Luận văn Sắc màu huyền thoại trong truyện ngắn của Rabindnarath Tagore

MS: LVVH-VHNN020 SỐ TRANG: 82 NGÀNH: VĂN HỌC CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM NĂM: 2010 CẤU TRÚC LUẬN VĂN LỜI CẢM ƠN LỜI CAM ĐOAN 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN 6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN CHƯƠNG 1: R.TAGORE- NGƯỜI MỞ ĐẦU CHO THỂ LOẠI TRUYỆN NGẮN CỦA VĂN HỌC HIỆN ĐẠI ẤN ĐỘ 1.1 Văn học Bengal thời Phục hưng: 1.2 Truyện ngắn R.Tagore trong quá trình hiện đại hóa văn học Ấn Độ 1.2.1 Tư duy nghệ thuật trong truyện ngắn R.Tagore 1.2.2 Yếu tố huyền thoại: 1.3 Bản lĩnh và khả năng sáng tạo nghệ thuật của R.Tagore ở thể loại truyện ngắn 1.3.1 Đề tài “con người bé nhỏ” 1.3.2 Phương thức kể chuyện gần với ngụ ngôn với những kết thúc truyện độc đáo 1.3.3 Những liên tưởng nghệ thuật trong truyện ngắn R.Tagore CHƯƠNG 2: SẮC MÀU HUYỀN THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN R.TAGORE QUA THẾ GIỚI NHÂN VẬT 2.1 Quan niệm nghệ thuật về con người của R.Tagore 2.2 Xây dựng nhân vật huyền thoại trong truyện ngắn của R.Tagore 2.2.1 Huyền thoại hóa, một hình thức thể hiện nhân vật 2.2.2 Một thế giới nhân vật mang màu sắc huyền thoại CHƯƠNG 3: SẮC MÀU HUYỀN THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN R. TAGORE QUA KHÔNG GIAN, THỜI GIAN 3.1 Huyền thoại hóa không gian 3.2 Thời gian nghệ thuật 3.2.1 Đẩy lùi thời gian về quá khứ: 3.2.2. Xây dựng thời gian nghệ thuật mang những đặc trưng thi pháp cổ tích. KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO

pdf82 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3457 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sắc màu huyền thoại trong truyện ngắn của Rabindnarath Tagore, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yếm thế, lánh đời, chủ trương độc thân, khắc kỉ của chủ nghĩa khổ hạnh. Sức mạnh của tình yêu làm hồi sinh tâm hồn cao người. Sau bao nhiêu tháng ngày hành xác khổ hạnh , đạo sĩ nhận ra rằng “ Tôi không cần Niết bàn nữa…Tôi cầu cô gái hái củi” (48.302). Cõi Niết bàn được đặt trong thế đối lập với cô gái hái củi. Cõi Niết bàn là hư vô, tượng trưng cho tôn giáo; cô gái hái củi là thực tại, hiện thân của tình yêu. Ở đây, R.Tagore đã dùng chính biểu tượng của tôn giáo để chống lại tôn giáo, cụ thể là tuyên chiến với chủ nghĩa khổ hạnh.Tấm gương chân tu thành kính của ẩn sĩ đã được “vị chúa tể của những người bất tử” cùng cô gái hái củi chững thực. Nhưng thật bất ngờ, phần thưởng cao quý cho cuộc hành xác khắc nghiệt kia, giấc mơ Thiên đường ấy lại chính là tấm lòng của cô gái hái củi. Con người thật sự ở ngay trong bản thân tu sĩ trỗi dậy và đập tan con người giả dối của tu sĩ. R.Tagore đã cho cuộc đời và tình yêu chiến thắng mọi lý thuyết viễn vông, giả dối về Hư vô, Thượng đế, Chân lý của tu sĩ Balamon. Câu chuyện thấm đẫm tư tưởng và ý vị nhân sinh cao cả đó chính là câu chuyện của vũ nữ Mênaca trong thần thoại Ấn Độ đã dan díu với hiền sĩ nổi tiếng đắc đạo rồi sinh ra nàng Sơcuntơla- là nhân vật bất hủ của nhà thơ Kalidasa thời cổ. R.Tagore đã đem huyền thoại tình yêu ấy vào trong tác phẩm của mình và thông qua sự bày tỏ những quan niệm của các nhân vật về cuộc sống, ông muốn khẳng định những giá trị trần thế, phủ nhận cõi hư vô, hướng tâm trí của người Trong truyện ngắn Hiền sĩ Naratam, khi hàng triệu thần dân vì nhà cửa bị tiêu hủy phải đến trước bệ rồng xin cứu độ một cách tuyệt vọng, nhà vua đã bỏ ra hai mươi triệu tiền vàng xây đền thờ Thượng đế. Nhà vua không biết rằng chính những người đến cầu xin tế độ kia mới chính là Thượng đế. Lời giáo huấn của hiền sĩ đã nêu bật quan điểm về tôn giáo của R.Tagore. Thượng đế không ngự trong đền đài, thánh điện, miếu thất mà “Người đặt chân nơi sâu thẳm tình yêu và gắn bó với những người nghèo khổ nhất, thấp hèn nhất và bị hắt hủi nhất” (8.29). Như vậy, thông qua nhân vật hiền sĩ Nataram, R.Tagore đã xây dựng một tôn giáo mới mà ở đó Đấng tối cao được thờ phụng là con người. Câu chuyện như một lời đối thoại với tôn giáo truyền thống Ấn Độ: “Vương quốc của Thiên đường ở trên mặt đất này đây, nơi nào mà ta thực- tại- hóa những tương thân tương ái với đồng loại, nơi không còn nghi lụy và ngộ nhận thì ở đó có vương quốc Thiên đường, trong tâm hồn hữu nghị và tình yêu” (8.45) Đắc đạo và Hiền sĩ Nataram là tác phẩm mang tính hiện thực nhưng lại khoác chiếc áo huyền ảo. Chính chiếc áo huyền ảo ấy giúp hiện thực trong truyện ngắn Tagore không giống bức ảnh chụp nhanh, bắt rễ từ mảnh đất màu mỡ của cuộc sống nhưng không phải là sự thật trần trụi. Hiện thực chính là thế giới khách quan được nhà văn cảm nhận, đi vào trong tâm tưởng và chuyển hóa sang dạng hiện thực khác: hiện thực tinh thần. Chất trí tuệ sâu xa hòa hợp với chất lãng mạn bay bổng được chung đúc từ cái trầm ngâm, sâu sắc, trừu tượng của Ấn Độ tạo nên R.Tagore- con người đạt tới sự hiền minh, con người của hôm nay. CHƯƠNG 3: SẮC MÀU HUYỀN THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN R. TAGORE QUA KHÔNG GIAN, THỜI GIAN 3.1 Huyền thoại hóa không gian Với bút pháp lãng mạn và việc vận dụng tài tình những đặc điểm thi pháp của không gian thần thoại, cổ tích, R.Tagore đã triển khai thế giới nghệ thuật ở một số truyện ngắn của mình trong một không gian nghệ thuật lãng mạn đẫm màu sắc huyền thoại. Khái niệm huyền thoại hóa không gian ở Tagore được hiểu đó là cách tổ chức không gian nghệ thuật trong tác phẩm mang tính phiếm chỉ. Đó là không gian của tâm tưởng và mang tính xê dịch 3.1.1 Không gian huyền thoại 3.1.1.1 Một số kiểu không gian huyền thoại trong truyện ngắn R. Tagore * Không gian cổ tích: Mây và mặt trời là truyện ngắn đề cập đến nhiều vấn đề của cuộc sống Ấn Độ thời kì thuộc địa. Đó là cuộc sống nô lệ của nhiều tầng lớp nhân dân Ấn Độ đặt dưới sự cai trị của những Xahip, những quan thầy người Anh; đó là tình yêu trong những con người ý thức được bản thân và cuộc sống nô lệ của mình như Xaxipuxan, Giribala…tất cả là những vấn đề nóng hổi của cuộc sống Ấn Độ hiện đại. Câu chuyện được triển khai trong một không gian nghệ thuật hết sức độc đáo. Truyện được bắt đầu bằng những nét vẽ không gian đượm màu cổ tích, một bức tranh thiên nhiên đã xuất hiện với những mảng màu tuyệt đẹp. Có mây và mặt trời, có cánh đồng lúa óng ả đang khoe mình dưới ánh nắng mùa thu “Hôm trước trời mưa, nhưng hôm sau đã không còn dấu hiệu gì của mưa. Mặt trời nhợt nhạt cùng những đám mây rải rác chơi trò dung bút vẽ quệt những mảng màu dài lên các cánh đồng lúa thu