở dệt may có nguy cơ gây ô nhiễm vào khu công nghiệp.
Triển khai Chương trình sản xuất sạch hơn trong ngành Dệt May, khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn quản lý môi trường theo ISO 14000, tạo môi trường lao động tốt cho người lao động theo tiêu chuẩn SA 8000.
Xây dựng và thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ trong ngành Dệt May theo hướng thân thiện với môi trường.
Tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học công nghệ về môi trường.
Đáp ứng các yêu cầu về môi trường và rào cản kỹ thuật để hội nhập kinh tế quốc tế.
Dự báo về thị trường dệt may Mỹ đến năm 2010 và những rào cản thương mại đối với hàng dệt may của Mỹ
Mỹ là thị trường khổng lồ với số dân khoảng 300 triệu người và GDP đạt mức 11 nghìn tỷ USD. Hiện tại Mỹ nhập hàng hoá từ 170 quốc gia với đủ chủng loại sản phẩm, từ cao cấp như ôtô, máy bay, các thiết bị điện công nghiệp đến hàng tiêu dùng như quần áo, giấy dép, đồ chơi trẻ em… Do vậy, ngoại thương luôn là nguồn lực quan trọng làm giàu đất nước. Tăng trưởng thương mại và tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước là xu hướng chủ đạo trong nền kinh tế Mỹ trong thập kỷ qua. Xuất nhập khẩu của Mỹ tăng từ 10% GDP năm 1970 lên 25% năm 1997, và một phần ba mức tăng trưởng kinh tế là do mở rộng thương mại. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Mỹ không ngừng tăng lên, trong đó kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá chiếm tỷ trọng trên 80%, còn dịch vụ chỉ chiếm 20%.
Xã hội Mỹ là xã hội tiêu thụ bởi vì phần thu nhập dành cho tiêu dùng rất lớn. Thu nhập bình quân tính theo đầu người ở Mỹ là khoảng 36.200 USD năm 2000. Theo thống kê của Bộ Thương mại, Mỹ có khoảng 98 triệu hộ gia đình, trong đó khoảng 1 triệu hộ có tài sản trên 1 triệu USD, 5% số hộ có thu nhập hàng năm trên 10.000 USD. Số hộ còn lại có thể chia thành bốn nhóm: nhóm một: nhóm có thu nhập thấp nhất, khoảng 17000 USD/năm; nhóm hai: gồm những hộ có thu nhập khoảng 30.000 USD/năm; nhóm ba: gồm những hộ có thu nhập khoảng 45.000 USD/năm; và nhóm bốn: nhóm có thu nhập cao nhất, khoảng 67.000 USD/năm.
Qua các số liệu trên, có thể thấy rằng các hộ thuộc nhóm một (nhóm nghèo nhất) chỉ chiếm 15% dân số. Nhưng ngay cả nhóm này cũng có thu nhập cao hơn thu nhập bình quân của Việt Nam tới hơn 40 lần. Họ vẫn có sức mua đáng kể đối với hàng tiêu dùng các loại, đặc biệt là các hàng hoá bình dân có xuất xứ từ các nước đang phát triển. Người dân Mỹ có mức sống rất khác nhau nên nhu cầu tiêu dùng cũng khác nhau. Bởi vậy, hàng hoá nhập vào Mỹ cũng rất đa dạng về chủng loại và chất lượng, có cả hàng cao cấp và bình dân. Mỹ cũng nhập hàng và nguyên liệu từ nhiều nước khác, cả nước phát triển và nước đang phát triển, phục vụ cho những yêu cầu tiêu dùng khác nhau. Mỹ nhập khẩu hàng hoá từ hầu hết các nước trên thế giới. Trong số 170 nước xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ, Việt Nam đứng thứ 72. Các nước đứng đầu về xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ năm 1998 là Canađa, Nhật Bản, Mêhicô, Đức, Trung Quốc, Anh, Hàn Quốc, Đài Loan. Những loại hàng hoá Việt Nam đã xuất sang Mỹ và có tiềm năng khai thác thế mạnh của mình là thuỷ, hải sản, quần áo, giầy dép, hàng mây tre đan, đồ gốm, cao su, cà phê, dầu và khí đốt… Mỗi năm Mỹ nhập khoảng 50 tỷ USD giá trị nông sản; 200 tỷ USD nguyên liệu công nghiệp; 280 tỷ USD máy móc thiết bị; 150 tỷ USD ôtô, xe tải; 220 tỷ USD hàng tiêu dùng. Chỉ riêng hàng tiêu dùng, mỗi năm Mỹ nhập tới khoảng 200 tỷ USD.
Nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ tăng đều đặn trong suốt thời kỳ từ 1990 đến 2007 với tốc độ tăng bình quân khoảng 7,25%/năm. Với tốc độ này, dự báo nhập khẩu hàng dệt may Mỹ trong đến năm 2010 sẽ vào khoảng 103,31 tỷ USD. Hiện nay, nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam mới chỉ chiếm gần 3% kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ. Vì vậy, thị trường Mỹ là một thị trường đầy tiềm năng đối với ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam.