đã chín vàng. Cảnh vật xanh rờn bát ngát vừa mới bừng lên một màu trắng rực rỡ do được ánh sáng chạm vào liền đó bị bôi lem nhem những mảng bong râm tối sẫm mát rượi” (29.7). Bức tranh thiên nhiên không chói chang, cũng không ủ dột, u sầu. Đó là không gian của “sân khấu bầu trời” rộng lớn- “không có sức cản đối với hành động của con người”(D. Likhasov)- không gian của ước mơ, của khát vọng tự do. Không gian này lại đối lập với không gian tù hãm những số phận con người bé mọn, nô lệ, dưới “ sân khấu mặ t đất” như Xaxipusan, Giribala:“Tại cái địa điểm đặc biệt…chúng ta thấy một ngôi nhà bên rìa con đường làng. Chỉ có một gian buồng trông ra đường là xây bằng gạch, còn phía bên kia là một bức tường gần đổ nát bao quanh mấy t úp lều tranh vách đất. Từ ngoài đường qua khung cửa sổ có chấn song sắt…” (48.7) Sự đối lập hai không gian ( không gian của hai diễn viên mây và mặt trời bát ngát tự do và không gian tù hãm mang tính phiếm chỉ của Xasipuxan và Giribala) đã làm nổi bật khát vọng tự do của những tầng lớp nhân dân Ấn Độ nô lệ. Sự đối lập đó đã khắc sâu hơn bi kịch tình yêu của Xasipuxan và Giribala tại “một địa điểm đặc biệt” trên mặt đất này. Đến cuối câu chuyện, hai không gian này không còn đối lập nữa mà hòa nhịp với nhau. Mặt trời và mây vẫn rượt đuổi nhau trên bầu trời và chuyện tình yêu của Xasipusan và Giribala cũng đi đến một kết thúc có hậu. Dù trải qua bao nhiêu đau khổ thì con người vẫn có quyền hy vọng vào một ngày mai tươi đẹp hơn * Không gian thần thoại Không gian trong Ảo ảnh tan vỡ là không gian mang tính chất hư ảo của không gian thần thoại “Các ngọn núi chìm trong màn mây mù dày đặc…như thể các vị thần linh đã xóa sạch phong cảnh các dãy núi Hymalaya…văng vẳng xa xa là tiếng thác đổ…điệu nhạc huyền ảo mà Kalidasa mô tả trong truyện thơ Meegajut Kuma Sanvaba…” Trong không gian huyền ảo thấm đẫm màu sắc thần thoại đó, câu chuyện tình bi đát của nàng công chúa con gái tiểu vương Goolam Kade Khan, dòng dõi Moogon với người anh hùng kháng chiến Kêseclan được kể lại chi tiết. Đó là một không gian ước lệ, không gian của tâm tưởng. Phải chăng cái không gian “bốn bề xug quanh không nhìn thấy gì hết ngoài lớp sương mù mịt” cũng chính là không gian của các giá trị tình cảm đã bị tan vỡ, xóa nhòa trong kí ức. Như chúng ta biết, Ảo ảnh tan vỡ là truyện ngắn Tagore viết về chủ đề kháng chiến giành độc lập của nhân dân Ấn Độ buổi đầu. Khi thực dân Anh sang xâm lược, các tầng lớp nhân dân Ấn Độ đã tự phát đứng dậy đấu tranh giành độc lập, tương quan về lực lượng quá chênh lệch, lại hành động một cách tự phát, cuộc kháng chiến buổi đầu vì thế đã gặp không ít đau thương. Vì vậy, hình tượng không gian huyền ảo ở đây sâu hơn, xa hơn, còn là không gian của sự mất mát đau thương. * Không gian tôn giáo Trong huyền thoại, đền miếu thánh đường là một hình ảnh phản chiếu thế giới thánh thần. Đền miếu như thể những phiên bản trên thế gian của các mẫu gốc trên trời, đồng thời chúng là hình ảnh của vũ trụ. Vũ trụ luận và thần luận như vậy gặp nhau trong tâm trí con người, cũng như trong các công trình con người cúng hiến thánh thần. Bản thân vũ trụ được quan niệm như là một ngôi đền và các nhà thần bí học về sau sẽ coi tâm hồn con người như ngôi đền thời Chúa Thánh Thần. Đền thờ có thể được xem như một hình ảnh tượng trưng cho con người và thế giới. Chính vì thế, trong các câu chuyện của R.Tagore, đền thờ xuất hiện với tần số khá nhiều. Nhân vật Kumo trong truyện ngắn Tầm nhìn đã tìm đến đền thờ cầu nguyện khi chuyện tình cảm vợ chồng có vấn đề, bế tắc. Kanabini trong Sống và Chết đã tìm đến ngôi đền khi cô lạc lõng, bơ vơ, mất phương hướng trong cuộc sống. Ngôi đền trong Dàn hỏa thiêu lại là nơi chứng kiến tình yêu và mọi khổ đau của Mahamaya và Rajib…Có thể xem không gian ngôi đền chính là nơi cứu rỗi linh hồn của các nhân vật trong truyện, nơi các nhân vật có thể tìm thấy sự che chở và sự bình an trong tâm hồn. Như chúng ta đều biết, nhiều khi trong cuộc hành trình khám phá cổ mẫu, không phải cứ tìm là thấy bởi cổ mẫu không bao giờ ở trong trạng thái tĩnh mà luôn luôn động, không đứng yên cho ta chiêm ngưỡng mà luôn biến hóa khôn lường bởi tính gợi nghĩa bất tận, bởi biểu tượng luôn “ứ tràn ra khỏi những dạng thức, những cơ chế, những khái niệm, những biểu hiện làm cột chống cho nó”(09, tr.xxvi). Biểu tượng ngôi đền trong các truyện ngắn của R.Tagore không chỉ dừng lại ở tầng nghĩa trên mà nó được mở rộng ra một tầng nghĩa cao hơn Nó không còn là một ngôi đền bình thường mà xuất hiện dưới dạng “ngôi đền đổ nát”. Có thể nói đây là hình ảnh mang tính biểu tượng rất lớn. Nó xuất hiện lặp đi lặp lại trong nhiều truyện ngắn của R.Tagore. Trong Dàn hỏa thiêu (48.68), Mahamaya và Rajib gặp nhau trong một ngôi đền đổ nát bên bờ sông [71]…sau biết bao lời cầu xin van vỉ, cuối cùng Rajib cũng khiến được nàng đến ngôi đền đổ nát này[71]…cánh cửa gãy nát của ngôi đền, gần tung hết bản lề, bị gió đưa đẩy mở ra khép lại với tiếng cọt kẹt trầm trầm ai oán [71]…nhắn cho Mahamaya đến ngôi đền đổ nát ven sông vào lúc giữa trưa [69]. Ở truyện ngắn Kho vàng bí mật , Mritunniay “loáng thoáng thấy một mái đền ở xa xa, ẩn hiện giữa các cành cây. Nó lần theo hướng ấy và đến trước một ngôi đền đổ nát”(48.131); “ hai người vượt qua nhiều quãng đồng, cuối cùng đến một khu rừng có một ngôi chùa đổ nát, bên trong không còn thờ cúng gì nữa” (52.97); at first she showed herself to no one, but spent the whole day in a ruined temple, starving (lúc đầu, cô không để ai nhìn thấy mình và cô trải qua một ngày đói lả tại một ngôi đền đổ nát) (64. V)… Không gian “ngôi đền” trong các truyện ngắn của R.Tagore là không gian đặc trưng của tôn giáo, một không gian tồn tại ngàn đời của những thế lực thần quyền. Nhưng đến giai đoạn hiện đại của xã hội Ấn Độ, trước sự xâm nhập của văn hóa phương Tây, những thế lực đó đã biến chất thảm hại, đã “đổ nát”. Nó trở thành những bóng đen đè nặng lên số phận con người. Mahamaya, Kadabami không tìm thấy tình yêu và hạnh phúc, Mritunniay tham vàng quên cả sự sống, cậu bé Gokun Chandra bị chính ông nội của mình hại chết….Ngôi đền đổ nát- đó chính là không gian tồn tại của những kìm kẹp, những hà khắc, lỗi thời và dã man của tôn giáo đối với con người. 