Tuy nhiên, để bảo vệ nền công nghiệp dệt may trong nước cũng như để đạt được những lợi ích về kinh tế, chính trị khác, Mỹ ngày càng đặt ra nhiều loại rào cản tinh vi, khó nhận biết hơn. Xu thế chung vẫn là nâng cao các rào cản về tiêu chuẩn kỹ thuật, bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội; tiếp tục sử dụng các rào cản thông qua các cam kết song phương như buộc nước xuất khẩu tự áp dụng hạn ngạch hay thực hiện cơ chế giám sát; xuất hiện các rào cản về thuế quan và vấn đề tiếp cận thị trường cho những nước không thuộc các khu vực thương mại tự do mà Mỹ tham gia,...
Một số quan điểm về vượt qua các rào cản thương mại dệt may của Mỹ đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam
Việc đối phó với các rào cản thương mại dệt may của Mỹ phải đáp ứng tốt yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Vượt qua các rào cản thương mại dệt may của Mỹ trên cơ sở nâng cao nhận thức của chính phủ, hiệp hội và các doanh nghiệp dệt may Việt Nam về tác động của các loại rào cản thương mại.
Tạo điều kiện nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, các doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Các doanh nghiệp nâng cao khả năng vượt qua các rào cản về kỹ thuật của hàng dệt may Việt Nam bằng cách nâng cao chất lượng tiêu chuẩn sản phẩm, gắn sản xuất với bảo vệ môi trường và quan tâm đến lợi ích của người lao động.
Nỗ lực đàm phán để được công nhận là nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong các vụ kiện bán phá giá và trợ cấp.
Nhanh chóng khắc phục những tồn tại, bất hợp lý của chính sách và cơ chế hiện hành đối với ngành dệt may, đồng thời từng bước chuẩn bị các điều kiện để sẵn sàng và chủ động đối phó với các rào cản mới.
Một số giải pháp vượt qua các rào cản thương mại đối với hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Mỹ
Việc gia nhập WTO mang lại cho ngành dệt may nhiều cơ hội cũng như thách thức khi muốn mở rộng thị trường tại Mỹ. Với tốc độ tăng trưởng, mức thu nhập bình quân đầu người cũng như nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm về dệt may ngày càng gia tăng, thị trường Mỹ sẽ là một thị trường đầy tiềm năng đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Dựa trên quan điểm phát triển của Chính phủ Việt Nam là phát triển ngành dệt may thành ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu, việc đề ra những giải pháp để vượt qua các rào cản về hàng dệt may của thị trường Mỹ - thị trường xuất khẩu lớn nhất của dệt may Việt Nam hiện nay là hết sức cần thiết.
Giải pháp từ phía Chính phủ
Hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản dưới luật liên quan đến việc vượt qua các rào cản đối với hàng dệt may.
Các văn bản quy phạm pháp luật một mặt có tính hướng dẫn các doanh nghiệp đi đúng hướng, mặt khác có tác dụng điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp đảm bảo không ảnh hưởng đến lợi ích của doanh nghiệp khác cũng như lợi ích của toàn ngành. Vì vậy, hệ thống văn bản luật pháp đầy đủ sẽ có tác dụng rất to lớn trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp nói riêng và ngành dệt may nói chung vượt qua các rào cản của thị trường Mỹ. Cụ thể, cần hoàn thiện hệ thống các văn bản luật và dưới luật trên một số khía cạnh:
Căn cứ vào các tiêu chuẩn và các yêu cầu sinh thái của hàng dệt- may nhập khẩu vào thị trường Mỹ, Chính phủ cần xây dựng ngay những tiêu chuẩn cấp nhà nước hoặc cấp Bộ, cấp ngành.
Các thị trường lớn như Mỹ, EU thường là các thị trường có các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm và môi trường ở mức cao. Vì vậy, các tiêu chuẩn đã và đang được áp dụng rộng rãi ở trong nước hiện nay đều không còn phù hợp. Để làm cơ sở phấn đấu cho các doanh nghiệp xuất khẩu cũng như nâng cao uy tín và sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam, Chính phủ cần giao cho các cơ quan chức năng xây dựng ngay các tiêu chuẩn cấp Nhà nước, tương ứng với các quy định của WTO và các nước nhập khẩu. Từ các tiêu chuẩn cấp Nhà nước đó, triển khai xây dựng các tiêu chuẩn cụ thể cấp ngành, thuận lợi cho việc áp dụng trong từng doanh nghiệp dệt may.
Ban hành những quy định cụ thể về việc áp dụng các tiêu chuẩn môi trường đối với các doanh nghiệp dệt may, đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng nhiều loại hoá chất độc hại trong khâu nhuộm, xử lý vải,… Có chế tài đối với những doanh nghiệp không tuân thủ các quy định đã đề ra về môi trường, trách nhiệm xã hội và những doanh nghiệp cố tình hạ giá thành sản phẩm nhằm thu lợi cục bộ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích toàn ngành, gây ra nguy cơ bị kiện bán phá giá đối với sản phẩm dệt may.
Ngoài việc các tiêu chuẩn hiện nay đã lỗi thời, không còn phù hợp với các quy định chung về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm và môi trường trên thế giới, việc áp dụng các tiêu chuẩn này ở Việt Nam mới chỉ mang tính khuyến khích, chưa có các quy định cụ thể. Chính vì vậy, việc áp dụng các tiêu chuẩn còn chưa đồng bộ, gây ảnh hưởng chung đến thương hiệu hàng dệt may Việt Nam. Việc xử lý vi phạm của các doanh nghiệp trong việc gây ô nhiễm môi trường hay các doanh nghiệp hạ giá cục bộ thường chậm trễ, mang nhiều tính chất hành chính, chưa được công khai rộng rãi nên chưa có tác dụng răn đe đối với các doanh nghiệp vi phạm. Do đó, việc có quy định cụ thể về việc áp dụng các tiêu chuẩn cũng như đưa ra các chế tài thích hợp sẽ giúp cho các doanh nghiệp dệt may vượt qua được các rào cản về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, môi trường cũng như rào cản chống bán phá giá.
Quy định rõ ràng, cụ thể về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Hiệp hội dệt may.
Trước đây, vai trò của Hiệp hội nói chung và Hiệp hội dệt may nói riêng chỉ được nhắc đến một cách khái quát trong nghị định NĐ88/2003 của chính phủ về thành lập các Hiệp hội. Trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO, vai trò của hiệp hội ngày càng trở nên quan trọng thì cần có một văn bản có tính pháp lý cao hơn quy định về vai trò, nhiệm vụ, chức năng của Hiệp hội. Khi chưa có điều kiện ban hành Luật về Hiệp hội, Chính phủ cần có các văn bản dưới luật mới để đảm bảo Hiệp hội dệt may được tham gia đóng góp ý kiến đối với những vấn đề có liên quan đến các doanh nghiệp trong ngành, khẳng định Hiệp hội không phải là cơ quan thực hiện các biện pháp của Chính phủ nhằm đối phó với các rào cản thương mại của Mỹ mà là đại diện cho các doanh nghiệp dệt may, cùng chính phủ đưa ra các giải pháp khả thi, đảm bảo lợi ích cho các doanh nghiệp và cho cả quốc gia. Việc có một cơ sở pháp lý đầy đủ sẽ tạo cơ chế thông thoáng để Hiệp hội tiếp tục phản ảnh nguyện vọng của các doanh nghiệp, phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước để xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho ngành dệt may, bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp chống lại các rào cản trong khi xâm nhập thị trường quốc tế.
Tăng cường sự liên kết giữa các bộ, ban, ngành trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ.
Cách đưa ra các biện pháp đối phó với rào cản về hàng dệt may do Mỹ dựng lên trước đây như rào cản về hạn ngạch, cơ chế giám sát hàng dệt may cho thấy sự liên kết giữa các bộ, ban, ngành trong việc xử lý các vấn đề còn rất lỏng lẻo, thiếu hiệu quả. Ví dụ như, do chưa có sự nối mạng giữa Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương) và Tổng cục Hải quan nên khi Mỹ áp dụng cơ chế giám sát, liên bộ buộc phải quản lý việc xuất khẩu các sản phẩm dệt may sang Mỹ thông qua hình thức cấp giấy phép xuất khẩu - một hình thức nặng về thủ tục hành chính, gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu. Vì vậy, cần tăng cường sự liên kết giữa các bộ, ban, ngành để có thể đưa ra các biện pháp hợp lý nhằm vượt qua các rào cản dệt may của Mỹ. Đơn cử như Bộ Công thương có thể triển khai nối mạng với Tổng cục Hải quan, từ đó có thể cập nhật thông tin và số liệu để điều hành công tác giám sát và quản lý giá, tránh được các vụ kiện liên quan đến chống bán phá giá, đồng thời vẫn không gây khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may.
Chủ động đối phó với các rào cản dệt may do Mỹ dựng lên
Các rào cản mà Mỹ dựng lên đối với hàng dệt may Việt Nam phần lớn có thể dự báo trước được dựa trên kinh nghiệm của các nước xuất khẩu lớn như Trung Quốc hay Ấn Độ cũng như xu hướng phát triển của các rào cản thương mại trên thế giới. Tuy nhiên, trong thời gian qua, các biện pháp mà Chính phủ áp dụng để vượt qua các rào cản cho thấy rõ sự lúng túng khi vấp phải các rào cản này. Vì vậy, trong thời gian tới, Chính phủ cần có cái nhìn đúng đắn về tác động của các rào cản đối với xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ từ đó tích cực đưa ra các biện pháp phòng ngừa và hạn chế tác động của các rào cản này. Cụ thể:
Đối với chương trình giám sát hàng dệt may: Có những biện pháp giám sát và quản lý giá bình quân, không để giá giảm đột ngột; tổng hợp số liệu kịp thời của năm nhóm hàng mà Mỹ đặt trong cơ chế giám sát; hạn chế các lô hàng đơn giản, đẳng cấp thấp và giá quá thấp; kiện toàn lại hệ thống sổ sách liên quan đến xuất xứ và chi phí đầu vào của lô hàng xuất khẩu. Bộ Công thương cần làm việc với Bộ thương mại Mỹ theo hướng giảm bớt các tác động, ảnh hưởng của cơ chế giám sát (giảm bớt diện mặt hàng có khả năng sản xuất ra khỏi danh sách bị giám sát) và minh bạch hoá các tiêu chí, điều kiện tự khởi động điều tra chống bán phá giá hàng dệt may Việt Nam của Mỹ để các nhà nhập khẩu nước ngoài và doanh nghiệp yên tâm sản xuất kinh doanh
Đối với các rào cản kỹ thuật: Tiếp tục củng cố điểm hỏi đáp về rào cản kỹ thuật thông qua việc: quy định rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ của điểm hỏi đáp; đảm bảo hỗ trợ đầy đủ về tài chính; nguyên tắc làm việc của điểm hỏi đáp phải rõ ràng, tuân thủ theo một quy trình cụ thể, nghiêm túc; đội ngũ nhân viên được tuyển chọn kỹ lưỡng, có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, trình độ tiếng Anh tốt, phong cách làm việc chuyên nghiệp, được trang bị các thiết bị văn phòng hiện đại; chủ động tham gia vào các cuộc họp của Uỷ ban TBT và các hoạt động có liên quan khác để có thể kịp thời nắm được xu thế và chủ động phối hợp trong công tác TBT, góp phần cập nhật các thông tin chính xác cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu.