3.1.1.2 Biểu tượng giấc mơ- sự mở rộng không gian sống Trong xã hội đầy những ngang trái, bất công, nhân vật của R.Tagore sống một cuộc sống tù túng, bị bóp nghẹt những khao khát , những đam mê hoài vọng, thậm chí bóp nghẹt cả quyền sống như một con người. Không còn cách nào khác, họ tìm đến giấc mơ như một sự mở rộng không gian sống cho mình. • Giấc mơ – sự lặp lại những kí ức, ám ảnh đời thường: Từ hàng ngìn năm trước, con người đã cố gắng lý giải về giấc mơ và tìm ra ý nghĩa của giấc mơ. Ở Ai Cập cổ đại, người ta quy cho chiêm mộng một giá trị tiên báo đặc biệt “Thượng Đế đã sáng tạo ra những giấc mơ để chỉ đường cho loài người, một khi họ không có khả năng nhìn thấy tương lai”(9.164). Đối với tất cả những thổ dân Bắc Mỹ, chiêm mộng là dấu hiệu tối hậu và quyết định của kinh nghiệm. “Những giấc mơ là nguồn cội của mọi điển lễ; chúng ấn định sự lựa chọn giáo sĩ và xác nhận phẩm chất phẩm chất thuật sĩ; từ nơi ấy phát sinh ra y học, tên mà người ta đặt cho những đứa con của mình và những kiêng kỵ; chiêm mộng xếp đặc những cuộc chiến tranh, những cuộc đi săn, những án tử hình và những viện trợ cần được đem đến; chỉ có chúng mới xuyên thủng được đêm tối của thế giới bên kia; chiêm mộng củng cố truyền thống: nó là con dấu của pháp chế và quyền uy”.(9.165). Đầu thế kỷ 20, hai nhà khoa học nổi tiếng đã phát triển các ý tưởng khác nhau về giấc mơ. Nhà tâm thần học người Áo Sigmund Freud đã xuất bản một cuốn sách có tên gọi "Giải thích các giấc mơ". Freud tin rằng con người thường mơ về những thứ mà họ mong muốn nhưng không thể có, đặc biệt có liên quan đến dục vọng và sự ức chế của dục vọng. Với Frued, chiêm mộng là biểu hiện thậm chí là sự thực hiện những dục vọng bị kìm nén. Các giấc mơ với Freud chứa các ẩn nghĩa. ông đã c ố gắng hiểu các giấc mơ như là một cách để hiểu về con người và hiểu tại sao họ hành động và suy nghĩ như thế. Freud tin rằng mọi suy nghĩ và hành động của con người bắt nguồn từ sâu trong tâm thức, trí óc của họ. Ông cho rằng các giấc mơ có thể là một con đường quan trọng để hiểu những gì đang xảy ra trong trí óc của họ. Freud nói với mọi người về các ý nghĩa trong giấc mơ của họ như là một cách để giúp họ giải quyết các vấn đề hoặc để hiểu về các mối lo lắng của họ. Ví dụ, Freud nói rằng khi con người mơ đang bay hay đang bơi thì có nghĩa họ muốn được tự do như thời thơ ấu của họ. Khi một người mơ anh, chị, em hay cha mẹ của mình chết thì có nghĩa người mơ thực sự đang giấu cảm xúc ghét người đó hoặc là sự mong muốn những gì người khác có. Với Jung, chiêm mộng là “sự tự thể hiện một cách tự phát và tượng trưng cái thực trạng của vô thức” (9.164). Với J.Sutter, “chiêm mộng là một hiện tượng tâm lý xảy ra trong lúc ngủ và được cấu thành bởi một loạt hình ảnh mà sự diễn biến của chúng giống như một vở kịch ít hay nhiều liên tục”(9.164). Như vậy, chiêm mộng nằm ở ngoài ý chí và trách nhiệm của con người, bởi lẽ kịch trường ban đêm của nó là tự phát và không kiểm soát được. Chính vì thế mà người ta xem kịch mơ, y như là nó diễn ra trong hiện thực, ngoài trí tưởng tượng của ta. Ý thức về cái thực bị xóa nhòa, cảm giác ta là ta mất đi, tan biến. Trang Chu không còn biết có phải Chu đã mơ thấy mình là bướm hay com bướm mơ thấy nó là Chu. Pascal viết: “Nếu một người thợ thủ công tin chắc đêm nào, trong vòng mười hai tiếng, anh ta cũng mơ thấy mình là vua thì tôi tin rằng anh ta sẽ hạnh phúc gần như một ông vua đêm nào mười hai tiếng cũng mơ thấy mình là người thợ”.(9.164). Mọi chiêm mộng đều có ý nghĩa, ý nghĩa ấy có thể được tìm kiếm ở phía sau, trong nguyên do mộng mị, đó là phương pháp của Freud; mang tính căn nguyên học và hướng vào quá khứ, hoặc ở phía trước, trong hoài vọng mộng mị, đó là phương pháp của Jung. Cá ý kiến, các khái niệm mà chúng tôi thu thập được sẽ là cơ sở trong khảo sát những hình thức của giấc mơ và ý nghĩa của những giấc mơ đó trong truyện ngắn của R.Tagore Trong truyện ngắn của R.Tagore, giấc mơ ở hình thức đơn giản nhất là sự lặp lại của những kí ức đời thường. Giấc mơ của con người có khi cũng là kết quả của niềm khao khát, mong mỏi chảy bỏng đến tận cùng của nhân vật. Có những điều ám ảnh nhân vật hàng ngày rồi nó đi cả vào trong giấc mơ. Nó không chỉ tồn tại trong ý thức của con người mà còn xuất hiện cả trong vô thức của con người. Ấy là đam mê, khát vọng làm giàu, khát vọng được đổi đời của nhân vật Mrituniay trong “Kho vàng bí mật”. Khát vọng thoát khỏi cảnh nghèo túng, đam mê cháy bỏng muốn tìm được lời giải đáp trên mảnh giấy nhà sư để lại- mảnh giấy chỉ nơi cất giữ của cải đã khiến cho nhân vật này hết sức khổ sở. Mrituniay luôn bị day dứt vì những ý nghĩ về khu rừng, về vị khất sư và điều bí mật đã bị lấy mất. Và ngay cả trong giấc mơ, những con chữ, những câu thơ trên mảnh giấy vẫn không thôi ám ảnh nó. Trong truyện ngắn “Về nhà”,khát khao tình mẹ của Patik cũng trở thành một ám ảnh trong giấc mơ của em. Mười bốn tuổi phải xa nhà để lên Calcutta học tập, em mong đợi tình yêu thương và sự cảm thông của người dì nhưng chỉ nhận được sự khinh khi, ghét bỏ như một người khách không được mong đợi. Chính vì thế, trong những giấc mơ của Patik, sự mong chờ cho sự hiện diện của người thương yêu, cụ thể là người mẹ luôn xuất hiện và điều đó trở thành một nỗi ám ảnh trong tâm trí Patik , cả ngày lẫn đêm“ A kind of physical love like that of animals; a longing to be in the presence of the one who is loved; an inexpressible wistfulness during absence; a silent cry of the inmost heart for the mother, like the lowing of a calf in the twilight;- this love, which was almost an animal instinct, agitated the shy, nervous, lean, uncouth and ugly boy. No one could understand it, but it preyed upon his mind continually”(374) (Một loại tình yêu thể xác giống như tình yêu của một con vật, một sự mong chờ cho sự hiện diện của người thương yêu, một sự ao ước không sao có thể giải thích nổi trong khi người ấy vắng mặt, một tiếng khóc thầm trong tận đáy tim giành cho người mẹ, giống như nỗi nhớ mẹ của một con bê lúc hoàng hôn- thứ tình yêu đó, thứ tình yêu rất gần với bản năng loài vật, đã khuấy động trái tim cậu bé gầy gò, e thẹn, xấu xí và ít học này. Không ai có thể hiểu được điều đó nhưng nó ám ảnh cậu bé một cách liên tục) (người viết dịch). Rõ ràng, trong giấc mơ, niềm khao khát tình yêu thương của Patik về người mẹ thật nồng cháy và da diết. Maria Zambrano đã nói rằng trong trạng thái tỉnh, chiêm mộng đột ngột chi ếm ta mà ta không thể nào biết được và tạo ra một kiểu quên lãng hay hồi tưởng và khi ấy chiêm mộng trở thành một nỗi ám ảnh, sự bóp méo hiện thực. Chính sự khao khát tình mẹ, nỗi nhớ mẹ đã khiến cho Patik sống khép mình, không cười đùa, không hòa nhập đượ c với môi trường giáo dục ở Calcutta. Cậu bé không thể tiếp thu nổi bài vở, bị bạn bè cười nhạo và xúc phạm. Patik chịu đựng tất cả những điều đó bởi trong tâm trí cậu lúc này chỉ có một mong muốn duy nhất: được trở về nhà. Trong giấc mơ hay trong những lúc tỉnh nhất, những ám ảnh về tình thương của mẹ vẫn không thôi dày vò Patik. Và khi giấc mơ được dẫn dắt sang một bình diện ứng hợp với ý thức, đến nơi mà tâm hồn và ý thức cộng sinh thì nó lại trở thành hình thức sáng tạo trong đời sống cá nhân. Khi tâm hồn và ý thức cộng sinh, Patik đã không cần xin phép ông chú hay bà dì của mình mà đã một mình bỏ đi. Trên đường đi, Patik đã bị cảm rất nặng và trong cơn mơ, cậu bé đã nói những câu như "Mother, "don't beat me like that! Mother! I am telling the truth!"