Chú trọng nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về tác động của các rào cản đối với hàng dệt may của Mỹ và hỗ trợ doanh nghiệp để vượt qua các rào cản về trách nhiệm xã hội và sở hữu trí tuệ:
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chủ yếu vẫn đi theo con đường gia công xuất khẩu, chỉ mới chuyển sang sản xuất theo hình thức FOB (doanh nghiệp mua nguyên liệu và sản xuất theo đơn đặt hàng dưới sự đồng ý của chủ hàng) trong thời gian gần đây. Vì vậy, hầu hết các doanh nghiệp đều không quan tâm đến các rào cản như chống bán phá giá, nhãn hiệu thương mại, bản quyền,… khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Tuy nhiên, để phát triển ngành dệt may phù hợp với xu hướng chung cũng như đem lại lợi nhuận cao hơn cho các doanh nghiệp và người lao động trong ngành, cần xây dựng một ngành dệt may với tỷ lệ nội địa hoá cao, có thương hiệu riêng. Do đó, Chính phủ cần hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may trong việc nâng cao nhận thức về các rào cản thương mại của thị trường Mỹ thông qua việc:
Xây dựng hệ thống thông tin hữu ích về thị trường dệt may Mỹ, đẩy mạnh công tác tuyên truyền và đào tạo để các doanh nghiệp hiểu một cách đầy đủ và sâu sắc về Hiệp định chống bán phá giá của WTO và các quy định về chống bán phá giá của Mỹ
Chính phủ một mặt cần phải lồng ghép vào chương trình phổ biến kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế để nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp về triển khai thực hiện và đăng ký để được cấp chứng chỉ SA 8000, mặt khác Chính phủ cũng cần hỗ trợ và tư vấn pháp luật và điều kiện vật chất để các doanh nghiệp dệt may có thể vượt qua rào cản này một cách tốt nhất
Nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về nhãn hiệu, thương hiệu và xuất xứ hàng hoá; đơn giản hoá thủ tục, tạo điều kiện để doanh nghiệp có thể đăng ký nhãn hiệu, thương hiệu một cách nhanh chóng nhất; cung cấp thông tin, tư vấn cho doanh nghiệp về xây dựng và quảng bá thương hiệu;…
Giải pháp từ phía Hiệp hội dệt may
Kiện toàn tổ chức để tăng cường hiệu quả hoạt động của Hiệp hội. Trước đây, tất cả công việc đều do Ban thường vụ và Ban chủ tịch giải quyết nên nhiều vấn đề không thể giải quyết một cách triệt để và dứt điểm. Vì vậy, Hiệp hội cần thành lập từng bộ phận chuyên trách để phụ trách từng lĩnh vực trong sự phát triển của ngành dệt may và để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua các rào cản thương mại của thị trường Mỹ như:
Bộ phận chính sách sẽ tập trung vào những vấn đề về chính sách phát triển cho ngành dệt may và đối phó với các chính sách thương mại từ các nước khác, cụ thể là vấn đề chống giám sát hàng dệt may sang Mỹ hiện nay.
Bộ phận thông tin sẽ thu thập và xử lý thông tin có tính chất chuyên ngành về thị trường dệt may Mỹ bao gồm nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ, các rào cản đang tồn tại và dự báo các rào cản có thể sẽ xuất hiện trong thời gian tới, các thủ tục cần biết khi xuất khẩu sang Mỹ,... Một điều đơn giản là muốn cho các doanh nghiệp của ngành dệt may vượt qua được các rào cản trong thương mại quốc tế, đặc biệt là các rào cản ở thị trường Mỹ thì phải biết được rào cản đó là gì, như thế nào và biện pháp khắc phục hay đối phó ra sao? Tuy vậy, Hiệp hội chủ yếu mới chỉ có được các thông tin về thị trường trong nước và các chính sách thương mại nội địa chứ chưa tiếp cận được với các thông tin chuyên sâu phục vụ cho xuất khẩu nói chung và đối phó với các rào cản thương mại nói riêng. Hiện nay, chúng ta còn chưa được công nhận là một nước có nền kinh tế thị trường mà chỉ được công nhận là một nước đang phát triển ở trình độ thấp. Do đó, Hiệp hội cần phải chủ động thu thập thông tin về tình hình thị trường và giá cả ở một nước thứ ba, có trình độ tương đương Việt Nam để có thể chủ động trong việc hầu kiện với các vụ kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp sao cho có lợi cho doanh nghiệp Việt Nam. Bộ phận thông tin cũng sẽ là nơi cung cấp thông tin, chuyển các thông tin đến các thành viên theo định kỳ thông qua các phương tiện thông tin hiện đại như e-mail, internet. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, trang web của Hiệp hội doanh nghiệp còn thường xuyên bị lỗi, khó truy cập, các thông tin đơn giản, thiếu cập nhật. Vì vậy, nhiệm vụ của bộ phận thông tin cũng là phải xây dựng được trang Web của Hiệp hội trở thành nơi cung cấp thông tin và liên lạc trực tuyến giữa Hiệp hội và các doanh nghiệp thành viên.
Bộ phận pháp chế cần đi sâu nghiên cứu các vấn đề về chống bán phá giá và trợ giá, kinh nghiệm khởi kiện, kháng kiện của các nước đang phát triển, đồng thời kết hợp chặt chẽ với các tổ chức tư vấn pháp luật trong nước và quốc tế để sẵn sàng khởi kiện và kháng kiện. Ở hầu hết các nước, việc khởi kiện và kháng kiện đều do các Hiệp hội chủ động phát động chứ không phải do các cơ quan quản lý Nhà nước. Vì vậy, trong thời gian tới, Hiệp hội cần phải chủ động, tích cực hơn nữa và chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua rào cản chống bán phá giá.
Điều hoà quy mô sản xuất và xuất khẩu, giá cả và chất lượng các sản phẩm dệt may để hạn chế các nguy cơ gặp phải các vụ kiện chống bán phá giá.
Theo quy định của Hiệp định chống bán phá giá trong khuôn khổ của WTO, nước nhập khẩu chỉ được áp dụng các biện pháp chống bán phá giá khi thoả mãn 3 tiêu chuẩn: Một là, hàng nhập khẩu bị bán phá giá khi biên độ phá giá lớn hơn hoặc bằng 2% giá xuất khẩu và khối lượng hàng nhập khẩu từ mỗi nước lớn hơn hoặc bằng 3% khối lượng nhập khẩu sản phẩm tương tự; Hai là, việc bán phá giá này gây thiệt hại hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước; Ba là, cuộc điều tra phá giá được tiến hành theo đúng thủ tục. Như vậy, để tránh cho các doanh nghiệp gặp phải các rắc rối do vụ kiện chống bán phá giá, Hiệp hội cần phải chủ động tính toán và thảo luận với các doanh nghiệp thành viên để tiến hành các biện pháp điều tiết sản lượng xuất khẩu sao cho không bằng hoặc vượt 3% khối lượng nhập khẩu của nước nhập khẩu. Khi khối lượng đã bằng hoặc vượt quá 3% thì cần chủ động điều tiết giá xuất khẩu để biên độ không bằng hoặc vượt quá 2%. Trường hợp tiêu chuẩn thứ nhất đã không đáp ứng được thì cần chủ động chuẩn bị các tư liệu và minh chứng để biện hộ cho việc chưa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước của bên khởi kiện. Nếu hai tiêu chuẩn trên vẫn chưa đủ lý lẽ để bảo vệ thì Hiệp hội phải chủ động hầu kiện hoặc kháng kiện để sao cho việc áp dụng thuế chống bán phá giá ở mức thấpnhấp có thể.
Mở rộng phạm vi hoạt động và ảnh hưởng của Hiệp hội
Trước đây, hoạt động của hiệp hội chủ yếu tập trung ở trong nước, việc tham gia các tổ chức hoặc các Hiệp hội ngành hàng quốc tế như Liên đoàn Dệt may ASEAN, Uỷ ban Quốc tế về Dệt may,… chủ yếu mang tính hình thức. Vì vậy, Hiệp hội dệt may chưa tận dụng được uy tín của các tổ chức quốc tế đó trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam vượt qua các rào cản của các thị trường nhập khẩu nói chung và thị trường Mỹ nói riêng. Trong thời gian tới, Hiệp hội cần chủ động tìm hiểu và tham gia vào nhiều các tổ chức hoặc hiệp hội ngành hàng quốc tế hơn, tích cực hưởng ứng và đưa ra các ý kiến đề xuất về hoạt động của các tổ chức này theo hướng nâng cao vai trò, uy tín của ngành dệt may Việt Nam, mở rộng hợp tác với các thành viên của tổ chức trong việc thúc đẩy xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Trực tiếp và thông qua các tổ chức quốc tế tác động đến Hiệp hội người tiêu dùng, Hiệp hội các nhà nhập khẩu sản phẩm dệt may của Mỹ và kiến nghị lên chính phủ Mỹ để xoá bỏ cơ chế giám sát đối với hàng dệt may của Việt Nam hiện nay và những chính sách áp đặt vô lý của Mỹ trong thời gian tới.
Giải pháp từ phía doanh nghiệp
Đẩy mạnh việc nghiên cứu thị trường Mỹ, xúc tiến thương mại, tìm hiểu các rào cản thương mại đối với hàng dệt may của Mỹ bằng nhiều phương pháp: khảo sát trực tiếp, phân tích số liệu, tìm kiếm thông tin trên internet,...