( Mẹ! đừng đánh con như thế! Mẹ, con đang nói thật mà!). Những kí ức lại hiện về trong giấc mơ và sự khao khát tình mẹ lại một lần nữa giày vò cả tâm hồn và thể xác cậu bé. Và trong cơn sốt chết người, Patik vẫn không thôi từ bỏ khát khao của mình “Mother, the holidays have come.”(Mẹ ơi, kỳ nghỉ tới rồi!). Chiêm mộng là một trong những tác nhân chỉ báo tốt nhất về trạng thái tâm thần của người thấy mộng. Nó cung cấp, như là một biểu tượng sống, một bức tranh về trạng huống hiện sinh của con người ấy: đối với người nằm mơ, nó chính là hình ảnh bất ngờ về họ; nó tiết lộ cái tôi và cái mình. Ở truyện ngắn “ Giữ của”, sau khi vô tình chôn sống đứa cháu của mình, Jaganat luôn chịu sự ám ảnh về tội lỗi do chính lão gây ra. Trong những giấc mơ của mình, lão Jaganat luôn sờ soạng tìm một vật gì đó và lầm bầm “Nitai, đứa nào nhấc cái thang của tao đi đâu rồi”(52.101). Thánh Isaac người Syrie viết “Cái thang để lên Thiên Đàng có sẵn trong bản thân con người, trong linh hồn người. Chỉ cần người hãy rửa sạch tội lỗi, thì sẽ tìm ra những bậc thang để đi lên”(9.867). Trong lễ thụ pháp của đạo Mithra ở Iran cổ xưa, cái thang là biểu tượng của các bậc đi lên cõi trời huyền bí…Cái thang chính là một trong những hình ảnh tương trưng cho việc lên trời. Là biểu tượng của việc thăng thiên, cái thang cũng trở thành hỷ mộng: những kẻ hấp hối ngoảnh nhìn cái thang ấy và linh hồn người chết sẽ dùng nó để lên trời…Tuy nhiên, trong giấc mơ của lão Jaganat, lão đã không tìm được cái thang để trèo ra cái ngục tối tăm ghê sợ của lão, nơi không có ánh sáng để nhìn, nơi không có không khí để thở. Jaganat đã không thể quên và cũng không có cách nào để gột rửa tội lỗi của mình. Và lão đã ngã vật xuống giường và chết đi trong đau khổ, tuyệt vọng. • Giấc mơ đi tìm và chiếm lĩnh cái tuyệt đích của cuộc sống: Roland Cahen viết: “Chiêm mộng là biểu hiện hoạt động tinh thần, nó sống trong ta, nó suy nghĩ, cảm xúc, trải nghiệm, tư biện ở ngoài lề những hoạt động ban ngày của chúng ta, ở tất cả các cấp độ, từ cấp sinh vật nhất đến cấp tinh thần nhất của con người, mà chúng ta không biết đến. Biểu thị dòng tâm thức ngấm ngầm và những dữ liệu của một chương trình sống được ghi ở nơi sâu nhất của con người, chiêm mộng thể hiện những khát vọng sâu kín của cá thể và vì thế nó là nguồn thông tin vô cùng quí giá, về mọi phương diện đối với chúng ta”(9.164). Quả đúng như vậy, thông qua những giấc mơ, chúng ta có thể tìm thấy khát vọng sâu kín của con người. Giấc mơ của anh sinh viên trong “Bộ xương”về người con gái trở về từ cõi chết đi tìm lại tuổi trẻ, tìm lại tình yêu đã ám ảnh anh ta. Người con gái ấy, ngay cả khi chết rồi vẫn còn rất lưu luyến nhân gian, vẫn muốn kiếm tìm tuổi trẻ xuân sắc và tình yêu vĩnh cửu. Và những gì cô tìm thấy chỉ là một bộ xương khô trong phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, cái thực tế mà cô gái bắt gặp không làm cô từ bỏ mục đích của mình. Cô vẫn trở về nhân gian hằng đêm, vẫn khát khao được tìm lại tuổi trẻ và tình yêu của mình. Nỗi lòng của cô gái cũng chính là nỗi lòng của biết bao người phụ nữ trên trái đất này, luôn mơ đến cái tuyệt đích của cuộc sống. Bên cạnh chiêm mộng thường gặp là chiêm mộng ban đêm còn có chiêm mộng lúc tỉnh. Nếu giữ đúng mọi tỉ lệ, có thể được đồng nhất với chiêm mộng ban đêm , cả về mặt những biểu trưng mà nó ứng dụng lẫn những chức năng tâm lý mà nó có khả năng thực hiện. Maria Zambrano đã chỉ rõ cả những mạo hiểm lẫn những ưu thế của loại chiêm mộng này: “Trong trạng thái tỉnh, chiêm mộng đột chiếm ta mà ta không biết được và tạo ra một kiểu quên lãng hay hồi tưởng mà sự diễn biến của nó có thể xô đẩy ta tới những bờ cõi mà ý thức không thể dung nạp được. Khi ấy thì chiêm mộng trở thành mầm mống của sự ám ảnh, sự bóp méo hiện thực. Nhưng ngược hẳn lại, nếu nó dẫn dắt sang một bình diện ứng hợp với ý thức, đến nơi mà ý thức và tâm hồn cộng sinh thì nó lại trở thành một hình thức sáng tạo trong đời sống cá nhân hoặc trong một sự nghiệp”.(9.166) Trong truyện ngắn “Ảo ảnh tan vỡ”, qua giấc mơ của nhân vật “tôi”, cái khát vọng đi tìm và chiếm lĩnh cái tuyệt đích của tình yêu, của cuộc sống hiện lên rất rõ nét. Người con gái của tiểu vương Goolam Kade Khan ở Bodraon trong giấc mơ đã không ngại nguy hiểm, đã bất chấp tất cả để đi tìm cái tuyệt đối trong tình yêu “tôi đi khắp Thánh địa, thăm hết đền này đến đền khác…nhiều năm dài trôi qua…tôi nghĩ là tôi nghĩ về tôi, về cái ảo ảnh khó hiểu đã ám ảnh tôi, theo đuổi tôi trong suốt bao năm dài đằng đẵng kia”(48.295)…để rồi khi chạm vào hiện thực, tất cả chỉ còn là nỗi đau, sự thất vọng, tất cả đều là ảo ảnh mà thôi. Chàng hoàng tử trong truyện ngắn “Tiên nữ hiện hình” thì luôn mang bên mình giấc mơ về một nàng tiên. Ngay trong trạng thái tỉnh, chàng vẫn không thôi nghĩ về tiên nữ. Chính giấc mơ ấy đã bóp méo hiện thực, đã trở thành một sự ám ảnh đối với chàng. Lúc nào chàng cũng nghĩ người vợ bên cạnh mình là một tiên nữ và chàng chìm đắm trong giấc mơ ấy. Ngay cả khi người vợ bỏ đi, chàng hoàng tử vẫn không thể thoát khỏi cõi mộng…để trở về với hiện thực “tiên nữ hiện hình bằng cách bay biến đi” (38.310) Thông thường, hình ảnh các nàng tiên tượng trưng cho những khả năng phi thường của tinh thần hoặc những năng lực kì diệu của trí tưởng tượng kì diệu của con người. Có lẽ các tiên nữ thể hiện những năng lực mà con người ao ước mà không thể có. Và đôi khi, người ta cứ mải mê đi tìm cái tuyệt đích củ a tình yêu mà đánh rơi những điều giản dị, bình thường trong cuộc sống. Có thể th ấy rằng, cái tuyệt đích của cuộc sống mà con người ta hướng tới tìm kiếm nhiều khi chỉ là một thứ ảo ảnh, chỉ là khát khao không bao giờ có thể trở thành sự thật. Và dù thế nào đi chăng nữa, khi nào con người còn có những giấc mơ thì con người vẫn còn hy vọng, vẫn tiếp tục cuộc hành trình kiếm tìm cái tuyệt đích trong tình yêu, cuộc sống. Và không thể phủ nhận rằng niềm tin và hy vọng sẽ nâng đỡ tâm hồn con người trong cuộc sống đầy những bất trắc và cạm bẫy này. 3.2 Thời gian nghệ thuật Chủ đề của truyện ngắn R.Tagore hầu hết là những vấn đề của cuộc sống Ấn Độ hiện đại. Đó là tình yêu, là số phận người phụ nữ, là sức lôi cuốn cám dỗ của vật chất, của tiền, của vàng trong giai đoạn thống trị của chủ nghĩa tư b ản, là cuôc đấu tranh giành độc lập của các tầng lớp nhân dân…Tất cả những chủ đề này được R.Tagore “lạ hóa” bằng cách sử dụng yếu tố huyền thoại trong việc xây dựng thời gian nghệ thuật, tạo cho tác phẩm có một sức cuốn hút đặc biệt. Trong các truyện ngắn của mình, những vấn đền thời sự của cuộc sống Ấn Độ hiện đại được R.Taogre triển khai dưới hình thức sử dụng thủ pháp trừu tượng hóa, “cổ tích hóa” về mặt thời gian nghệ thuật. 