Để có thể chủ động đối phó và vượt qua các rào cản thương mại thì cần phải đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu thị trường để hiểu rõ hơn về thị trường Mỹ và để cho các nhà nhập khẩu hiểu rõ hơn về hàng hoá và doanh nghiệp mình. Chính vì thế, nhiều doanh nghiệp chủ yếu đưa các phái đoàn đi khảo sát thị trường nước ngoài. Việc khảo sát, nghiên cứu này là cần thiết nhưng sẽ phải chịu chi phí đáng kể về thời gian và tiền bạc. Mặt khác, nếu không được chuẩn bị tốt về nội dung, phương pháp này cũng mang lại hiệu quả không cao. Do đó, các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, phạm vi về mặt hàng còn hạn chế có thể sử dụng các kỹ năng và phương pháp nghiên cứu thị trường thông qua các phương pháp phân tích thống kê kinh tế từ các nguồn tài liệu có thể thu thập được trong nước (đặc biệt là qua internet). Đồng thời có thể kết hợp sử dụng các phương pháp chuyên gia, sử dụng các cộng tác viên ở nước ngoài (trong cơ quan kinh tế, thương vụ của Việt Nam) hoặc thuê khoán chuyên gia tư vấn trong Hiệp hội dệt may,…
Doanh nghiệp cũng cần chủ động, tích cực tìm hiểu để có thể hiểu rõ và hiểu đúng các quy định trong thương mại quốc tế, các quy định về việc chống bán phá giá và trợ giá, các bước điều tra và khởi kiện, hệ thống luật thương mại Mỹ có liên quan đến việc hình thành các rào cản đối với hàng dệt may để không bị động khi vấp phải một trong các rào cản khi xâm nhập vào thị trường Mỹ. Khi bị kiện doanh nghiệp cần khẩn trương liên hệ với Hiệp hội dệt may, tổ chức chuẩn bị các nội dung thống nhất sẽ phải trả lời nước nhập khẩu. Doanh nghiệp cần nêu cao tinh thần đoàn kết, huy động sức mạnh tổng hợp cùng đấu tranh với đơn kiện. Tranh thủ sức mạnh của luật sư trong khi giải quyết đơn kiện.
Đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của doanh nghiệp và các sản phẩm dệt may khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ
Mặc dù nhiều mặt hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam đã xuất khẩu được vào thị trường Mỹ nhưng sản phẩm và các doanh nghiệp Việt Nam có năng lực cạnh tranh còn thấp. Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp phụ thuộc vào các yếu tố: chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, trình độ khoa học công nghệ, sản phẩm của doanh nghiệp, năng suất lao động, chi phí sản xuất và quản lý, đầu tư cho nghiên cứu, triển khai. Muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, vượt qua được các rào cản thương mại cần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua việc thực hiện một chiến lược kinh doanh khoa học, đúng đắn; đổi mới sản phẩm cả về chất lượng, giá cả, mẫu mã hàng hoá; nâng cao trình độ quản lý và kỹ năng của cán bộ công nhân viên;…
Ngoài ra, để tăng tính cạnh tranh, các doanh nghiệp dệt may cần cố gắng giảm giá thành sản phẩm thông qua các biện pháp nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí cố định trong quản lý, giảm tiêu hao năng lượng điện trong sản xuất (ở Việt Nam thường cao hơn 2,4 đến 3,6 lần so với các nước trong khu vực), chia sẻ giữa các doanh nghiệp chi phí tiếp thị, chi phí thông tin thị trường. Triệt để thực hiện chủ trương tiết kiệm 10% chi phí của các doanh nghiệp, coi đó như là cơ sở để tăng khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam so với hàng dệt may Trung Quốc. Chỉ có làm như vậy, các doanh nghiệp dệt may mới tạo được giá cả sản phẩm có tính cạnh tranh trên thị trường và được nhiều người tiêu dùng chấp nhận.
Mở rộng và tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế để nâng cao khả năng thích ứng với môi trường cạnh tranh quốc tế.
Các doanh nghiệp nước ngoài luôn sử dụng lý thuyết về lợi thế theo quy mô và thường có những đơn hàng với khối lượng lớn tới hàng trăm triệu USD. Tuy nhiên, doanh nghiệp dệt may của Việt Nam phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên đã không đáp ứng được yêu cầu này. Vì vậy, cần hình thành và phát triển các doanh nghiệp có quy mô lớn thông qua việc mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp nhà nước với nhau và với các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thực tiễn cho thấy trong các vụ tranh chấp về thương mại có liên quan đến chống bán phá giá, chống trợ cấp,… nếu có yếu tố nước ngoài cùng đứng về phía Việt Nam thì các phán quyết cuối cùng bao giờ cũng có lợi cho Việt Nam. Do đó, muốn vượt rào cản để đẩy mạnh xuất khẩu, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần chủ động liên doanh liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là các công ty đa quốc gia hoặc các tập đoàn kinh tế lớn.
Các doanh nghiệp nên xây dựng hệ thống ghi nhận, lưu trữ hồ sơ sản xuất, xuất nhập khẩu đầy đủ, khoa học, hiện đại nhằm tạo cơ sở sẵn sàng cho việc ứng phó với khả năng phải tham gia các vụ kiện tranh chấp thương mại quốc tế.
Hiện nay có khoảng hơn 2000 doanh nghiệp trong lĩnh vực dệt may trong đó doanh nghiệp nhà nước chiếm 0,5%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 25% còn lại doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần chiếm 74,5%. Như vậy, có thể thấy các công ty có quy mô vừa và nhỏ trong ngành dệt may chiếm tỷ trọng rất lớn. Tuy nhiên, hầu hết các công ty này lại có hệ thống lưu giữ chứng từ, tài liệu sổ sách kế toán theo cách truyền thống là ghi chép, chưa sử dụng các công cụ kế toán hiện đại và internet. Vì vậy, khi có yêu cầu về cung cấp số liệu từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước và Hiệp hội dệt may, các doanh nghiệp thường lúng túng, chậm trễ gây khó khăn cho việc ứng phó với rào cản về bán phá giá mà các nước nhập khẩu dựng lên.
Chủ động áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế và đáp ứng yêu cầu bảo vệ sức khoẻ và môi trường.
Do mức sống người dân ở Mỹ rất cao, Hiệp hội người tiêu dùng có vai trò rất lớn trong việc chấp nhận hoặc phản đối về việc nhập khẩu một loại hàng hóa nào đó nếu có những biểu hiện nghi vấn về chất lượng. Vì vậy, để vượt qua được các rào cản, các doanh nghiệp dệt may cần chủ động, khẩn trương xây dựng các hệ thống ISO 9001:2000, ISO 14001:2000, GMP, HACCP, SA 8000... , lựa chọn áp dụng tuỳ theo đặc thù riêng của từng doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể áp dụng cùng lúc các hệ thống ISO 9001:2000, ISO 14001:2000, SA 8000.
Tích cực sử dụng vải sản xuất trong nước để tăng tỷ lệ nội địa của sản phẩm xuất khẩu, đủ điều kiện được cấp C/O để hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP).
Theo luật của Mỹ, để được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập hàng hoá phải được nhập khẩu trực tiếp từ nước hưởng lợi vào lãnh thổ hải quan Mỹ và trị giá hàng hoá được tạo ra tại nước hưởng lợi phải đạt ít nhất 35%. Hàng năm, trên cơ sở đề xuất của Đại diện thương mại Mỹ (USTR) sau khi tham khảo ý kiến công chúng, Uỷ ban thương mại Mỹ (ITC) và các cơ quan hành pháp, Tổng thống sẽ quyết định những mặt hàng và những nước được hưởng GSP. Vì vậy, để có thể vượt qua rào cản về thuế quan, các doanh nghiệp cần tăng tỷ lệ nội địa hoá, sử dụng nhiều nguyên, phụ liệu trong nước vào việc sản xuất hàng xuất khẩu.
Xây dựng trang Web của từng doanh nghiệp để thúc đẩy xúc tiến thương mại sang thị trường Mỹ.
Hiện nay, chỉ một số ít các doanh nghiệp dệt may có trang web riêng trong khi đó, các đối tác Mỹ thường xuyên tìm kiếm, nghiên cứu và sàng lọc thông tin trước khi liên hệ trực tiếp với khách hàng hoặc các tổ chức xúc tiến thương mại để hỏi thêm chi tiết hoặc kiểm tra thông tin. Vì vậy, trang Web sẽ tạo cho doanh nghiệp nhiều cơ hội hơn được khách hàng Mỹ biết đến. Các doanh nghiệp cần chú ý đến một số điểm khi xây dựng trang Web như:
Tên miền trang web phải dễ đọc, dễ nhớ và dễ viết để thuận tiện cho khách hàng truy cập. Tên miền trang web cũng thường được dùng làm đuôi địa chỉ email của công ty nên không nên quá dài. Không nên dùng tên miền tiếng Việt vì các khách hàng nước ngoài thường không biết và không có phông chữ tiếng Việt để truy cập.
Trang web cần được thiết kế chuyên nghiệp, bắt mắt, dễ sử dụng và không nên phức tạp. Các doanh nhân thường là những người bận rộn vì vậy trang web phải được thiết kế để đảm bảo người sử dụng tìm được những thông tin họ cần nhanh nhất.
Mục đích chủ yếu của trang web là giới thiệu công ty và sản phẩm, thuyết phục người mua mình là nhà xuất khẩu đáng tin cậy, nghiêm túc và khuyến khích họ liên hệ với mình. Để đạt được mục đích này, trên mục giới thiệu về công ty (About us), ngoài những thông tin như tên, địa chỉ giao dịch, lịch sử công ty,… cần phải nêu tên tất cả những hiệp hội doanh nghiệp (nhất là những hiệp hội quốc tế có uy tín) mà công ty là thành viên; các thành tích, danh hiệu, chứng nhận mà công ty hoặc sản phẩm của công ty đã được các tổ chức trong nước và quốc tế chứng nhận hoặc trao tặng.