3.2.1 Đẩy lùi thời gian về quá khứ: Đó là sự đúc rút những sự việc có thật của cuộc sống con người hiện tại, những vấn đề nóng hổi của đất nước, của dân tộc rồi hư cấu chúng bằng cách đẩy lùi về một thế giới xa xưa mang màu sắc truyền thuyết cổ tích. Thủ pháp này đã có tác dụng tạo dựng một khoảng cách cần thiêt giữa người đọc với thế giới nghệ thuật của tác phẩm, tạo cho họ có điều kiện để chiêm nghiệm, để nhìn nhận một cách sâu sắc hơn tư tưởng chủ đề mà R.Tagore muốn truyền tải. Trong truyện ngắn Bolai của mình, R.Tagore đã xây dựng hình ảnh một nhân vật tên Bolai với tấm lòng từ bi như Đức Phật. Cậu không hề hiếu động như những đứa trẻ cùng tuổi mà thường đứng hằng giờ liền chỉ để nhìn ngắm cây cối và thường rất đau lòng khi bạn bè của mình nhổ một cái cây, chặt một cây mía hay vô tình ngắt một bông hoa. Câu bé Bolai thiếu tình thương của mẹ ấy yêu thương mọi sinh vật trên cõi đời này bởi với cậu, mọi sinh vật trên đời đều có sự sống. Chính tấm lòng yêu thương bao la ấy mà cậu trở nên biệt lập với mọi người xung quanh. Thậm chí dì của Bolai còn nghĩ đầu óc cậu có vấn đề. Bất cứ xã hội nào cũng cần có tình yêu thương và một người có tấm lòng như Bolai lại trở thành một kẻ lạc lõng và cô đơn. Cậu phải tự mình gánh chịu nỗi cô đơn và lạc lõng ấy để tạo cho mình một tư thế khả dĩ đối mặt với đời. Và khi xây dựng nhân vật này, R.Taogre đã đặt nhân vật của mình vào một thế giới cách đây hằng triệu năm, khi mà trên mặt đất chỉ có bùn, đất và nước, các loài cây cũng có khả năng trò chuyện với con người “This boy's real age was the age, those millions of years ago, when, from the womb of the ocean and the newborn layers of mud, the earth's would-be forests rose and first cried out; that day there were no animals, no birds, no babble of life;--on all four sides only rock and silt and water. The trees, leading all other creatures on the path of time, raised their hands to the sun and said, "I shall stay, I shall survive, I am the eternal pathfinder; after death and amidst death, endlessly, I continue my pilgrimage of growth, my journey in sun and cloud, through night and day."" Even today that murmur of the trees rises in every forest, on every hill and grassland; and from their branches and leaves, the life-breath of the earth speaks out, again and again: "I will stay, I will stay." These trees, the mute foster-mothers of earth's life, have through endless eons milked the heavens to gather into the earth's nectar-cups the radiance, the essence, the grace and power of life itself; and endlessly they raise their eager heads high: "I will stay. " And in some way Bolai had heard that call of the earth-being, heard it in his blood”. Và cho dù ở thời đại nào thì tình yêu thương con người, yêu thương cuộc sống vẫn là sức mạnh, là động lực để con người sống tốt đẹp hơn. Nhân vật có thể không thực, thời gian có thể không thực do nhà văn căn cứ vào cảm quan của mình trước thực tại xã hội mà tưởng tượng ra rồi đưa vào tác phẩm theo nguyên tắc huyền thoại hóa nhưng qua đó R.Tagore muốn khẳng định một điều: tình yêu thương chính là lẽ sống của con người trên trái đất này. Có lẽ tình yêu thương chính là lí lẽ để sống và để chết của con người. Chiến thắng cũng là câu chuyện về tình yêu như thế. Đó là sự ca ngợi, nâng niu của ngòi bút R.Tagore đối với tình yêu của con người. Mãi mãi tình yêu sẽ luôn chiến thắng tất cả những cái gì là khuôn phép siêu hình và vô nghĩa. Thông điệp đó của tư tưởng R.Tagore luôn và sẽ mãi là vấn đề thời sự trong cuộc sống con người. Nhưng Tagore lại đặt nó vào trong một thời gian quá khứ mang tính phiếm chỉ. Câu chuyện về tình yêu giữa thi sĩ Sêkha và hoàng hậu Ajita diễn ra trong hoàng cung triều vua Narayan nhưng người đọc không hề biết triều đại Narayan là triều đại tồn tại vào thời gian nào và nó ở đâu. Thời gian và không gian thấm đẫm tính truyền thuyết đó đã mang đến cho tác phẩm một màu thực ảo mĩ lệ. Vòng hoa mà thi sĩ Sêkha nhận được từ nữ hoàng trái tim mình trước khi vĩnh viễn đi vào cõi hư vô mãi mãi là vòng hoa chiến thắng của tình yêu. Tương tự như truyện ngắn Chiến thắng, Ảo ảnh tan vỡ cũng đưa người đọc trở về thời xa xưa với câu chuyện về người con gái tiểu vương Goolam Kade Khan ở Badraon. Chính nhân vật “người kể chuyện” cũng không thể xác định rõ thời gian và địa điểm nơi người con gái của tiểu vương sinh sống. Chính bởi câu chuyện được bao bọc trong không gian huyền ảo và khoảng thời gian quá khứ không thể xác định đã tạo nên một một sắc màu huyền ảo, khiến người đọc cảm thấy mơ hồ, bâng khuâng về những tình tiết diễn biến trong câu chuyện. Dù thực hay ảo, dù quá khứ hay hiện tại thì câu chuyện đã cho chúng ta thấy rằng hành trình đi tìm tình yêu cũng lắm gian khổ, chông gai và có khi suốt cuộc đời con người vẫn không thể tìm được cho mình một hạnh phúc đích thực, một tình yêu trọn vẹn như mình hằng mong mỏi. Không thể phủ nhận rằng Tagore là một cây bút viết về hiện thực xã hội rất xuất sắc. Những vấn đề xã hội được ông đưa vào trang viết một cách tự nhiên và có sức gợi rất cao. Bên cạnh việc xây dựng những truyện mang màu sắc huyền thoại bằng cách sử dụng những yếu tố huyền thoại trong văn học dân gian, tôn giáo thì có những truyện được nhà văn vận dụng thủ pháp huyền thoại hóa một cách tối đa, hư cấu nên những cốt truyện có tính chất ảo tưởng. Chính điều này đã khiến cho người đọc thấy khá rõ nét hiện thực cuộc sống cùng với tất cả ý nghĩa sâu sắc của nó. Và qua đôi mắt tâm tư chúng ta dường như nhìn thấy trong