Mục đích của mục giới thiệu sản phẩm (Product) là để khách hàng có những khái niệm về sản phẩm của mình, do đó trang này nên giới thiệu một số chi tiết nhưng không nên giới thiệu quá nhiều về sản phẩm. Nếu không cung cấp đủ thông tin về sản phẩm thì người mua sẽ không quan tâm hoặc cho rằng công ty không nghiêm túc. Ngược lại, nếu cung cấp quá chi tiết về sản phẩm, nhất là về giá thì khách hàng sẽ không có nhu cầu liên hệ và công ty sẽ không có cơ hội để đàm phán.
Các công ty Mỹ rất muốn quan hệ trực tiếp với nhà sản xuất hơn là các công ty xuất khẩu thuần tuý. Vì vậy, các công ty nên có một số hình ảnh về cơ sở sản xuất trực tiếp trên trang web. Các công ty Mỹ cũng rất quan tâm đến ổn định chất lượng sản phẩm, do vậy mô tả tóm tắt quá trình sản xuất hoặc đăng tải một số hình ảnh kiểm tra chất lượng tại cơ sở cũng sẽ tạo thêm sự quan tâm của khách hàng.
Trang web nhằm khuyến khích các khách hàng liên hệ với công ty. Do vậy, mục liên hệ (Contact us) phải để ở vị trí dễ thấy. Trang web cần phải duy trì thường xuyên để khách hàng tin tưởng nếu họ liên hệ thì sẽ nhận được trả lời.
Tóm lại, chương 3 đã trình bày những cơ hội, thách thức của việc xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ khi là thành viên của WTO, dự báo về thị trường dệt may Mỹ đến năm 2010 và các rào cản mới có thể xuất hiện. Dựa trên những cơ sở đó cũng như căn cứ vào chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2015, chương này cũng đưa ra một số giải pháp vượt qua các rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may từ phía Chính phủ, Hiệp hội dệt may và các doanh nghiệp trong ngành.
KẾT LUẬN
Dệt may là ngành truyền thống và luôn là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Với việc chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào ngày 11/01/2007, dệt may đã có rất nhiều cơ hội để mở rộng thị trường và tháng 9 năm 2007, dệt may đã trở thành ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, trong đó xuất khẩu sang thị trường Mỹ chiếm khoảng 55%. Mỹ là một thị trường rộng lớn, nhiều tiềm năng đối với dệt may Việt Nam. Tuy nhiên, Mỹ cũng là nước có hệ thống luật pháp phức tạp, hệ thống rào cản thương mại đa dạng và hết sức tinh vi, đặc biệt là đối với mặt hàng dệt may, mặt hàng sử dụng hơn 1 triệu lao động ở quốc gia này. Vì vậy, để có thể thúc đẩy xuất khẩu dệt may sang Mỹ một cách hiệu quả, cần có các nghiên cứu chi tiết về các rào cản thương mại đối với hàng dệt may ở thị trường Mỹ.
Để đáp ứng yêu cầu đó, đề tài đã nghiên cứu và trình bày một số giải pháp có tính khả thi cả từ phía chính phủ, Hiệp hội dệt may và doanh nghiệp trong đó nhấn mạnh đến các giải pháp đối với các rào cản thương mại chủ yếu hiện nay là các rào cản kỹ thuật, rào cản về môi trường, trách nhiệm xã hội và chống bán phá giá. Do hình thức của các rào cản đối với hàng dệt may ở thị trường Mỹ ngày càng phức tạp và khó nhận biết nên việc nghiên cứu các tác động của rào cản thương mại đối với hàng dệt may của Mỹ cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục để có thể dự báo và có các biện pháp thích hợp nhằm vượt qua các rào cản này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
Nguyễn Thị Kim Chi (2003), “Chính sách thương mại của Hoa Kỳ thời kỳ sau năm 1990”, Luận văn tiến sỹ kinh tế, Viện kinh tế và chính trị thế giới.
Dự án STAR Việt Nam phối hợp cùng viện Quản lý kinh tế trung ương (2003), “Báo cáo kinh tế 2002 – đánh giá tác động kinh tế của hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ”
Đinh Quý Độ (chủ biên) (2000), “Chính sách kinh tế của Mỹ đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương sau chiến tranh lạnh”, NXB chính trị quốc gia.
Luật Thương mại 2005.
Nguyễn Thị Hường (chủ biên) (2001), “Giáo trình kinh doanh quốc tế”, tập 1, NXB thống kê, Hà Nội.
Nguyễn Thị Hường (chủ biên) (2003), “Giáo trình kinh doanh quốc tế”, tập 2, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.
Trung tâm từ điển học (2007), “Từ điển tiếng Việt 2008”, NXB Đà Nẵng.
Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2003), “Việt Nam với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”, NXB thống kê.
Võ Thanh Thu (2001), “Chiến lược xâm nhập thị trường Mỹ”, NXB Giáo dục.
Viện nghiên cứu thương mại (2005), “Rào cản trong thương mại quốc tế”, NXB thống kê.
Tiếng Anh
Ed: Spencer Henson, John S.Wilson (2005), “The WTO and technical barriers to trade”, Cheltenham – Northampton: Edward Elgar.
USITC (2006), “Probable Economic Effect of Providing Quota Textile under ATC”
World trade organization (2004), “Technical barriers to trade”, Geneva.
WTO (2007), “Best practices & Guide book to the management of notification authorities and National enquiry points under the WTO TBT and SPS agreement”.
Website
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33445.doc