niềm sảng khoái diệu kì “tòa lâu đài pha lê của chân lí” như R.Tagore đã từng nói. Truyện ngắn “Đá đói” là một ví dụ cho hình thức “hoang tưởng” nhưng chứa chan hiện thực này. “Đá đói” chính là tiếng lòng của R.Tagore đối với một quá khứ đau thương trong lịch sử Ấn Độ. Mười lăm triệu người chết đói trong vòng hai mươi lăm năm (1875- 1900), là cái “lõi” hiện thực đau thương của truyện ngắn mang tính chất ảo tưởng này. Thời gian ở đây chính là thời gian hồi tưởng về quá khứ. Thủ pháp này cho phép người đọc từ hiện tại, quay về chứng kiến một quá khứ đau thương. Thế giới của những sự kiện ở “Đá đói” được miêu tả là thế giới khổ đau của những trinh nữ Ba Tư “hai trăm năm mươi năm về trước”. Người kể chuyện trong truyện ngắn đã có sự tiếp xúc với những con người của gần ba thế kỉ trước sống trong lâu dài cổ do vua Mamut Sa II xây dựng. Anh ta đã biết được nỗi đau đơn, bi kịch đến tận cùng của những trinh nữ Ba Tư thông qua những giấc mơ của mình. Mượn cái ảo để nói cái thực, mượn cái hôm qua để nói cái hôm nay, R. Tagore đã làm sống dậy các huyền thoại, mang đến cho nó một sức sống mới. Bao bọc trong lớp khói sương huyền thoại là một hiện thực phũ phàng nghiệt ngã. Đó là số phận bi thảm, lời khẩn cầu tự do hạnh phúc và khát vọng giải phóng của người phụ nữ Ấn Độ. Với cách viết này, Truyện ngắn của R.Tagore vừa có sự hấp dẫn, lối cuốn vừa mở rộng được hiện thực phản ánh. Nó cho thấy được cái tầm của nhà văn đồng thời mang đến cho người đọc một cái nhìn đa diện về thế giới, về con người. Thông qua những chi tiết hoang đường, tác giả muốn nhắn gửi đến người đọc những bài học đạo lý thâm trầm, sâu sắc trong cuộc sống. Bởi huyền thoại không đơn thuần là hình thức chuyển tải các vấn đề đạo đức theo kiểu “phạt ác, thưởng thiện” mà nó còn là sự sợ hãi, trăn trở của con người về nhân tính, khát vọng tự do, dân chủ thấm đẫm tinh thần thời đại. Có những câu chuyện thuộc về quá khứ nhưng vẫn luôn được kể dưới điểm nhìn hiện tại. Đó là lúc điểm nhìn của tác giả hoà nhập với điểm nhìn nhân vật, cùng sống với giây phút biểu hiện của n hân vật. Có khi trong một truyện ngắn, có đến mấy giọng kể, từ nhiều phía. Thông qua yếu tố huyền thoại, từ điểm nhìn trần thuật, nhà văn bộc lộ quan niệm về một thế giới đa chiều. Tính chân thực, xác định của câu chuyện được đẩy lên một mức cao, gây cho người đọc cảm giác “giống như thật”. 3.2.2. Xây dựng thời gian nghệ thuật mang những đặc trưng thi pháp cổ tích. Với cách xây dựng nghệ thuật này, thời gian gắn liền với chuỗi sự kiện và được tính bằng bản thân sự kiện, thời gian kể gần như trùng với thời gian sự kiện được kể. Truyện không có thì quá khứ, thì tương lai, tất cả chỉ là một hiện tại kéo dài, khi sự kiện kết thúc thì thời gian cũng hết. Nói chung, thời gian đó không ra ngoài phạm vi một hôm. Trong nhiều truyện ngắn của R.Tagore, các cốt truyện, các chuỗi sự kiện được kể hầu như không có một niên đại nào cụ thể. Thời gian của các truyện chủ yếu được biểu hiện dưới những phương tiện mang tính trừu tượng hóa, cổ tích hóa. Thầy Masai là một ví dụ tiêu biểu. Thời gian kể ở đây gần như trùng với thời gian sự kiện được kể: “Hồi mới bắt đầu câu chuyện này có một vị khách xuất hiện ở nhà lão.Sau một thời gian dài vô vọng, bà Nanibala, vợ lão đã sinh cho lão một thằng con trai…Khi Venu lớn lên…Đúng lúc đó Haralan xuất hiện…Lần này…Bây giờ Venu đã mười m ột tuổi…Hôm ấy Venu dậy sớm hơn thường lệ…Hôm sau Haralan đang ngồi trên cái giường gỗ ở nhà trọ…Sau cuộc chia tay buồn bã với người bạn nhỏ…Một hôm ở sở làm về…Một đêm thứ sáu có một chiếc xe song mã đứng trước nhà Harala..” Đọc truyện này, người đọc nhận thấy rằng, thời gian của truyện rất giống với thời gian trong truyện cổ tích. Mượn thời gian cổ tích để nói đến những vấn đề hiện tại, thời gian cố tích nhưng chủ đề tư tưởng đặt ra trong truyện lại không hề “cổ tích”. Thói hám tiền và bản tính keo kiệt của Babu Ada đã phá tan mọi ràng buộc tình cảm đối với những người thân của mình, ngay cả đứa con trai duy nhất là Venu. Không những thế, lòng tham của lão còn là nguyên nhân bi kịch của những người khác xung quanh lão, như Haralan là một ví dụ. Của cải không quan trọng bằng tự do và cuộc sống, của cải cũng không quan trọng bằng tình yêu thương con người. Đó chính là thông điệp mà nhà văn muốn truyên đạt đến người đọc. Cũng tương tự như Thầy Masai, truyện ngắn Của phù vân cũng được đặt trong một thời gian không xác định, thời gian kể trùng với sự kiện được kể. Câu chuyện bắt đầu từ “ Sau khi cha chết,Baidiana yên vị sống trên lợi tức của khoảng công trái nhà nước anh được thừa kế…Một hôm, Baidiania đang ngồi môt mình…Đêm hôm đó,cả hai vợ chồng không ai ngủ được…Ngày hôm sau, vị tu sĩ biến mất…Từ đấy về sau, mỗi lần Baidiana nêu lên sự thật nào…Cuối cùng, một hôm xuất hiện một nhà chiêm tinh…Sau đó, Xundari bảo anh có một ngôi nhà chôn của…Hai ngày trôi qua…Ngày hôm sau, Baidiana đi Benares…Đêm đến, Baidiana có cảm giác kì quái…Hôm sau, đến nửa đêm…Cuối cùng mất hết hy vọng…một lần nữa gói ghém hành trang…Đêm xuống cả hai vợ chồng không nói một lời…Sáng sớm hôm sau, người hầu giá không thấy ông chủ đâu nữa” và kết thúc cùng với hình ảnh Baidiana bỏ đi. Người đọc không thể xác định được câu chuyện xảy ra trong thời gian nào, ở đâu. Tác giả xây dựng một kiểu thời gian khiến người đọc cứ dõi theo hành trình của Baidiana và chỉ chợt bừng tình khi phát hiện sự ra đi của nhân vật này. Và đó chính là thành công của tác giả. Cách xây dựng thời gian một cách trừu tượng, không xác định làm cho độc giả chìm đắm trong thế giới cổ tích, thế giới tưởng tượng, mộng mơ của riêng mình song những gì mà R.Tagore gửi đến người đọc thì lúc nào cũng hiện thực và đầy ý nghĩa. Chính sự ham muốn của cải, sự tham lam của Xundari đã làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, tan vỡ tình yêu mà Badiana dành cho vợ. Con người nếu lúc nào cũng hám của, cũng tham lam thì cuối cùng sẽ chẳng còn lại gì. Cũng thuộc môtíp đi tìm kho báu, truyện ngắn Gửi của được xây dựng theo kiểu thời gian như hai truyện ngắn đã được đề cập phía trên. Câu chuyện bắt đầu bằng cuộc cãi cọ của hai cha con lão Jaganat. Khi con trai lão bỏ đi, lão cũng không buồn lâu vì dù sao cũng bớt được một số khoản chi tiêu trong gia đình. Thế nhưng có một chỗ mềm yếu trong trái tim của lão chính là đứa cháu trai Gokun Chandra của lão. Và lão cứ buồn cho đến khi gặp được một đứa trẻ tên là Nitai Pan. Thời gian trong truyện được tác giả miêu tả bằng những từ, ngữ như ngay giữa trưa, một buổi chiều, ngay lúc ấy, một hôm, đến trưa, đêm đã khuya, đến nửa đêm, mặt trời đã chiếu sáng chân trời phía đông….và các sự kiện trong truyện cũng đi theo khoảng thời gian ấy, trùng với thời gian của người kể chuyện. Khi người kể chuyện dừng lại cũng là lúc câu chuyện kết thúc. Đọc truyện ngắn này, người đọc có cảm giác mình đang bước vào một thế giới cổ tích với những điều hết sức kì lạ, những điều không thể xảy ra trong đời sống hiện thực. Sự gặp gỡ ngẫu nhiên giữa lão Jaganat với cậu bé Nitai Pan giống như một định mệnh và cách đối xử của lão với cậu bé cũng thật kì lạ. Nhưng đến gần cuối truyện, người đọc cảm giác vỡ òa, đau đớn khi biết sự thật. Lão Janganat gần như chôn sống câu bé nhằm biến cậu thành thần giữ của cho mình. Huyền thoại về thần giữ của đã ăn sâu vào trong đầu óc lão, thói tham lam ích kỉ của lão đã biến lão thành một kẻ nhẫn tâm. Và chính những điều đó đã giết chết bản thân lão. Jaganat cuối cùng đã biết được một sự thật vô cùng phũ phàng, đứa bé đó chính là đứa cháu Gokun Chandra mà lão hằng yêu thương và mong nhớ. Chính điều này đã ám ảnh lão, lão ngã vật xuống giường và biến đi vào cái xứ sở không sợ bị ai tìm thấy bao giờ trong trò chơi ú tim vĩnh cửu của thế gian. Bằng cách xây dựng thời gian huyền thoại cùng với những yếu tố hoang đường, truyện ngắn của R.Tagore giúp cho trí tưởng tượng của người đọc được chắp cánh bay xa. Nó giúp cho tâm hồn con người được thanh lọc, giúp cho độc giả có một cách nhìn “thực” hơn, phù hợp hơn về quan hệ con người, về cuộc sống vốn rất kỳ lạ và đầy biến hoá, bí ẩn. Sử dụng huyền thoại, kết hợp siêu thực với hiện thưc không còn là thủ pháp biểu hiện nghệ thuật thuần túy mà thực sự đã trở thành một dấu ấn phong cách, một cá tính sáng tạo của một tài năng siêu việt. Chính vì thế mà qua bào thăng trầm, truyện ngắn của R.Tagore vẫn dồi dào sức sống, hùng vĩ như dãy Hy mã lạp sơn, cuồn cuộn như nước sông Hằng và rực rỡ như bông hoa Patala nơi rừng đại ngàn Ấn Độ. KẾT LUẬN 1. Việc vận dụng yếu tố huyền thoại trong sáng tác đã được nhiều nhà văn phương Đông và phương Tây sử dụng, nhưng ở mỗi tài năng, mỗi cá tính sáng tạo, mỗi môi trường văn hóa, điều đó sẽ mang đến một hiệu quả nghệ thuật khác nhau. Qua truyện ngắn của mình, R.Tagore đã chứng tỏ ông là một tài năng bậc thầy trong việc vận dụng yếu tố huyền thoại trong từng sáng tác của mình, và ông còn mở rộng sang các lĩnh vực khác như thơ, kịch, tiểu thuyết. Hiện thực pha lẫn huyền thoại đã tạo cho tác phẩm một màu sắc mĩ lệ, hư ảo- cái hư ảo đậm chất phương Đông và đượm màu tâm linh Ấn Độ. Tất cả đã làm nên một vẻ đẹp riêng R.tagore không lẫn lộn được. 2. Với truyện ngắn của R.Tagore, huyền thoại đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình bằng cách vẫn không thôi đồng vọng vào các sáng tác văn học hiện đại qua các hình ảnh và mô típ mang tính cổ mẫu, làm sống lại các huyền thoại dân tộc. Sử dụng huyền thoại để xây dựng nên một thế giới nhân vật đa dạng là một dấu ấn độc đáo trong truyện ngắn của R.Tagore. Đó là những người phụ nữ tỏa sáng với “thiên tính nữ”, “tính mẫu”; mô típ trẻ mồ côi, bất hạnh hay tu sĩ trong tôn giáo Ấn Độ ...Thông qua thế giới nhân vật huyền thoại, R.Tagore đã cảm thông, chia sẻ với những số phận bất hạnh; mở rộng đón nhận những tâm tư tình cảm, những sự việc của cuộc đời với tất cả tấm lòng yêu thương sâu sắc đối với con người; bày tỏ niềm tin của ông vào con người “tôi có một lòng tin mạnh mẽ vào con người, lòng tin đó cũng như mặt trời, chỉ có thể bị mây che chứ không bao giờ bị tắt” (17.312) 3. Ở phương diện không- thời gian nghệ thuật, ngoài việc sử dụng mô típ không gian, thời gian thần thoại, cổ tích; không gian tôn giáo thì R. Tagore đã sử dụng giấc mơ như một phương tiện để mở rộng không gian sống cho nhân vật. Nhờ đó mà truyện ngắn của ông có sức ám gợi, mê hoặc người đọc.Tìm về truyền thống, phát huy bản sắc dân tộc để đi đến hiện đại là một lối đi riêng độc đáo của R.Tagore. Truyền thống luôn hàm chứa một nội lực cách tân mạnh mẽ. Sự giàu có, phong phú của truyền thống văn học, văn hóa dân gian và triết học -tôn giáo Ấn Độ cộng với tài năng xuất chúng của R.tagore đã đưa ông lên vị trí mà cả thế giới phải tôn vinh, ngưỡng mộ. 4. Không chỉ với truyện ngắn, R.Tagore mới chứng tỏ khả năng bậc thầy trong việc vận dụng huyền thoại hóa trong văn học mà nó còn mở rộng sang các thể loại khác như tiểu thuyết, kịch, thơ. Chính vì vậy, luận văn chỉ là bước tiếp cận sơ khởi về về truyện ngắn của R. Tagore dưới sắc màu huyền thoại. Và cũng vì ở giai đoạn tìm hiểu ban đầu nên luận văn khó tránh khỏi sai sót, chúng tôi hy vọng sẽ nhận được sự lượng thứ và góp ý chân thành để những công trình nghiên cứu tiếp theo sẽ trở nên toàn diện hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT 1. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 2. Lại Nguyên Ân (1992), Thần thoại,văn học,văn hóa huyền thoại, Tạp chí văn học số 3, 1992 3. Bình Anson (2007), Giới thiệu đạo Phật, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 4. Roland Barthes (2008), Những huyền thoại (Phùng Văn Tửu dịch), Nxb Tri Thức, Hà Nội. 5. Lê Huy Bắc (2005), Truyện ngắn:lí luận tác gia và tác phẩm, 2 tập, Nxb Giáo dục, Quảng Nam. 6. Lê Huy Bắc (2009), Đặc trưng truyện ngắn Anh Mĩ, Nxb. Đại học sư phạm, Hà Nội. 7. Lê Nguyên Cần (2003), Cái kì ảo trong tác phẩm Balzac, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 8. Lê Nguyên Cẩn(chủ biên), Nguyễn Thi Mai Liên, Rabindranah Tagore, NXB ĐHSP, 2006. 9. Chevalier, J.- Gheerbrant, A.(2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Phạm Vĩnh Cư chủ biên, Nxb. Đà Nẵng. 10. Đào Ngọc Chương (2007), Chuyện cổ tích về loài người của Xuân Quỳnh và cấu trúc huyền thoại, Tạp chí văn học số 10. 11. Đào Ngọc Chương (2008), Phê bình huyền thoại, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. 12. Đào Ngọc Chương (2008), Hiện tượng chuyển hóa trong văn học- trường hợp huyền thoại , Tạp chí văn học số11. 13. Chu Xuân Diên (2005), Để góp phần nghiên cứu huyền thoại và thi pháp huyền thoại trong sáng tác văn học , Viện Ngôn ng ữ và Văn học, Trường Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQG Tp Hồ Chí Minh. 14. Ngô Văn Doanh (2003), Cao Huy Đỉnh- tuyển tập tác phẩm, Nxb Lao động, Hà Nội. 15. Gilburt Durand, Từng bước đến với phê bình huyền thoại (Nguyền Thị Thanh Xuân phỏng dịch), nguồn www.vienvanhoc.org.vn 16. Nguyễn Tấn Đắc (2000), Văn hóa Ấn Độ, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 17. Cao Huy Đỉnh (2000), Tuyển tập tác giả- tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội. 18. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học, Hà Nội. 19. Đỗ Thu Hà (2005), Tagore- văn và người, nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 20. Nguyễn Văn Hạnh (2007), R.Tagore với thời kì phục hưng Ấn Độ, Nxb Đại học Quốc gia, Tp Hồ Chí Minh. 21. Phan Thu Hiền (2005), “Oedipus” Ấn Độ, Khoa Ngữ Văn Và Báo Chí, Trường ĐH KHXH và NV, Tp Hồ Chí Minh. 22. Phan Thu Hiền (1999), Sử thi Ấn Độ,tập 1, Nxb Giáo dục, Tp Hồ Chí Minh. 23. Phan Thu Hiền (2006), Huyền thoại học và văn hóa học, Báo cáo tại Hội thảo khoa học “Nâng cao chất lượng đào tạo bậc sau đại học chuyên ngành văn hóa học” do Bộ môn Văn hóa học tổ chức, Trường ĐH KHXH và NV,Tp Hồ Chí Minh. 24. Đỗ Đức Hiểu (2003), Từ điển văn học, Nxb Thế giới, Hà Nội 25. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2007), Bước đầu tìm hiểu nghệ thuật kết thúc truyện trong truyện ngắn R.Tagore, Luận văn tốt nghiệp, Đại học Sư phạm, Tp Hồ Chí Minh. 26. Edith Hamilton (2004), Huyền thoại phương Tây, Chương Ngọc dịch, Nxb. Mỹ Thuật, Hà Nội. 27. Lê Xuân Khoa (1964), Nhập môn triết học Ấn Độ, Trung tâm học liệu, Bộ Giáo dục, Tp Hồ Chí Minh. 28. Phương Lựu và nhóm tác giả (2002), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nôi. 29. G.G. Marquez (2000), Trăm năm cô đơn, Nxb Văn học. 30. E. M. Meletinsky (2004), Thi pháp của huyền thoại (Trần Nho Thìn và Song Mộc dịch), Nxb Đại Học Quốc gia, Hà Nội. 31. Vương Trí Nhàn (1999), Anton Sekhov- tuyển tập tác phẩm, truyện ngắn, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 32. Vũ Dương Ninh (1995), Lịch sử Ấn Độ, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 33. Vũ Dương Ninh (2006), Lịch sử văn minh thế giới, Nxb Giáo dục, Quảng Nam. 34. Wendy Doniger O’Flaherty (2005), Thần thoại Ấn Độ (Lê Thành dịch), Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. 35. Panchatantra (1992), Thuật xử thế Ấn Độ ( Huỳnh Ngọc Trảng, Phạm Thiếu Hương, Nguyễn Tuấn dịch), Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 36. Daniel – Henri Pageaux, Huyền thoại (Nguyễn Thị Thanh Xuân lược dịch), nguồn www.vienvanhoc.org.vn 37. Rachel Storm (2003), Huyền thoại phương Đông, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. 38. Trần Đình Sử (1999), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Huế. 39. Tagore (1973), Thực nghiệm tâm linh (Như Hạnh dịch), Nxb Kinh Thi, Hà Nội. 40. Vũ Thị Thanh Tâm, Yếu tố kì ảo và tư duy huyền thoại trong”Những huyền thoại của Guatemala”của Miguel Ángel Asturias, Khoa Văn học và ngôn ngữ, Trường oc xã hội và Nhân văn, ĐHQG Tp Hồ Chí Minh. 41. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn- Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 42. Nguyễn Thị Bích Thúy (2002), Đặc điểm nghệ thuật thơ trữ tình-tình yêu R.Tagore qua hai tập thơ Người làm vườn và tặng phẩm của người yêu, Luận án Tiến sĩ, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Hà Nội. 43. Lương Duy Thứ (1999), Đại cương văn hóa phương Đông, Nxb Giáo dục, Tp Hồ Chí Minh. 44. Tzvetan Todorov (2007), Dẫn luận về văn chương kì ảo, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 45. Tzvetan Todorov (2004), Mikhail Bakhtin- nguyên lí đối thoại ( Đào Ngọc Chương dịch) , Nxb Đại học Quốc gia, Tp Hồ Chí Minh. 46. Đường Thị Thùy Trâm (2009), Người yêu dấu của Toni Morrison dưới góc nhìn huyền thoại, Luận văn thạc sĩ văn học, Trường ĐHSP Tp Hồ Chí Minh. 47. Lưu Đức Trung (1996), Vài nét về truyện ngắn Tagore, Báo Văn nghệ số 26 48. Lưu Đức Trung (2004), R.Tagore- tuyển tập tác phẩm (2 tập), Nxb Lao động, Hà Nội. 49. Lưu Đức Trung (1993), Giáo trình văn học Ấn Độ - Lào- Campuchia, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 50. Lưu Đức Trung (2003), Bước vào vườn hoa Châu Á, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 51. Lưu Đức Trung (2006), Văn học Ấn Độ, Nxb Giáo dục, Qui Nhơn. 52. Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel (2008), Nxb Hội nhà văn. 53. Phùng Văn Tửu (2009), Phương thức huyền thoại trong sáng tác văn học, Tạp chí NCVH số 10/2007. 54. P. Yogananda (2004), Ấn Độ huyền bí (Nguyên phong dịch), Nxb Văn hóa Thông tin, Tp Hồ Chí Minh. 55. Heirich Zimmer(2006), Triết học Ấn Độ- một cách tiếp cận mới, Nxb Văn hóa Thông tin, Tp Hồ Chí Minh. TIẾNG ANH 56. A review of Hungry Stones (1907), in North American Review, Vol.205, p.149- 150 …………………………………………………………………… 57. A Wife‘s Letter (1945), in Collection of Stories, Visvabharati Publication, Calcuta. 58. Bhattacharya (1989), The supernatural in Tagore’s Short Stories, in Rabindranath Tagore, edited by Mary Lago and Ronald Warwich, MacMilan, pp. 67-82. 59. Bhudev Chaudhuri (1962), Bānglā Sāhityer Chotogalpa o Galpakori, The Short Story and Story Writers in Bengali Literature, Calcutta, p 103. 60. Bolai, in Collection of Stories, Visvabharati Publication, Calcuta, 1945. 61. Buckley (1916), A review of Hungry Stones, in Bookman, Vol. 50, December, p 6-7. 62. Indian Tales (1918), in Times Literary Supplement, April 18, p 183. 63. Lansing Evans Smith (1997), Myths of Poesis, Hermeneusis and Psychogenesis:Hoffmann, Tagore, and Gillman,in Studies in Short Fiction, Vol.34, No.2, Spring, p 227. Indian Tales, in Times Literary Supplement, April 18, 1918, p 183. 64. Living or Dead(1945), in Collection of Stories, Visvabharati Publication, Calcuta. 65. Mary.M.Lago (1967), Modes of Questioning in Tagore’s Short Stories, in Studies in Short Fiction, Vol.5, No.1, Fall, p 24-36 66. Mary.M.Lago (1976), Tagore’s Short Fiction, in Rabindranath Tagore, Twayne, pp 80-114. 67. Narayan Gongopadhay (1961), The Short Stories of Rabindranath in the book Rabindranath ed. G. Haldar, Calcuta, p 81–82 (Translated from Bengali by S.B.) 68. P. Bishi (1954), The Shaw Stories Tagore, Calcutta, p 76 (from Bengali by S.B) 69. Ritual and Reform, in Collection of Stories, Visvabharati Publication, Calcuta, 1945. 70. Sankar Basu, “Tagore: Ideas and Themes”, in Chekhov and Tagore: A Comparative Study of their stories, Sterling Publishers,1985 71. Singl (1918), A reviewof Mashi and Other Stories, in Bookman, Vol. 55, No. 325, October, p 20-21. 72. The Hungry Stone and Other Stories, New York, 1916. 72. The Oxford Tagore Translation (2000), Selected Short Stories: Rabindranath Tagore, vol.1, edited by Sankanta Chaudh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHVHNN020.pdf